Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tìm hiểu pháp luật thương mại về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.16 KB, 19 trang )

Luật Thương mại Việt Nam

A. LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương
mại, một loại mua bán hàng hóa trong nên kinh tế thị trường. Bởi vậy các quy định của
pháp luật trong hoạt động mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch là một bộ phận của
pháp luật thương mại. Hiện nay hoạt động mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng
hóa ở nước ta được pháp luật thương mại điều chỉnh tại Mục 3 Chương II của luật Thương
mại 2005 mà chưa có luật riêng như các nước khác trên thế giới. Có thể nhận thấy việc đặt
ra các quy định cơ bản nhất về mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa tại
chương II về mua bán hàng hóa của Luật thương mại 2005 đã thừa nhận đây là một hoạt
động mua bán hàng hóa trên thị trường hàng hóa , tạo sư hoàn chỉnh, thống nhất của hoạt
động mua bán hàng hóa trong thực tiễn thương mại. Bên cạnh những quy định trên của
Luật thương mại 2005, Chính phủ còn ban hành nghị định 158/2006/NĐ-CP quy định chi
tiết luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Sau đây
em xin được tìm hiểu đề tài: “ Tìm hiểu pháp luật thương mại về mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa” để làm rõ những quy định trên của pháp luật về hoạt động
thương mại này.
B. NỘI DUNG
I. Nội dung cơ bản của mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa theo quy
định của pháp luật VIệt Nam
1. Khái nệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Để tìm hiểu bản chất, nguồn gốc của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
chúng ta phải tìm hiểu về mua bán hàng hóa giao sau, một hoạt động thương mại xuất hiện
từ lâu và được xem là nguồn gốc của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Khái niệm mua bán hàng hóa giao sau được hình thành và phát triển từ hoạt động mua bán
hàng hóa nông sản của các nước có nền nông nghiệp phát triển. Mua bán hàng hóa giao
sau bao gồm các hình thức giao dịch khác nhau như giao dịch triển hạn, giao dịch kỳ hạn,
giao dịch kỳ hạn tự chọn. Mỗi loại giao dịch có những ưu thế riêng và toàn bộ các giao
dịch này kết hợp với nhau tạo thành một công cụ thúc đẩy có hiệu quả quá trình sản xuất,
lưu thông của nền kinh tế. Có thể hiểu mua bán hàng hóa giao sau là việc giao dịch, ký kết



1


Luật Thương mại Việt Nam
các hợp đồng về hàng hóa mà việc giao hàng và nhận tiền được diễn ra vào thời gian ấn
định trong tương lai. Thị trường hàng hóa giao sau bao gồm các hình thức giao dịch khác
nhau như thị trường triển hạn, thị trường kỳ hạn và thị trường tự chọn. Thị trường kỳ hạn
hàng hóa là sự phát triển ở trình độ cao của thị trường triển hạn. Sự phát triển đó thể hiện
ở chỗ thị trường kỳ hạn là một thị trường có tổ chức chặt chẽ. Các giao dịch hợp đồng
trong thị trường kỳ hạn chỉ được thực hiện tại một địa điểm giao dịch duy nhất là thị
trường hàng hóa kỳ hạn. Hình thức giao dịch trong thị trường kỳ hạn thông qua sở giao
dịch này được gọi là hình thức mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Khoản 1 Điều 63 Luật Thương mại 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch
hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán
một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo
những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hành hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao
kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểmtrong tương lai”.
Theo định nghĩa trên của Luật Thương mại 2005 thì mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa có những đặc điểm sau:
- Chủ thể của hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa gồm các thương
nhân là nhà giao dịch, nhà môi giới và khách hàng. Nhà giao dịch là những thành viên
tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa.
- Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại. Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm sinh lợi khác. Như vậy mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, hay nói
cách khác là hoạt động kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận của các chủ thể khi tham gia
vào quan hệ thương mại này.
- Thỏa thuận mua bán một lượng hàng hóa nhất định của các bên phải được thực hiện

thông qua một chủ thể thứ ba là sở giao dịch hàng hóa và phải tuân thủ các điều kiện cụ
thể do sở giao dịch đặt ra. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hoạt động mua bán hàng hóa
thông qua sở giao dịch hàng hóa với hoạt động mua bán hàng hóa thông thường và hoạt
động mua bán hàng hóa giao sau trên thị trường ngoài cơ sở. Thỏa thuận mua bán hàng
hóa của các bên nhất thiết phải thực hiện thông qua sở giao dịch mua bán hàng hóa. Sở
giao dịch hàng hóa đóng vai trò trung gian, kết nối quan hệ mua bán hàng hóa của các bên

2


Luật Thương mại Việt Nam
mua bán hàng hóa. Để tham gia vào những quan hệ mua bán này người mua và người bán
phải đáp ứng những yêu cầu nhất định do sở giao dịch hàng hóa đặt ra. Việc mua bán
hàng hóa được diễn ra theo một trình tự thủ tục chặt chẽ, thống nhất theo quy định của sở
giao dịch hàng hóa.
- Chỉ một số hàng hóa nhất định đáp ứng các tiêu chuẩn do sở giao dịch hàng hóa quy
định mới được mua bán thông qua sở giao dịch hàng hóa. Những hàng hóa này có thể là
những hàng hóa không phải đã có tại thời điểm thỏa thuận mua bán của hai bên, mà nó sẽ
hình thành trong tương lai, tại thời điểm giao hàng do hai bên thỏa thuận. Việc giới hạn
loại hàng hóa được phép giao dịch thông qua sở giao dịch là phù hợp với quy định của các
nước trên thế giới.
- Giá cả của hàng hóa do các bên mua bán thỏa thuận là giá của hàng hóa đó tại thời điểm
giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai.
Đây cũng là một điểm đặc trưng của mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa,
là điểm khác biệt cơ bản đối với các hoạt động mua bán hàng hóa thông thường. Trong
quan hệ mua bán thông qua sở giao dịch hàng hóa, tại thời điểm thỏa thuận các bên đồng
ý mua bán một lượng hàng hóa với giá của hàng hóa đó tại tời điểm giao kết nhưng việc
giao hàng của bên bán cho bên mua lại diễn ra tại một thời điểm trong tương lai. Quyền và
nghĩa vụ của các bên sẽ phát sinh tại thời điểm giao kết hợp đồng và chấm dứt khi các bên
hoàn thành nghĩa vụ giao nhận hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai do hai bên ấn

