Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam trong một lĩnh vực cụ thể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.14 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT:..........................................................................1
CEDAW .......................................................................................................................1
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ...............1
LHQ..............................................................................................................................1
Liên hợp quốc..............................................................................................................1
MỞ ĐẦU......................................................................................................................2
NỘI DUNG...................................................................................................................2
I.Khái quát những vấn đề cơ bản của công ước CEDAW................................................2
I.1.Sự ra đời của công ước CEDAW..............................................................................2
I.2.Những quy định pháp lí cơ bản của công ước CEDAW.........................................3
I.3.Ý nghĩa, vai trò của công ước CEDAW......................................................................5
II. Việc hoàn thiện pháp luật theo công ước CEDAW.....................................................5
2.1. Thực tế hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong vấn đề chống phân bi ệt đối x ử v ới
phụ nữ theo công ước CEDAW.....................................................................................5
2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện các quy định của Hiến pháp..................................5
2.2. Những yêu cầu chung để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù h ợp v ới
công ước CEDAW trong thời gian tới.............................................................................9

KẾT LUẬN................................................................................................................10

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT:
CEDAW

Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

LHQ

Liên hợp quốc



MỞ ĐẦU.
Vấn đề quyền con người nói chung và vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ nói
riêng từ lâu đã trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu của nhân loại tiến bộ. Sự ra
đời của Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) đã
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong phong trào đấu tranh vì sự bình đẳng và
tiến bộ của phụ nữ trên toàn thế giới. Đây được coi là văn bản pháp lí quốc tế đầu tiên
ghi nhận một cách toàn diện nhất vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ và đảm bảo cho
phụ nữ được hưởng những quyền đó một cách thực chất.
Ở nước ta, cùng với sự phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan
tâm đến vấn đề bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ. Ngày 29/7/1980, Việt Nam
đã kí công ước CEDAW và phê chuẩn công ước vào 27/11/1981, gần nửa năm sau,
ngày 19/3/1982 công ước CEDAW chính thức có hiệu lực tại Việt Nam. Sự kiện Việt
Nam chính thức trở thành thành viên của công ước CEDAW đã tạo cơ sở pháp lí
quan trọng, mang tính quốc tế cho việc bảo vệ quyền bình đảng của phụ nữ tại Việt
Nam, cùng với đó cũng đặt ra cho Việt Nam những yêu cầu về việc hoàn thiện pháp
luật quốc gia để đảm bảo tốt hơn các quyền của phụ nữ theo nội dung công ước.
Với yêu cầu “Phân tích tác động của Luật quốc tế đối với quá trình hoàn thiện
các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam trong một lĩnh vực cụ thể”, người viết
xin được lựa chon nội dung “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (CEDAW) và sự hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong vấn đề chống
phân biệt đối xử với phụ nữ” làm đề tài cho bài tiểu luận học kì.
NỘI DUNG.
I.

Khái quát những vấn đề cơ bản của công ước CEDAW.

I.1. Sự ra đời của công ước CEDAW.
Hướng tới quyền bình đẳng của phụ nữ luôn là một trong những mục tiêu hàng
đầu của LHQ. Ủy ban LHQ về địa vị của phụ nữ (CSW) được thành lập năm 1946 là
một cơ quan quốc tế có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chung chống phân biệt

đối xử từ góc độ giới. Trong qua trình hoạt động, cơ quan này đã ban hành khá nhiều
văn bản pháp lí quốc tế liên quan đến việc bảo vệ sự bình đẳng của phụ nữ, nhưng
nhìn chung các văn kiện đó còn chưa đưa ra được những biện pháp cụ thể, thiết thực
để có thể xóa bỏ hoàn toàn sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Từ thực tế đó, năm 1975,
CSW đã quyết định phải thiết lập một công cụ pháp lí quốc tế hoàn chỉnh để loại bỏ
2


