Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.3 KB, 14 trang )

BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
MỤC LỤC
A.ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................................................1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.........................................................................................................2
I. Khái quát chung về pháp luật kinh doanh chứng khoán.....................................................2
1. Khái quát chung về hoạt động kinh doanh chứng khoán...............................................2
1.1. Khái niệm....................................................................................................................2
1.2. Đặc điểm.....................................................................................................................2
2 . Khái quát về pháp luật kinh doanh chứng khoán..........................................................3
2.1. Khái niệm...................................................................................................................3
2.2. Nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh chứng khoán....................................................3
II. Khái quát về thực trạng thực hiện pháp luật về kinh doanh chứng khoán........................3
III. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán..6
1. Môi trường pháp lý.........................................................................................................6
2.Cơ chế chính sách............................................................................................................9
3. Các nhân tố khác............................................................................................................9
3.1. Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội...........................................................................9
3.2. Sự phát triển của thị trường chứng khoán.................................................................10
3.3. Năng lực của chủ thể kinh doanh chứng khoán........................................................11
IV. Một số ý kiến nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán
..........................................................................................................................................11
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ..................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................14

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời và chính thức đi vào hoạt động từ
28/7/2000 là sự kiện quan trọng trong quá trình đổi mới nền kinh tế và hội nhập
quốc tế của Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường còn
khá non trẻ so với thị trường chứng khoán thế giới. Thị trường chứng khoán là
1



BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
công cụ hiệu quả huy động và phân bổ vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Kinh
doanh chứng khoán là một hoạt động phức tạp, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự
phát triển của nền kinh tế quốc gia. Bởi vậy, duy trì môi trường kinh doanh lành
mạnh, hạn chế những rủi ro là điều vô cùng cần thiết nhằm đảm bảo sự ổn định
của nền tài chính. Để bảo đảm hoạt động kinh doanh chứng khoán của các
doanh nghiệp diễn ra đúng pháp luật, thị trường chứng khoán vận hành an toàn,
nghiên cứu pháp luật về kinh doanh chứng khoán là việc làm cần thiết. Từ nhận
thức đó chúng em chọn đề tài: “ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp
dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán”.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát chung về pháp luật kinh doanh chứng khoán
1. Khái quát chung về hoạt động kinh doanh chứng khoán
1.1. Khái niệm
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 19 điều 6 Luật chứng khoán 2006
( sửa đổi 2010) quy định: “ kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán,
tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”.
Từ định nghĩa nêu trên ta có thể thấy kinh doanh chứng khoán là loại hình
hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó các công ty chứng khoán, công ty quản
lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh chứng khoán tiến hành nghiệp vụ
về chứng khoán cho chính mình hoặc cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối
đa.
1.2. Đặc điểm
Hoạt động kinh doanh chứng khoán bao hàm các đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù, có liên
quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư là công chúng và các doanh
nghiệp. Chính bởi vậy, những chủ thể muốn thực hiện nghề nghiệp này cần đáp

ứng những điều kiên khắt khe về mặt tài chính cũng như về mặt pháp lý, thậm
chí kể cả những điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động
kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là các
chứng khoán – một giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số nguyên
tắc đặc thù của thị trường chứng khoán như nguyên tắc công bằng, công khai,
minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư.
2 . Khái quát về pháp luật kinh doanh chứng khoán
2.1. Khái niệm
Pháp luật kinh doanh chứng khoán là tổng hợp các nguyên tắc, các quy
phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh
2


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
những quan hệ phát sinh trong quá trình kinh doanh chứng khoán và pháp luật
điều chỉnh các lĩnh vực khác là các văn bản luật, nghị định, thông tư, quyết định
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh chứng khoán không chỉ là nền tảng
của pháp luật, tạo nên khung pháp luật mà còn áp dụng trong trường hợp những
quy phạm cụ thể không dự liệu hết những trường hợp thực tế phát sinh. Mỗi
lĩnh vực pháp luật đều tồn tại những nguyên tắc riêng, kể cả lĩnh vực chứng
khoán. Trong khi đó, kinh doanh chứng khoán là hoạt động cơ bản của thị
trường chứng khoán, do đó nó tuân theo những nguyên tắc chung của thị trường
chứng khoán.
2.2. Nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh chứng khoán
Pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán có hệ thống các nguyên
tắc giúp vận hành thị trường chứng khoán (nguyên tắc công bằng, nguyên tắc
công khai, minh bạch; nguyên tắc trung gian; nguyên tắc tập trung; nguyên tắc

bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư…) nhưng trước hết nó cũng tuân theo những
nguyên tắc cơ bản hơn, đó là nguyên tắc đảm bảo quyền sở hữu, nguyên tắc tự
do kinh doanh, nguyên tắc tuân thủ những quy định của pháp luật.
Điều 4 luật chứng khoán cũng quy định về nguyên tắc hoạt động chứng
khoán và thị trường chứng khoán, đó là:
1. Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ
chức, cá nhân.
2. Công bằng, công khai, minh bạch.
3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
4. Tự chịu trách nhiệm về rủi ro.
5. Tuân thủ quy định của pháp luật.
II. Khái quát về thực trạng thực hiện pháp luật về kinh doanh chứng
khoán
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động kinh doanh đặc thù có ý nghĩa
quyết định tới sự phát triển của thị trường chứng khoán trong nước. Hiện nay,
pháp luật cũng đã có những quy định cụ thể về hoạt động kinh doanh chứng
khoán nói chung cũng như đối với từng nghiệp vụ kinh doanh cụ thể nói riêng.
Tuy nhiên thực trạng thực hiện pháp luật về kinh doanh chứng khoán vẫn còn
nhiều vấn đề phải đề cập.
Thứ nhất, đối với hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán. Đây là hoạt
động có nhiều ý nghĩa quan trọng như giảm chi phí phát hành, tạo tính ổn định
cho các chứng khoán mới phát hành và quan trọng nhất là đem lại tình chuyên
nghiệp cho thị trường. Tuy nhiên với trình độ phát triển của thị trường chứng
khoán hiện nay, hoạt động này chưa thực sự đóng vai trò như vậy bởi số lượng
các công ty cổ phần phát hành chứng khoán ra công chúng cũng chưa nhiều,
thiếu các dự án khả thi, các doanh nghiệp vẫn có thói quen sử dụng vốn vay
3


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2

nhiều hơn; bên cạnh đó, khối lượng chứng khoán được phát hành còn nhỏ do đó
các tổ chức phát hành chưa cần đến hoạt động bảo lãnh phát hành của các công
ty chứng khoán. Ngoài ra, các công ty chứng khoán hiện nay vẫn còn rất non
trẻ, còn yếu cả về tiềm lực tài chính và nghiệp vụ chuyên môn nên hoạt động
bảo lãnh phát hành chưa thực sự thể hiện được vai trò của nó. Hiện nay, hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán còn chiếm tỷ lệ nhỏ và hầu như chỉ mới
tập trung vào phát hành trái phiếu như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân
hàng, trái phiếu đô thị,…
Thứ hai, đối với hoạt động môi giới chứng khoán. Theo số liệu thống kê
được, từ ngày 1/1/2007 đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng
khoán tại các công ty chứng khoán đã tăng 169.001 tài khoản tương đương
196% khiến cho số tài khoản lên tới con số 255.185 đặc biệt là ở các công ty
chứng khoán có bề dày hoạt động só nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch chiếm
tỷ lệ rất cao….Hiện nay ở nước ta, tất cả các công ty chứng khoán đều đăng ký
thực hiện nghiệp vụ này và là nghiệp vụ quan trọngnhất trong giai đoạn hiện
nay, thể hiện rõ nét nhất vai trò trung gian trên thị trường chứng khoán, kết nối
giữa những nhà đầu tư có vốn với các doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn
cho đầu tư phát triển.
Cho đến cuối năm 2004 đã có hơn 21.200 tài khoản của khách hàng được
mở tại các thành viên, tăng hơn 29% so với cuối năm 2003, trong đó số lượng
nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản giao dịch tại các công ty chứng khoán đạt
203 tài khoản tăng 147 tài khoản so với cuối năm 2003. Tính cuối năm 2004,
Công ty chứng khoán Bảo Việt có số tài khoản cao nhất đạt 4.254 tài khoản
chiếm 19,68% toàn thị trường. Hoạt động môi giới trong năm 2004 có nhiều
khởi sắc hơn năm 2003, với tổng khối lượng giao dịch môi giới mua và bán cổ
phiếu qua 13 thành viên đạt 136.728.216 cổ phiếu, tăng hơn 82 triệu cổ phiếu so
với năm 2003, và tổng giá trị giao dịch đạt 3.695 tỷ đồng. Bốn thành viên
BVSC, BSC, SSI và ACBS chia nhau nắm giữ 70% thị phần hoạt động môi
giới. Tháng 11.2004, lần đầu tiên chứng chỉ quỹ đầu tư được niêm yết trên
TTCK VN . Với 30 triệu chứng chỉ quỹ VFMVF1 đang lưu hành đã làm tăng sự

