Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tìm hiểu thực trạng thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.68 KB, 49 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục lục
Lời mở đầu .....................................................................Trang 1
I. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt nam và Hoa Kỳ
trong thời gian qua ..................................................................Trang 6
1.1. Thực trạng Thương mại hai chiều Việt Nam-Hoa kỳ......Trang 3
1.2. Thực trạng hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ.Trang 8
1.3. Thực trạng hàng hoá của Hoa Kỳ nhập khẩu vào Việt Nam .Trang 13
II. Tiềm năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ và hàng hoá
hàng hoá cần nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam sau khi hiệp định
Thương mại có hiệu lực .....................................................Trang 20
2.1. Tiềm năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ ....Trang 23
2.2. Hàng hoá cần nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam .........Trang 29
III. Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa
Kỳ.....................................................................................Trang 31
3.1. Các biện pháp mang tính vĩ mô .........................................Trang 38
3.2. Các biện pháp mang tính vi mô .........................................Trang 31
3.3. Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu đối với các mặt hàng chủ lực vào
thị trường Hoa Kỳ ..............................................................Trang 40
IV. Các biện pháp quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ Hoa Kỳ vào
Việt Nam ...........................................................................Trang 46
V. Kết luận .............................................................................Trang 49
- 1 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời Mở ĐầU
Với hơn 30 năm liên tục (từ 1964 đến 1994) bị Hoa Kỳ cấm vận kinh
tế, Việt Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong công cuộc xây dựng và tái
thiết đất nước. Tuy nhiên cùng với nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, Việt Nam
đã từng bước vượt qua những khó khăn và hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới. Kiên định với chính sách mong muốn là bạn của các nước trên
thế giới Việt Nam đã tạo ra những cột mốc hội nhập quan trọng, mà cụ thể là


việc Việt Nam tham gia vào Hiệp hội các nước Đông Nam A (ASEAN) năm
1995, tổ chức hợp tác kinh tế Châu A Thái Binh Dương (APEC) năm1998,
và đặc biệt là việc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ vào năm 1994.
Ngày 13-7-2001 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quan hệ hai nước
Việt Nam-Hoa kỳ thông qua việc ký kết Hiệp định Thuơng mại song
phương. Ngày 8-6-2001, tổng thống Hoa Kỳ G.Bush đã chính thức trình
Quốc hội Mỹ xem xét, phê chuẩn Hiệp định, và ngày 10-12-2001 quốc hội
Hoa Kỳ đã chính thức thông qua Hiệp định Thương mại song phương giữa
hai nước. Như vậy với việc Hiệp định Thương mại song phương có hiệu lực,
các hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ sẽ được hưởng
quy chế tối huệ quốc do đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội
để thâm nhập vào thị trường mới mẻ này. Tuy nhiên có một thực tế là thị
trường Hoa kỳ còn quá xa lạ và khác biệt đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Bên cạnh đó sự khác nhau về thể chế chính trị, kinh tế, ngoại giao,
chính sách thương mại cũng như vị thế trên truờng Quốc tế tạo ra cho Việt
Nam muôn vàn thách thức. Trước tình hình đó buộc Việt Nam phải có
những biện pháp, chính sách hợp lý kịp thời để điều chỉnh cho phù hợp với
yêu cầu Hiệp định đã ký kết, đồng thời khai thác một cách có hiệu quả
những tiềm năng, cơ hội mà thị trường Hoa Kỳ mang lại.
- 2 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trên cơ sở đó, trong phạm vi đề án môn học em xin trình bày những tiềm
năng và đề xuất một vài biện pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hoá giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ sau khi Hiệp định thuơng mại song phương có hiệu
lực. Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, Phó giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Duy
Bột đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
I. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt nam và Hoa Kỳ
1.1. Đánh giá khái quát thực trạng thương mại hai chiều Việt Nam -
Hoa Kỳ
- 3 -

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu có quan hệ thương mại từ năm 1992 tuy
nhiên mới chỉ ở mức rất khiêm tốn, thương mại hai chiều chỉ đạt khoảng 4,5
triệu USD. Sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ năm 1994, thương mại hai
chiều giữa Việt Nam và Hoa Kỳ tăng đều theo cả hai chiều xuất và nhập
khẩu, đa dạng dần về nhóm hàng và gia tăng về trị giá mỗi nhóm (xem Bảng
1).
Bảng 1: Thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ (1994-1997)
Đơn vị : triệu USD
1994 1995 1996 1997
Xuất khẩu 50,4 200 308 372
Nhập khẩu 172 252 616 278
Tổng XNK 222 450 935 666
Xét về cơ cấu, trong thời kỳ 1994-1997 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam sang Hoa Kỳ là nhóm hàng nông, lâm, thuỷ hải sản. Trong đó, cà
phê chiếm phần lớn với tổng kim ngạch đạt 108 triệu USD năm 1997. Đặc
điểm nổi bật của nhóm hàng này là có sự chênh lệch không đáng kể giữa
mức thuế tối huệ quốc (MFN) và phi tối huệ quốc (non-MFN) và cầu về các
loại hàng này rất cũng rất đa dạng. Hàng công nghiệp nhẹ bắt đầu xâm nhập
và tăng trưởng nhanh mặc dù vẫn chỉ mang tính giới thiệu sản phẩm. Từ
1996 xuất khẩu những mặt hàng như giày dép, nguyên liệu khoáng sản tăng
nhanh. Nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Hoa Kỳ chủ yếu là máy móc,
thiết bị và phân bón. Điều này phù hợp với nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam
cũng như đặc điểm cơ cấu xuất khẩu của Hoa Kỳ.
Bảng 2: Thương mại hai chiều Việt Nam - Hoa Kỳ (năm 1998-2000)
Đơn vị: triệu USD
- 4 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1998 1999 1999/1998 1999 2000 2000/1999 2000/1999
Xuất khẩu 519,5 601,9 15,8% 601,9 827,4 226,5 37,63%