sự phân biệt đối xử với phụ nữ. Sau một quá trình dài làm việc, ngày 18/2/1979, công
ước CEDAW đã được Đại hội đồng LHQ thông qua theo nghị quyết số 34/180. Ngày
3/9/1981, 30 ngày sau khi có thành viên thứ 20, công ước CEDAW đã chính thức có
hiệu lực, nhanh hơn bất cứ công ước nào trước đó về nhân quyền. Tính đến tháng
3/2011, đã có 186 quốc gia là thành viên của công ước CEDAW, chiếm hơn 90%
thành viên của LHQ. CEDAW hiện đang là một trong số ít Công ước về quyền con
người của LHQ được sự hưởng ứng tham gia trên diện rộng của các quốc gia trên thế
giới, nó được coi là bộ luật quốc tế về quyền của phụ nữ, và trở thành một bộ phận
quan trọng trong hệ thống điều ước quốc tế về quyền con người của LHQ.
I.2. Những quy định pháp lí cơ bản của công ước CEDAW.
Công ước CEDAW gồm Lời nói đầu, 6 phần với 30 điều, nội dung chính của công
ước là hướng tới những biện pháp, cách thức để loại trừ mọi sự phân bệt đối xử với
phụ nữ trong thụ hưởng các quyền cơ bản của con người đã được Luật quốc tế về
nhân quyền thừa nhận. Tại điều 1, công ước đã đưa ra định nghĩa: “phân biệt đối xử
với phụ nữ có nghĩa là bất kỳ sự phân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sở
giới tính làm ảnh hưởng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hoá việc phụ
nữ được công nhận, thụ hưởng, hay thực hiện các quyền con người và những tự do
cơ bản trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân sự và các lĩnh vực khác
trên cơ sở bình đẳng nam nữ bất kể tình trạng hôn nhân của họ như thế nào”.
Các nội dung về chống phân biệt đối xử, đảm bảo sự bình đẳng của phụ nữ được
trình bày trong công ước CEDAW bao gồm:


• Bình đẳng trong đời sống chính trị và công cộng ở cả hai cấp độ, quốc gia và
quốc tế
Ở cấp độ quốc gia, quy định của Công ước về yêu cầu đối với nghĩa vụ của các
quốc gia thành viên là phải hành động nhằm tạo lập cho phụ nữ vị thế bình đẳng để
thực hiện các quyền trong đời sống chính trị và công cộng như quyền bầu cử, ứng cử.
Các điều 7, 8 xác định hành động thực tế của các quốc gia là phải loại bỏ những hạn
chế về giới trong các cương vị nhất định, thúc đẩy tốc độ phát triển của phụ nữ và
thiết lập các chương trình quốc gia nhằm đảm bảo số lượng phụ nữ ở các cương vị
lãnh đạo chính trị tại quốc gia mình. Cùng với đó phải đặt ra cho mỗi quốc gia thành
viên các nghĩa vụ phải tạo các điều kiện và cơ hội để phụ nữ có được sự đại diện một
cách xứng đáng trong các cuộc tiếp xúc hoặc tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế.
3


• Bình đẳng trong điều chỉnh pháp lí các vấn đề liên quan đến quốc tịch của phụ
nữ và các con của họ
Các nội dung này thuộc Điều 9 của Công ước. Pháp luật của một số quốc gia vẫn
duy trì sự phân biệt đối xử với phụ nữ bằng quy định cho phép phụ nữ nước ngoài có
thể nhập quốc tịch của quốc gia mà người chồng là công dân khi kết hôn với người
này nhưng không cho phép nam giới nhập quốc tịch của nước người vợ là công dân
khi kết hôn với người phụ nữ đó. Tình trạng trẻ em đương nhiên có quốc tịch của
người cha ở một số nước cũng phản ánh tình trạng bất bình đẳng này. Do đó, vấn đề
cần phải thực hiện với những quốc gia hiện vẫn còn sự bất bình đẳng như vậy trong
pháp luật là phải thiết lập cơ chế pháp lí về sự bình đẳng chính thức giữa nam và nữ
đối với việc nhận, giữ, thay đổi quốc tịch trong các quan hệ giữa vợ và chồng, giữa
cha mẹ và các con của họ.

• Bình đắng về các quyền trong lao động và việc làm
Trong CEDAW, quyền bình đẳng trong lao động và việc làm của phụ nữ được
xem xét và ghi nhận ở rất nhiều nội dung như: quyền bình đẳng về cơ hội có việc

làm, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, quyền bình đẳng về tiền lương và hưởng các
trợ cấp nghề nghiệp, quyền được bảo vệ để tránh khỏi bị xâm hại, nhất là chống lại
nạn quấy rối tình dục tại nơi làm việc do các đồng nghiệp nam giới thực hiện.

