Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế thế giới cũng như nước ta hiện nay đang chuyển sang thời kỳ mới
với trình độ phát triển thay đổi về chất nghĩa là nền kinh tế tri thức. Nước ta đang xúc
tiến quá trình hội nhập thế giới. Do đó, việc xây dựng hệ thống pháp luật về sở hữu trí
tuệ góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, sự thịnh vượng của văn hóa
và sự phát triển của nền kinh tế đất nước, tăng cường quan hệ hợp tác và trao đổi quốc
tế trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
còn bảo đảm quyền và lợi ích của người sáng tạo.
Trong những năm qua, hoạt động bảo hộ sở hữu trí tuệ ở nước ta đã được Nhà
nước quan tâm đúng mức đặc biệt là bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Hoạt động
nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật có những bước tiến bộ quan
trọng, bằng chứng là Luật Sở hữu trí tuệ ra đời và rất nhiều văn bản liên quan khác
được ban hành để giúp việc thực thi về vấn để này có hiệu quả hơn. Một số Bộ, Ban,
Ngành của địa phương cũng đã có chương trình triển khai cụ thể bước đầu có những
chuyển biến khả quan.
Tuy nhiên, song hành cùng những nổ lực đó thì tình trạng vi phạm quyền của
người biểu diễn cũng diễn ra tinh vi và ngày càng phức tạp hơn. Không khó để nhận ra
người biểu diễn đã đóng góp không nhỏ sức sáng tạo trong quá trình biểu diễn các tác
phẩm, vì vậy các công ước quốc tế, cũng như luật pháp các quốc gia đã thừa nhận và
bảo hộ quyền của người biểu diễn. Nhưng mức độ bảo hộ của các nước không đồng
nhất. Một số nước đã coi cuộc biểu diễn là một sản phẩm sáng tạo độc lập và người
biểu diễn hưởng các quyền riêng biệt. Ví dụ: Luật Bản quyền, Thiết kế và sáng chế
năm 1988 của Anh quy định Quyền của người biểu diễn: “độc lập với bất cứ quyền
tác giả, quyền nhân thân đối với tác phẩm được biểu diễn hay bất kỳ bộ phim, bản ghi
âm, chương trình phát sóng hoặc chương trình cáp nào có trong buổi biểu diễn và bất
kỳ quyền và nghĩa vụ nào khác...”. Điều 7.1 Luật Bản quyền Đài Loan cũng khẳng
định người biểu diễn trình diễn tác phẩm hoặc các thể hiện dân gian được bảo hộ độc
lập. Việc bảo hộ quyền của người biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền tác giả của
tác phẩm gốc. Trong khi nhiều nước khác nhận định người biểu diễn chỉ đơn thuần
trình diễn lại tác phẩm, mức độ sáng tạo thấp hơn so với các tác phẩm thông thường,
do đó cho người biểu diễn được hưởng quyền đối với buổi biểu diễn của mình ở cấp
độ thấp hơn dưới dạng quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi tắt là quyền liên
quan). Ví dụ: tại Mục II Chương II Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về nội dung, giới hạn
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
1
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
quyền và thời hạn bảo hộ quyền liên quan đã liệt kê các đối tượng được bảo hộ quyền
liên quan, trong đó Quyền của người biểu diễn được quy định tại Điều 29.
Dù cuộc biểu diễn được bảo hộ như một sản phẩm sáng tạo độc lập hay như
một đối tượng của quyền liên quan, việc bảo hộ quyền của người biểu diễn là rất cần
thiết. Bởi sự phát triển của công nghiệp ghi âm, công nghiệp điện ảnh và đặc biệt gần
đây là Internet đã giúp người biểu diễn định hình, sao chép và truyền phát cuộc biểu
diễn của mình tới đông đảo công chúng một cách nhanh chóng, nhưng cũng chính
những bản sao cuộc biểu diễn đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng kiểm soát
công chúng tiếp cận với cuộc biểu diễn. Nếu như đối với buổi biểu diễn trực tiếp chỉ
cần thông qua kiểm soát vé vào cửa là có thể khống chế được công chúng tiếp cận
buổi biểu diễn, thì nay với vô số bản sao băng từ hay bản lưu dưới dạng điện tử, khả
năng kiểm soát và khống chế các cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử dụng và khai thác cuộc
biểu diễn của người biểu diễn bị thu nhỏ, khả năng thụ hưởng thù lao, thu hồi chi phí
và đầu tư cho cuộc biểu diễn bị đe doạ. Vì vậy yêu cầu bảo hộ quyền của người biểu
diễn càng trở nên bức thiết.
Mặt khác, việc bảo hộ quyền liên quan, trong đó có quyền của người biểu diễn,
góp phần củng cố và hoàn thiện cơ chế bảo hộ quyền tác giả. Khi quyền của người
biểu diễn được bảo hộ, người biểu diễn nhận được thù lao tương xứng với công sức
đã bỏ ra trong quá trình thể hiện, truyền bá tác phẩm sẽ càng nỗ lực truyền tải các sản
phẩm sáng tạo của các tác giả, nâng cao giá trị của các tác phẩm. Đồng thời khi biểu
diễn các tác phẩm, người biểu diễn trước tiên phải tuân thủ các nghĩa vụ xin phép và
trả tiền bản quyền cho tác giả theo quy định của pháp luật, khi đó tác giả được thụ
hưởng các quyền mà pháp luật cho phép.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh toàn cầu, vấn đề bảo hộ quyền
của người biểu diễn nói riêng và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung trở nên đặc
biệt quan trọng. Làm thế nào để bảo hộ quyền của người biểu diễn, bảo vệ những
thành quả chân chính, tạo môi trường lành mạnh để người biểu diễn yên tâm hoạt
động, đóng góp hết sức mình cho hoạt động nghệ thuật, bảo vệ được quyền và lợi ích
của họ là mục đích nghiên cứu của sinh viên thực hiện.
3. Phạm vi nghiên cứu
Sở hữu trí tuệ là phạm trù có phạm vi nghiên cứu rất rộng, bao gồm nhiều đối
tượng được nhà nước bảo hộ. trong phạm vi bài niên luận này, do hạn chế của sự hiểu
biết và thời gian nghiên cứu nên sinh viên thực hiện chỉ nghiên cứu một phần rất nhỏ
trong Luật Sở hữu trí tuệ, đó là bảo hộ quyền của người biểu diễn.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
2
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp so sánh, liệt kê, phân tích và tổng hợp, niên luận nhằm
đánh giá khái quát tình trạng bảo hộ quyền của người biểu diễn, đồng thời kiến nghị
những biện pháp, chính sách nhằm ổn định tình hình và thực thi có hiệu quả quyền
này trong thời gian tới.
5. Bố cục
Nội dung đề tài được sinh viên thực hiện theo thứ tự sau:
- Mục lục.
- Lời nói đầu.