đa dạng về hàng hoá niêm yết, tạo cho các nhà đầu tư có thêm sự lựa chọn mới.
Điều này đã được thể hiện qua tình hình giao dịch của chứng chỉ quỹ VFMVF1,
chỉ trong 2 tháng niêm yết đã có hơn 6,6 triệu chứng chỉ quỹ được chuyển
nhượng, chiếm tỷ trọng 22,05% trên tổng số chứng chỉ quỹ đang lưu hành.
Để đảm bảo cho hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán đúng
pháp luật và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, trung tâm đã chú trọng vào
các nội dung nhằm đảm bảo sự tuân thủ các qui định về giao dịch và các qui
định liên quan đến đạo đức nghề nghiệp: lệnh của khách hàng được ưu tiên
trước lệnh tự doanh, và khách hàng phải được cung cấp đầy đủ những thông tin
công bố trên thị trường, để từ đó ra quyết định đầu tư; các qui định về cùng mua
4


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
cùng bán, ký quỹ tiền và chứng khoán cũng được quản lý chặt chẽ nhằm tạo sư
ổn định cho thị trường phát triển trong giai đoạn ban đầu.
Tuy nhiên, hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán
còn nhiều điểm hạn chế đối với cả công ty chứng khoán, nhà đầu tư và cả đối
với thị trường chứng khoán. Đối với công ty chứng khoán, sự giới hạn về năng
lực và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên môi giới đã khiến nghiệp vụ này chưa
đáp ứng được mong đợi của khách hàng. Về phía nhà đầu tư, họ vẫn còn e ngại
và xa lạ và chưa thực sự tin tưởng vào thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó
những tồn tại trong giao dịch tại thị trường cũng gây hạn chế nhất định đối với
hoạt động môi giới chứng khoán. Trước tiên phải kể đến là phương thức khớp
lệnh định kỳ có thể hạn chế nhà đầu tư đặt lệnh một khi trị trường giao dịch yếu
bởi họ có thể tính toán được lượng cung và cầu hiện tại căn cứ vào khối lượng
giao dịch dự kiến ảnhhưởng rất lớn đến hoạt động của các phiên giao dịch tiếp
theo hoặc sâu sa hơn có thể tạo ra cung cầu giả tạo cho thị trường. Bên cạnh đó,
hệ thống giao dịch tại trung tâm còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu của
một thị trường chứng khoán hiện đại.

Thứ ba, đối với hoạt động tự doanh chứng khoán. Tự doanh chứng khoán
là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình bằng
nguồn vốn của mình nhằm mục đích thu lợi nhuận. So với hoạt động môi giới,
đây là hoạt động có tính rủi ro cao hơn. Nếu thực hiện cùng lúc hai hoạt động
này, công ty chứng khoán phải đảm bảo có sự tách biệt nhất định và thực hiện
việc ưu tiên khách hàng trước tiên. Trong thời gian từ 1/1/2007 đến 30/6/2007,
tổng giá trị chứng khoán tự doanh của các công ty chứng khoán đã đạt 9.667 tỷ
đồng, trong đó tổng giá trị chứng khoán tự doanh của công ty chứng khoán hoạt
động lâu năm là 5.997 tỷ đồng tăng 16,69% so với thời điểm ngày 1/1/2007.
Các công ty chứng khoán nhỏ và vừa hiện nay vẫn đang đẩy mạnh tự doanh
chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận tối đa cho mình đặc biệt là trong giai
đoạn thị trường phục hồi và phát triển như hiện nay. Việc cho phép công ty
chứng khoán được thực hiện tự doanh chứng khoán đã góp phần tạo thị trường
tuy nhiên nếu không có sự quản lý chặt chẽ thì có thể chính những quy định này
sẽ tạo ra sự bất bình đẳng và yếu thế cho các nhà đầu tư đặc biệt là trong việc
tiếp cận thông tin.
Thứ tư, về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Đây là nghiệp vụ kinh
doanh khá phát triển của các công ty chứng khoán với giá trị hợp đồng tư vấn
đầu tư là khoảng 55 tỷ đồng (vào tháng 6/2007), cho thấy xu hướng quan tâm,
chú trọng đến khách hàng của công tu chứng khoán Song tại thời điểm này so
với số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán khá lớn là 255.000 thì số hợp
đồng trên là chưa đáng kể. Bên cạnh đó, sự biến động bất thường của thị trường
chứng khoán hiện nay đã khiến cho các nhà đầu tư trở nên dè chừng hơn, có yêu
cầu tư vấn đầu tư cao hơn trong khi trình độ chuyên môn và kinh nghiệm cũng
5


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
như khả năng phân tích nắm bắt thị trường của đội ngũ tư vấn đầu tư của công
ty chứng khoán còn nhiều yếu kém.

III. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh
doanh chứng khoán
1. Môi trường pháp lý
Kinh doanh chứng khoán là một hoạt động khá phức tạp, ảnh hưởng sâu
sắc đến sự phát triển của nền kinh tế của các quốc gia nói chung cũng như nền
kinh tế Viêt Nam nói riêng. Chính bởi vậy, hoạt động kinh doanh chứng khoán
chịu sự điều chỉnh của các quy định luật pháp khá chặt chẽ và buộc các chủ thể
kinh doanh phải tuân thủ. Các quy định này đựơc ban hành nhằm mục đích:
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, đặt biệt là các nhà đầu tư
cá nhân.
- Đảm bảo thị trường hoạt động trôi chảy và hiệu quả
- Ngăn chặn các hoạt động tiêu cực trên thị trường chứng khoán.
- Giảm thiểu sự tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán đến các hoạt
động của nền kinh tế.
Trong pháp luật Việt Nam, hoạt động kinh doanh chứng khoán dựa trên
các nguyên tắc: nguyên tắc tài chính, nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp.
Những nguyên tắc này chi phối rất lớn đến chủ thể tham gia cũng như hoạt động
kinh doanh và thị trường chứng khoán.
Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu phát
triển của thị trường, của hoạt động kinh doanh chứng khoán của các chủ thể.
Luật Kinh doanh chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã có những quy
định cụ thể ảnh hưởng tích cực tới hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh doanh
chứng khoán:
Thứ nhất, pháp luật kinh doanh chứng khoán đã có những quy định đơn
giản hóa quá trình cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng
khoán bằng việc rút ngắn những thủ tục hành chính không cần thiết. Bên cạnh
đó, về thời hạn cấp giấy phép cũng được rút từ 60 ngày xuống còn tối đa là 30
ngày, quy định này tạo điều kiện để công ty chứng khoán nhanh chóng đi vào
hoạt động trên thực tế. (Điều 65 Luật chứng khoán; Điều 22 Nghị định
14/2007/NĐ – CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của

Luật chứng khoán)
Thứ hai, pháp luật chứng khoán đã thể hiện quan điểm đối xử bình đẳng
giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Những quy định dành riêng cho nhà
đầu tư nước ngoài trong Luật Chứng khoán rất ít. Đồng nghĩa với điều đó là cơ
hội để nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán được mở
rộng hơn so với trước đây. Cụ thể pháp luật đã cho phép công ty chứng khoán
có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thành lập hình thức liên doanh,
góp vốn cổ phần, thành lập công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc mở chi
6


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
nhánh hoạt động, văn phòng đại diện tại Việt Nam sau khi đăng ký với Ủy ban
chứng khoán Nhà nước. Riêng tỷ lệ đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài sẽ được
loại bỏ dần theo tiến độ đảm bảo an toàn cho quá trình phát triển thị trường
chứng khoán nước ta cũng như các cam kết quốc tế khi đã gia nhập WTO.
Thứ ba, về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, Luật chứng khoán và văn
bản hướng dẫn đã quy định cụ thể khái niệm cũng như điều kiện thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và các chủ thể được phép thực hiện nghiệp
vụ trên. Các nghiệp cụ này theo quy định của pháp luật chứng khoán chịu sự
kiểm soát chặt chẽ của Ủy ban chứng khoán nhà nước. Sự kiểm soát của Ủy ban
chứng khoán nhà nước giúp cho các chủ thể được phép thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán và tránh hiện tượng vi phạm cũng như khả năng “lách
luật”, gây ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể liên quan. Luật chứng khoán
cũng chú trọng nhiều hơn đến vấn đề giải quyết xung đột lợi ích. Theo tinh thần
của luật, công ty chứng khoán chỉ thực hiện bốn nghiệp vụ kinh doanh chính là
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán,
tư vấn đầu tư chứng khoán và cung cấp một số dịch vụ tư vấn tài chính. Còn hai
nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư và quản lý quỹ đầu tư là công ty quản lý quỹ
thực hiện. Luật chứng khoán cũng bổ sung thêm một số loại hàng hóa cho thị