• Quyền bình đắng về giáo dục
Đối với nghĩa vụ của các quốc gia là thành viên Công ước, sự bảo đảm thực thi
quy định của Công ước về lĩnh vực này bao hàm ba vấn đề cơ bản. Thứ nhất là nghĩa
vụ của quốc gia bảo đảm sự bình đẳng về quyền được tham gia học tập và quyền
được giáo dục, đào tạo của các học sinh nữ. Thứ hai là nghĩa vụ của quốc gia trong
việc loại bỏ sự bất bình đẳng về giới thông qua hệ thống giáo dục quốc dân. Thứ ba là
nghĩa vụ của quốc gia trong việc xóa bỏ các khoảng trống, tồn tại trong các cấp giáo
dục giữa nam và nữ.

• Bình đắng về các vấn đề dân sự và pháp lí
Đối với nhiều quốc gia, đây là lĩnh vực mà phụ nữ thường bị phân biệt đối xử, ở
một số nước, phụ nữ không có quyền sở hữu về tài sản, không có quyền kí kết hợp
đồng nhân danh cá nhân, phụ nữ vẫn bị cưỡng bức kết hôn, không có quyền bình
đẳng với nam giới trong việc li hôn, thậm chí phải chịu đựng tệ nạn bạo lực gia đình,
tục tảo hôn, mang thai sớm... Do đó, việc CEDAW trực tiếp ghi nhận quyền bình
4


đẳng của phụ nữ về dân sự và pháp lí có ý nghĩa bảo đảm cho phụ nữ có được đầy đủ
các quyền mà pháp luật thừa nhận trong các quan hệ gia đình cũng như xã hội.
Bên cạnh việc ghi nhận quyền bình đẳng chung của phụ nữ về dân sự - pháp lí,
Công ước dành sự quan tâm đáng kể đối với đối tượng là phụ nữ sống ở các vùng
nông thôn tại Điều 14.
I.3. Ý nghĩa, vai trò của công ước CEDAW.
So với các văn kiện pháp lí quốc tế khác về quyền con người, trong đó có quyền
của phụ nữ, tại CEDAW, lần đầu tiên, các quyền của phụ nữ được đề cập một cách cụ

thể, toàn diện trong 14 điều (từ Điều 2 đến Điều 16), với sự nhấn mạnh đặc biệt góc
độ bình đẳng của việc hưởng các quyền đó bằng tư duy khoa học, nhân văn và tiến
bộ. Đó là đặt việc tạo lập sự bình đẳng về giới vào trong mối tương quan với các yếu
tố truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc và yếu tố thời đại. CEDAW còn có giá trị
pháp lí to lớn khác là đã quy định chặt chẽ những nghĩa vụ pháp lí cụ thể cho từng
quốc gia thành viên trong việc thực hiện các quyền con người cơ bản của phụ nữ.
Điều này làm cho Công ước phát huy hiệu quả vai trò của công cụ hợp tác đa phương
trong điều chỉnh quan hệ pháp lí quốc tế giữa các quốc gia về thực hiện, phát triển
các quyền của phụ nữ tại từng quốc gia cũng như tại các khuôn khổ hợp tác quốc tế
khu vực và toàn cầu. Hơn 20 năm qua, Công ước vẫn đang chứng tỏ được tầm quan
trọng của mình thông qua những tác động tích cực đến đời sống của hàng trăm triệu
phụ nữ trên toàn hành tinh.
II. Việc hoàn thiện pháp luật theo công ước CEDAW.
2.1. Thực tế hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong vấn đề chống phân biệt
đối xử với phụ nữ theo công ước CEDAW.
Ngày 27/11/1981, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức phê chuẩn
CEDAW và trở thành thành viên thứ 35 của Công ước CEDAW. Việc phê chuẩn và
trở thành thành viên chính thức của CEDAW có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
phát triển pháp luật về quyền con người, đối với tạo dựng hành lang pháp lí quan
trọng cho việc bảo đảm các quyền bình đẳng của phụ nữ, điều này được thực tế hóa
trên các phương diện sau:
2.1.1. Xây dựng và hoàn thiện các quy định của Hiến pháp.
Điều 2 Công ước CEDAW yêu cầu các nước thành viên phải đưa nguyên tắc
bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp quốc gia nhưng trên thực tế, không phải đến khi trở
5