Nhập khẩu 269,5 277,3 2,9% 277,3 330,5 53,2 19,18%
Tổng XNK 789 879,2 11,4% 879,2 1157,9 279,7 131,8%
Năm 2000, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng mạnh, tổng
kim ngạch lên tới 827,4 triệu USD so với mức 601,9 triệu USD năm 1999
đạt mức tăng trưởng 37,63 % (Bảng 2). Đây là một trong những mức tăng
trưởng cao trên thế giới. Mặc dù mức tăng trưởng này đạt được trên cơ sở
kim ngạch chưa cao nhưng là một tín hiệu tốt, thể hiện những phản ứng tích
cực từ phía các doanh nghiệp Việt Nam đối với các diễn biến trong quan hệ
thương mại hai nước. Trong khi đó, cũng cần lưu ý rằng xuất khẩu của Hoa
Kỳ sang Việt Nam cũng tăng khá mạnh trong cùng kỳ 2000 (tăng 19,18% so
với cùng kỳ năm 1999). Dự báo xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ cho
đến hết 2001 sẽ tăng mạnh hơn năm 2000, đạt khoảng 900 triệu đến1 tỷ
USD.
Nhìn chung năm 2000, thương mại giữa hai nước tăng trưởng ổn định
trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu diễn biến rất phức tạp. Xét về tổng kim
ngạch thương mại song phương, Việt Nam hiện xếp thứ 70/227 nước có
quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ, trên nhiều nước như Bulgaria, Ukraina,
Slovenia mặc dù hàng Việt Nam đang phải chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn
so với các nước này. Tuy nhiên, so với một vài nước trong khu vực ASEAN
như Thái Lan (xuất khẩu đạt khoảng 16,4 tỷ USD), Philipin (14 tỷ USD) thì
xuất khẩu của ta còn thua kém nhiều. Thậm chí xuất khẩu của Việt Nam còn
kém cả Campuchia (827 triệu USD). Lý do nổi bật nhất để giải thích cho sự
việc này vẫn là thuế suất nhập khẩu quá cao đối với hàng xuất khẩu của ta
khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Cộng với việc hệ thống thương mại tại Hoa Kỳ
khá mới và phức tạp đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam đã làm cho quá
- 5 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trình thâm nhập thị trường này không dễ dàng với đa số doanh nghiệp Việt
Nam. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc phê chuẩn Hiệp định
thương mại song phương và việc nâng cao nhận thức cũng như năng lực

cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ rất nhạy cảm này.
1.2. Thực trạng hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá củaViệt Nam vào Hoa Kỳ đang được đa
dạng về chủng loại. Chiếm tỷ trọng cao nhất hiện nay là nhóm hàng hải sản
chiếm khoảng hơn 30% tổng giá trị hàng xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ (quí
1 năm 2001 đạt kim ngạch xuất khẩu 74,4 triệu so với 46,4 triệu cùng kỳ
năm 2000, bằng 60,3%-Bảng 3). Nhóm hàng tỷ trọng lớn thứ hai là thịt và
chế phẩm chiếm 15%. Nhóm hàng này có xu hướng giảm mạnh trong năm
2000, nhưng tăng dần lên trong quí 1 năm 2001 (tăng thêm 17,2 triệu so với
2,4 triệu USD cùng kỳ năm 2000, tăng 61,6%-Bảng 3).
Bảng 3: Kim ngạch XK một số nhóm hàng của Việt Nam sang Hoa kỳ
(tính đến tháng 4 năm 2001)
Đơn vị: triệu USD
Nhóm hàng 1999 2000 2000/
1999
1-4/2000 1-4/2001 2001/
2000
2001/
2000
Tổng XK 601,9 827,4 225,5 238,2 254,7 16,5 6,9%
Cá, hải sản 108,1 242,9 134,8 46,4 74,4 28,0 60,3%
Caphê, chè 117,7 132,9 15,2 60,9 37,9 -23,0 -37,8%
Giày dép 145,8 124,5 -21,3 47,1 41,5 -5,6 -11,9%
Nhiên liệu 83,8 90,7 6,9 32,7 32,5 -0,2 -0,6%
Thịt&chế phẩm 31,5 57,7 26,2 2,4 17,2 14,8 61,6%
Hoa quả 23,7 51,1 26,4 10,0 12,6 2,6 20,6%
Sản phẩm may mặc 36,4 81,0 44,6 16,2 17,8 1,6 9,9%
Tác phẩm nghệ
thuật,sưu tầm đồ cổ
0,6 12,9 12,3 0,9 0,2 -0,7 -77,7%