trường chứng khoán như quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng trong
tương lai. Không phải chủ thể nào cũng được thực hiện tất cả các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán.
Thứ tư, về vấn đề chia tách, sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi công ty chứng
khoán trước đây thuộc phạm vi do luật doanh nghiệp điều chỉnh. Pháp luật
chứng khoán cũng không có một quy định nào về vấn đề này. Tuy nhiên, trên
thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán giữ vai trò, vị trí đặc biệt quan
trọng, do đó bất cứ sự thay đổi nào của công ty cũng đều ảnh hưởng đến thị
trường chứng khoán. Do đó, Luật chứng khoán đã quy định về việc chia tách,
sáp nhập, giải thể và sự thay đổi này phải được sự chấp thuận của chủ tịch Ủy
ban chứng khoán Nhà nước (khoản 1 Điều 69).
Các quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán là cơ sở
cho việc thực hiện cũng như xử lý vi phạm xảy ra trong quá trình thực hiện các
nghiệp vụ này. Việc ban hành Luật chứng khoán 2006 (sửa đổi, bổ sung 2010)
cùng các văn bản hướng dẫn nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi chính đáng của
các nhà đầu tư, đặt biệt là các nhà đầu tư cá nhân; đảm bảo thị trường cũng như
hoạt động kinh doanh chứng khoán thực hiện trôi chảy và hiệu quả; giảm thiểu
sự tác động tiêu cực của thị trường chứng khoán đến các hoạt động của nền kinh
tế1.
Tuy nhiên, Luật chứng khoán còn tồn tại một số nhược điểm ảnh hưởng tới
hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán
1

. www.ebookvcu.com.

7


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
Thứ nhất, về mặt nguyên tắc, nhiều quy định của Luật chứng khoán chưa

chi tiết và đồng bộ. Nhiều vấn đề trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của
công ty chứng khoán sau khi luật có hiệu lực vẫn phải chờ văn bản hướng dẫn
của Chính phủ, Bộ tài chính, điều này gây ra tình trạng khó khăn cho các công
ty chứng khoán khi thực thi pháp luật.
Thứ hai, Luật Chứng khoán cho phép các công ty chứng khoán 100% vốn
nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài hoạt động kinh doanh
chứng khoán tại Việt Nam là hướng đi đúng đắn, phù hợp với lộ trình cam kết
quốc tế, tuy nhiên bước đi đó cũng khá mạo hiểm. Hiện nay, trên thị trường
chứng khoán nước ta, nhà đầu tư nước ngoài đang có 1.700 tài khoản, nắm giữ
khoảng 25% - 30% số lượng cổ phiếu của công ty niêm yết 2 và xu thế trong
tương lai lượng vốn của loại chủ thể này sẽ tăng lên rất nhiều nhưng những quy
định về nhà đầu tư nước ngoài và những hoạt động giao dịch của họ vẫn chưa
có hướng dẫn cụ thể.
Thứ ba, mặc dù có sự giảm thiểu về thủ tục hành chính nhưng trong một
số trường hợp nhiều quy định của Luật Chứng khoán còn mang nặng tính hình
thức, tạo điều kiện cho cơ chế xin cho phát triển. Và điều này sẽ gây thiệt hại
cho nhà đầu tư trong nước, gây phiền toái cho nhà đầu tư nước ngoài làm chậm
quá trình phát triển, hội nhập của thị trường chứng khoán.
 Bên cạnh các quy định cụ thể của pháp luật kinh doanh chứng khoán thì cơ
chế, chính sách của Đảng, nhà nước cũng như các ngành liên quan cũng tác
động không nhỏ tới hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kinh doanh
chứng khoán.
Kinh doanh chứng khoán còn chịu sự chi phối của hàng loạt các cơ chế,
chính sách của nhà nước, của ngành. Đặc biệt là cơ chế chính sách tài chính
(thuế, phí, lệ phí, trợ cấp…) sẽ tác động trực tiếp đón hiệu quả kinh doanh. Nhà
nước ban hành cơ chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho hoạt
động kinh doanh góp phần quan trọng vào hiệu quả kinh doan, các quy định về
mức thuế phải nộp các khoản phí, lệ phí….các chủ thể kinh doanh được thu,
phải nộp hợp lý sẽ giúp các chủ thể kinh doanh có nguồn thu – chi hợp lý, nâng
cao hiệu quả kinh doanh.

2. Cơ chế chính sách
Bên cạnh sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật, kinh doanh chứng khoán
còn chịu sự chi phối của hàng loạt các cơ chế, chính sách của nhà nước, của
ngành. Đặc biệt là cơ chế chính sách tài chính (thuế, phí, lệ phí, trợ cấp…) sẽ
tác động trực tiếp đón hiệu quả kinh doanh. Nhà nước ban hành cơ chế chính
sách, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh góp phần quan
trọng vào hiệu quả kinh doanh, các quy định về mức thuế phải nộp các khoản
2

. www.facebook.com/note.php?note_id=10150142699205850.