định.
- Hình thức mua bán hàng hóa thông qua sở giao dịch hàng hóa là hợp đồng. Thông
thương mua bán qua sở giao dịch hàng hóa được thực hiện bằng hai hợp đồng cơ bản đó là
hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
Khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa tại Luật thương mại đã thể hiện
đầy đủ bản chất của giao dịch hàng hóa trên thị trường hàng hóa giao sau tập trung và cơ
bản phù hợp với quy định của các nước trên thế giới. Quy đinh này của luật cũng đã khẳng
định nhà nước thừa nhận về mặt pháp lý đối với hoạt động này trong giao lưu thương mại
ở Việt Nam và bước đầu tạo cơ cở pháp lý để nó diễn ra trên thực tế.
2. Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Tại khái niệm về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa đã xác định hình thức mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hành hóa là hợp đồng. Điều 64 Luật Thương mại đã quy

3


Luật Thương mại Việt Nam
định chi tiết về vấn đề này:“ Hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa bao
gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn”.Khoản 2 điều 64 Luật Thương mại quy
định: “Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết
nhận hàng hóa tại một thời điểm tương lai trong hợp đồng”. Như vậy theo tinh thần của
luật này, hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai, theo đó các bên
hướng tới việc giao và nhận hàng thực trong tương lai nhằm bảo hiểm rủi ro mà chưa thực
sự hướng tới việc đầu cơ về giá hàng hóa nhằm mục đích lợi nhuận.
Theo Khoản 3 điều 64 Luật Thương mại 2005, “ Hợp đồng về quyền chọn mua và quyền
chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua có quyền được mua hoặc được bán một hàng
hóa xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất
định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua có quyền chọn thực hiện hoặc là
không thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó”. Như vậy, hợp đồng quyền chọn cho
phép người nắm giữ có quyền nhưng không có nghĩa vụ giao và nhận hàng hóa vào một

thời điểm ấn định trong tương lai khi giao dịch mang lại lợi ích cho mình.
Như vậy có hai loại hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa đó là hợp
đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn. Việc định nghĩa hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng
quyền chọn của luật thương mại là tương đối cụ thể, rõ ràng, đầy đủ các yếu tố của từng
loại hợp đồng trong thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật các nước. Theo quy
định tại Điều 24 Luật Thương mại 2005 về hình thức hợp đồng, theo đó hợp đồng kỳ hạn
và hợp đồng quyền chọn có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác
lập bằng hành vi cụ thể, tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên và quy định của sở giao
dịch hàng hóa.
3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa
Việc thỏa thuận mua bán hàng hóa bằng hợp đồng kỳ hạn hay hợp đồng quyền chọn qua
sở giao dịch hàng hóa sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên. Vì vậy Luật
Thương mại 2005 đã quy định rất cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên trong từng loại
hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
a. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kỳ hạn
Điều 65 Luật Thương mại quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng kỳ hạn
bao gồm nghĩa vụ giao hàng và thanh toán, nghĩa vụ thanh toán của các bên khi có thỏa

4


Luật Thương mại Việt Nam
thuận khác. Khoản 1 Điều 65 quy định: “ Trường hợp người bán thực hiện việc giao hàng
theo hợp đồng thì bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán”. Theo đó bên bán giao
hàng theo đúng thỏa thuận ghi nhận tại hợp đồng, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng do bên
bán giao tại thời điểm nhận hàng và thanh toán tiền hàng. Quy định này nhằm ràng buộc
các bên phải thực hiện đúng nghĩa vụ về giao hàng và thanh toán cho nhau tại hợp đồng.
Trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ giao hàng, nhận hàng và thanh toán sẽ được
coi là một trong những căn cứ để xác định vi phạm hợp đồng của các bên.

Khoản 2 Điều 65 Luật Thương mại quy định: “ Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc
bên mua có thể thanh toán bằng tiền và không nhận hàng thì bên mua phải thanh toán
cho bên bán một khoản tiền bằng mức chênh lệch giá giữa thỏa thuận trong hợp đồng và
giá thị trường do sở giao dịch hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện”.
Nghĩa vụ này bên mua chỉ phải thực hiện khi các bên có thỏa thuận về việc thanh toán
được tiến hành bằng tiền và việc không nhận hàng theo hợp đồng. Còn trường hợp các bên
không có thỏa thuận mà vi phạm về giao hàng và thanh toán theo hợp đồng thì coi như là
một trong các trường hợp vi phạm hợp đồng và được giải quyết theo quy định của pháp
luật về vi phạm hợp đồng.
Khoản 3 Điều 65 Luật Thương mại 2005 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận
về việc bên bán có thể thanh toán bằng tiền và không nhận hàng thì bên bán phải thanh
toán cho bên mua một khoản tiền bằng mức chênh lệch giá giữa giá thị trường do sở giao
dịch hàng hóa công bố tại thời điểm hợp đồng được thực hiện và giá thỏa thuận trong
hợp đồng”. Tương tự như khoản 2 Điều 65 Luật Thương mại, khoản này cũng xác định
nghĩa vụ của bên bán phải thanh toán một khoản tiền bằng khoản chênh lệch giá giữa giá
thị trường do sở giao dịch công bố tại thời điểm thực hiện hợp đồng với giá thỏa thuận
trong hợp đồng khi không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo thỏa thuận về thanh toán
bằng tiền và không giao hàng.
b. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng quyền chọn
Khoản 1 Điều 66 Luật Thương mại quy định: “ Bên mua quyền chọn mua hoặc quyền
chọn bán phải trả tiền cho quyền chọn để được trở thành bên giữ quyền chọn mua hoặc
quyền chọn bán. Số tiền phải trả do các bên thỏa thuận”. Theo quy định này nghĩa vụ của
bên mua quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là phải thanh toán khoản tiền mua quyên
chọn cho bên kia theo đúng số tiền mà các bên đã thỏa thuận.