- Phần nội dung:
Chương 1: Khái quát về quyền sở hữu trí tuệ, quyền của người biểu diễn
Chương 2: Tổng quan về bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật
Việt Nam
Chương 3: Thực trạng của bảo hộ quyền của người biểu diễn ở Việt Nam,
phương hướng đổi mới và hoàn thiện
- Danh mục tài liệu tham khảo.
Do những hạn chế về tài liệu tham khảo cũng như trình độ hiểu biết của sinh
viên, bài niên luận này khó tránh khỏi những khuyết điểm nhất định, người viết rất
mong được sự nhận xét và đóng góp của thầy cô giáo để bài niên luận hoàn thiện hơn.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
3
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ,
QUYỀN CỦA NGƯỜI BIỂU DIỄN
1.1. Khái niệm người biểu diễn
Một tác phẩm có thể đến với công chúng bằng nhiều con đường khác nhau,
nhưng thông qua người biểu diễn với sự cảm thụ và thể hiện sáng tạo của mình thì tác
phẩm trở nên sinh động và có sức truyền thụ tới công chúng nhanh nhất. Chính vì
vậy, dù các hình thức giải trí ngày càng đa dạng nhưng số lượng người biểu diễn
không ngừng gia tăng và nền công nghiệp biểu diễn vẫn không ngừng phát triển.
Người biểu diễn là cầu nối giữa tác giả và công chúng, góp phần truyền bá, lưu giữ và
phát triển các tác phẩm có giá trị, do đó pháp luật đã công nhận và bảo hộ các quyền
của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của mình.
Quy mô và tính chất cuộc biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền của người
biểu diễn. Cuộc biểu diễn có thể chỉ đơn giản có một người biểu diễn như nhạc công
độc tấu một bản nhạc, cũng có thể có rất nhiều người biểu diễn cùng tham gia như một
bộ phim, một vở kịch hay một buổi biểu diễn ca nhạc lớn. Để thực hiện một cuộc biểu
diễn lớn như vậy thường cần có sự hợp tác của rất nhiều người nhưng chỉ những người
trực tiếp trình diễn, thể hiện tác phẩm mới được coi là người biểu diễn và về nguyên
tắc họ là chủ sở hữu quyền đầu tiên đối với cuộc biểu diễn.
Những ai được coi là người biểu diễn được quy định rõ tại điều 3 Công ước
quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng (Công
ước Rome): “Người biểu diễn là các diễn viên, ca sỹ, nhạc công, vũ công và các
người khác nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình bày, hoặc biểu diễn khác các tác phẩm
văn học, nghệ thuật”.
1.2. Quyền của người biểu diễn
Khi thỏa mãn các điều kiện luật định thì người biểu diễn được hưởng các
quyền đối với với cuộc biểu diễn của họ. Theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam, quyền của người biểu diễn gồm có quyền nhân thân và quyền tài sản.
Quyền nhân thân là những quyền người biểu diễn không thể chuyển giao và
được bảo hộ vô thời hạn. Theo quy định quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây1:
- Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát
sóng cuộc biểu diễn;
- Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy
1
Khoản 2 Điều 29 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 ( sửa đổi bổ sung năm 2009).
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
4
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
tín của người biểu diễn;
Nếu người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì còn được hưởng các quyền tài
sản là độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền 2:
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình;
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đó được định hình
trên bản ghi âm, ghi hình;
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc
biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng;
- Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông
qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà
công chúng cú thể tiếp cận được.
Người biểu diễn thông qua việc thực hiện hoặc cho phép thực hiện hay chuyển
giao các quyền tài sản để thu các lợi ích kinh tế. Pháp luật quy định tổ chức, cá nhân
muốn sử dụng khai thác các quyền này thì phải xin phép và trả thù lao cho chủ sở hữu
quyền là hoàn toàn hợp lý. Chỉ khi người biểu diễn, nhà đầu tư thu được lợi ích tương
xứng mới có thể khuyến khích họ tiếp tục đầu tư, sáng tạo các sản phẩm trí tuệ nói
chung, cũng như cuộc biểu diễn có giá trị xã hội và nghệ thuật nói riêng.
1.3. Vai trò của việc bảo hộ quyền của người biểu diễn
Tài sản trí tuệ nói chung cũng như tài sản của quyền của người biểu diễn nói
riêng được coi là sức mạnh của sự sáng tạo, có khả năng làm giàu, làm phong phú
thêm cuộc sống của cá nhân và của quốc gia về vật chất, xã hội và văn hóa. Tài sản trí
tuệ có liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội.
Thực tế cho thấy rằng một trong những nhân tố giúp tạo nên nền kinh tế thịnh
vượng đó là sự quan tâm dành cho việc bảo hộ mọi hoạt động sáng tạo của con người.
Đối với Việt Nam, hệ thống luật bảo hộ sở hữu trí tuệ có vai trò vô cùng quan
trọng, góp phần thú đẩy sự tiến bộ của khoa học, kĩ thuật, sự thịnh vượng của văn hóa
và sự phát triển kinh tế. Nó không chỉ đảm bảo cho sự vận hành bình thường của nền
kinh tế thị trường mà còn phát triển sự hợp tác và trao đổi quốc tế trong lĩnh vực khoa
học, kinh tế và văn hóa.
1.3.1. Về xã hội
Quyền của người biểu diễn và việc bảo hộ quyền của người biểu diễn khuyến
khích việc đầu tư cho hoạt động sáng tạo của mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vì sự
phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua cơ chế bảo vệ và dung hòa lợi ích
2
khoản 3 điều 29 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 ( sửa đổi bổ sung năm 2009).
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
5
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
chính đáng của chủ sở hữu sản phẩm trí tuệ với lợi ích của toàn xã hội.
1.3.2. Về kinh tế
Việc bảo hộ quyền của người biểu diễn tạo môi trường pháp lý phù hợp và bình
đẳng, khuyến khích hoạt động cạnh tranh lành mạnh giữa cac chủ thể trong một môi
trường ổn định nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Việc bảo hộ quyền của người
biểu diễn tạo môi trường pháp lý hấp dẫn, khuyến khích, thu hút các hoạt động đầu tư
nước ngoài và, đồng thời là cầu nối tăng cường quan hệ hợp tác, sự tin cậy lẫn nhau
giữa Việt Nam và các nước trên thế giới trên tinh thần hợp tác, thiện chí, bình đẳng và
cùng có lợi.
1.4. Pháp luật thế giới về bảo hộ quyền của người biểu diễn
1.4.1. Công ước Rome về bảo hộ quyền của người biểu diễn
Quyền của người biểu diễn theo công ước Rome được qui định cụ thể như sau 3:
- Mọi nước ký kết đều dành sự đối xử quốc gia cho những người biểu diễn, nếu
bất kỳ một trong các điều kiện sau đây được đáp ứng:
+ Buổi biểu diễn được thực hiện trong một nước thành viên khác;
+ Buổi biểu diễn được định hình vào một bản ghi âm, mà bản ghi âm đó được
bảo hộ theo Điều 5 của Công ước này;
+ Buổi biểu diễn không được định hình vào một bản ghi âm nhưng lại được
phát trong một buổi phát sóng được bảo hộ theo Điều 6 của Công ước này.