8


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
phí, lệ phí….các chủ thể kinh doanh được thu, phải nộp hợp lý sẽ giúp các chủ
thể kinh doanh có nguồn thu – chi hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
3. Các nhân tố khác
3.1. Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội
Chính trị
Mục tiêu của kế hoạch 2012- 2013 mà Đảng và Chính phủ đề ra là giảm
lạm phát, giảm bội chi ngân sách, giảm nhập siêu và cải thiện rõ rệt các chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô bằng những cải cách mạnh mẽ trong thu chi ngân sách (theo
hướng giảm thu và giảm chi ngân sách), cắt giảm mạnh mẽ đầu tư công, thực
hiện công khai minh bạch trong chi tiêu ngân sách, đầu tư, cắt giảm biên chế
hành chính... Theo các chuyên gia kinh tế trong năm 2012 về cơ bản vẫn phải
duy trì mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội với sự điều chỉnh linh hoạt hơn 2 nhóm giải pháp về tiền tệ và tài khoá như
đã xác định trong Nghị quyết 11 của Chính phủ.
 Kinh tế

Có thể nói, lạm phát của nền kinh tế là một trong những yếu tố ảnh hưởng
sâu sắc đến hiệu quả áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán
Thứ nhất, lạm phát ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường chứng khoán thông
qua tác động đến tình hình sản xuất hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp nói
chung và các doanh nghiệp niêm yết nói riêng. , lạm phát tăng thường đồng
nghĩa với việc chi phí đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp tăng lên. Lạm phát làm giá cổ phiếu của doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường bị ảnh hưởng theo hướng suy giảm với các mức độ khác nhau. Nếu lạm
phát càng tăng mạnh thì hệ quả này diễn ra càng nhanh và giá cổ phiếu càng bị
ảnh hưởng mạnh. Nếu lạm phát tăng quá cao lại diễn ra trong môi trường chính
sách tiền tệ - tài khoá thắt chặt thì hậu quả còn nặng nề hơn vì thanh khoản trên
thị trường bị co hẹp đáng kể do luồng vốn lưu thông trên thị trường sụt giảm.
Thứ hai, lạm phát có thể tác động trực tiếp đến tâm lý nhà đầu tư và giá trị
của các khoản đầu tư trên thị trường chứng khoán. Lạm phát của nền kinh tế
làm cho tâm lý nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng và thị trường chứng khoán sẽ không còn là một địa chỉ thu hút
vốn đầu tư bởi nó cũng chính là một “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Nếu điều
này xảy ra, sẽ xuất hiện “tâm lý bầy đàn” trong việc bán tháo cổ phiếu do khủng
hoảng niềm tin. Hậu quả sẽ là cung cổ phiếu lớn gấp nhiều lần so với cầu và thị
trường diễn ra tình trạng kém thanh khoản nghiêm trọng.
Thứ ba, lạm phát tăng cao sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán thông qua
con đường thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát.
Điều đáng mừng là trước thời điểm hội nhập toàn diện (1/1/2012), cơ quan
quản lý đã phát đi nhiều thông điệp hứa hẹn về một cuộc tái cấu trúc sâu rộng
diễn ra trên TTCK năm 2012: Triển khai giao dịch T+2; phân loại và tái cấu
9


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
trúc hoạt động khối Công ty chứng khoán (CTCK); cho phép công ty quản lý

quỹ nội địa cung cấp sản phẩm quỹ mở…
Về tái cấu trúc TTCK, theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Văn
Hiếu, bao gồm nhiều vấn đề, như nâng cao chất lượng hàng hóa kết hợp với
việc đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán; bảo đảm tính công khai, minh
bạch, đồng thời thu hẹp số lượng các tổ chức tài chính trung gian. Việc tái cấu
trúc được thực hiện theo lộ trình, không làm xáo trộn hoạt động của TTCK.
Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận
trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát mục
tiêu lạm phát nhưng điều hòa trong cả năm, có tính đến sự ổn định kinh tế vĩ
mô, trong đó coi TTCK là kênh dẫn vốn dài hạn gắn kết với kênh dẫn vốn của
ngân hàng; từng bước giảm mặt bằng lãi suất.
Bên cạnh đó là áp dụng chính sách tín dụng với TTCK một cách linh hoạt trên
cơ sở không cào bằng, có phân biệt tình trạng tài chính và quản trị của từng
ngân hàng, không thắt chặt tiếp mà giữ trên cơ sở mặt bằng hiện tại để tạo tín
hiệu thu hút dòng tiền từ khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra
cũng cần có chính sách tiếp tục kéo dài việc miễn giảm thuế đối với lĩnh vực
chứng khoán và TTCK.
3.2. Sự phát triển của thị trường chứng khoán
Sự phát triển của thị trường chứng khoán được xem xét ở một số khía cạnh
chủ yếu:
+ Cung cầu trên thị trường: thị trường chứng khoán phát triển khi có nguồn
hàng hoá phong phú, đa dạng và có đông đảo các chủ thể tham gia mua bán.
+ Cơ sở hạ tầng thị trường: bao gồm hệ thống thông tin thị trường, hệ
thống giao dịch, hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ…thị trường phát triển khi cơ
sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện các giao dịch,
giảm thiểu rủi ro hệ thống.
+ Sự hiểu biết của công chúng về thị trường chứng khoán : Thị trường
chứng khoán là thị trường bậc cao, các chủ thể tham gia thị trường nếu không
am hiểu những kiến thức cơ bản về TTCK thì dễ bị rủi ro. Thị trường sẽ thực sự
năng động , hấp dẫn khi nhà đầu tư có sự hiểu biết về chứng khoán và thị