5


Luật Thương mại Việt Nam
Khoản 2 Điều 66 Luật thương mại quy định : “ Bên giữ quyền chọn mua có quyền mua

nhưng không có nghĩa vụ phải mua hàng hóa đã giao kết trong hợp đồng”. Theo đó, bên
giữ quyền mua có quyền mua hàng hóa nhưng không có nghĩa vụ phải mua hàng hóa đã
giao kết trong hợp đồng, do đó, ngay cả khi bên giữ quyền chọn mua không mua hàng hóa
đúng như giao kết trong hợp đồng thì đó không phải là vi phạm hơp đồng. Trong trường
hợp bên giữ quyền chọn mua quyết định thực hiện hợp đồng thì bên bán có nghĩa vụ bán
hàng hóa cho bên giữ quyền chọn mua. Trường hợp bên bán không có hàng hóa để giao
thì phải thanh toán cho bên giữ quyền chọn mua một khoản tiền bằng mức chênh lệch giữa
giá thỏa thuận trong hợp đồng và giá thị trường do sở giao dịch hàng hóa công bố tại thời
điểm hợp đồng thực hiện. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lọi cho bên giữ quyền chọn
mua khi mua hay không mua hàng và ngay cả khi bên bán không có hàng để giao cho bên
giữ quyền chọn mua.
Khoản 3 Điều 66 cũng đặt ra các quy định về quyền và nghĩa vụ của bên giữ quyền chọn
bán và bên mua tương tự như quyền và nghĩa vụ của bên giữ quyền chọn mua và bên bán
theo quy định tại khoản 2 Điều 66. Ngoài ra khoản 4 Điều 66 còn bảo vệ quyền của bên
giữ quyền chọn mua hoặc bên giữ quyền chọn bán khi không thực hiện hợp đồng trong
thời hạn hợp đồng còn hiệu lực bằng việc quy định hợp đồng đương nhiên hết hiệu lực:
“Trường hợp bên giữ quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán quyết định không thực hiện
hợp đồng trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực thì hợp đồng đương nhiên hết hiệu lực”.
4. Sở giao dịch hàng hóa
Điều 6 Nghị định 158/2006/NĐ-CP quy định: “ Sở giao dịch hàng hóa là pháp nhân
được thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần”. Quy định này đã xác định tư cách pháp lý và hình thức tồn tại của sở giao dịch
hàng hóa ở nước ta.
a. Nguyên tắc tổ chức hoạt động
Theo tinh thần Luật thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các nguyên tắc
tổ chức hoạt động của sở giao dịch hàng hóa gồm:
- Nguyên tắc trung gian: khách hàng muốn mua, bán hàng hóa qua sở giao dịch không
được trực tiếp giao dịch với nhau mà phải ủy thác cho thành viên kinh doanh của sở giao
dịch.Thành viên kinh doanh nhận lệnh ủy thác của khách hàng chuyển lên sở giao dịch
hàng hóa để khớp với lệnh. Nếu khớp lệnh thành công, hợp đồng mua bán qua sở giao


6


Luật Thương mại Việt Nam
dịch hàng hóa được hình thành nhưng không phải trực tiếp giữa người bán và người mua
mà giữa chủ thể được ủy thác thông qua sở giao dịch hàng hóa. Sở giao dịch hàng hóa là
chủ thể trung gian cuối cùng hoặc duy nhất, có vai trò kết nối lệnh mua, lệnh bán tương
thích giữa những người có nhu cầu.
-Nguyên tắc công khai: Mọi thông tin liên quan đến chỉ số giá giao dịch, các mức giá
được khớp, biến động giá hàng hóa đều phải được công bố trong các phiên giao dịch ở sở
giao dịch (Điều 38 Nghị định 158/2006/NĐ-CP). Điều này cho phép các nhà đầu tư muốn
tham gia giao dịch đều nắm bắt được mọi thông tin về hàng hóa để có thể có các quyết
định của riêng mình. Điều này tạo ra sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các nhà đầu
tư, bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư, tránh tình trạng thua lỗ vì không đủ thông tin hoặc
thông tin sai lệch, không rõ ràng.
- Nguyên tắc đấu giá: giá cả hàng hóa được hình thành trên cơ sở giao dịch thông qua việc
so khớp các lệnh mua và lệnh bán trong phiên giao dịch theo nguyên tắc ưu tiên về giá, về
thời gian đặt lệnh (Điều 37 Nghị định 158/2006/NĐ-CP). Vì vậy giá hàng hóa được hình
thành hoàn toàn khách quan, hay thị trường sở giao dịch hàng hóa là nơi phản ánh chính
xác giá hàng hóa trên thị trường.
b. Cơ cấu tổ chức sở giao dịch hàng hóa:
Theo hướng dẫn của nghị định 158/2006/NĐ-CP thì ngoài các bộ phận quản lý như các
công ty thường, cơ cấu tổ chức của sở giao dịch hàng hóa còn bao gồm hai trung tâm là
trung tâm thanh toán và trung tâm giao nhận hàng hóa – những bộ phận cung cấp dịch vụ
thanh toán và giao nhận hàng do sở giao dịch hàng hóa thành lập hoặc ủy thác cho tổ chứ
khác thành lập nhưng vẫn đại diện cho cơ sở. Theo điều 26 Nghị định số 158/2006 /NĐCP thì trung tâm thanh toán là tổ chức thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ thanh toán
trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa . Trung tâm thanh toán phải
hoạt động độc lập với các thành viên của sở giao dịch hàng hóa. Trung tâm giao nhận
hàng hóa là tổ chức thực hiện chức năng lưu trữ, bảo quản và giao nhận hàng hóa cho các

hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Trung tâm giao nhận hàng hóa có
các quyền và nghĩa vụ như quy định tại các Điều 30, 31 của nghị định 158/2006/NĐ-CP.
Theo quy định của nghị định 158/2006/NĐ-CP, chủ thể có thẩm quyền cấp, cấp lại, sửa
đổi, bổ sung giấy phép thành lập sở giao dịch hàng hóa; phê chuẩn điều lệ hoạt động của
sở giao dịch hàng hóa là bộ trưởng bộ công thương. Các điều kiện về thành lập sở giao

7


Luật Thương mại Việt Nam
dịch hàng hóa bao gồm điều kiện về vốn pháp định, về điều lệ hoạt động, về trình độ
chuyên môn của giám đốc hoặc của tổng giám đốc và các điều kiện khác được quy định
cụ thể tại Điều 8 Nghị định 158/2006/NĐ-CP và các văn bản pháp luật có liên quan.
Trong những điều kiện này, điều kiện về vốn pháp định (150 tỷ đồng) là điều kiện quan
trọng nhất bởi sở giao dịch hàng hóa là nơi tổ chức, vận hành các giao dịch hàng hóa
tương lai.
Sở giao dịch hàng hóa là tổ chức được thành lập để cung cấp các tiện ích cho việc tiến
hành các giao dịch kỳ hạn, quyền chọn và một số giao dịch giao sau khác. Điều 67 Luật
thương mại quy định sở giao dịch hàng hóa có các chức năng: cung cấp các điều kiện vật
chất kỹ thuật cần thiết để giao dịch mua bán hàng hóa; điều hành các hoạt động giao dịch
mua và bán qua sở giao dịch; niêm yết các mức giá cụ thể hình thành trên thị trường giao
dịch tại từng thời điểm.
5. Hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
a. Cơ quan quản lý hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Theo quy định của Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cơ quan có
thẩm quyền quản lý hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là Bộ thương
mại, nay là Bộ công thương. Bộ Công thương là cơ quan thay mặt Chính phủ, chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về quản lý hoạt động này, đồng thời phối hợp với ngân hàng nhà
nước Việt Nam, Bộ tài chính, Bộ kế hoạch đầu tư, các Bộ ngành có liên quan và ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quản lý hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch mua bán hàng

hóa. Quyền hạn, nhiệm vụ của Bộ công thương được quy định tại Điều 72 Luật Thương
mại 2005 và Điều 4 Nghị định 158/2006/NĐ-CP . Cụ thể, theo các điều luật này, Bộ công
thương có thẩm quyền quản lý trên ba lĩnh vực: quản lý chung các mặt của hoạt đông mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa; quản lý trong việc cấp phép hoạt động, xử lý vi
phạm đối với giao dịch hàng hóa; quản lý trong việc thương nhân Việt Nam tham gia mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa nước ngoài.
b. Quy định về xử lý vi phạm đối với sở giao dịch hàng hóa và thành viên sở giao
dịch hàng hóa
Trong quá trình hoạt động, vận hành, sở giao dịch hàng hóa có thể có các hành vi vi phạm
trong các công đoạn, thủ tục như khâu nhận lệnh, khớp lệnh; khâu nhận tiền ký quỹ, thanh
toán theo ngày, tất toán hợp đồng hay thanh toán theo giá trị lô hàng; khâu nhận hàng…

8


Luật Thương mại Việt Nam
Tất cả những vi phạm trên cần bị xử lý nghiêm khắc để bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu
tư và bảo vệ nền kinh tế. Khi vi phạm ở các khâu trên, sở giao dịch hàng hóa sẽ bị áp dụng
chế tài. Cụ thể, Điều 52, 53 Nghị định 158/2006/NĐ-CP quy định : “Nếu vi phạm các
quy định pháp luật, xở giao dịch hàng hóa sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bồi
thường thiệt hại theo quy định của pháp luật Dân sự”. Cụ thể theo khoản 2, 7, 9 Điều 55
Nghị định 06/2008/NĐ-CP ngày 16/01/2008 quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, sở giao dịch hàng hóa sẽ bị phạt tiền với các mức tương ứng
khi có những hành vi vi phạm được liệt kê cụ thể. Trường hợp hành vi vi phạm của sở
giao dịch hàng hóa gây thiệt hại cho chủ thể có liên quan, sở giao dịch hàng hóa sẽ phải
bồi thường theo nguyên tắc của Bộ luật Dân sự.
Các thành viên kinh doanh có thể vi phạm các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, thành viên
kinh doanh có thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ
phát sinh từ hợp đồng như không đặt lệnh mua, bán hàng hóa cho khách hàng theo đúng
hợp đồng ủy thác và lệnh ủy thác giao dịch; không giao hàng, nhận hàng, thanh toán nếu