thành thành viên của Công ước CEDAW, quyền bình đẳng nam nữ mới được ghi
nhận trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà ngay trong
bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã có quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông

về mọi phương diện (Điều 9). Trong số 7 chương, 70 điều của Hiến pháp năm 1946
đã có 4 điều quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử, mọi
thành viên trong xã hội không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, giới tính đều được Nhà
nước thừa nhận về mặt. Kế thừa quy định trên, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp
1980 tiếp tục ghi nhận và bảo đảm quyền bình đẳng giữa phụ nữ với nam giới.
Có thể nói, trước khi Công ước CEDAW ra đời từ rất lâu, quyền bình đẳng
nam nữ đã được ghi nhận và ngày càng được hoàn thiện qua các bản Hiến pháp của
Việt Nam. Đến Hiến pháp 1992, quyền bình đẳng của phụ nữ tiếp tục được ghi nhận
và bảo đảm thực hiện với phạm vi và nội dung được mở rộng hơn. Điều 50 Hiến pháp
1992 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người
vế chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền
công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Cụm từ “công dân” có nghĩa là
mọi người dân đều bình đẳng. Điều này đã thể hiện rõ quan điểm cùa Nhà nước ta
không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trên cơ sở giới tính. Cùng với đó, tại Điều 63
Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận: “Công dân nữ và nam có quyển ngang nhau về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt
đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm của phụ nữ...” Đây là quy định có tính
nguyên tắc, làm nền tảng cho mọi quy định pháp luật liên quan đến vấn đề giới trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Phù hợp với tinh thần của Công ước CEDAW, Hiến
pháp không những đảm bảo tạo điều kiện cho người phụ nữ làm tròn bổn phận của
người mẹ mà còn xác định trách nhiệm của Nhà nưóc, xã hội, gia đình và công dân
trong việc bảo vệ và chăm sóc bà mẹ, trẻ em.
Như vậy, xuyên suốt bốn bản Hiến pháp của Việt Nam, quyền bình đẳng của
phụ nữ luôn được đề cao. Quá trình xây dựng các bản Hiến pháp cho thấy Nhà nước
Việt Nam luôn quyết tâm để đưa các nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Công
ước CEDAW vào văn bản pháp luật tối cao cửa đất nước. Các quy định này ngày
càng được hoàn thiện và bản Hiến pháp hiện hành năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm
2001) là bản Hiến pháp hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Công ước CEDAW, thể
hiện bản chất tốt đẹp của nền dân chủ cũng như tính nhân văn và truyền thống tôn
6



trọng phụ nữ của Đảng, Nhà nước và cả dân tộc Việt Nam; đồng thời, thể hiện quyết
tâm của Việt Nam trong việc thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước CEDAW.
2.1.2. Xây dựng và hoàn thiện quy định của các văn bản quy phạm pháp
luật quốc gia khác.
Để tổ chức thực hiện tốt Công ước CEDAW, điều quan trọng là tinh thần và
nội dung của CEDAW phải được phản ánh đúng đắn trong pháp luật quốc gia. Có thể
nói rằng, việc "nội luật hoá" CEDAW đã được Đảng, Nhà nước và các ngành chức
năng hết sức quan tâm. Cho đến nay, Việt Nam đã có một hệ thống văn bản pháp luật
khá đầy đủ điều chỉnh vấn đề bình đẳng giới. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt
đối xử giữa nam giới và phụ nữ đã được thể hiện rõ trong nhiều văn bản pháp luật
như: Bộ luật Lao động năm 1994; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Luật bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003; Pháp lệnh phòng, chống tệ nạn mại dâm năm
2003; Pháp lệnh Dân số năm 2003; Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Bình đẳng giới
năm 2006; Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007; Luật Quốc tịch năm 2008...
Đứng dưới góc độ thực hiện nghĩa vụ thành viên Công ước CEDAW, có thể điểm qua
những quy định nổi bật như:
- Bộ luật Hình sự năm 2009 có quy định tại điều 130: “Người nào dùng vũ lực
hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh
tế, khoa học, văn hoả, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một
năm hoặc phạt tù từ ba thảng đến một năm”.
- Luật Đất đai năm 2003 thể hiện chính sách của Nhà nước Việt Nam không có
sự phân biệt theo giới. Nam, nữ bình đẳng trước pháp luật về đất đai. Điều 105, 106,
108 Luật đất đai năm 2003 quy định hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng đất có các
quyền chung của người sử dụng đất. “Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung
của vợ và chồng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ và họ,
tên chồng ” (Khoản 3, Điều 48).
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng định nguyên tắc hôn nhân tự
nguyện, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Giấy chứng nhận quyền sử đụng

