Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.2 KB, 11 trang )

I.
LỜI NÓI ĐẦU
Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là hành vi trái
pháp luật gây nguy hiểm cho xã hội. Nó trực tiếp xâm hại đến những quy tắc quản
lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ảnh hưởng không nhỏ
tới quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân. Vì lẽ đó xử phạt vi phạm
hành chính là một trong những nội dung rất quan trọng của hoạt động quản lí hành
chính nhà nước. Xử lí vi phạm hành chính bao gồm nhiều hoạt động khác nhau do
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền căn cứ vào quy định của pháp luật
hiện hành, trong đó hoạt động vi phạm hành chính là một trong những hoạt động
quan trọng nhất. Để thực hiện xử phạt vi phạm hành chính, bên cạnh quy định về
hành vi vi phạm hành chính, đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính, thẩm quyền
thủ tục vi phạm hành chính vv… Nhà nước còn quy định về các hình thức xử phạt
vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả. Quy định về hình thức xử
phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả có nhiều điểm tiến
bộ tuy nhiên cũng không ít vấn đề bất cập. Chính vì vậy sau đây em chọn đề tài:
“Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về các hình thức xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả” để tìm hiểu.
II.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Một số khái niệm.
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý
hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính.
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,
căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử
phạt hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả khác (trong trường hợp cần
thiết, theo quy định của pháp luật ) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính.
2. Yêu cầu về tính hợp lí của các quy định về hình thức xử phạt
hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả.


Các quy định về hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu
quả phải có tình hợp lí. Cụ thể tính hợp lí của các quy định chính là:
Quy định về hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu
quả phải đảm bảo được lợi ích của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân, không
tách rời giữa lợi ích của Nhà nước với nguyện vọng của nhân dân.
1


Quy định về hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu
quả phải xuất phát từ yêu cầu khách quan không được xuất phát từ ý muốn chủ
quan của người làm luật.
Ngôn ngữ của Quy định về hình thức xử phạt hành chính và biện pháp
khắc phục hậu quả phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, các thuật ngữ pháp lí phải
chính xác, không được đa nghĩa.
Quy định về hình thức xử phạt hành chính và biện pháp khắc phục hậu
quả phải có tính dự báo.
Quy đinh về hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả phải có
tính khả thi.
Đây là những yêu cầu xuất phát từ thực tiễn của hoạt động quản lí hành chính
cũng như trên cơ sở của sự kiểm chứng khoa học.
3. Tính hợp lý của quy định hiện hành về các hình thức xử phạt
hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả.
Để thực hiện hoạt động xử phạt hành chính, bên cạnh việc quy định về hành
vi vi phạm hành chính, đối tượng bị xử phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt vv…
Nhà nước còn quy định về các hình thức, biện pháp để xử lý vi phạm hành chính.
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả được Nhà
nước quy định trong nhiều văn bản ví dụ: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ban
hành năm 1989, pháp lệnh xử lý hành chính năm 1995, và mới nhất là pháp lệnh về
xử lý vi phạm năm 2002 ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008)…
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm

2007,2008) đã hoàn thiên hơn so với pháp lệnh với pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 và phần nào phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Tuy nhiên thực tế
hiện nay vi phạm hành chính diễn ra rất phức tạp nhưng hệ thống các hình thức xử
phạt và biện pháp khắc phục hậu quả được quy định trong pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính còn hạn chế. Căn cứ vào điều 12 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 (sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008) thì có ba hình thức xử phạt chính:
cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất; ba hình thức xử phạt bổ sung: tước quyền sử dụng
giấy phép chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính, trục xuất; và năm biện pháp khắc phục hậu quả.
3.1. Các hình thức xử phạt chính
Hình thức xử phạt chính được áp dụng một cách độc lập, nghĩa là đối với mỗi
vi phạm hành chính chỉ được áp dụng một hình thức xử phạt chính ( có thể kèm
theo hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khác). Đối với mỗi vi phạm hành
2