giao nhận hàng thực qua sở hay thanh toán bù trừ theo hợp đồng mua bán hàng hóa…
Những vi phạm này được xử lý theo quy định của pháp luật về hợp đồng.
6. Hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa
Điều 68 Luật Thương mại 2005 quy định: “Danh mục hàng hóa giao dịch tại sở giao dịch
hàng hóa do Bộ trưởng bộ thương mại quy định” (nay là Bộ công thương). Theo đó hàng
hóa được phép giao dịch tại sở giao dịch hàng hóa là các mặt hàng được sở giao dịch cho
phép thực hiện mua bán qua sàn giao dịch của sở với những tiêu chuẩn và điều kiện nhất
định. Ngày 18/8/2010, Bộ trưởng Bộ Công thương đã ký Quyết định số 4361/QĐ-BCT
ban hành Danh mục hàng hóa được phép mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa. Theo
Quyết định này, có 8 loại hàng hóa được phép mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa, bao
gồm: cà phê nhân, chưa rang, chưa khử chất cà-phê-in; mủ cao su tự nhiên, đã hoặc chưa
tiền lưu hóa [chỉ áp dụng đối với các mã HS 40011011 và 40011021; cao su tự nhiên ở
dạng tấm cao su xông khói (chỉ áp dụng đối với các mã HS: 40012110 (RSS1), 40012120
(RSS2), 40012130 (RSS3), 40012140 (RSS4) và 40012150 (RSS5)]; cao su tự nhiên đã
được định chuẩn kỹ thuật (các loại TSNR gồm SVR 10, SVR 20, SVR L, SVR CV, SVR
GP, SVR 3L, SVR 5; các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ
600mm trở lên, được cán nóng, chưa phủ, mạ hoặc tráng; các sản phẩm thép không hợp

9


Luật Thương mại Việt Nam
kim được cán phẳng, có chiều rộng từ 600mm trở lên, cán nguội (ép nguội), chưa dát phủ,
mạ hoặc tráng; các sản phẩm thép không hợp kim được cán phẳng, có chiều rộng từ
600mm trở lên, đã phủ, mạ hoặc tráng; các sản phẩm thép không hợp kim ở dạng thanh và
que khác, mới chỉ qua rèn, cán nóng, kéo nóng hoặc ép đùn nóng, kể cả công đoạn xoắn
sau khi cán (loại trừ các thép cơ khí chế tạo, chỉ áp dụng với loại có hàm lượng các bon
dưới 0,6% tính theo trọng lượng).
7. Các biện pháp bảo đảm cho hoạt đông mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa

Để đảm bảo cho hoạt động mua bán hàng hóa phù hợp với các nguyên tắc của giao dịch
thương mại, tạo được môi trường kinh doanh lành mạnh, hiệu quả, công bằng, bảo đảm sự
vận hành ổn định của sở giao dịch hàng hóa, chống lại các hoạt động có tính chất lũng
đoạn thị trường, Điều 71 Luật Thương mại 2005 đã quy định các hành vi bị cấm trong
hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa gồm:
- Nhân viên của sở không được phép môi giới, mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa.
- Các bên liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa không
được thực hiện các hành vi: lừa dối, gian lận về khối lượng hàng hóa trong các hợp đồng
kỳ hạn hoặc hợp đồng quyền chọn được giao dịch hoặc có thể được giao dịch và gian lận,
lừa dối về giá thực tế của loại hàng hóa trong các hợp đồng kỳ hạn hoặc hợp đống quyền
chọn; đưa tin sai về các giao dịch, thị trường hoặc giá hàng hóa mua bán qua sở giao dịch
hàng hóa; dùng các biện pháp bất hợp pháp để gây rối loạn thị trường hàng hóa tại sở giao
dịch hàng hóa…
Để đảm bảo cho hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được ổn định và
hạn chế các sự cố bất khả kháng trong các trường họp khẩn cấp, Điều 72 Luật thương mại
2005 quy định việc thực hiện các biện pháp quản lý trong trường hợp khẩn cấp. Điều luật
định nghĩa các trường hợp khẩn cấp là trường hợp xảy ra rối loạn thị trường hàng hóa làm
cho giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa không phản ánh được chính xác quan hệ cung
cầu. Trong trường hợp khẩn cấp, pháp luật cho phép Bộ trưởng Bộ thương mại (nay là Bộ
Công thương) có quyền thực hiện các biện pháp sau:

10


Luật Thương mại Việt Nam
- Tạm dừng việc giao dịch qua sở giao dịch hàng hóa. Việc tạm dừng giao dịch sẽ hạn chế
được các giao dịch đang tiến hành trên sàn giao dịch của sở và cá thiệt hại của giao dịch
đó.
- Hạn chế các giao dịch ở một khung giá hoặc một số lượng hàng hóa nhất định

- Thay đổi lịch giao dịch
- Thay đổi điều lệ hoạt động của sở giao dịch hàng hóa và các biện pháp cần thiết khác
theo quy định của Chính phủ.
8. Thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là một chủ thể trong
quan hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hành hóa. Đó là các thương nhân thực hiện
việc môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch mua bán hàng hóa và nhận thù lao theo
hợp đồng môi giới. Điều 69 Luật Thương mại 2005 quy định về hoạt động của thương
nhân môi giới hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa như sau:
Thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa chỉ được phép hoạt
động tại sở giao dịch hàng hóa khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Theo quy đinh tại Điều 6 Luật thương mại thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có
đăng ký kinh doanh.
Thương nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa chỉ được phép thực
hiện các hoạt động môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và không được
phép là một bên của hợp đồng mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Thương nhân nhân môi giới mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa có nghĩa vụ
đóng tiền ký quỹ tại sở giao dịch hàng hóa để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ phát sinh
trong quá trình hoạt động môi giới mua bán hàng hóa. Mức tiền ký quỹ do sở giao dịch
hàng hóa quy định. Điều 70 Luật Thương mại 2005 cũng quy định những hành vi bị cấm
đối với thương nhân mỗi giới hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa như: lôi kéo khách hàng
ký kết hợp đồng bằng cách hứa bồi thường toàn bộ hoặc một phần thiệt hại phát sinh hoặc
đảm bảo lợi nhuận cho khách hàng; chào hàng hoặc môi giới mà không có hợp đồng với
khách hàng; sử dụng giá giả tạo hoặc các biện pháp gian lận khác khi môi giới cho khách
hàng; từ chối hoặc tiến hành chậm trễ một cách bất hợp lý việc môi giới hợp đồng theo
các nội dung đã thỏa thuận với khách hàng…Như vậy, các hành vi bị cấm đối với thương

