Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.18 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU.....................................................................................................2
B- NỘI DUNG..................................................................................................2
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ...................................................................................2
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự.............................................2
2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ý nghĩa pháp lý của điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng............................................................................3
II. CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ............4
1. Các điều kiện có tính bắt buộc...............................................................4
1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự .........4
1.2. Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội ..................................................7
1.3. Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng
.................................................................................................................8
2. Hình thức hợp đồng - điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường
hợp pháp luật có qui định.........................................................................11
2.1 Các hình thức hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam ....12
2.2. Mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng ......14
2.3. Hậu quả pháp lý khi vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng.......................................................................................................14
III. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG ÁP DỤNG QUI ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN....................................15
1. Một số vướng mắc trong phần điều kiện “Người tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện”................................................................................15
2. Một số vướng mắc về phần điều kiện “Năng lực hành vi của người xác
lập hợp đồng dân sự”................................................................................17
3. Một số vướng mắc về điều kiện “Hình thức của hợp đồng”................18
C- KẾT LUẬN...............................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20



1|Page


A- MỞ ĐẦU
Hợp đồng dân sự là một trong những phương tiện pháp lý chủ yếu để
cá nhân, tổ chức trao đổi lợi ích nhằm thỏa mãn các nhu cầu nhân sinh. Hợp
đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế,
vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi hàng hóa trong xã hội. Ngày
nay, chế định hợp đồng và hiệu lực hợp đồng trở thành một chế định quan
trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam.
B- NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA
HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng dân sự
1.1 Khái niệm
Ngày nay, hợp đồng là công cụ pháp lý quan trọng và phổ biến để con
người thực hiện các giao dịch nhằm thỏa mãn hầu hết mọi nhu cầu của mình.
Điều 388 BLDS 2005 định nghĩa hợp đồng như sau: “Hợp đồng dân sự là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”.
1.2 Đặc điểm của hợp đồng
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự nguyện bình
đẳng
Hợp đồng được xác lập dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, thông qua
bàn bạc, thống nhất về các điều khoản trong nội dung hợp đồng. Tuy nhiên,
có một số loại hợp đồng không có sự biểu hiện bàn bạc, dường như chỉ là một
bên đơn phương ấn định điều khoản của hợp đồng còn bên kia có thể chấp
nhận hay không chấp nhận điều khoản ấy. VD: HĐ dịch vụ bưu chính viễn
thông..Đối với những loại hợp đồng này không phải là không có sự thỏa thuận

giữa các bên mà thực ra đây là một dạng biểu hiện khác của sự thỏa thuận. Sự
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng chính là sự thống nhất ý chí giữa các
2|Page


bên, vì thế các bên có thể cùng nhau xây dựng các điều khoản trong nội dung
hợp đồng hoặc một bên tự xây dựng các điều khoản sau đó bên kia ưng thuận.
Hợp đồng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
các bên
Mọi hợp đồng dân sự đều là sự thỏa thuận giữa các bên tham gia.
Nhưng không phải mọi sự thỏa thuận giữa các bên đều là hợp đồng dân sự. Sự
thỏa thuận giữa các bên mới chỉ là điều kiện cần, muốn hình thành nên một
hợp đồng dân sự thì phải đáp ứng được điều kiện đủ đó là sự thỏa thuận nhằm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và ý nghĩa pháp lý của điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng.
Từ điển luật học đưa ra khái niệm điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự: là các yếu tố cần và đủ được pháp luật qui định để giao dịch dân sự
được công nhận trước pháp luật và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
bên.
Theo quy định tại Điều 121 BLDS thì hợp đồng dân sự là một loại giao
dịch dân sự nên có thể hiểu như sau: Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân
sự là các yếu tố cần và đủ được pháp luật qui định để hợp đồng được công
nhận trước pháp luật và bảo về quyền, lợi ích hợp pháp của các bên.
Theo Điều 122 và Điều 410 BLDS thì hợp đồng dân sự có hiệu lực khi
thỏa mãn các điều kiện sau: chủ thể tham gia có NLHVDS; mục đích và nội
dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện; hình thức hợp
đồng – điều kiện có hiệu lực trong trường hợp pháp luật có quy định.
Qui định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự có ý nghĩa pháp

lý rất quan trọng. Thứ nhất, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các bên tham
gia. Việc quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng giúp nâng cao ý
thức, trách nhiệm của các bên khi tham gia, đồng thời bảo đảm quyền, lợi ích
3|Page