Các nhóm hàng còn lại chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn, thường dưới 1%
và một số ít trên dưới 5% tổng giá trị hàng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ.
Đặc biệt, một số nhóm hàng có chiều hướng giảm so với cùng kỳ năm 2000
như giày dép, cà phê, chè, nhiên liệu .v.v... (Bảng 3).
- 6 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điểm đáng lưu ý là năm 2000 một số mặt hàng lần đầu tiên được xuất
khẩu sang Hoa Kỳ như mỡ, dầu động thực vật, đá quý, các sản phẩm xay xát
v.v. mở ra hướng phát triển thị trường mới cho một loạt các ngành sản xuất
của Việt Nam. Tuy nhiên cũng đáng lo ngại khi một loạt mặt hàng xuất khẩu
năm 2000 gần như biến mất khỏi thị trường Hoa Kỳ như sợi dệt gốc thực
vật, tơ nhân tạo, hoá chất hữu cơ, vô cơ, các sản phẩm dượcv.v. Nguyên
nhân chủ yếu vẫn là do doanh nghiệp Việt Nam không chịu đuợc lỗ do
chênh lệch thuế và thực lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam không
đủ mạnh trên thị trường Hoa Kỳ.
Để nắm được rõ hơn thực trạng hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa
Kỳ cần đi sâu phân tích một số nhóm hàng điển hình. Những nhóm hàng có
tỷ trọng lớn, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao; một số nhóm hàng suy
giảm, và cuối cùng là một số nhóm hàng có tiềm năng mới có thể xuất sang
thị trường Hoa Kỳ.
- Nhóm hàng hải sản
Trong lịch sử, Hoa Kỳ không và chưa phải là thị trường truyền thống của
Việt Nam đối với mặt hàng này. Nhật Bản và E.U từ trước đến nayvẫn là thị
trường tiêu thụ chủ yếu đối với mật hàng này. Ngoài yếu tố thuận lợi là các
yêu cầu về chất lượng và kiểm dịch của Hoa Kỳ không quá chặt chẽ và khó
khăn như của thị trường EU, tuy nhiên cũng còn có khá nhiều khó khăn như
khoảng cách vận chuyển xa, thị hiếu quá đa dạng và đặc biệt, khả năng nuôi
trồng và đánh bắt của Việt Nam còn rất hạn chế. Chính vì những lý do trên
nên đến cuối năm 1999, tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường
Hoa Kỳ không đáng kể. Tuy nhiên, năm 2000, mức tăng trưởng đã vượt xa

dự kiến, khiến ngay cả phía Hoa Kỳ cũng bày tỏ sự lo ngại đối với thị trường
của họ. Mức tăng trưởng của năm 2000 đặc biệt cao, đạt mức 124,7%, đưa
nhóm hàng này lên vị trí đầu bảng. Điều này cho thấy khi các doanh nghiệp
- 7 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của Việt Nam cải thiện được năng lực cạnh tranh thì thị trường Hoa Kỳ thực
sự là một thị trường tiềm năng đầy hứa hẹn đầy hứa hẹn.
Trong tổng số 134,7 triệu USD giá trị xuất khẩu tăng thêm trong năm
2000 thì có tới hơn 80 triệu USD thuộc về nhóm động vật giáp xác, tôm,
cua, sò, v.v. Những hàng này thường được xuất sang Hoa Kỳ dưới dạng
sống, tươi, ướp lạnh hoặc hấp, luộc chín. Mức tăng trưởng 130,6% của nhóm
này đóng góp hơn 70% vào mức tăng trưởng chung của toàn nhóm hàng hải
sản. Qua sự tăng trưởng mạnh này có thể thấy, trước hết ảnh hưởng quan
trọng của yếu tố giá cả tại thị trường Hoa Kỳ. Theo biểu thuế nhập khẩu của
Hoa Kỳ, một số mặt hàng không có sự chênh lệch giữa hai mức thuế MFN
và non-MFN hoặc nếu có thì mức chênh lệch không đáng kể. Cụ thể, đối với
các loại tôm hùm đá, tôm nhỏ cả hai loại thuế suất đều bằng 0. Đối với cua,
mức thuế non-MFN là 15% so với MFN là 7,5 %. Ngoài ra, những mặt hàng
này thực tế Việt Nam có khả năng nuôi trồng và tái tạo nguồn đánh bắt. Điều
này cho thấy thị trường hải sản Hoa Kỳ còn nhiều chỗ trống cho hàng hoá
Việt Nam xâm nhập.
Phân nhóm hàng quan trọng thứ hai là cá khúc và các loại cá tươi, ướp
lạnh hoặc đông. Năm 2000, nhóm này tăng từ 15,6 triệu USD lên 32,6 triệu
USD tương ứng mức tăng thêm 108,8%. Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất
khẩu nhóm hàng này.
Nhận xét: Đối với nhóm hàng hải sản trong năm 2000 và đến quí 1 năm
2001 là tương đối tốt. Các doanh nghiệp của ta đã năng động tìm đối tác, tìm
kẽ hở (chênh lệch thuế ít) đẩy mạnh công tác xuất khẩu. Tuy nhiên chúng ta
cần phải chú trọng hơn nữa công tác nuôi trồng, quy hoạch, đặc biệt là khâu
kiểm tra giám sát chất lượng hàng xuất. Trên phương diện vĩ mô cũng cần