trường hấp dẫn khi nhà đầu tư có sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường
chứng khoán.Vì vậy, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán cũng là một trong
những nhân tố tác động đến hiệu quả kinh doanh chứng khoán.
+ Quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán là vịêc quản lý và giám sát
các hoạt động phát hành, giao dịch, thanh toán.. đối với các chứng khoán. Việc
quản lý này được chú trọng ở khía cạnh lập pháp và hành pháp.
3.3. Năng lực của chủ thể kinh doanh chứng khoán
Hoạt động kinh doanh chứng khoán muôn đạt hiệu quả đòi hỏi bản thân
chủ thể tham gia kinh doanh phải là người có kỹ năng phân tích tốt, hiểu biết về
10


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
lĩnh vực hành nghề. Chủ thể kinh doanh có năng lực chuyên môn, có đạo đức
nghề nghiệp, làm việc có trách nhiệm sẽ tạo được uy tín trên thị trường và với
khách hàng, từ đó có khả năng mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh doanh và
ngược lại.
IV. Một số ý kiến nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng pháp luật kinh doanh
chứng khoán
Nhằm nâng cao hoạt động kinh doanh chứng khoán, phát triển nền kinh tế
của đất nước, thì vấn đề nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Luật về
kinh doanh chứng khoán phải thực sự được Đảng và nhà nước được coi trọng
đồng thời, hoàn thiện pháp luật cũng là một vấn đề quan trọng nhằm tăng hiệu
quả của họat động này. Qua việc phân tích thực trạng và những yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán, nhóm em
rút ra được một số ý kiến nhằm tăng hiệu quả áp dụng pháp luật như sau:
Thứ nhất: Hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán
 Một vấn đề hết sức nóng bỏng hiện nay, đó là hiện tượng lừa đảo nhà
đầu tư. Trong khi đó, pháp luật điều chỉnh hoạt động này vẫn chưa được xây
dựng. chúng ta nên xây dựng một khuôn khổ chặt chẽ điều chỉnh các nhà môi

giới cá nhân, vừa giảm thiểu hiện tượng tiêu cực bảo vệ nhà đầu tư, vừa tạo điều
kiện phát triển thị trường.
 Vấn đề bức xúc của các nhà đầu tư hiện nay là quyền lợi của họ có thể
bị xâm phạm bất cứ lúc nào khi công ty chứng khoán vừa tự doanh vừa môi giới
chứng khoán, trong khi hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay đều thực hiện
đồng thời hai nghiệp vụ này.
Mặc dù Luật Chứng khoán 2006 và dự thảo quy chế mới có đề ra nhiều
biện pháp nhằm tách bạch hai nghiệp vụ nà, đó là tách bạch về cơ sở vật chất,
nhân sự, hồ sơ giấy tờ nhưng cuối cùng chúng vẫn do cùng một chủ thể tiến
hành. Mà như vậy, người ta vẫn nghi ngờ tính khách quan của nó. Để bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư, đồng thời để các công ty chứng khoán vẫn đồng thời
được tiến hành, quy trình thanh tra, giám sát phải được thực hiện tích cực và
thường xuyên hơn nữa.
 Trong các nghiệp vụ kinh doanh được kể tên của công ty chứng khoán,
luật không nêu nghiệp vụ Lưu ký chứng khoán. Như vậy, liệu có phải lưu ký
chứng khoán không được coi là một nghiệp vụ kinh doanh? Thực tế nghiệp vụ
này không khác gì các nghiệp vụ khác, bởi để tiến hành nó, các bên phải thỏa
thuận bằng hợp đồng, một bên cung cấp dịch vụ, một bên phải thanh toán chi
phí do được hưởng lợi ích từ dịch vụ. Do đó, pháp luật cần quy định chặt chẽ
hơn để công chúng có cái nhìn nghiêm túc về lưu ký chứng khoán. Đó cũng là
một nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
 Nội dung quy chế của hoạt động ký quỹ, cầm cố chứng khoán còn
thiếu chi tiết trong khi thực tế các hoạt động này đang được thực hiện phổ biến.
11