11



Luật Thương mại Việt Nam
nhân môi giới chủ yếu tập trung vào các hành vi lôi kéo, lừa dối khách hàng hoặc bất hợp
tác với khách hàng. Đây là các hành vi xâm hại trực tiếp tới quyền của khách hàng khi
tham gia vào qua hệ mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hành hóa, làm ảnh hưởng đến môi
trường kinh doanh lành mạnh. Bởi vậy việc đạt ra các hành vi bị nghiêm cấm đối với các
thương nhân hoạt động môi giới là điều cần thiết.
II. Hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch
hàng hóa
Qua thực tiễn hơn năm năm thực hiện Luật Thương mại 2005 cho thấy những quy định
của pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa còn nhiều bất cập, cụ thể:
Chưa hình thành được một hệ thống pháp luật hoàn thiện điều chỉnh toàn diện các vấn đề
của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Hiện nay pháp luật điều chỉnh hoạt
động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa mới chỉ dừng lại ở các quy định mang
tính nguyên tắc tại Luật Thương mại 2005 mà chưa có một hệ thống văn bản pháp luật
hoàn thiện quy định chi tiết. Các quy định của luật thương mại chủ yếu đưa ra khái niệm
cơ bản nhất về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, còn về các vấn đề cụ thể thì
do các văn bản dưới luật quy định. Luật thương mại mới chỉ dừng lại ở những quy định
khung còn các vấn đề cốt yếu của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch sẽ được quy định ở
các văn bản dưới luật. Do đó việc áp dụng các điều luật này vào thực tiễn thi hành và phát
triển hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa không tránh khỏi những khó
khăn nhất định.
Các quy định của luật thương mại mang tính nguyên tắc, chưa phản ánh toàn diện bản
chất, nội dung kinh tế và mô hình hoạt động của mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa. Luật mới chỉ dừng lại ở việc nêu khái niệm mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa, còn các nguyên tắc hoạt động, cơ chế hoạt động, cơ cấu tổ chức của bộ máy thực hiện
hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch mua bán hàng hóa chưa được đề cập. Vấn
đề nội dung chủ yếu của hợp đồng, giải quyết tranh chấp theo hợp đồng mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa chưa được luật quy định và không có cơ chế ủy quyền hướng
dẫn chi tiết.

Chưa có quy định cụ thể về chế tài áp dụng khi vi phạm các biện pháp bảo đảm cho hoạt
động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa và cơ chế giải quyết tranh chấp phát
sinh trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.Điều 70, 71 Luật Thương mại

12


Luật Thương mại Việt Nam
2005 đã xác định các hành vi bị cấm trong mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa
nhưng các quy định này còn rất chung chung và chưa đầy đủ. Nội dung quan trọng là biện
pháp xử lý thì lại chưa được xác định. Đây là điều khó khăn cho các bên khi xảy ra tranh
chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa.
Như vậy, thực tế cho thấy các quy định của Luật Thương mại 2005 về mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa còn rất nhiều tồn tại, thiếu sót. Vấn đề đặt ra ở đây là cần đưa ra
và thực hiện những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng đó để nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật trong thực tế.
III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng
hóa qua sở giao dịch hàng hóa
Xuất phát từ những hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua sở
giao dịch hàng hóa thì việc đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện là điều rất cần thiết.
Sau đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa.
Cần sửa đổi khái niệm “mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa”. Khoản 1 Điều
63 Luật Thương mại 2005 mới chỉ mô tả hoạt động mua bán hàng hóa tương lai mà chưa
mô tả được hoạt động mua bán quyền chọn mua, quyền chọn bán đối với hàng hóa tương
lai. Hơn nữa hoạt động mua bán hàng hóa tương lai theo luật chủ yếu hướng tới hàng hóa
hữu hình, chưa phát triển tới các sản phẩm, công cụ tài chính phái sinh. Do vậy cần phải
sửa đổi, bổ sung khái niệm “mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa” theo hướng
đưa ra những dấu hiệu đặc trưng của hoạt động này.
Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức hoạt động của sở giao dịch hàng

hóa. Thứ nhất, cần sửa đổi quy định về khái niệm sở giao dịch hàng hóa. Khái niệm sở
giao dịch hành hóa theo quy định của pháp luật hiện hành chưa mô tả được những dấu
hiệu cơ bản của sở giao dịch hàng hóa, chưa giúp nhận diện sở giao dịch hàng hóa với
những chủ thể kinh doanh khác. Cụ thể, sở giao dịch hàng hóa cần được quy định mang
những dấu hiệu đặc trưng sau: là thị trường hàng hóa tập trung, nơi tổ chức, vận hành các
giao dịch hàng hóa trong tương lai; là trung gian mọi giao dịch, chịu trách nhiệm về các
dịch vụ như nhận lệnh, khớp lệnh, giao hàng, thanh toán hợp đồng; là pháp nhân…Thứ
hai là cần sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức, cơ cấu của sở giao dịch hàng hóa, cụ
thể là cần quy định rõ các bộ phận cấu thành đặc thù của sở giao dịch hàng hóa theo kinh