chuẩn bị đối phó với các biện pháp kỹ thuật của Hoa Kỳ khi họ thấy hàng
xuất khẩu của ta tăng mạnh.
- 8 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Nhóm hàng thứ hai là cà phê, chè, gia vị, v.v
Nhóm mặt hàng này tiếp tục duy trì vị trí đứng thứ hai của mình bằng
việc phục hồi mạnh mẽ trong năm 2000. Tương tự hải sản, nhóm này không
có sự chênh lệch đáng kể giữa thuế MFN và thuế non-MFN (đều bằng
không), hoặc không đáng kể. Ngay sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ vào
năm 1994, nhóm hàng cà phê, chè đã xâm nhập thị trường Hoa Kỳ và đạt
mức tăng trưởng cao nhất vào năm 1998. Năm 1999, xuất khẩu của nhóm
này giảm gần 50%. Năm 2000 mặt hàng cà phê đã phục hồi và đã đạt mức
tăng trưởng là 12,8%, chiếm vị trí chủ đạo với tỷ trọng 85% tổng giá trị xuất
khẩu. Cà phê xuất khẩu đạt 112,9 triệu USD tăng 12,8% so với mức 100,1
triệu USD năm 1999. Do giá cà phê thế giới giảm mạnh nên sự phục hồi trên
là rất đáng khích lệ, phản ánh lượng hàng xuất đã tăng và phục hồi trở lại.
Cầu và thị phần cà phê Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ vẫn được duy trì.
Trở ngại về thuế gần như không có (hầu hết bằng 0). Tuy nhiên, đến quí 1
năm 2001, mặt hàng cà phê, chè lại giảm mạnh (từ 60,9 triệu năm 2000 còn
37,9 triệu năm 2001, giảm 37,8%). Điều này cho thấy việc giá cả cà phê tăng
giảm thất thường đã ảnh hưởng trực tiếp đến kim ngạnh xuất khẩu của Việt
Nam.
Phân nhóm chiếm tỷ trọng thứ hai là hạt tiêu. Năm 2000, phân nhóm
này đạt mức 17,4 triệu USD, tăng 11,8% so với năm 1999. Đặc biệt loại tiêu
chưa xay hoặc tán, với mức thuế bằng 0 đã xâm nhập từ rất sớm vào thị
trường Hoa Kỳ và tiếp tục tăng mạnh.
Các phân nhóm còn lại như chè xanh, chè đen không có dấu hiệu tăng
mạnh. Năm 2000 chỉ tăng từ 300.000 USD lên 1,4 triệu USD chiếm tỷ trọng
khoảng 1%. Trong đó, chè đen các loại không có chênh lệch thuế, còn chè
xanh có mức thuế chênh lệch là 13,6%. Quế, hạt hồi, gừng đều tăng mạnh

nhưng giá trị tuyệt đối còn chưa cao. Giá trị xuất khẩu quế và hoa quế đạt
- 9 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 1,1 triệu USD. Hạt hồi, rau mùi tăng 72% nhưng cũng chỉ đạt 98,5
nghìn USD. Mặt hàng gừng năm 2000 giảm mạnh khoảng 64,5 %. Với
những số liệu trên có thể thấy rằng trong năm qua nhóm hàng này tăng
trưởng không đáng kể mặc dù có một vài mặt hàng không có chênh lệch
thuế giữa thuế non-MFN và MFN hay chênh lệch không đáng kể.
- Nhóm hàng giày dép và phụ kiện giày dép
Hiện nay, cùng với Trung Quốc và Indonesia, Việt Nam là nước xuất
khẩu giày dép và phụ kiện giày dép lớn trong số các nước xuất khẩu có dùng
nguyên liệu của Hoa Kỳ sang thị trường này. Do mức thuế suất non-MFN và
MFN khá lớn (thường là 0 so với 20%) nên các doanh nghiệp sử dụng nguồn
nguyên liệu ngoài Hoa Kỳ sản xuất tại Việt Nam rất khó thâm nhập. Một
thực tế là các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép hiện nay hầu hết là các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tận dụng sức lao động rẻ của công nhân
Việt Nam để làm hàng gia công xuất khẩu nên kim ngạch xuất khẩu cao
nhưng phần lợi nhuận thực của phía Việt Nam lại thấp so với các nhóm hàng
xuất khẩu khác.
Những năm trước đây, nhóm hàng này thường đứng đầu trong số các
mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ bởi các kênh phân phối khép kín sẵn có
của các hãng nổi tiếng thế giới như Nike và Reebok và một số công ty khác
có trụ sở tại Hoa Kỳ. Năm 1999 nhóm hàng này đạt giá trị 145,7 triệu USD,
năm 2000 giá trị xuất khẩu giảm 21,3 triệu USD. Đến quí 1 năm 2001 mặt
hàng này tiếp tục giảm mạnh đang đặt ra cho các doanh nghiệp da giầy Việt
Nam những thách thức vô cùng to lớn.
Vấn đề đặt ra bây giờ là các doanh nghiệp sản xuất giầy Việt Nam với
vốn đầu tư trong nước, phải nhanh chóng tiếp cận phương pháp sản xuất,
phương pháp tiếp thị mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư Hoa Kỳ đang áp
- 10 -