chính, tổ chức, cá nhân vi phạm phải phải chịu một trong các hình thức xử phạt
chính là cảnh cáo, phạt tiền hoặc trục xuất.
3.1.1.
Hình thức cảnh cáo
Hình thức xử phạt cảnh cáo được quy định cụ thể tại điều 13 pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007,2008): “ Cảnh cáo
được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình
tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn
bản”.
So với pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 thì pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008) đã có điểm đổi mới
về quy định hình thức xử phạt cảnh cáo : “ Cảnh cáo được quyết định bằng văn
bản” thay cho : “ Được quy định bằng văn bản hoặc bằng các hình thức khác được

quy định bằng văn bản hoặc các hình thức khác được quy định trong các văn bản
pháp luật quy định về xử phạt vi phạm hành chính”. Chính điểm đối mới này đã
giúp hình thức xử phạt cảnh cáo trở nên có hiệu quả hơn. Một điều cần chú ý khi
áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là xác định điều kiện để áp dụng hình thức xử
phạt cảnh cáo. Tác dụng và hiệu quả của phạt cảnh cáo phụ thuộc rất nhiều vào
việc áp dụng hình thức cảnh cáo đã giải thích rõ điều kiện áp dụng hình thức cảnh
cáo đối với người vi phạm như thế nào để người đó nhận thức rõ và kiềm chế
không thực hiện hành vi vi phạm nữa. Việc áp dụng hình thức cảnh cáo có ý nghĩa
cảnh báo cho người vi phạm trong trường hợp tái phạm họ sẽ bị áp dụng các biện
pháp có mức độ nghiêm khắc hơn. Chính vì vậy việc quy định quyết định hình
thức xử phạt bằng văn bản là một quy định hợp lý tránh tình trạng không rõ ràng
khi xử phạt tái phạm.
Tuy nhiên hình thức xử phạt cảnh cáo vẫn ít được áp dụng trong thực tế, nếu
áp dụng lại mang tính hình thức, không thể hiện sự nghiêm minh. Hay nói cách
khác các đối tượng vi phạm hành chính bị xử phạt không sợ hình thức xử phạt này.
Đây là một số điểm hợp lí và bất hợp lí của hình thức xử phạt cảnh cáo.
3.1.2. Hình thức phạt tiền.
Phạt tiền là hình thức xử phạt hành chính được quy định tại điều 14 pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, sửa đổi năm 2007, 2008). Trong thực
tế xử lý vi phạm hành chính, hình thức xử phạt tiền được áp dụng một cách rất phổ
biến và có hiệu quả. Tuy nhiên cũng chính vì sự dao động của tiền mà nhiều quy
định về hình thức xử phạt tiền còn chưa hợp lí và mang lại hiệu quả cao.
3


Tại điều 14 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi : quy định
mức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính là 10.000 đồng đến 500.000.000
đồng thay cho mức phạt cũ là 5.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Mức phạt này tuy
đã lớn hơn so với mức phạt tiền cũ tuy nhiên với tình hình kinh tế thị trường hiện
nay thì mức phạt này phải chăng còn thấp và chưa phù hợp với thực tế.