- Sự bảo hộ quy định cho người biểu diễn theo Công ước này bao gồm quyền
ngăn cấm4:
+ Phát sóng hoặc truyền phát tới công chúng buổi biểu diễn của người biểu diễn
mà không có thỏa thuận, trừ khi bản thân buổi biểu diễn đã là một chương trình phát
sóng hoặc được thực hiện từ một bản ghi âm;
+ Định hình buổi biểu diễn chưa được định hình của người biểu diễn không có
sự thỏa thuận;
+ Sao chép bản ghi buổi biểu diễn không có sự thỏa thuận;
* Nếu thực hiện việc định hình chính bản ghi âm gốc không có sự thỏa thuận;
* Nếu sự sao chép này thực hiện với mục đích khác với các mục đích đã thỏa
thuận với những người biểu diễn;
* Nếu định hình bản gốc theo các quy định của Điều 15 của Công ước nhưng sự
sao chép lại thực hiện với mục đích khác với mục đích đã ghi trong các quy định đó.
3
Điều 4 công ước Rome về bảo hộ quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát
sóng.
4
Điều 7 công ước Rome về bảo hộ quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát
sóng.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
6
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Nếu việc phát sóng đã được những người biểu diễn đồng ý, thì luật quốc gia
nơi công bố bảo hộ có quyền quy định sự bảo hộ chống tái phát sóng, quy định việc
định hình với mục đích phát sóng và việc sao chép bản ghi âm nhằm mục đích phát
sóng đó.
Các điều khoản và điều kiện khống chế sự sử dụng các bản ghi âm do các tổ
chức phát sóng thực hiện nhằm mục đích phát sóng phải được xác định phù hợp với
luật quốc gia của nước thành viên nơi công bố bảo hộ.
1.4.2. Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm5
Độc lập với quyền kinh tế của người biểu diễn đối với các buổi biểu diễn nghe
trực tiếp hoặc các buổi biểu diễn được định hình trong bản ghi âm, và thậm trí sau khi
chuyển nhượng các quyền kinh tế đó, người biểu diễn có quyền yêu cầu được công
nhận là người biểu diễn của buổi biểu diễn của mình, trừ trường hợp bỏ sót bắt buộc
do cách thức sử dụng buổi biểu diễn gây ra, và quyền phản đối bất kỳ sự bóp méo, cắt
xén hoặc các sửa đổi khác đối với buổi biểu diễn của người biểu diễn mà có thể
phương hại đến thanh danh của họ.
Các quyền dành cho người biểu diễn theo trên sẽ được duy trì sau khi tác giả
chết, ít nhất cho đến hết thời hạn hưởng quyền kinh tế và có thể được thi hành bởi cá
nhân hoặc tổ chức được phép theo luật pháp của bên ký kết nơi có yêu cầu bảo hộ. Tuy
nhiên, luật pháp của các bên ký kết nào, tại thời điểm phê chuẩn hoặc gia nhập Hiệp
ước này không quy định sự bảo hộ tất cả các quyền nêu ở khoản trên sau khi người
biểu diễn chết, thì bên ký kết đó có thể quy định là một số quyền trên sẽ chấm dứt sau
khi người biểu diễn chết.
Các phương thức bồi hoàn dân sự nhằm đảm bảo các quyền được quy định theo
Điều này do pháp luật của bên ký kết nơi có yêu cầu bảo hộ điều chỉnh.
Đối với các buổi biểu diễn của mình, người biểu diễn được độc quyền cho phép 6:
- Phát sóng và truyền đạt tới công chúng buổi biểu diễn chưa được định hình
của mình trừ khi buổi biểu diễn cũng chính là buổi biểu diễn phát sóng.
- Định hình buổi biểu diễn chưa được định hình của mình.
Người biểu diễn được độc quyền cho phép sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp
buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm dưới bất kỳ hình thức
hoặc cách thức nào.
Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cung cấp cho công chúng bản
gốc hoặc bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm thông
qua việc bán hoặc hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu khác.
5
6
Điều 5 Hiệp ước quyền tác giả WIPO 1996.
Điều 6 Hiệp ước quyền tác giả WIPO 1996.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
7
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Không quy định nào trong Hiệp ước ảnh hưởng đến quyền tự do của Các Bên
ký kết trong việc xác định các điều kiện, nếu có, theo đó việc chấm dứt quyền áp dụng
sau khi bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu lần thứ nhất bản gốc hoặc bản sao buổi
biểu diễn đã được định hình với sự cho phép của người biểu diễn 7.
- Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cho thuê thương mại tới
công chúng bản gốc và bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản
ghi âm như được xác định trong luật pháp quốc gia của các bên ký kết, thậm chí sau
khi phân phối chúng bởi hoặc theo sự cho phép của người biểu diễn.
- Bất luận các quy định trên, bên ký kết mà vào ngày 15/4/1998, đã có và tiếp
tục áp dụng chế độ trả tiền thù lao thoả đáng cho người biểu diễn đối với việc cho thuê
bản sao buổi biểu diễn của họ đã được định hình trong bản ghi âm, có thể duy trì chế
độ đó với điều kiện là việc cho thuê thương mại bản ghi âm này không làm nẩy sinh sự
phương hại về vật chất đối với độc quyền sao chép của người biểu diễn 8.
Người biểu diễn sẽ được hưởng quyền độc quyền cho phép cung cấp tới công chúng
các buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm bằng các phương tiện
hữu tuyến hoặc vô tuyến, theo cách thức mà bên ký kết trong xã hội có thể tiếp cận
chúng từ một địa điểm và vào thời gian do cá nhân họ lựa chọn 9.
1.5. Cách thức bảo hộ quyền của người biểu diễn
Cách thức tốt nhất để bảo vệ quyền của người biểu diễn là cá nhân người biểu
diễn phải tự bảo vệ quyền bà lợi ích chính đáng của mình bằng cách tìm hiểu pháp
luật, áp dụng các qui định của pháp luật vào thực tiễn sao cho phù hợp với hoàn cảnh
của mình. Điều này được qui định cụ thể như sau10:
Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền tác
giả, quyền liên quan quy định tại điểm a khoản 1 Điều 198 của Luật Sở hữu trí tuệ là
việc các chủ thể quyền đưa các thông tin quản lý quyền gắn với bản gốc hoặc bản sao
tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng; đưa thông tin quản lý quyền
xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm,
tác giả của tác phẩm, chủ sở hữu quyền, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác
phẩm và mọi số liệu hoặc mã, ký hiệu thể hiện thông tin đó để bảo vệ quyền tác giả,
quyền liên quan. Đồng thời các chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp công nghệ
để bảo vệ các thông tin quản lý quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm, khai
thác bất hợp pháp quyền sở hữu của mình theo quy định của pháp luật.