Website: Email : Tel : 0918.775.368
dụng. Ngoài ra cũng phải chú trọng đến thủ tục hải quan, các quy định kỹ
thuật liên quan.
- Nhóm hàng quần áo, hàng may mặc sẵn
Nhóm hàng quần áo, hàng may mặc sẵn bao gồm các loại dệt kim, đan
hoặc móc hoặc không dệt kim đan hoặc móc là một trong những nhóm hàng
chiến lược tăng đặc biệt mạnh với mức tăng trưởng 28,3% (từ 36,4 triệu
USD năm 1999 lên mức 46,7 triệu USD năm 2000). Trước hết cần khẳng
định đây là nỗ lực rất lớn của ngành may mặc Việt Nam trong thời gian qua
bởi mức chênh lệch về thuế quá cao được áp dụng cho hàng may mặcViệt
Nam so với thuế MFN và thuế ưu đãi đặc biệt mà Hoa Kỳ dành cho một một
số nước khác. Tiếp đó là nỗ lực đáng ghi nhận trong việc đa dạng hoá mặt
hàng cũng như chất lượng của hàng may mặc, khác với những năm trước
đây, hàng may mặc xuất sang Hoa Kỳ chủ yếu từ vải dệt kim, đan hoặc móc.
Trong thời gian tới mặt hàng may mặc vẫn được xem là mặt hàng chủ lực
không chỉ đối với thị trường Hoa Kỳ mà cả với các thị trường thế giới. Cùng
với việc Hiệp định Thương mại song phương giữa hai nước có hiệu lực,
hàng may mặc Việt Nam sẽ được hưởng thuế MFN do đó sẽ nâng cao năng
lực cạnh tranh đối với mặt hàng này trên thị trường Hoa Kỳ không chỉ về
chất lượng, mẫu mã mà còn về giá cả, dó đó mức tăng trưởng sẽ không chỉ
dừng lại ở con số 28,3% như giai đoạn 1999-2000.
- 11 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 4: Mức thuế nhập khẩu của Mỹ đối với một số loại hàng dệt may
Đơn vị %
Tên hàng Thuế suất phi
MFN
Thuế suất MFN Mức thuế chênh
lệch
Quần áo bằng vải bông 90 10 80

áo khoác từ sợi nhân tạo, không dệt kim, đan
móc, loại khác
90 28,8 61,2
áo khoác làm từ sợi nhân tạo, có dệt kim 72 29,3 42,7
áo sơ mi côtông cho nam 67,5 14,9 52,6
áo khoác từ sợi nhân tạo, không dệt kim, đan
móc, trên 36% len
58,5 20,5 38
Bộ quần áo có đan móc, bằng len hoặc lông
động vật
54,5 16 38,5
áo khoác đan móc với trên 70% khối lượng là
tơ tằm
45 4 41
áo khoác đan móc với dưới 70% khối lượng
là tơ tằm
45 5,9 39,1
Nguồn: Bộ Thương mại
Như vậy với các thông số về mức thuế nhập khẩu mà Mỹ áp dụng đối
với các mặt hàng may mặc, dù phải chịu mức rất cao so với MFN nhưng
nhóm hàng quần áo, hàng may mặc sẵn vẫn đạt kim ngạch XK cao. Với việc
hiệp định thương mại có hiệu lực, nhóm hàng này sẽ tạo động lực trong việc
thúc đẩy hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
- Các nhóm hàng tăng mạnh cần có sự điều chỉnh
Ngoài những nhóm hàng trên, còn rất nhiều nhóm hàng có sự tăng
trưởng cao, tuy nhiên trên thực tế lại có những tồn tại tiêu cực trong sự tăng
trưởng đó. Điển hình là nhóm hàng thuộc đồ trang trí nghệ thuật, đồ cổ (tăng
từ 578.000 USD năm 1999 lên 12,9 triệu năm 2000, tăng 22,3 lần). Tuy
nhiên, sự tăng trưởng đột biến lại không đáng mừng bởi tới 12 triệu USD trị
giá xuất khẩu thuộc về những cổ vật hơn 100 năm tuổi mà không ai nắm rõ