Trên cơ sở khung phạt mà pháp luật quy định mức phạt quy định trong một số
trường hợp cụ thể được quy định trong một số lĩnh vực như quản lý bảo vệ rừng,
giao thông, vv… còn chưa thật hợp lý. Một số mức phạt còn quá cao, thiếu tính
khả thi đặc biệt đối với vùng kinh tế còn nhiều khó khăn thiếu thốn, vùng đồng bào
dân tộc, vùng sâu vùng xa. Ngược lại trong một số trường hợp vi phạm hành chính
nghiêm trọng trong việc liên quan đến biên giới quốc gia, lao động đi làm việc ở
nước ngoài…thì chỉ quy định mức tối đa là 40.000.000 đồng (điểm b điều 14).
Mức quy định chưa thực sự phù hợp (còn quá thấp) chưa đủ sức răn đe, giáo dục.
Định ra mức phạt tiền dù ở mức nào cũng đưa ra hai mặt trái ngược nhau. Đó
là người ta không thể đặt ra mức phạt tiền cao vô hạn vì điều đó trái với nguyên tắc
tương đương giữa vi phạm và chế tài được áp dụng. Mặt khác trong nền kinh tế thị
trường tất yếu trong xã hội phân hóa giàu nghèo. Đối với người nghèo phạt tiền có
tác động mạnh nhưng có nhiều trường hợp họ không có khả năng nộp phạt. Do đó
việc áp dụng hình thức phạt tiền gặp nhiều khó khăn, vì nếu phạt thấp thì trái với
quy định phạt tiền, mà phạt đúng thì người vi phạm thực tế không có khả năng nộp
phạt mà họ không có tài sản cưỡng chế thi hành. Có nhiều hành vi vi phạm theo
quy định phải phạt tiền nhưng đối tượng là người lang thang, một số ở nơi khác
đến không có tiền nộp phạt, tạm giữ thì không có nhà tạm giữ cho tất cả, áp dụng
biện pháp xử lý khác thì chưa đến mức hoặc không đủ điều kiện nên đành phải xử
phạt cảnh cáo dẫn đến việc xử lý không đúng pháp luật vừa thiếu tính răng đe lại
không hạn chế được vi phạm pháp luật. Trong khi đó lại có những người có hành
vi vi phạm hành chính nhưng gia đình có điều kiện vì vậy xem thường pháp luật,
trường hợp này phạt tiền cũng không mang lại hiệu quả cao.
Như vậy quy định hiện hành về hình thức phạt tiền cũng còn nhiều điểm bất
hợp lí cần phải xem xét.
3.2. Hình thức xử phạt bổ sung.
Ngoài các hình thức xử phạt chính , tùy theo tính chất mức độ vi phạm, cá
nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức phạt bổ sung.
Hình thức xử phạt bổ sung không mang tính độc lập mà luôn đi kèm với hình thức
xử phạt chính.

4


Theo khoản 2 điều 12 pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 ( Sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2008) quy định: “Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức
xử phạt bổ sung sau đây:
a) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính”.
Đối với hai hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính thực tế thực hiện cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả pháp luật tuy nhiên
cũng còn không ít bất hợp lí.
3.2.1.
Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề.
Tại điều 16 pháp lệnh xử lí vi phạm pháp luật hành chính năm 2002 quy định:
“Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không có
thời hạn được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy
phép, chứng chỉ hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động
ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề.”. Như vậy việc quy định về hình thức
phạt bổ sung này đã giúp cho các chủ thể có thẩm quyền xử lí tốt hơn các vi phạm
hành chính, không chỉ có tình trừng phạt mà còn góp phần giúp ngăn chặn các
hành vi có thể vi phạm tiếp. Đây là một trong những hình thức xử phạt hiệu quả hỗ
trợ cho các hình thức xử phạt chính.
Tuy nhiên quy định về hình thức xử phạt bổ sung tuy đúng nhưng lại không
sát và phù hợp với thực tế. Mặc dù là hình thức phạt bổ sung, không áp dụng độc
lập, chỉ được áp dụng khi có hình thức xử phạt chính, nhưng trong thực tế hiện nay
hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được áp dụng với

những vi phạm có tổ chức, mức độ lớn và có vai trò quan trọng trong các lình vực
sản xuất, lưu thông, kinh doanh thương nghiệp… Do đó nếu quy định áp dụng hình
thức xử phạt bổ sung này với hình thức phạt chính là cảnh cáo (Điều 12, 13) là
không phù hợp, không tương xứng. Hơn nữa, hiện nay xảy ra tình trạng các cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính ngại bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề hơn là hình thức xử phạt
chính, dẫn đến các cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền xử lí khi có vi phạm
hành chính xảy ra chỉ ra quyết định với các hình thức phạt bổ sung mà không có