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
“Nhanh chân” nhất là các Ngân hàng thương mại có công ty chứng khoán trực
thuộc, họ cung cấp dịch vụ này từ rất sớm, nhưng những điều khoản họ thỏa
thuận với khách hàng dường như nghiêng phần lợi thế về phía họ. Pháp luật cần

có quy dịnh cụ thể hơn về hoạt động này để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
 Nghiệp vụ giám sát của ngân hàng thương mại với công ty quản lý quỹ
theo pháp luật hiện hành đã đặt ra nhiều thắc mắc. Pháp luật không cho phép
ngân hàng thực hiện KDCK trực tiếp, vì vậy ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
chính của mình là nghiệp vụ ngân hàng. Như vậy, có là vô lý không khi yêu cầu
một chủ thể không nắm nghiệp vụ KDCK đi giám sát công ty quản lý quỹ.
Thứ hai: Tăng cường quản lý thị trường chứng khoán:
Là một công tác quan trong nhằm đảm bảo an toàn cho thị trường chứng
khoán hoạt động một cách đồng bộ và lành mạnh, góp phần ổn định nền kinh tế
thị trường, đảm bảo việc thực hiện đúng pháp luật của các công ty kinh doanh
chứng khoán. Mặt khác, việc tăng sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với thị trường chứng khoán là một trong những biện pháp làm tăng
việc áp dụng có hiệu quả pháp luật về kinh doanh chứng khoán.
Thứ ba: Nâng cao trình độ các cơ quan chuyên môn:
Nhằm đảm bảo ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể kinh doanh
chứng khoán, kịp thời phát hiện những hoạt động bất thường ẩn chứa nhiều rủi
ro trên thị trường chứng khoán, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng
khoán trong khuôn khổ an toàn và hợp pháp, pháp luật quy định Ủy ban chứng
khoán Nhà nước và cơ quan có chức năng có nhiệm vụ giám sát, quản lý hoạt
động kinh doanh của các công ty kinh doanh chứng khoán, nhân viên hành nghề
kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, các vi phạm chủ yếu trên thị trường chứng
khoán tiếp diễn liên tục và phổ biến và không bị phát hiện và xử lý kịp thời là
do công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền còn lỏng lẻo và
mang tính đối phó. Vì vậy, việc nâng cao trình độ của các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm trong công tác thực hiện kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh
doanh chứng khoán.
Thứ tư: Nâng cao chất lượng hàng hóa và phát triển hàng hóa thị trường
chứng khoán:
Chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt, do các công ty có đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật phát hành nhằm thu hút vốn của các nhà đầu

tư, vì vậy, để đảm bảo cho thị trường có thể phát triển một cách tốt nhất, đảm
bỏa an toàn cho các nhà đầu tư thì việc nâng cao chất lượng của các loại chứng
khoán được phép phát hành là một việc làm hết sức cần thiết.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Kinh doanh chứng khoán là một trong những họat động hết sức phổ biến
hiện nay, nhất là trong thời kỳ nền kinh tế thị trường phát triển, các công ty kinh
doanh chứng khoán lần lượt ra đời và tạo nên một thị trường chứng khoán hết
12


BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
sức phát triển. Trên thực tế, hoạt động áp dụng pháp luật đối với hoạt động kinh
doanh chứng khoán đã đạt được những kết quả đáng mừng nhất định song bên
cạnh đó vẫn còn những yếu tố tác động, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả áp
dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Thiết nghĩ, trong thời gian tới, các cơ quan
chuyên môn cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu,
đánh giá một cách toàn diện để hoàn thiện hơn nữa pháp luật về kinh doanh
chứng khoán đồng thời xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng
pháp luật kinh doanh chứng khoán để có hướng khắc phục.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giaó trình Luật chứng khoán, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb công an
nhân dân 2008;
2. Luật chứng khoán 2006;
3. www.ktck86.blogspot.com.
4. www.ebookvcu.com.
5. www.facebook.com/note.php?note_id=10150142699205850

13



BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT CHỨNG KHOÁN THÁNG 2
6. Lê Thị Phương Dung, pháp luật kinh doanh chứng khoán trong yêu cầu hội
nhập, khóa luận tốt nghiệp,hà nội, 2007;
7. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán số 62/2010/QH12
8. Nghị định của Chính phủ số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật chứng khoán
9. Nghị định của Chính phủ số 84/2010/NĐ-CP ngày 2/8/2010 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 14/2007/NĐ-CP.

14



×