7
Điều 8 Hiệp ước quyền tác giả WIPO 1996.
Điều 9 Hiệp ước quyền tác giả WIPO 1996.
9
Điều 10 Hiệp ước quyền tác giả WIPO 1996.
10
Điều 43 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan.
8
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
8
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Các chủ thể quyền có thể áp dụng các biện pháp khác để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình11. Cụ thể như sau:
- Áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ;
- Yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải
chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính không khai, bồi thường thiệt hại;
- Khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu xử
lý các hành vi xâm phạm quyền của mình. Nội dung đơn yêu cầu gồm có:
- Ngày, tháng, năm làm đơn yêu cầu;
- Tên, địa chỉ của người yêu cầu xử lý xâm phạm; họ tên người đại diện, nếu
yêu cầu được thực hiện thông qua người đại diện;
- Tên cơ quan nhận đơn yêu cầu;
- Tên, địa chỉ của người xâm phạm; tên, địa chỉ của người bị nghi ngờ là người
xâm phạm trong trường hợp yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá
xuất khẩu, nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm;
- Tên, địa chỉ của tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích liên quan (nếu có);
- Tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);
- Thông tin tóm tắt về quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm: loại quyền, căn cứ
phát sinh quyền, tóm tắt về đối tượng quyền;
- Thông tin tóm tắt về hành vi xâm phạm: ngày, tháng, năm và nơi xảy ra xâm
phạm, mô tả vắn tắt về sản phẩm xâm phạm, hành vi xâm phạm và các thông tin khác
(nếu có).
Đối với đơn đề nghị tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm thì cần có thêm thông tin về cách thức xuất khẩu,
nhập khẩu, nước xuất khẩu, cách thức đóng gói, người xuất khẩu, nhập khẩu hợp pháp,
đặc điểm phân biệt hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hợp pháp với hàng hoá xâm phạm;
nguy cơ xảy ra các tình huống cần áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử
phạt và các thông tin khác (nếu có);
- Nội dung yêu cầu áp dụng biện pháp xử lý xâm phạm;
- Danh mục các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn;
- Chữ ký của người làm đơn và đóng dấu (nếu có).
Đơn yêu cầu xử lý xâm phạm phải có các tài liệu, chứng cứ kèm theo nhằm
chứng minh yêu cầu đó. Đối với quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền
11
Khoản 1 Điều 198 Luật sở hữu trí tuệ nam 2005 ( sửa đổi bổ sung 2009).
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
9
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng không đăng
ký: bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, bản định hình cuộc biểu diễn, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã
hoá, kèm theo các tài liệu khác chứng minh việc tạo ra, công bố, phổ biến các
đối tượng nói trên và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).
CHƯƠNG II
TỔNG QUAN VỀ BẢO HỘ QUYỀN CỦA NGƯỜI BIỂU DIỄN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
10
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
2.1. Bảo hộ quyền của người biểu diễn
2.1.1. Khái niệm người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Chính là người biểu diễn: các ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người
khác trình bày các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
2.1.2. Nội dung quyền của người biểu diễn
* Quyền nhân thân:
- Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, phát
sóng cuộc biểu diễn. Bởi tên tuổi của một diễn viên gắn liền với hình tượng, phong
cách biễu diễn của người đó. Về một góc độ nào đó có thể coi như là “ thương hiệu”
của họ. Đôi khi chỉ cần nghe tên một nghệ sĩ nào đó, mà chưa biết nghệ sĩ đó sẽ thể
hiện, trình diễn tác phẩm nào, thì đã tạo nên một sự thu hút đối với công chúng rồi.
- Bảo vệ toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác cắt xén, sữa
chữa xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của
người biểu diễn. Thực tế cho thấy hiện nay quyền này bị vi phạm khá nhiều. Ví dụ
như việc bắt chước phong cách trình diễn, việc thổi phồng, bóp méo, cường điệu một
số thói quen của một người biễu diễn… Tuy nhiên, pháp luật chỉ xem xét vấn đề
trong trường hợp việc xâm phạm nói trên gây phương hại đến danh dự, nghề nghiệp
của người biểu diễn.
Đây là hai quyền nhân thân quan trọng của người biểu diễn, đối tượng bảo vệ
của nó là những yếu tố thuộc về nhân thân: danh dự, nhân phẩm của người biểu diễn.
Các quyền này không thể chuyển giao cho người khác.
* Quyền tài sản:
Bao gồm quyền cho phép người khác thực hiện các quyền sau đây;
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình;
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình
trên bản ghi âm;
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc
biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng;
- Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông
qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào mà
công chúng có thể tiếp cận được.
Các quyền kể tên thường được chuyển giao cho các chủ thể khác thực hiện và
nó có quan hệ với các đối tượng khác của quyền lien quan, như nhà sản xuất ghi âm,
ghi hình hay tổ chức phát sóng.
2.1.3. Điều kiện được bảo hộ
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
11
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Các công ước quốc tế và pháp luật các quốc gia đã công nhận và quy định về
quyền của người biểu diễn. Tuy nhiên, không phải bất kỳ người tham gia cuộc biểu
diễn nào cũng đều là đối tượng được bảo hộ quyền liên quan. Theo quan điểm của
luật sở hữu trí tuệ, chỉ những người tham gia vào cuộc biểu diễn các tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học mới được hưởng các quyền của người biểu diễn. Để xác
định thế nào là một tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học lại cần đối chiếu với
khái niệm tác phẩm theo quy định của pháp luật từng nước. Theo luật Việt Nam, tác
phẩm là "sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện
bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào" (khoản 7 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ) . Do
đó, mọi thành quả của quá trình sáng tạo trong văn học, nghệ thuật hay khoa học đã
được định hình đều có thể trở thành đối tượng để biểu diễn và người biểu diễn các
thành quả đó sẽ được hưởng các quyền của người biểu diễn theo quy định pháp luật.
Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây Cuộc
biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây12:
- Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước
ngoài;
- Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
- Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ theo
quy định tại Điều 30 của Luật này;
- Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã phát
sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;
- Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên.
Với các cuộc biểu diễn mà người biểu diễn là công dân Việt Nam dù được thực
hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài đều được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Ngoài ra,
cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam cũng được bảo hộ theo
pháp luật Việt Nam và một số trường cụ thể khác theo quy định của pháp luật.
2.1.4. Giới hạn quyền
Để đảm bảo rằng chủ sở hữu không lạm dụng đặc quyền dành cho người biểu
diễn, hoặc hạn chế một cách bất hợp lí. Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam qui định một số
hạn chế và ngoại lệ nhằm đảm bảo cân bằng quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu và
người sử dụng.
Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép, không phải trả
tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:
12
Khoản 1 điều 17 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ( sửa đổi bổ sung 2009).