5


hình thức xử phạt chính. Chính vì vậy vi phạm nguyên tắc áp dụng hình thức xử
phạt được quy định trong pháp lệnh.
Đấy là điểm bất hợp lí của quy định về hình thức xử phạt tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề so với thực tiễn xảy ra.
3.2.2 Hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi
phạm hành chính.
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là một
hình thức xử phạt bổ sung có hiệu quả và mang tính răn đe cao. Hình thức này
được quy định tại điều 17 pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 ( sửa đổi
bổ sung năm 2007, 2008) như sau:
“ 1. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là
việc sung vào quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp
đến vi phạm hành chính.
2. không tịch thu tang vật, phương tiện bị cá nhân, tổ chức chiếm
đoạt sử dụng trái phép mà phải trả cho chủ sở hữu hoặc người quản lí, sử
dụng hợp pháp.”
Quy định tại khoản 2 điều 17 là hoàn toàn phù hợp và có ý nghĩa quan trọng.
Nó bào vệ lợi ích của những người chủ hợp pháp, tạo nên sự công bằng và niềm tin

ở nhân dân. Tránh được tình trạng lợi dụng vi phạm mà chuộc lợi cá nhân, gây ảnh
hưởng quyền và lợi ích của công dân. Đây là một điểm tiến bộ của pháp lệnh vi
phạm hành chính năm 2002 so với pháp lệnh vi phạm hành chính năm 1995.
Tuy nhiên một điều cần lưu ý là pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002
không quy định về giới hạn tối đa của mức tịch thu. Như vậy hình thức tịch thu này
mâu thuẫn với quy định tại khoản 5 điều 3 pháp lệnh: “ Việc xử lí vi phạm hành
chính phải căn cứ vào tính chất mức độ vi phạm, nhân thân và các tình tiết tăng
nặng giảm nhẹ để quyết định hình thức, biện pháp xử lí thích hợp.” Do đó trong
thưc tế hiện nay hình thức tịch thư, xử lí tang vật phương tiện bị tịch thu đang bị
vận dụng một cách tùy tiện dẫn đến tình trạng bất bình, kiện cáo gây hoang mang
trong nhân dân.
Đấy là một số điểm cần lưu ý của hình thức bổ sung tịch thu tang vật, phương
tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
3.3. Hình thức trục xuất.
Sở dĩ đặt hình thức trục xuất làm mục riêng bởi lẽ tính chất đặc biệt của hình
thức trục xuất. Tại khoản 4 điều 12 pháp lệnh quy định: “ Người nước ngoài vi
phạm hành chính còn có thể bị trục xuất. trục xuất được áp dụng là hình thức xử
6


phạt chính hoặc hình thức xử phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.” Đây là
một quy định mới có tính chất tiền bộ của pháp lệnh năm 2002 so với pháp lệnh
năm 1995. Rõ ràng trong thời kì đổi mới việc đi lại cư trú của người nước ngoài ở
Việt Nam trở nên rất phổ biến vì vậy cần phải có luật điều chỉnh khi những đối
tượng này vi phạm là hoàn toàn đúng đắn. Vì tính chất đặc biệt của trục xuất là sử
dụng đối với người nước ngoài nên quy định trục xuất vừa là hình thức xử phạt
chính vừa là hình thức xử phạt bổ sung đã tạo nên sự linh hoạt cho các cơ quan
Nhà nước cá nhân có thẩm quyền trong xử lí vi phạm cũng được phát huy.
3.4. Các biện pháp khắc phục hậu quả.
Trong nhiều trường hợp ngoài việc bị áp dụng các biện pháp xử phạt hành