được bao nhiêu trong số chúng thuộc tài sản quốc gia.
- Những nhóm hàng giảm hoặc có xu hướng giảm
- 12 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh những nhóm hàng tăng trưởng rất đáng khích lệ, một số nhóm
hàng cho thấy xu hướng chững lại, hoặc giảm mạnh. Đó là nhóm hàng sắt
thép, rau, hoa quả chế biến, đường, kẹo, v.v. Mặc dù thị trường biến động
hàng ngày và chưa có đủ cơ sở để kết luận về sức cạnh tranh của những
nhóm hàng trên tại thị trường Hoa Kỳ, nhưng xu hướng diễn biến tiêu cực
của chúng buộc nhà nước và đặc biệt là các nhà xuất khẩu Việt Nam phải có
sự xem xét hết sức cụ thể về mặt sản xuất cũng như thị trường Hoa Kỳ.
- Các nhóm hàng mới xuất hiện
Theo quy luật của thị trường, song song với những nhóm hàng bị triệt
tiêu cũng xuất hiện những nhóm hàng mới, mở ra hướng mới cho hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam. Đó là giấy, các sản phẩm xay xát, bông, đồng hồ
và linh kiện đồng hồ v.v. Mặc dù kim ngạch các nhóm này chỉ đạt trên dưới
100.000 USD nhưng đây là tín hiệu rất đáng mừng cho xuất khẩu Việt Nam.
1.3. Đánh giá thực trạng hàng hoá của Hoa Kỳ nhập khẩu vào Việt Nam
Mặc dù kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt khoảng một nửa kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ nhưng những biến động trong
tăng trưởng của lượng hàng này cũng sẽ có ảnh hưởng nhất định tới nền kinh
tế Việt Nam. Trước hết, cần khẳng định lại là do hàng hoá Hoa Kỳ nhập
khẩu vào Việt Nam đã và đang được hưởng thuế MFN nên sau khi Hiệp
định có hiệu lực, một số nhóm hàng sẽ không có thay đổi gì lớn. Một số
nhóm khác tuy có lộ trình cắt giảm thuế, song cũng nằm trong chiến lược
chung của mỗi ngành và dự kiến trong các cam kết quốc tế khác của Việt
Nam. Trong năm 2000, tổng trị giá hàng của Hoa Kỳ được nhập khẩu
vào Việt Nam đạt 330,5 triệu USD tăng 19,1 % so với mức 277,3 triệu USD
năm 1999. Đây là mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng trung bình xuất
khẩu của Hoa Kỳ ra thế giới lẫn xuất khẩu từ Hoa Kỳ vào khu vực ASEAN.

Điều này chứng tỏ Việt Nam là thị trường có tiềm năng và là một trong
- 13 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những thị trường được các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm. Ngoài
ra, đi kèm với xuất khẩu hàng hoá là các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu, trong đó,
xuất khẩu dịch vụ luôn là hoạt động xuất khẩu trọng tâm của Hoa Kỳ.
Cũng như các năm trước đây, hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam
chủ yếu là các hàng hoá mà Việt Nam không có khả năng sản xuất hoặc kém
thế cạnh tranh và điều đáng mừng là phần lớn trong số chúng phục vụ được
chủ trương và định hướng phát triển kinh tế của ta. Tính đến hết năm 2000,
số lượng hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam đã rất đa dạng bao gồm
khoảng hơn 96 nhóm mặt hàng.
Nhìn tổng thể, có thể chia làm ba nhóm lớn. Nhóm các mặt hàng có kim
ngạch trên 20 triệu USD, bao gồm lò và nguyên liệu cho phẩn ứng hạt nhân,
máy và động cơ điện, phân bón, giày dép. Nhóm các mặt hàng có kim ngạch
từ 1 đến 20 triệu USD bao gồm 34 nhóm hàng như nhựa, bông, phim ảnh,
hoá chất hữu cơ, hoa quả v.v. Nhóm các mặt hàng còn lại bao gồm khoảng
trên 58 nhóm hàng có kim ngạch dưới 1 triệu USD.
Nhóm hàng chiếm tỷ trọng cao nhất là lò phản ứng hạt nhân và các dụng
cụ, nhiên liệu liên quan với 23,7 % tổng trị giá% nhập khẩu. Năm 2000
nhóm hàng này tăng khá mạnh 28,4% so với mức 61 triệu USD năm 1999.
Nhóm thứ hai là máy và các dụng cụ điện với tỷ trọng 9,2% tương ứng
30,3 triệu USD. Nhóm hàng này tăng mạnh nhất trong năm qua với mức
tăng 50% cải thiện vị trí từ thứ 4 năm 1999 lên thứ 2 năm 2000.
Thứ ba là phân bón với tỷ trọng 8,6%. Nhóm này sụt giảm mạnh khoảng
16,2 triệu USD so với năm 1999, tụt từ vị trí thứ 2 xuống vị trí thứ 3.
Một số nhóm hàng tăng mạnh bao gồm phụ kiện giày dép (tăng 313,4%);
hoa quả họ cam chanh (tăng 239%); bông (tăng 190%); sắt thép (tăng
147%); dược phẩm (tăng 64,3%), v. v Hầu hết các nhóm hàng còn lại đều
tăng hoặc giảm nhưng không đáng kể.