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
12
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học của cá nhân;
- Tự sao chép một bản nhằm mục đích giảng dạy, trừ trường hợp cuộc biểu
diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã được công bố để giảng dạy;
- Trích dẫn hợp lý nhằm mục đích cung cấp thông tin;
- Tổ chức phát sóng tự làm bản sao tạm thời để phát sóng khi được hưởng
quyền phát sóng.
Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền này không được làm ảnh hưởng đến việc khai
thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và
không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi
hình, tổ chức phát sóng.
Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền liên quan trong các trường hợp sau đây không
phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao theo thoả thuận cho tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng13:
- Sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm
mục đích thương mại để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc
thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
- Sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố trong hoạt động kinh doanh,
thương mại.
Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền quy định tại khoản 1 Điều này không được
làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,
chương trình phát sóng và không gây phương hại đến quyền của người biểu diễn, nhà
sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
2.1.5. Thời hạn bảo hộ quyền
Quyền của người biểu diễn được bảo hộ 50 năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc
biểu diễn được định hình. Thời hạn bảo hộ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12
của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền của người biểu diễn.
2.2. Đăng kí bảo hộ quyền của người biểu diễn
2.2.1. Chủ thể nộp đơn14
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan theo quy định tại
Điều 50 của Luật Sở hữu trí tuệ có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, cá nhân
khác nộp đơn đăng ký quyền của người biểu diễn tại Cục Bản quyền tác giả Văn học Nghệ thuật hoặc có thể nộp đơn tại Sở Văn hoá - Thông tin nơi người biểu diễn cư trú
hoặc có trụ sở.
13
Điều 33 luật sở hữu trí tuệ năm 2005 ( sửa đổi bổ sung 2009).
Điều 37, nghị định 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật dân sự,
Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan
14
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
13
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Cá nhân, pháp nhân nước ngoài có tác phẩm, chương trình biểu diễn, bản ghi
âm, ghi hình, chương trình phát sóng được bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan quy
định tại khoản 2 Điều 13 và Điều 17 của Luật Sở hữu trí tuệ trực tiếp hoặc ủy quyền
cho tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền tác giả, quyền liên quan nộp đơn đăng ký quyền tác
giả, quyền liên quan tại Cục Bản quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật hoặc tại Sở Văn
hoá - Thông tin nơi người biểu diễn cư trú hoặc có trụ sở.
2.2.2. Thẩm quyền cấp
Cục Bản quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật có thẩm quyền cấp, cấp lại,
đổi, huỷ bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền của người biểu diễn quy định
tại khoản 1, 2 Điều 51 của Luật Sở hữu trí tuệ.
- Người biểu diễn có nhu cầu xin cấp lại hoặc đổi Giấy chứng nhận đăng ký
quyền của người biểu diễn thì nộp đơn nêu rõ lý do và hồ sơ theo quy định tại Điều 50
của Luật Sở hữu trí tuệ;
- Cục Bản quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký
quyền người biểu diễn trong trường hợp Giấy chứng nhận đăng ký quyền người biểu
diễn bị mất; đổi Giấy chứng nhận đăng ký người biểu diễn trong trường hợp bị rách
nát, hư hỏng
- Cục Bản quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật huỷ bỏ Giấy chứng nhận đăng ký
quyền người biểu diễn trong trường hợp xác định người đã được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký quyền người biểu diễn không phải là tác giả, chủ sở hữu và những trường hợp
tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng đã đăng ký
không thuộc đối tượng bảo hộ theo quy định của pháp luật.
Sở Văn hoá - Thông tin sau khi tiếp nhận đơn đăng ký, cấp lại, đổi Giấy chứng
nhận đăng ký quyền người biểu diễn theo quy định pháp luật, chuyển Cục Bản quyền
tác giả Văn học - Nghệ thuật xem xét, giải quyết theo thẩm quyền.
Sở Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm chuyển cho tổ chức, cá nhân nộp đơn
ngay sau khi nhận được kết quả xem xét, giải quyết của Cục Bản quyền tác giả Văn
học - Nghệ thuật.
Tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp phí, lệ phí khi tiến hành các thủ tục liên quan
đến quyền người biểu diễn cho Cục Bản quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật theo quy
định pháp luật.
Bộ Văn hoá - Thông tin ban hành các mẫu đơn đăng ký, Giấy chứng nhận đăng
ký quyền người biểu diễn.
2.2.3. Hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký quyền của người biểu diễn
Các loại Giấy Chứng nhận bản quyền tác giả do Hãng Bảo hộ quyền tác giả
Việt Nam, Cơ quan Bảo hộ quyền tác giả Việt Nam, Cục Bản quyền tác giả, Cục Bản
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
14
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
quyền tác giả Văn học - Nghệ thuật cấp trước ngày Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí
tuệ có hiệu lực vẫn tiếp tục được duy trì hiệu lực.
2.2.4. Thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền của người biểu diễn
Theo luật định, Cục bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật cấp Giấy chứng
nhận đăng kí bảo hộ quyền của người biểu diễn sau 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp
đơn hợp lệ. Trong trường hợp từ chối thì Cục bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật
phải thông báo bằng văn bản cho nhười nộp đơn.
2.3. Chuyển nhượng quyền của người biểu diễn
Là việc người biểu diễn chuyển giao quyền sở hữu đối với các quyền dưới đây
cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật có liên
quan. Bao gồm:
- Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình.
- Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông
qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà
công chúng có thể tiếp cận được.
- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình
trên bản ghi âm, ghi hình.
- Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của
mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc
biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền của người biểu diễn:
- Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng.
- Căn cứ chuyển nhượng.
- Giá, phương thức thanh toán.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển nhượng và bên được chuyển nhượng.
- Căn cứ chuyển nhượng.
- Giá, phương thức thanh toán.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên.
Đại diện đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền của người biểu diễn/
Với tư cách là Tổ chức Tư vấn và Dịch vụ Quyền tác giả, Quyền liên quan,
Trường Luật được phép đại diện Bên chuyển nhượng hoặc Bên được chuyển nhượng
đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền của người biểu diễn tại Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, cụ thể như sau:
- Tư vấn và soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền của người biểu diễn.
- Đại diện đăng ký hợp đồng chuyển nhượng quyền của người biểu diễn.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
15
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
- Đại diện trực tiếp trao đổi với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các vấn đề
có liên quan.
- Và đại diện thực hiện tất cả các công việc khác có liên quan.
2.4. Các hành vi xâm phạm quyền của người biểu diễn
Với Luật Sở hữu trí tuệ, thì các hành vi xâm phạm quyền của người biểu diễn
được xác định tương đối cụ thể. Các hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân và quyền
tài sản của người biểu diễn như sau15:
- Chiếm đoạt quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ
chức phát sóng.
- Mạo danh người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát
sóng.
- Công bố, sản xuất và phân phối cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
- Sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào đối với cuộc biểu diễn
gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.
- Sao chép, trích ghép đối với cuộc biểu diễn đã được định hình, bản ghi âm,
ghi hình, chương trình phát sóng mà không được phép của người biểu diễn, nhà sản
xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng.
- Dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không
được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
- Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền
liên quan thực hiện để bảo vệ quyền liên quan của mình.
- Phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn,
bản sao cuộc biểu diễn đã được định hình hoặc bản ghi âm, ghi hình khi biết hoặc có
cơ sở để biết thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử đã bị dỡ bỏ hoặc đã bị
thay đổi mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan.
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho
thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải mã trái phép một tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hoá.
- Cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối một tín hiệu vệ tinh mang chương trình được
mã hoá khi tín hiệu đã được giải mã mà không được phép của người phân phối hợp
pháp.
2.5. Các biện pháp bảo vệ quyền của người biểu diễn
15
Điều 35 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 ( sửa đổi bổ sung 2009).
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
16
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Với các quyền đã được quy định cụ thể ở trên thì bất kì tổ chức, cá nhân nào vi
phạm đều phải thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền nếu không thì sẽ bị xử lí theo qui
định của pháp luật.
Phù hợp với cơ chế của pháp luật Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ đã đưa ra các
qui định đặc thù nhằm xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Tùy theo tính
chất và mức độ, hành vi xâm phạm có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính
hiawjc hình sự cụ thể như sau:
2.5.1. Về biện pháp dân sự
Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm theo yêu cầu
của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm
phạm gây ra, kể cả hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc
biện pháp hình sự.
Đó là các quy định:
- Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
- Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
- Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Buộc bồi thường thiệt hại;
- Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục
đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng
chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều
kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ.
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết
định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:
- Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã
thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị
giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;
- Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn
được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối
tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;
- Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật
chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì mức bồi thường thiệt
hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá
năm trăm triệu đồng.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
17
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết
định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ
thuộc vào mức độ thiệt hại.
Ngoài ra chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Toà án buộc tổ chức, cá
nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê
luật sư.
Khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu
cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại
không thể khắc phục được cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ; Hàng hoá bị nghi ngờ
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời.
Các biện pháp khẩn cấp tạm thời bao gồm: Thu giữ; Kê biên; Niêm phong; cấm thay
đổi hiện trạng; cấm di chuyển; Cấm chuyển dịch quyền sở hữu.
2.5.2. Về biện pháp hành chính
Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý các hành vi sau đây: Thực hiện
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã
hội; Không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mặc dù đã được chủ thể
quyền sở hữu trí tuệ thông báo bằng văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó; Sản xuất,
nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định tại
Điều 213 của Luật này hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; Sản xuất,
nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán vật mang nhãn hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc
tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao
cho người khác thực hiện hành vi này.
Luật Sở hữu trí tuệ quy định các hình thức xử phạt hành chính gồm cảnh cáo và
phạt tiền.
Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: Tịch
thu hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử
dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ; Đình chỉ có
thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy ra vi phạm.
Ngoài các hình thức xử phạt quy định nêu trên, tổ chức, cá nhân xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc phục hậu quả
sau đây:
- Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích
thương mại đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
18
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá giả mạo về sở
hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ;
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hoá quá cảnh xâm phạm
quyền sở hữu trí tuệ hoặc buộc tái xuất đối với hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ,
phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh
doanh hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên
hàng hoá.
Mức tiền phạt được ấn định ít nhất bằng giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện
được và nhiều nhất không vượt quá năm lần giá trị hàng hoá vi phạm đã phát hiện
được.
2.5.3. Về biện pháp hình sự
Biện pháp hình sự được áp dụng để xủ lý các hành vi xâm phạm trong trường
hợp các hành vi đó có yếu tố cấu thành tội phạm theo qui định của Bộ luật hình sự với
mức phạt tiền tối đa là 200 triệu đồng và mức phạt tù cao nhất là 3 năm.
Các hành vi sau đây có thể được xem xét xử lý bằng biện pháp hình sự:
- Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo
chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
- Mạo danh tác giả trên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí,
chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
- Sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học,
báo chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
- Công bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo
chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;
Để hướng dẫn chi tiết vấn đề này Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp đã ra thông tư liên tịch số 01 hướng dẫn về truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Tùy theo những qui định của thông tư này cho thấy mức thiệt hại của chủ thể
quyền tác giả có thể lên đến 450 triệu đồng trong khi đó mức phạt tiền tối đa chỉ có
200 triệu đồng.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
19
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN CỦA NGƯỜI BIỂU DIỄN Ở VIỆT NAM,
PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN
3.1. Thực trạng về vi phạm quyền của người biểu diễn ở Việt Nam
Mặc dù trong nước đã có Luật Sở hữu trí tuệ ban hành khá lâu và ở cấp độ quốc
tế, Việt Nam cũng đã cam kết bảo vệ các quyền của người biểu diễn bằng việc tham
gia vào Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Công ước
Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng;
Công uiwsc Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp và mới đây nhất là Chỉ thị của Thủ
tướng chính phủ số 36/2008/CT-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2008 về việc tăng cường
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
20
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
trong công tác quản lý và thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan. Tuy nhiên,
tình trạng vi phạm quy định pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn vẫn còn diễn
ra, nhất là biểu điền ca múa nhạc. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng, trong đó
nguyên nhân chủ yếu là nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
3.1.1. Âm nhạc, băng nhạc, đĩa CD
Chẳng hạn, tại Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam (VCPMC),
hiện có 65 đoàn ca múa nhạc chuyên nghiệp đã trả tiền đối với tác phẩm đặt hàng công
bố lần đầu, nhưng chưa thanh toán sử dụng lại tác phẩm. Năm 2009 mới có 11/65 đoàn
ca múa nhạc chuyên nghiệp phía Bắc ký hợp đồng sử dụng tác phẩm âm nhạc ( trong
tổng số 125 đoàn nghệ thuật thuộc Trung ương, địa phương và quân đội). Nhiều đơn
vị, tổ chức biểu diễn, chương trình biểu diễn không thực hiện nghĩa vụ trả tiền sử dụng
tác phẩm âm nhạc. Riêng năm 2008, Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội đã cấp
phép 493 cuộc biểu diễn, nhưng không có tổ chức biểu diễn nào trả tiền sử dụng tác
phẩm âm nhạc.
Tuy vậy, tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả, quyền liên quan (Cục
Bản quyền tác giả) trong 6 năm qua, số đơn thư khiếu nại, tố cáo về quyền tác giả,
quyền của người biểu diễn mà Cục nhận được không có nhiều, nhất là quyền cửa
người biểu diễn. Nhiều ca khúc, nhiều bản ghi âm, ghi hình bị phát tán tràn lan lên
mạng Internet, mạng điện thoại di động,... không ai quản lý. Nhiều bài hát không nằm
trong danh mục được phép phổ biến. Nhiều năm nay, quyền của người biểu diễn gần
như không được đề cập.