đất, nhà ở, tài sản chung phải ghi tên của cả vợ và chồng.
- Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được Quốc hội thông qua
năm 2005 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Công ước CEDAW. Theo quy
định tại Điều 6, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phải đảm bảo không
7


làm cản trở việc thực hiện điểu ước quốc tế và khi có các quy định trái với điều ước
quốc tế thì các quy định của điều ước quốc tế được ưu tiên áp dụng.
- Pháp lệnh Dân số năm 2003 quy định: “Nghiêm cấm hành vi lựa chọn giới
tính thai nhi dưới mọi hình thức”
- Luật Bình đẳng giới năm 2006 khẳng định quyết tâm của Việt Nam trong
việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, hội nhập khu vực và quốc tế. Với 6 chương
và 44 điều, Luật Bình đẳng giới đã thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, đồng thời nội luật hoá tinh thần
của Công ước CEDAW vào từng điều khoản của Luật. Đây là văn bản pháp luật toàn
diện nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lao
động, giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao,
y tế và gia đình. Cả ba nguyên tắc cơ bản của Công ước là bình đẳng, không phân
biệt đối xử và trách nhiệm quốc gia đã được ghi nhận tại Điều 6 Luật Bình đẳng giới.
Ngoài ra, Luật còn quy định các biện pháp nhằm đảm bảo bình đẳng giới bao gồm:
thúc đẩy bình đẳng hay áp dụng các biện pháp tạm thời; lồng ghép bình đẳng giới
trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục; xác
định trách nhiệm của cơ quan nhà nước, kể cả cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng
giới và những cơ quan, tổ chức khác; quy định các hành vi bị cấm. Có thể nói Luật
Bình đẳng giới đã đưa ra những quy định rất cụ thể, chi tiết về bình đẳng giới trên
mọi mặt của đời sống xã hội phù hợp với nội dung và tinh thần của Công ước
CEDAW. Kể từ khi ra đời, Luật Bình đẳng giới đã góp phần quan trọng cho việc thực
thi Công ước ở Việt Nam.
- Luật Phòng chống bạo lực gia đình đã được thông qua và có hiệu lực từ ngày

1/7/2008. Luật đã làm rõ chức năng quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia
đình; góp phần củng cố, xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc và tiến bộ;
chú trọng các biện pháp phòng ngừa bạo lực gia đình, xử lí nghiêm minh các hành vi
bạo lực gia đình và có các biện pháp bảo vệ nạn nhân, nhất là phụ nữ, trẻ em và người
cao tuồi.ể. Luật Phòng chống bạo lực gia đình ra đời thể hiện quyết tâm hơn nữa của
Việt Nam trong việc đảm bảo các quyền con người nói chung và quyền bình đẳng cùa
phụ nữ nói riêng.
Bên cạnh Hiến pháp và các luật, nhiều Nghị định, Thông tư cũng đã được ban
hành để cụ thể và chi tiết hóa các quy định trong Hiến pháp, luật nhằm đảm bảo cho
các quy định đó được thi hành có hiệu quả trên thực tế.
8