hợp pháp của các bên. VD: hợp đồng được xác lập do lừa dối, đe dọa sẽ bị
tuyên bố vô hiệu, bảo vệ quyền lợi của bên bị lừa dối, đe dọa. Bởi vì hợp
đồng vi phạm điều kiện “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”.
Thứ hai, góp phần ổn định quan hệ dân sự nói riêng và quan hệ xã hội nói
chung.
II. CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1. Các điều kiện có tính bắt buộc
Các điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực là những yêu cầu pháp
lý phải được tuân thủ khi xác lập, giao kết hợp đồng mà nếu thiếu các điều
kiện đó thì hợp đồng đương nhiên vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu. Bao gồm
điều kiện về chủ thể, nội dung và mục đích của hợp đồng, ý chí tự nguyện của
các bên tham gia hợp đồng
1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự
Đây là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực.
Trong BLDS không nêu ra khái niệm chủ thể tham gia hợp đồng và cũng
không quy định rõ những chủ thể nào được tham gia vào quan hệ hợp đồng.
Tuy nhiên, với bản chất là một quan hệ pháp luật dân sự ta thấy chủ thể tham
gia hợp đồng bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà
nước CHXHCNVN.
* Đối với cá nhân: Trong luật dân sự Việt Nam không quy định cá nhân phải
có NLHVDS đầy đủ mới được tham gia quan hệ hợp đồng, mà đối với mỗi cá
nhân ở độ tuổi khác nhau sẽ có NLHVDS khác nhau và từ đó sẽ có khả năng
tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng khác nhau. Như vậy, tư cách chủ thể của
cá nhân khi tham gia vào hợp đồng phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi

dân sự của họ. Có 5 mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân:
- Không có năng lực hành vi dân sự: người dưới 6 tuổi, mọi giao dịch liên
quan tới người này đều phải được xác lập, thực hiện thông qua người đại diện
hợp pháp
4|Page


- Có năng lực hành vi dân sự một phần: từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi, việc
xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp
với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 20 BLDS). Khi xem xét,
những cá nhân trong độ tuổi từ đủ 6 đến dưới 18 tuổi đã bắt đầu có sự nhận
thức về hành vi của mình, tuy nhiên sự nhận thức này vẫn còn hạn chế xuất
phát từ đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi chưa thành niên.
Khoản 2 Điều 20 BLDS: “Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải
có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật qui
định khác”. Quy định này phù hợp với các quy định trong Bộ luật lao động:
người từ đủ mười lăm tuổi có quyền giao kết hợp đồng lao động để tham gia
vào quan hệ lao động. Tuy nhiên đây vẫn chưa được coi là những chủ thể có
NLHVDS đầy đủ vì có một số hợp đồng mà những người này chưa thể tham
gia. VD: Hợp đồng xuất khẩu lao động ra nước ngoài đòi hỏi chủ thể phải là
người trên 18 tuổi.
Hiện nay ở các nước, quy định về khả năng giao kết và thực hiện hợp
đồng của người chưa thành niên có phần khác biệt so với pháp luật nước ta.
VD: Luật Dân sự Pháp qui định “Người vị thành niên đương nhiên được
quyền tự lập khi đã kết hôn”. Hiện nay trong Bộ luật dân sự Việt Nam vẫn
chưa có qui định nào về người chưa thành niên đã kết hôn hợp pháp được
tham gia giao dịch dân sự một cách độc lập. Điều đó là không công bằng với

người phụ nữ trong cuộc sống gia đình. VD: họ bị hạn chế tham gia một số
giao dịch về tài sản chung của vợ chồng.
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng
lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người có NLHVDS đầy
đủ là người được phép tự do giao kết hợp đồng theo quy định của pháp luật,