13


Luật Thương mại Việt Nam
nghiệm của các nước khác trên thế giới như ban giám đốc, sàn giao dịch, trung tâm thanh
toán, trung tâm giao nhận…Các quy định về thủ tục thành lập sở giao dịch hàng hóa cũng
cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp hơn với thực tiễn.
Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về các chủ thể tham gia giao dịch qua sở giao dịch
hàng hóa. Thứ nhất là cần hủy bỏ các quy định về thành viên môi giới, bổ sung chức năng
môi giới hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa cho thành viên kinh
doanh của sở giao dịch. Cần hủy bỏ quy định về thành viên môi giới của sở giao dịch hàng
hóa, chỉ giữ lại thành viên kinh doanh của sở giao dịch. Thành viên kinh doanh sẽ đảm
nhận luôn vai trò của thành viên môi giới. Thứ hai cần sửa đổi quy định về điều kiện trở
thành thành viên kinh doanh, cụ thể là điều kiện về vốn pháp định. Một doanh nghiệp khi
muốn trở thành thành viên kinh doanh của sở giao dịch hàng hóa phải thỏa mãn các điều
kiện theo quy định của Điều 21 Nghị định số 158/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên với điều kiện
như vậy có thể không thu hút được nhiều đối tượng trở thành thành viên kinh doanh của
sở giao dịch hàng hóa. Vì vậy cần phải sửa đổi quy định này của pháp luật theo hướng quy
định vốn pháp định linh hoạt và giới hạn mức giao dịch mà mỗi thành viên kinh doanh có
quyền thực hiện.

Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về các hợp đồng liên quan đến hoạt động
mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Cần sửa đổi tên gọi và bổ sung khái niệm
“hợp đồng kỳ hạn”. Khái niệm “hợp đồng kỳ hạn” chỉ những hợp đồng mua bán hàng hóa
tương lai được giao dịch bên ngoài sở giao dịch, khái niệm hợp đồng tương lai” chỉ những
hợp đồng mua bán hàng hóa tương lai qua sở giao dịch hàng hóa. Do vậy việc luật
Thương mại quy định hợp đồng kỳ hạn là một trong hai loại hợp đồng mua bán hàng hóa
qua sở giao dịch hàng hóa là không thực sự chính xác về tên gọi và có thể gây nhầm lẫn.
Vì vậy khái niệm của hợp đồng này cần sửa đổi theo hướng gọi đúng tên hợp đồng là
“hợp đồng tương lai”; quy định rõ hơn nội hàm của khái niệm, cụ thể hợp đồng tương lai
cụ thể hợp đồng tương lai hướng tới đối tượng giao dịch là hàng hóa hữu hình và công cụ
tài chính phái sinh.
Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Thứ nhất cần xây dựng cơ quan quản lý chuyên
biệt đối với hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam. Theo quy
định của pháp luật hiện hành thì việc mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa do Bộ

14


Luật Thương mại Việt Nam
Công thương đảm trách. Thực tế, Bộ công thương đã phân công Vụ Thị trường trong nước
là đầu mối phối hợp với vụ pháp chế tiếp nhận và thẩm định hồ sơ xin cấp giấy phép thành
lập sở giao dịch hàng hóa. Tuy nhiên đây không phải là những Vụ chuyên trách nên hiệu
quả quản lý là chưa cao. Vì vậy cần thành lập một Vụ hay một bộ phận quản lý tương
đương chuyên quản lý hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Như vậy
sẽ tránh tình trạng nhiều cơ quan, nhiều bộ phận cùng quản lý một hoạt động như hiện
nay, đồng thời nâng cao hiệu quả và tính chuyên nghiệp trong quản lý hoạt động này. Thứ
hai, cần có cơ chế kiểm tra giám sát hiệu quả hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao
dịch hàng hóa để phòng tránh tiêu cực có thể phát sinh. Kiểm tra giám sát hoạt động mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa được quy định cho các cơ quan là Bộ Công

thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền phối hợp thực
hiện. Tuy nhiên, các cơ quan này chưa thực sự phát huy được vai trò của mình cũng như
chưa có sự phối kết hợp với nhau và với cơ quan nhà nước khác để thực hiện vai trò kiểm
tra giám sát. Điều này cho thấy sự cần thiết phải ban hành các quy định cụ thể để kiểm tra,
giám sát hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch. Các quy định này không chỉ nêu
ra các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động này mà còn cần chỉ rõ cơ chế
kiểm tra, giám sát, cách thức phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện chức
năng này. Thứ ba, cần ban hành đầy đủ các chế tài đối với các hành vi vi phạm hoạt động
mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa. Pháp luật hiện hành quy định chế tài đối với
hành vi vi phạm hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa bao gồm chế tài
dân sự và chế tài hành chính, được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành,
tuy nhiên việc quy định các mức phạt cố định thể hiện tính không linh hoạt của các quy
định pháp luật hiện hành. Các quy định về chế tài đối với hành vi vi phạm hoạt động mua
bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa cần phải được sửa đổi theo hướng: quy định cụ
thể, đồng bộ các chế tài đối với các hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia giao dịch…
IV. Thực trạng về sở giao dịch hàng hóa và hoạt động mua bán qua sở giao dịch
hàng hóa ở Việt Nam hiện nay
Mô hình sở giao dịch hàng hóa là phương thức giao dịch hiện đại rất phổ biến trên thế
giới, nhất là giao dịch phái sinh (giao dịch giao sau) tuy nhiên ở Việt Nam đây là một hoạt
động còn rất mới mẻ. Việt Nam có năm mặt hàng xuất khẩu lớn chiếm thứ nhất, thứ nhì
thế giới đó là gạo, cao su, cà phê, điều, tiêu, chưa kể các mặt hàng khác nước ta cũng có