Pháp luật quy định và bảo vệ quyền của người biểu diễn không xung đột hoặc
ảnh hưởng đến quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình. Thực chất, lâu nay người
sử dụng thứ cấp (những người khai thác bản ghi như siêu thị, máy bay, tàu thủy, nhà
hàng, khách sạn, mạng intetrnet,…) mới chỉ trả một phần mà chưa trả toàn bộ, cụ thể
họ mới trả phí sử dụng tác phẩm cho tác giả (qua Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả),
cho nhà sản xuất (qua Hiệp hội Công nghiệp ghi âm) mà chưa trả cho người biểu diễn.
Do đó, mọi người cần biết rằng phải trả chi phí cho người biểu diễn khi sử dụng, khai
thác bản ghi âm, ghi hình nhằm mục đích kinh doanh. Quy định này là để bảo vệ
quyền lợi của những người biểu diễn có lao động, sáng tạo chứ không triệt tiêu hoặc
xung đột với nhà sản xuất.
Tuy nhiên, lâu nay nhiều nhà sản xuất luôn nhằm rằng mình là chủ sở hữu và
được toàn quyền kinh doanh, hưởng trọn các quyền, nhưng luật quy định rõ nhà sản
xuất chỉ được hưởng quyền đối với bản ghi còn quyền biểu diễn phải thuộc về ca sĩ,
khi khai thác quyền tài sản thì phải trả thù lao cho người biểu diễn. Biểu diễn là hoạt
động diễn xuất, do đó người biểu diễn được pháp luật bảo vệ là rất rộng, gồm nhiều
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
21
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
đối tượng: đóng vai, hát, ngâm, trình bày, thể hiện… Người biểu diễn có thể là diễn
viên (kịch, điện ảnh,…), ca sĩ, nhạc công, vũ công, rất rộng: kịch nói, hát xẩm, hát
chèo, hát tuồng, hát bội, cải lương, thính phòng, nhạc nhẹ, múa rối, kịch nói, kịch câm,
kịch hình thể, xiếc, nghi lễ, trò chơi…Luật không quy định người đó có phải người
biểu diễn chuyên nghiệp hay không, cứ có hoạt động biểu diễn thì sẽ được pháp luật
bảo hộ. Pháp luật bảo vệ quyền biểu diễn vì họ có sáng tạo, có ghi dấu ấn cá nhân và
họ trình bày, truyền đạt tác phẩm tới người hưởng thụ. Khán giả không thể đọc một
bản nhạc trên giấy để thấy nó hay mà phải thông qua sự thể hiện của ca sĩ (và nhạc
công), thổi cảm xúc và biểu diễn trên thiết bị âm nhạc. Do đó, quyền của người biểu
diễn phải được bảo hộ.
3.1.2. Nhà sản xuất, tác giả
Hiện nay lĩnh vực tác giả có Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc, Hiệp hội
Ghi âm bảo vệ cho nhà sản xuất thực hiện việc thu tiền. Chỉ có ca sĩ là không biết nhờ
ai bảo vệ quyền lợi. Cần có Hiệp hội Bản quyền để điều phối quyền này. Hiện ban vận
động Hiệp hội Bản quyền đã được thành lập và hiện hồ sơ đang nằm tại Bộ Nội vụ.
Nếu được chấp nhận thì sẽ được thành lập chính thức. Trong khi chờ đợi việc thành
lập Hiệp hội Bản quyền, người biểu diễn hoàn toàn có thể đòi tiền biểu diễn khi biết cá
nhân, tổ chức nào sử dụng tác phẩm của mình nhằm mục đích thương mại. Khi có sự
xâm phạm, người biểu diễn có thể kiện dân sự (đòi bồi thường thiệt hại, xin lỗi công
khai, trả tiền…).
Mặc dù vậy nhưng không phải người biểu diễn nào cũng có thể bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Vừa qua, ca sĩ Mỹ Tâm đã là người đầu tiên thực hiện
quyền người biểu diễn. Ca sĩ Mỹ Tâm đã có công văn đến Hiệp hội Công nghiệp ghi
âm và một số dịch vụ viễn thông, mạng điện thoại di động yêu cầu thanh toán thù lao
quyền liên quan các bài hát của ca sĩ này mà các mạng trên đã sử dụng. Có 10 trên 11
đơn vị chấp nhận trả tiền cho những ca khúc của cô được sử dụng làm nhạc chuông
chờ.
Về tác phẩm sân khấu thì có hiện tượng các vở diễn đã công bố thì bị các đoàn
khác dàn dựng lại và biểu diễn thu tiền, nhưng không hề trả thù lao cho tác giả. Hay có
những vở diễn đã được cải biên, chuyển thể nhưng người cải biên, đôi khi là đạo diễn
đã quên đi nghĩa vụ đối với tác giả tác phẩm gốc. Cũng có một số ít đoàn nghệ thuật
nghiêm túc và tôn trọng quyền tác giả.
Không khắc phục được các vấn đề nói trên thì vấn đề bảo hộ quyền của người
biểu diễn sẽ còn gặp nhiều khó khăn.
3.2. Nguyên nhân của thực trạng vi phạm quyền của người biểu diễn
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
22
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng vi phạm quyền của người
biểu diễn:
Thứ nhất, trước hết là do nhận thức về pháp luật của nhiều cá nhân, tổ chức còn
nhiều hạn chế, chưa chấp hành nghiêm túc. Họ đặt lợi nhuận và mục đích của mình lên
trên hết, không ít trường hợp cả người vi phạm và người bị vi phạm đều thiếu hiểu biết
về pháp luật. Xã hội chưa hình thành được tập quán về tôn trọng bản quyền.
Thứ hai, phần lớn các chủ sở hữu bản quyền chưa thật sự chú ý đến việc bảo vệ
quyền lợi của mình, chưa có ý thức cao trong việc bảo hộ bản quyền, chưa có sự đấu
tranh triệt để cho quyền lợi chính đáng củ mình. Nạn,vi phạm quyền của người biểu
diễn càng nhiều chính bởi tâm lí e ngại chuyện kiện tụng của người Việt Nam. Họ sợ
đề cập đến tiền bạc, sợ rắc rối, phiền phức khi đưa nhau ra tòa.
Thứ ba, thiếu nhân lực có trình độ cao về bảo hộ quyền của người biểu diễn, nội
dung của luật chỉ dừng lại ở mức chung chung.
Thứ tư, cơ sở vật chất, trang thiết bị thực thi cho các cơ quan thực thi pháp luật
còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn.
Thứ năm, hiện nay Việt Nam chưa có Tòa án, cơ quan thực thi chuyên trách về
bản quyền, chưa có được các thẩm phán, công chức thực thi, xử lí chuyên trách các tội
phạm, hành vi xâm phạm quyền của người biểu diễn. Nước ta có tới 6 loại cơ quan
gồm: Uỷ ban nhân dân các cấp, Thanh tra Kho bạc và Công nghệ, Thanh tra Văn hóa,
Cảnh sát kinh tế, Quản lí thị trường, Hải quan cùng có thẩm quyền xử phạt vi phạm.
theo thong lệ ở các nước trên thế giới thì tòa án đóng vai trò rất quan trọng nhưng ở
Việt Nam thì ngược lại, vai trò của tòa án rất mờ nhạt so với các cơ quan hành chính.