chính như đã nói trên, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng
các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Về mặt bản chất
biện pháp cưỡng chế hành chính này không có tình trừng phạt người vi phạm hành
chính mà chỉ nhằm mục đích khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính đã để lại
trên thực tế.
Các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định tại khoản 3 điều 12 pháp
lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002. Quy định trong pháp lệnh đã mang lại
hiệu quả không nhỏ góp phần khắc phục những hậu quả mà vi phạm hành chính đã
đề ra.
3.4.1. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm
hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
Tại điều 18 pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “Cá
nhân, tổ chức phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm
hành chính của mình gây ra hoặc phải tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; nếu
cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế.”
Quy định này mang tính lí luận cao giúp cho việc khắc phục hậu quả được tối
đa. Tuy nhiên quy định không mang tính hợp lí vì việc khôi phục lại tình trạng ban
đầu trong nhiều tình trạng là bất khả thi. Ví dụ như vi phạm hành chính liên quan
đến tính mạng sức khỏe thì rất khó để khôi phục lại tình trạng ban đầu …
Tại điều 17 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 1995 quy định: “Buộc
bồi thường thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra” theo em đây là một quy định
hợp lí không nên bỏ. Quy định này bổ sung cho quy định tại điều 18 pháp lệnh xử
lí vi phạm hành chính năm 2002 trong trường hợp không thể khôi phục tình trạng
ban đầu do vi phạm hành chính gây ra.
7


3.4.2.Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra.

Tại điều 19 pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định: “Cá
nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đình chỉ ngay các hành vi vi phạm gây ô
nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc
phục; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các
biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế.”Đây là một quy định hợp lí, hiện nay tình trạng ô
nhiễm đang gia tăng mạnh, bên cạnh các hình thức xử phạt như phạt tiền, tước giấy
phép thì cần phải quy định cụ thể biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm để tránh
tình trạng bỏ mặc môi trường sau vi phạm. Tuy nhiên khắc phục tình trạng ô nhiễm
môi trường lây lan dịch bệnh chưa được quy định là đến mức như thế nào. Vì vậy
trong thực tế nhiều cá nhân, tổ chức vi phạm chỉ khắc phục một cách sơ sài nên
không cải thiện được môi trường.
3.4.3. Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa,
vật phẩm, phương tiện.
Biện pháp khắc phục hậu quả này được quy định tại điều 20 pháp lệnh xử lí vi
phạm hành chính: “ Hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ Việt
Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc hàng tạm nhập tái xuất
nhưng không tái xuất theo quy định của pháp luật thì buộc đưa ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam hoặc buộc tái xuất. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí để
thực hiện biện pháp này.” Trong thời kì nước ta đang mở cửa thị trường, việc xuất
nhập khẩu hàng hóa trở nên phổ biến hơn bao giờ hết. Cũng chính vì vậy mà các vi
phạm hành chính về nhập khẩu trái với quy định của pháp luật diễn ra rất nhiều và
đa dạng. Quy định này đã phần nào giúp khắc phục được hậu quả khi vi phạm xảy
ra, tránh tình trạng nhập khẩu tràn lan trái quy định vào đất nước. Tuy nhiên vấn đề
đặt ra đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì sẽ đưa về đâu, đưa như thế nào, cơ quan
nào sẽ xử lí. Còn rất nhiều vấn đề quá chung chung nên rất khó khăn cho các cơ
quan khi xử lí vi phạm hành chính.
3.4.4. Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và
cây trồng, văn hóa phẩm độc hại.
Biện pháp khắc phục hậu quả này được quy định tại điều 21 pháp lệnh xử lí vi

phạm hành chính năm 2002: “vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi
và cây trồng, văn hóa phẩm độc hại là tang vật vi phạm hành chính phải bị tiêu
hủy. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng biện
8


pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế.” Đây là quy định hoàn toàn hợp lí, biện pháp khắc phục
này đã ngăn chặn được những hậu quả khôn lường sau này. Xử phạt vi phạm hành
chính không chỉ mang tính trừng phạt mà còn ngăn chặn kịp thời những hành vi có
nguy cơ gây hại cho xã hội nhiều hơn những hành vi diễn ra ở hiện tại. Biện pháp
này là một trong những biểu hiện cụ thể có tình thuyết phục cao cho vấn đề vừa nói
trên.
Trên đây là một số ý kiến về tính hợp lí và một số vấn đề còn hạn chế của quy
định về hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả
theo pháp luật hiện hành.
3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
hình thức xử phạt hành chính.
Qua phân tích ở phần trên nhận thấy các quy định về hình thức xử phạt vi
phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả còn nhiều điểm chưa hợp lí.
Chính vì vậy sau đây em xin kiến nghị một số giải pháp khắc phục những thiếu sót
của quy định hiện hành.
- Điều 12 quy định cảnh cáo, phạt tiền, trục xuất là hai hình thức phạt chính
nhưng thực tế có nhiều vi phạm không có tiền hoặc không có tác dụng giáo dục,
răn đe. Chính vì vậy đề nghị bổ sung thêm các biện pháp như lao động công ích và
phạt giam hành chính
- phạt tiền là hình thức xử phạt xử phạt được quy định sớm nhất trong pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính ở nước ta, và được áp dụng với hầu hết các vi
phạm. Tuy nhiên với tình hình kinh tế thị trường hiện nay liệu mức xử phạt hành
chính cao nhất là 500.000.000 đồng có còn hợp lí. Nên chăng quy định mức phạt

tối đa cao hơn nữa để khi các tổ chức vi phạm có thể xử lí một cách thích đáng
mang tình răng đe cao hơn.
- Điều 16 pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 quy định hình thức
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Đây là hình thức xử phạt bổ
sung đi kèm với hình thức xử phạt chính. Tuy nhiên hình thức này nên quy định
chỉ đi kèm với hình thức phạt tiền.
- Hình thức tịch thu là hình thức xử phạt, do đó khi áp dụng phải căn cứ tính
chất, mức độ vi phạm và các yếu tố khác để xem xét mức độ tịch thu. Tuy nhiên
trong pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính lại không quy định giới hạn tối đa của
mức tịch thu. Chính vì vậy nên quy định cụ thể mức tịch thu tối đa.

9


- Nên quy định thêm biện pháp khắc phục hậu quả là bồi thường thiệt hại do
vi phạm hành chính gây nên để bổ sung cho biện pháp buộc khôi phục lại tình
trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công
trình xây dựng trái phép.
- Nên quy định cụ thể hơn đối với biện pháp buộc thực hiện các biện pháp
khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính
gây ra. Khắc phục đền mức nào, khắc phục ra sao. Tránh tình trạng bỏ dỡ khi thực
hiện biện pháp khắc phục.
- Cần phải quy định một cách rõ ràng hơn đối với biện pháp buộc đưa ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện. Đưa ra
khỏi Việt Nam nhưng đưa tới đâu, đưa như thế nào, ai đưa là những vấn đề cần
được làm rõ.
Trên đây là một số kiến nghị thay đổi, bổ sung góp phần nâng cao tính hợp lí
của các quy định hiện hành về các hình thức xử lí vi phạm hành chính và các biện
pháp khắc phục hậu quả.
III. KẾT LUẬN.

Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong đời
sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm
nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi
ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như của cộng đồng, là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực đời sống xã hội nếu
như không được ngăn chặn và xử lí kịp thời. Chính vì lẽ đó, công tác đấu tranh
phòng và chống vi phạm hành chính luôn được xã hội quan tâm. Đặc biệt thiết thực
và gần gũi nhất chính là hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp khắc
phục hậu quả. Quy định hợp lí hình thức xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp
khắc phục hậu quả có ý nghĩa to lớn trong xử phạt vi phạm hành chính, tăng cường
tính răn đe, giáo dục của pháp luật.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam,
NXB. CAND.2008
2. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi, bổ sung năm
2007, 2008.
3. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi bổ sung
2002.
www.sinhvienluat.vn

11



×