15


Luật Thương mại Việt Nam
thế mạnh sản xuất. Với lợi thế như vậy thì việc cần có nhiều sở giao dịch hàng hóa là yêu
cầu tất yếu nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất cũng như tiêu thụ, từ đó thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế thì số lượng sở giao dịch ở Việt Nam
còn rất hạn chế. Theo ông Nguyễn Sinh Nhật Tân - Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Công

Thương) thì ở Việt Nam duy nhất có một Sở giao dịch hàng hóa Việt Nam (VNX), có tiền
thân là Sở giao dịch hàng hóa Triệu Phong được chính thức cấp giấy phép (ngày 11 tháng
1 năm 2011) và vừa qua cho thí điểm Trung tâm giao dịch cà phê Buôn Ma Thuột
(BCEC), trong khi trên thế giới có 70 sàn giao dịch hàng hóa, trong đó có 41 sàn giao dịch
nông sản.
Sở dĩ ở nước ta các sở giao dịch hàng hóa chưa phát triển bởi những nguyên nhân sau:
Về khung pháp lý và quản lý nhà nước hoạt động sở giao dịch hàng hóa, năm 2005 trong
Luật Thương mại đã có quy định về hoạt động của sở giao dịch; năm 2006 Chính phủ đã
ban hành Nghị định 158/2006/NĐ-CP, nhưng phải đến năm 2009 Bộ Công Thương mới
có Thông tư 03/2009/TT-BCT hướng dẫn thực hiện Nghị định với nội dung còn rất sơ sài.
Ngoài ra, các quy định còn một số bất cập như trong hợp đồng giao dịch, thành viên môi
giới và kinh doanh chưa quy định được quyền và trách nhiệm, giới hạn trị giá, một số nội
dung chưa được quy định như kiểm soát điều kiện thành viên, giao dịch phái sinh khác,
thanh toán không có các quyết định bù trừ, thuế như thuế thu nhập cá nhân không áp
dụng…Chưa kể, hiện nay bộ quản lý hoạt động này là Bộ Công Thương còn chưa có cơ
quan độc lập quản lý hoạt động này. Hay sở giao dịch còn bị quản lý chồng chéo bởi các
quy định của các bên liên quan như giữa các bộ, ngân hàng và doanh nghiệp. Chẳng hạn,
Bộ Tài Chính có trách nhiệm hướng dẫn các chế độ về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động
mua bán hang hóa qua sở giao dịch, trong khi ngân hàng lại có trách nhiệm hướng dẫn chế
độ thanh toán…
Thứ hai là điều kiện để phát triển sở giao dịch hàng hóa ở nước ta còn thiếu và yếu. Như
việc tiêu chuẩn hóa cho các mặt hàng, nhất là hàng nông sản chưa thực hiện được. Ông
Nam ví dụ, trong khi cà phê Việt Nam xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới nhưng 70% lượng cà
phê xuất khẩu không đạt chuẩn hóa của các sàn thế giới nên giá xuất khẩu thường thấp
hơn một số nước. Hay việc phải giữ chữ tín, nhất là phải có đủ hàng hóa đúng chuẩn, biện
pháp phòng ngừa rủi ro… ta chưa làm được. Đó là chưa kể các doanh nghiệp tham gia còn
rất thiếu đội ngũ am hiểu hoạt động này.

16



Luật Thương mại Việt Nam
Thứ ba là giá cả giao dịch nông sản Việt Nam còn phụ thuộc vào xu hướng thế giới, yếu
tố tâm lý, chỉ số giá tiêu dùng… Hơn nữa, hiện nay Việt Nam còn quy định dùng nội tệ
làm phương tiện thanh toán, vì thế, nhiều người đã lợi dụng hoàn cảnh lạm phát cao để
đầu cơ giá lên chứ không phải có nhu cầu giao dịch
Thực tế các doanh nghiệp cũng không mặn mà với việc mua bán qua sở giao dịch hàng
hóa bởi theo kinh nghiệm của họ cho thấy thì thực hiện giao dịch qua các sở giao dịch
hàng hóa quốc tế sẽ an toàn hơn so với trong nước bởi khi đó người mua và người bán
được bảo hiểm rủi ro trong các hợp đồng mua bán còn Việt Nam chưa có hình thức này.
Ngoài ra trình độ nhân viên cũng như công nghệ của sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam
vẫn kém nên khó thu hút được nhà đầu tư…
C. KẾT LUẬN
Mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại không thể
thiếu trong nền kinh tế, đặc biệt là đối với quốc gia đanh phát triển như nước ta hiện nay.
Như các nước phát triển khác trên thế giới, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ
thể về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai
cũng như phát triển mô hình này ở nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế những khó khăn, tồn
tại cả về chủ quan cũng như khách quan đang cản trở, kìm hãm sự phát triển của các sở
giao dịch hàng hóa. Chúng ta cần phải nhìn nhận ra những khó khăn đó, có những biện
pháp tích cực, hiệu quả để phát triển mô hình mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng
hóa, từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.

17


Luật Thương mại Việt Nam
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thương mại năm 2005
2. Nghị định số 158/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ ban hành

quy định chi tiết Luật Thương mại 2005 về hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch.
3. Giáo trình luật Thương mại Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2006, Nxb
CAND
4. Những vấn đề pháp lý về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, Luận văn thạc
sĩ luật học, Nguyễn Quỳnh Liên, năm 2006
5. Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở Việt
Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Nguyễn Thị Yến, năm 2011
6. Pháp luật về mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa ở Việt Nam – một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, trường đại học Luật Hà Nội, Khoa pháp luật kinh tế, Trung tâm
nghiên cứu luật lao động, thương mại và đầu tư.
7. Một số tài liệu tham khảo qua internet:
- />- />- />- />
18


Luật Thương mại Việt Nam
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................................1

19



×