Mỗi năm có rất nhiều vụ vi phạm quyền của người biểu diễn được xử lý bởi cơ quan
hành chính, nhưng số vụ đưa ra xét xử tại tòa án lại không nhiều. Cho nên các thẩm
phán có rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực xét xử về xâm phạm quyền của người biểu
diễn.
Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác nữa nhưng trên đây là những nguyên
nhân chủ yếu nhất.
3.3. Đánh giá thực trạng về việc bảo hộ quyền của người biểu diễn hiện nay
3.3.1. Về mặt tích cực
Đã giải quyết nhiều vụ tranh chấp liên quan đến quyền của người biểu diễn,
đem lại lợi ích tinh thần, vật chất cho người biểu diễn.
Bước đầu đặt cơ sở cho việc xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật về quyền của
người biểu diễn.
Nhiều chủ thể quyền đã biết áp dụng các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
23
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Bộ luật hình sự và Luật Sở hữu trí tuệ đã được sửa đổi, bổ sung đã nâng cao mứ
xủ phạt hành chính và hình sự, đủ sức răng đe và giáo dục các hành vi vi phạm.
Đội ngũ cán bộ công chức Cục bản quyền tác giả đã được nâng cao về chất
lượng, được rèn luyệ trong môi trường quản lý chịu sức ép từ các chuẩn mực pháp
luật và hội nhập nên đã trưởng thành nhanh chóng, đủ khả năng xử lý những trường
hợp phức tạp trong hội nhập.
3.3.2. Về mặt tiêu cực
Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề thực thi quyền của người biểu diễn
vẫn còn bộc lộ một số hạn chế:
Hệ thống thực thi và việc thi hành còn nhiều vấn đề bức xúc, chưa được cải
thiện. Các hành vi xâm hại diễn ra tinh vi hơn, khí kiểm sóat hơn.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ
quyền của người biểu diễn. Việc xử lí còn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Các trường
hợp xâm phạm quyền của người biểu diễn ngày càng gia tăng nhưng hoạt đông thanh
tra, xử lí của các ngành chưa được thường xuyên, liên tục và khi phát hiện thì xử lí
thiếu triệt để, thường chỉ bị xử lí bằng biện pháp hành chính hoặc dân sự. Điều này cho
thấy công tác đấu tranh phòng chống tội xâm phạm quyền của người biểu diễn còn
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ người biểu diễn một cách hiệu quả
và triệt để trước các hành vi xâm phạm ngày một gia tăng và phức tạp.
Sự phối hợp giữa các cơ quan chưa đồng bộ, thiếu kinh nghiệm và chưa đủ
mạnh mẽ về chuyên môn cũng như các phương tiện cần thiết để có khả năng xử lý các
vi phạm một cách hữu hiệu. Vai trò của các cơ quan thực thi pháp luật chưa được phát
huy một cách có hiệu quả.
3.4. Giải pháp đổi mới và hoàn thiện
3.4.1. Một số giải pháp đề xuất
Để tăng cường quản lý và thực thi các quy định pháp luật về hoạt động biểu
diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp nói riêng và thực thi nghiêm túc
các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan nói chung trong
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đồng thời thực hiện các cam kết sau khi Việt Nam gia
nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo chương trình hành động của Bộ
VHTTDL thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị
quyết số 16/2007/NQ-CP về một số chủ trương chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh, theo ông Long, cần tổ chức, triển khai thực hiện tốt các giải pháp sau đây:
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
24
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ
Bảo hộ quyền của người biểu diễn theo pháp luật Việt Nam
Một là, cần phải phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung Quy chế hoạt động biểu
diễn và tổ chức hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp kèm theo Quyết định số
47/2004/QĐ-BVHTT; và văn bản dưới luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả, quyền liên
quan cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt là những quy định cụ thể liên quan nghĩa
vụ pháp lý của tổ chức, cá nhân hoạt động biểu diễn và tổ chức biểu diễn nghệ thuật
chuyên nghiệp khi sử dụng tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, đế xây dựng, hoặc dàn
dựng các chương trình biểu diễn nghệ thuật.
Hai là, cần tổ chức Hội nghị tập huấn toàn quốc hoặc theo khu vực các quy
định pháp luật về hoạt động biểu diễn và tổ chức hoạt động nghệ thuật biểu diễn
chuyên nghiệp nói riêng; và tiếp tục tổ chức tập huấn các quy định pháp luật Sở hữu trí
tuệ về quyền tác giả, quyền liên quan cho các đối tượng quản lý và thực thi ở Trung
ương và địa phương.
Ba là, các tổ chức, cá nhân hoạt động biểu diễn và tổ chức hoạt động nghệ thuật
biểu diễn chuyên nghiệp cần đề cao trách nhiệm của mình đối với việc thực hiện nghĩa
vụ pháp lý của mình trước pháp luật khi khai thác sử dụng tác phẩm âm nhạc, cuộc
biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan Thanh tra, Nghệ thuật biểu
diễn, Bản quyền tác giả trong công tác hướng dẫn, kiểm tra các hoạt động nghệ thuật
biểu diễn và tổ chức hoạt động nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp theo quy định của
pháp luật, trong đó có việc kiểm tra thực thi các quy định hiện hành về quyền tác giả,
quyền liên quan.
Năm là, Tòa án nước ta cần chuẩn bị tốt về đội ngũ thẩm phán được đào tạo
chuyên về sở hữu trí tuệ. Củng cố và phát triển hệ thống hỗ trợ như đầu tư cơ sở vật
chất, kỹ thuật hiện đại để các cơ quan thực thi có thể tăng cường hoạt động thanh tra,
kiểm tra và xử lý nghiêm minh kịp thời đối với các vi phạm. cần triển khai nghiên cứu
các vấn đề nảy sinh phức tạp trong quá trình xét sử các tranh chấp về sở hữu trí tuệ
như định giá tài sản trí tuệ, xác định một cách chính xác các thiệt hại do xâm phạm
quyền gây ra.
Sáu là, khi nước ta gia nhập tổ chức WTO, chúng ta sẽ đối mặt với không ít các
quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Vì vậy chúng ta cần điểu chỉnh cách xử lý sao cho
phù hợp với luật của tổ chức thế giới và pháp luật trong nước. Lâu nay, chúng ta chỉ
quen với sử dụng luật của “nước mình” nên việc áp dụng chính xác luật, việc dẫn
chiếu pháp luật, sử dụng thành thạo xung đột pháp luật là rất quan trọng.
Bảy là, việc gia nhập WTO cũng kéo theo làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam,
số lượng đơn đăng kí quốc tế các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ của các tập đoàn,
công ty lớn muốn tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam sẽ gia tăng nhanh chóng
GVHD: Nguyễn Phan Khôi
25
SVTH: Đinh Hoàng Sỹ