- 14 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quy chế đối xử mà Việt Nam dành cho Hoa Kỳ hiện rất thuận lợi. Từ
năm 1999, hàng từ Hoa Kỳ xuất vào Việt Nam được hưởng thuế tối huệ
quốc và được hưởng các điều kiện cân bằng với hàng hoá xuất khẩu vào Việt
Nam từ các nước khác. Một khi quan hệ thương mại được khai thông, các
chương trình hỗ trợ và xúc tiến xuất khẩu của Hoa Kỳ hoạt động có hiệu
quả, kim ngạch nhập khẩu hàng Hoa Kỳ chắc chắn sẽ không dừng ở con số
khiêm tốn trên. Vấn đề đặt ra với Việt Nam là làm sao tận dụng và tối đa hoá
lợi ích hàng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, đặc biệt các nhóm hàng có hàm lượng
khoa học kỹ thuật cao đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
- Nhóm hàng lò phản ứng và phụ tùng, máy móc và phụ tùng cơ khí
Ngay từ khi hai nước bắt đầu có hoạt động thương mại hai chiều,
nhóm hàng trên đã luôn chiếm vị trí dẫn đầu bởi do nhu cầu của Việt Nam
cũng như lợi thế về kỹ thuật của Hoa Kỳ. Năm 2000, với mức tăng trưởng
28,4% đạt 78,3 triệu USD nhóm hàng này quả thực đã góp phần đáng kể vào
tăng trưởng xuất khẩu chung của Hoa Kỳ sang Việt Nam.
Chiếm tỷ trọng cao nhất với mức 28,3% tổng trị giá nhập khẩu của
nhóm này là động cơ hơi nước, tuabin. Năm 2000, phân nhóm này tăng
74,9% (từ 12,7 triệu USD năm 1999 lên 22,2 triệu USD).
Đứng thứ hai là nhóm máy móc với tỷ trọng 17%. Năm 2000, nhóm
hàng này đạt 13,4 triệu USD (tăng 70,8% so với năm 1999). Sự gia tăng
mạnh mẽ nhóm hàng này lđược giải thích bởi một loạt các công ty cơ khí
hàng đầu của Hoa Kỳ như Ford, Carterpillar, Chrysler, đã mở nhà máy hoặc
mở văn phòng đại diện tại các thành phố lớn tại Việt Nam khi hai nước chưa
ký Hiệp định thương mại.
Mười lăm nhóm hàng máy móc sản xuất như động cơ phản lực, máy
in giấy, máy nén khí, nén ga, thiết bị lọc .v.v với kim ngạch trên dưới 1 triệu
- 15 -

Website: Email : Tel : 0918.775.368
USD đều rất cần thiết cho Việt Nam. Còn lại là máy móc gia dụng phục vụ
sinh hoạt và gia đình. Tỷ trọng cao của nhóm này trong tổng kim ngạch nhập
khẩu là hợp lý nhưng tỷ trọng trong phân nhóm vẫn làm các cơ quan hữu
quan phải lo ngại bởi xu hướng tăng cao của hàng tiêu dùng. Vì vậy Nhà
nước cần có định hướng cũng như các điều chỉnh để có thể tận dụng kỹ thuật
phục vụ cho các ngành sản xuất của Việt Nam.
- Máy móc thiết bị điện và các bộ phận của chúng
Năm 2000với trị giá xuất khẩu lên tới 30,3 triệu USD, nhóm hàng này
đạt mức tăng trưởng rất cao chiếm khoảng 50%. Nhóm hàng máy móc thiết
bị điện sẽ là mặt hàng mũi nhọn trong số các mặt hàng xuất khẩu chiến lược
của Hoa Kỳ sang thị trường Việt Nam.
Mạch tích hợp và vi linh kiện điện tử cũng đang chiếm tỷ trọng cao
nhất là 16,2% với trị giá xuất khẩu khoảng 4,9 triệu USD. Tiếp đó là linh
kiện tivi, đài và rađa, với tỷ trọng 12,6% và trị giá khoảng 3,8 triệu USD.
Dây, cáp điện và các vật truyền dẫn khác bao gồm cả sợi cáp quang
năm 2000 cũng tăng mạnh khoảng 60% so với năm 1999.
Các mặt hàng điện tử tiêu dùng đã xuất hiện tương đối đa dạng, phong
phú như tivi, đài và các phương tiện nghe nhìn khác, máy thu thanh.v.v Tuy
nhiên dễ nhận thấy kim ngạch các nhóm hàng này còn rất thấp và sự tràn
ngập của hàng điện tử Châu á, đặc biệt từ Nhật Bản và Hàn Quốc tại thị
trường Việt Nam là nhân tố kìm hãm sự tăng trưởng của nhóm hàng này.
- Nhóm hàng phim ảnh và các dụng cụ quang học chính xác
Mới chỉ xếp vị trí khiêm tốn trong số các nhóm hàng Hoa Kỳ xuất
khẩu sang Việt Nam, nhưng phim ảnh và các dụng cụ quang học chính xác
đã cho thấy tiềm năng tăng rất mạnh trong những năm tới.
Dụng cụ chính xác dùng trong phân tích vật lý, y tế, phân tích hoá học
bao gồm cả các máy chiếu xạ, chiếm tỷ trọng tới 60% tổng trị giá xuất khẩu.
- 16 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Điều này cũng phù hợp với xu hướng phát triển mở rộng một số trung tâm y
tế của ta. Trong thời gian tới, khi các cam kết về dịch vụ y tế và các dịch vụ
khác có hiệu lực, việc cần có các tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ rất cần thiết để loại
bỏ các công nghệ cũ, lạc hậu giúp Việt Nam nhanh chóng tiếp cận công
nghệ hàng đầu của Hoa Kỳ phục vụ cho các hoạt động y tế.
Qua những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy một cách tương đối
rõ nét thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước trong thời gian
qua. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định là, thực tiễn thương mại song
phương trong những năm qua chưa tương xứng với tiềm năng thực sự của
hai nước. Xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ mới chỉ chiếm khoảng
0,068% tổng trị giá hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Ngược lại
xuất khẩu của Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng chỉ chiếm 2,4% tổng trị giá hàng
nhập khẩu vào Việt Nam. Sự chênh lệch giữa tiềm năng và thực tế này chủ
yếu do những nguyên nhân sau đây:
- Thị trường Mỹ còn quá xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp Việt Nam chưa có cơ hội được tiếp cận do quan hệ chính trị giữa hai
nước. Đây là nguyên nhân khách quan.
Về mặt chủ quan, hàng hoá của Việt Nam còn manh mún, giá thành cao,
chất lượng thấp, chưa đa dạng về chủng loại nên chưa thu hút được sức mua
cũng như đáp ứng thị hiếu của người dân Hoa Kỳ.
- Công nghệ, máy móc của các doanh nghiệp Việt Nam còn lạc hậu, do
đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng cũng như khả năng cạnh tranh của hàng
Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ.
Mặc dù kim ngạch chưa cao, nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang Hoa
Kỳ lại thuộc loại cao nhất trong số các thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
Với Việt Nam, rõ ràng thị trường Hoa Kỳ ngày càng có một vị trí quan
trọng. Tổng kim ngạch hai chiều hơn 1 tỷ USD trong năm 2000 sẽ còn tăng
- 17 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mạnh trong những năm tới, giúp giải toả bớt sức ép cũng như giúp Việt Nam

đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Trong khi đó, mặc dù chỉ xếp thứ 70 trong
số 200 đối tác thương mại của mình, nhưng với vị trí chiến lược trong
ASEAN và khu vực Đông á, Việt Nam luôn là một đối tác thương mại quan
trọng của các nhà đầu tư, xuất khẩu Hoa Kỳ. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là
trên một nền tảng pháp lý khá rõ ràng và một môi trường đầu tư hấp dẫn,
thuận lợi, chắc chắn Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ
sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam khắc phục những mặt yếu, tối đa hoá lợi ích dân
tộc và trong thời gian ngắn nhất có thể phát huy tối đa quy mô phát triển và
sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như hàng hoá và dịch vụ của Việt
Nam.
II. Dự báo tiềm năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ và hàng hoá cần nhập khẩu từ
Hoa Kỳ vào Việt Nam sau khi Hiệp định thương mại việt nam - hoa kỳ có hiệu lực
Để có cái nhìn tương đối về tiềm năng xuất nhập khẩu đối với hàng
hoá Việt nam sang Hoa kỳ chúng ta cần có cơ sở để xây dựng dự báo cho
tương lai Ngoại thương của Việt nam trong buôn bán với Hoa Kỳ. Cơ sở đó
chính là Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-
2010 và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển hàng hoá
xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001-2010:
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lẫn thứ IX đã đưa ra định hướng
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong 10 năm đầu của
thế kỷ 21 (2001-2010): “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp”. Mục tiêu chung của Chiến lược 10 năm
(2001-2010) là đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, nâng cao vị thế của Việt
- 18 -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nam trên trường quốc tế, tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu cụ thể của

Chiến lược là:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu
quả và sức cạnh tranh của sản phẩm , của doanh nghiệp và của nền kinh tế.
Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP.
- Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên hai lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng
trong GDP của nông nghiệp 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42-43%.
- Nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) bình
quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10-10,5%/năm. Đến năm 2010, công
nghiệp và xây dựng chiếm 40-41% GDP và sử dụng 23-24% lao động.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát và cụ thể của Chiến lược phát triển kinh
tế -xã hội của Việt Nam, trong giai đoạn từ 2001 đến 2010, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX cũng đã nêu rõ Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại
trong đó có định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
mà cụ thể là:
Về xuất khẩu
- Tăng tổng kim ngạch xuất khẩu. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt
hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh, tìm
kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, nâng cao chất lượng các
mặt hàng xuất khẩu.
- Phấn đấu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới đạt khoảng 114 tỷ
USD, tăng 16%/năm, trong đó nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là
15,9%; nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm
43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp, tăng bình quân hàng năm 22%;
- 19 -

×