Với hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện phù hợp với đặc điểm, tình
hình của đất nước, nhận thức xã hội về bình đẳng giới ngày càng được nâng cao, góp
phần đảm bảo sự bình đẳng trong đời sống xã hội cũng như của cộng đồng dân cư.
Chính vì vậy, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có hệ thống chính
sách và pháp luật bình đẳng giới khá tiến bộ so với nhiều nước trên thế giới và trong
khu vực, kể cả với nhiều nước phát triển. Theo Báo cáo đánh giá của Ngân hàng Thế
giới; Ngân hàng phát triển châu Á; Vụ phát triển quốc tế Anh và Cơ quan phát triển
quốc tế Canada thì “Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới vê tỷ lệ phụ
nữ tham gia các hoạt động kinh tế, là một trong những nước tiến bộ hàng đầu về
bình đẳng giới... là quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất về xoá bỏ
khoảng cách giới trong hai mươi năm qua ở khu vực Đông Á ”[8, tr. 11].
2.2. Những yêu cầu chung để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phù
hợp với công ước CEDAW trong thời gian tới.
Để các quy định của pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ được thi hành
một cách có hiệu quà cũng như đảm bảo việc nội luật hóa các quy định của công ước
CEDAW vào hệ thống pháp luật Việt Nam trong thời gian tới cần tiến hành một số
biện pháp sau:

Thứ nhất, cần tiến hành rà soát, hệ thống hóa các văn bản pháp luật hiện hành
về bình đẳng giới. Đây là hoạt động quan trọng, có ý nghĩa tiền đề cho việc phát hiện,
sửa đổi và kịp thời hủy bỏ những quy định đã không còn hiệu lực, hoặc không còn
phù hợp với thực tiễn; hạn chế tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản,
tạo sự phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, bổ sung các quy
định còn thiếu, sửa đồi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành trên cơ sờ đối
chiếu với các mục tiêu của Công ước CEDAW và Luật Bình đẳng giới.
Thứ hai, cần đẩy mạnh hoạt động xây dựng và ban hành văn bàn quy phạm
pháp luật. Bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung pháp luật có liên quan, cần phải ban hành
những vãn bản pháp luật mới để đảm bảo cho các quy định của Công ước CEDAW
được thực hiện có hiệu quả tại Việt Nam. Việc thẩm định các dự án luật, nghị định
phải được tiến hành một cách chặt chẽ, kỹ lưỡng, thực hiện nghiêm túc quy trình lồng
ghép giới; việc phân tích giới, báo cáo đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp
luật đối với nam và nữ trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, để đảm bảo sự bình đẳng của phụ
nữ theo công ước CEDAW, Việt Nam còn thực hiện rất nhiều các biện pháp đồng bộ
9


khác như cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị,
xã hội, đảm bảo cho phụ nữ có một tỉ lệ nhất định trong các vị trí lãnh đạo; nâng cao
ý thức của nhân dân về thực thi pháp luật bình đẳng giới (do khuôn khổ bài viết chỉ
xin liệt kê mà không phân tích).
KẾT LUẬN
Việc Việt Nam tham gia công ước CEDAW đã có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc phát triển pháp luật về quyền con người. Không những thế, công ước đã tạo
dựng một hành lang pháp lí quan trọng cho việc bảo đảm các quyền bình đẳng của
phụ nữ, đồng thời là yếu tố quốc tế thúc đẩy việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định của hệ thống pháp luật quốc gia về bảo vệ, phát triển các quyền của phụ nữ, góp
phần hoàn thiện hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người nói riêng và quyền

bình đẳng của phụ nữ nói chung, đồng thời góp phần thực hiện chiến lược quốc gia
về phát triển phụ nữ tại Việt Nam.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm các năm 1946;
1959; 1980 và 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001;
2. Luật Bình đẳng giới 2006;
3. Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Convention on
the Elimination of all forms of Discrimination against women) Ủy ban quốc
gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam dịch và giới thiệu, Hà Nội, 9/2005;
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2004;
5. TS. Lê Mai Anh, “Thực hiện các quyền bình đẳng cơ bản của phụ nữ theo
CEDAW tại Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Số Đặc san 3/2004, tr. 1-12;
6. TS. Lê Mai Anh, “Tổng quan các vấn đề pháp lý cơ bản của Công ước quốc tế
về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW)”, Tạp chí Luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 03/2006, tr. 03 – 9;
7. Đỗ Thị Khánh Huyền, “Việt Nam và cơ chế thực hiện công ước quốc tế về xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ”, Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2011;
8. Ngân hàng Thế giới; Ngân hàng phát triển châu Á; Vụ phát triển quốc tế Anh
và Cơ quan phát triển quốc tế Canada, Báo cáo phân tích tình hình giới ở Việt
Nam năm 2006;
9. />
10.


11



×