5|Page


không bị hạn chế. Ngoài ra, người có NLHVDS đầy đủ có thể ủy quyền cho
người khác tham gia xác lập hợp đồng.
- Mất năng lực hành vi dân sự: Người mất năng lực hành vi dân sự là người
mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, điều khiển
hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa
án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của
tổ chức giám định.
- Hạn chế năng lực hành vi dân sự: Người nghiện ma túy, nghiện các chất
kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình, theo yêu cầu của người có
quyền lợi ích liên quan, cơ quan tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hạn
chế NLHVDS đối với người đó. Giao dịch liên quan đến tài sản của họ phải
được sự đồng ý của người đại diện hợp pháp trừ giao dịch phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hằng ngày.
Như vậy, đối với người bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,
không có năng lực hành vi dân sự và có năng lực hành vi dân sự một phần.
khi xác lập, thực hiện hợp đồng đều phải có người đại diện hợp pháp. Tuy
nhiên đối với trường hợp người bị hạn chế, người có năng lực hành vi dân sự
một phần thì những người này vẫn tự xác lập, thực hiện hợp đồng nhưng phải
có sự đồng ý của người đại diện. Còn trường hợp người bị mất, không có
năng lực hành vi dân sự thì hoàn toàn do người đại diện trực tiếp xác lập, thực
hiện.

Ngoài ra, cá nhân là người nước ngoài cũng là chủ thể tham gia hợp
đồng dân sự.
* Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
Khái niệm pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác được quy định theo thứ tự
tại Điều 84, 106, 111 BLDS 2005).
Đối với pháp nhân, năng lực chủ thể phụ thuộc vào mục đích, lĩnh vực
hoạt động. Vì thế các pháp nhân khác nhau có năng lực chủ thể khác nhau.
Đối với hộ gia đình, năng lực chủ thể bị hạn chế trong một số lĩnh vực đó là
6|Page


“hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong sản xuất nông lâm,
ngư, nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác do pháp luật
quy định” (Điều 106 BLDS). Còn tổ hợp tác thì năng lực chủ thể là năng lực
chuyên biệt, chỉ được thực hiện những công việc đã được ghi nhận trong hợp
đồng hợp tác.
Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác tham gia quan hệ hợp đồng thông
qua người đại diện hợp pháp. Người đại diện được chia thành hai loại: người
đại diện theo ủy quyền và người đại diện theo pháp luật.
Đại diện theo pháp luật là được xác lập theo quy định của pháp luật
hoặc theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Điều 140 BLDS
2005). Còn đại diện theo ủy quyền là được xác lập theo sự ủy quyền giữa
người đại diện và người được đại diện (Điều 142 BLDS).
Người đại diện hợp pháp của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác phải là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ngoại lệ với đại diện theo ủy quyền
thì người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 có thể là người đại diện theo ủy quyền.
Ngoài ra, người đại diện của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác còn phải thỏa
mãn điều kiện (nếu có) của pháp luật chuyên ngành.
1.2. Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật và không trái đạo đức xã hội

Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật
không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Và đạo đức xã hội
là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã
hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” (Điều 128 BLDS).
Mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật. Ở đây không chỉ những điều cấm của pháp luật dân sự mà còn được hiểu
là điều cấm quy định trong tất cả các văn bản pháp luật khác.
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên
chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng..
Thông thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản qui định: đối
7|Page


tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối
tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp
đồng… ( Điều 402 BLDS). Bất kỳ điều khoản nào trong số đó vi phạm điều
cấm của pháp luật thì hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu.
Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng cũng phải không vi
phạm điều cấm của pháp luật. Hợp đồng có mục đích vi phạm điều cấm của
pháp luật thì vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng chuyển quyền sở hữu nhà ở có mục
đích là bán nhà, nhưng thực tế hợp đồng lại ghi là trao đổi nhà ở (nhằm mục
đích trốn thuế thu nhập chẳng hạn) thì bị pháp luật cấm nên không
có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết.
Mục đích, nội dung của hợp đồng không được trái đạo đức xã hội. Đạo
đức xã hội khác pháp luật ở chỗ nếu như pháp luật do Nhà nước ban hành,
mang tính giai cấp và được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
cưỡng chế thì đạo đức xã hội lại chỉ là những quy tắc xử sự chung được cộng
đồng thừa nhận, không mang tính bắt buộc thực hiện, được đảm bảo bằng dư
luận xã hội. Đạo đức được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự vì
các quy phạm đạo đức và quy phạm pháp luật đều có mục đích chung là điều

tiết hành vi của con người. Hơn thế, đạo đức và pháp luật còn bổ sung, hỗ trợ
lẫn nhau. VD: trong thực tế có những vấn đề phát sinh mà pháp luật chưa có
quy định điều chỉnh thì các quy phạm đạo đức sẽ tỏ ra có hiệu quả, trở thành
công cụ lấp kín lỗ hổng pháp luật. Thực tế từ trước đến nay cũng chưa có
trường hợp nào Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì trái đạo đức xã hội.
1.3. Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng
Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết
định là có tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của
cá nhân mình, mà không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan
nào từ những người khác. Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập,
thực hiện hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện còn là nguyên tắc
pháp lý cơ bản của pháp luật dân sự và pháp luật thương mại (Điều 4 BLDS).
8|Page


Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu
không được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác không thể biết được. Có
tác giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự
nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống
nhất giữa ý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí
hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự
nguyện. Theo quan điểm của TANDTC, thì “người tham gia hợp đồng
hoàn toàn tự nguyện được hiểu là: các bên tham gia giao dịch hoàn toàn
tự do bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện thoả thuận với nhau về
các nội dung của giao dịch mà không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép từ phía bên
kia hoặc của người khác; các bên tự nguyện thoả thuận các vấn đề nhằm làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”
Những loại hợp đồng sau đây được coi là xác lập thiếu yếu tố tự
nguyện của các bên tham gia:
(i) Hợp đồng giả tạo: là hợp đồng được xác lập nhằm che giấu một hợp đồng

khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Trường hợp hợp đồng
giả tạo có đặc điểm là các bên trong giao dịch đó hoàn toàn tự nguyện xác lập
giao dịch, nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí đích thực của họ.
Có hai trường hợp giả tạo. Trường hợp thứ nhất là giả tạo nhằm che giấu một
hợp đồng khác. Khi đó hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp đồng bị che giấu
vẫn có hiệu lực, nếu như hợp đồng bị che giấu đó đáp ứng được đầy đủ các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vd: giao kết hợp đồng tặng cho tài sản để
che giấu hợp đồng gửi giữ. Trường hợp thứ hai là giả tạo nhằm trốn tránh
nghĩa vụ với người thứ ba. Vd: các bên thỏa thuận kí kết hợp đồng tặng cho
nhằm trốn tránh việc trả nợ. Khi đó hợp đồng giả tạo sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
(ii) Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn: Nhầm lẫn là việc các bên hình
dung sai về nội dung của giao dịch mà tham gia vào giao dịch gây thiệt hại
cho mình hoặc cho bên kia. Thông thường sự nhầm lẫn xuất phát từ việc một

9|Page


bên có lỗi làm cho bên kia bị nhầm lẫn. Ở đây cần lưu ý là lỗi vô ý, còn nếu là
lỗi cố ý thì sẽ thuộc trường hợp hợp đồng xác lập do lừa dối.
(iii) Hợp đồng xác lập do bị lừa dối: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố
ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã
xác lập giao dịch đó” (Điều 132 BLDS). Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi
cố ý cung cấp thông tin sai sự thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó
mà xác lập hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của
họ. Như vậy, lỗi của bên lừa dối phải là lỗi cố ý. Pháp luật một số nước còn
cho rằng hành vi cố ý không cung cấp thông tin mà đáng lẽ ra phải cung cấp,
có trách nhiệm cung cấp dẫn đến bên kia không hiểu rõ nội dung mà xác lập
hợp đồng bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ cũng
được coi là lừa dối trong hợp đồng.

Pháp luật Việt Nam qui định ba trường hợp lừa dối là lừa dối về chủ
thể, lừa dối về đối tượng và lừa dối về nội dung của hợp đồng. Khi xem xét
hành vi lừa dối, tòa án thường không chỉ dựa vào tính chất “cố ý” cung cấp
thông sai sự thật của một bên mà còn dựa vào hoàn cảnh cụ thể và khả năng
nhận thức, hiểu biết của bên kia so với một người có năng lực nhận thức bình
thường.
(iv) Hợp đồng xác lập bởi sự đe dọa: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố
ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao
dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm,
tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” (Điều 132
BLDS). Sự đe dọa thường được hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho
bên kia bằng hành vi bạo lực vật chất hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia
tê liệt ý chí hoặc làm mất khả năng kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với
nguyện vọng đích thực của họ.
(v) Xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được
hành vi:
10 | P a g e


“Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào
đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu” (Điều 133
BLDS). VD: Một người bình thường, vào thời điểm giao kết hợp đồng, đã ở
trong tình trạng bị bệnh tâm thần, bệnh thần kinh tới mức không nhận thức,
điều khiển được hành vi của mình hoặc đang sử dụng chất ma túy hoặc các
chất kích thích khác dẫn đến việc mất khả năng nhận thức tạm thời… thì được
xem là không tự nguyện xác lập, giao kết hợp đồng.
Tóm lại, các yếu tố chủ thể, nội dung và mục đích, sự tự nguyện của
các bên là những yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình hình thành và tồn
tại của hợp đồng. Năng lực hành vi của chủ thể là yếu tố nhằm đảm bảo chủ

thể có tư cách độc lập, có khả năng chịu trách nhiệm khi xác lập, thực hiện
hợp đồng; nội dung và mục đích không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội nhằm đảm bảo không xâm phạm lợi ích của Nhà
nước; quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể khác; tự nguyện là yếu tố đảm
bảm cho hợp đồng được tạo ra đúng ý chí đích thực của các bên. Bởi vậy, đây
là ba yếu tố pháp lý quan trọng được pháp luật qui định là điều kiện bắt buộc
của mọi hợp đồng.
2. Hình thức hợp đồng - điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường
hợp pháp luật có qui định.
Hình thức là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng, có
quan hệ biện chứng với nội dung của hợp đồng và là phương tiện để diễn đạt
ý chí của các bên, cũng như để chứng minh sự tồn tại của hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng là sự thể hiện bằng lời nói, văn bản và theo
những thủ tục nhất định như công chứng, đăng ký. Hình thức hợp đồng bao
gồm cả thể thức (cách thức thể hiện) của hợp đồng và thủ tục tạo lập hợp
đồng. Thể thức của hợp đồng là cách thức, phương tiện thể hiện nội dung của
hợp đồng dưới dạng vật chất khách quan nhất định. Hợp đồng có thể được thể
hiện bằng các thể thức như lời nói, văn bản, hành vi cụ thể. Còn thủ tục là thủ
11 | P a g e


thuật, cách thức tiến hành tạo lập hợp đồng theo một trình tự, yêu cầu nhất
định.
2.1 Các hình thức hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam
Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng có thể được lập bằng một
trong 3 hình thức là “lời nói, văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể” (khoản 1
Điều 124 và khoản 1 Điều 401) trừ những trường hợp pháp luật có qui định
hình thức bắt buộc thì phải tuân theo hình thức đó (khoản 2 Điều 124 và
khoản 2 Điều 401).
2.1.1 Hình thức bằng lời nói

Đây là hình thức hợp đồng có từ sớm nhất. Hợp đồng bằng lời nói là
những hợp đồng được giao kết dưới hình thức ngôn ngữ nói, bằng lời hay còn
gọi là hợp đồng miệng. Theo đó, các bên giao kết hợp đồng trao đổi với nhau
bằng lời nói, trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện đàm, gửi thông điệp
điện tử bằng âm thanh (tiếng nói)… để diễn đạt tư tưởng và ý muốn của mình
trong việc xác lập, giao kết hợp đồng.
Giao kết hợp đồng bằng lời nói có ưu điểm là cách thức giao kết đơn
giản, gọn nhẹ, nhanh chóng và ít tốn kém nên được sử dụng rất phổ biến trong
giao dịch dân sự. VD: hợp đồng mua bán tiêu dùng hàng ngày (các hợp đồng
bán lẻ), hợp đồng dịch vụ thông thường trong đời sống (vui chơi, giải trí, sửa
chữa nhỏ, vận chuyển nhanh như xe ôm,taxi…).
Nhược điểm của hình thức này là không bảo đảm sự an toàn pháp lý
cho các bên, giá trị chứng minh không cao và dễ dẫn đến tình trạng phủ nhận
của các bên về sự tồn tại của hợp đồng nếu các bên không còn bằng chứng
khác để chứng minh về sự tồn tại của hợp đồng đó. VD:
Vì thế chỉ nên sử dụng hình thức hợp đồng bằng lời nói để giao kết các
hợp đồng có giá trị không lớn, với những người thân quen có sự tin cậy lẫn
nhau, hoặc những hợp đồng được thực hiện và chấm dứt ngay lập tức.
2.1.2. Hình thức hợp đồng bằng văn bản

12 | P a g e


Đây là hình thức phổ biến trong các giao dịch dân sự, các hoạt động
kinh doanh, thương mại. So với hình thức lời nói thì hình thức văn bản không
đơn giản, thuận tiện bằng nhưng nó có những ưu thế vượt trội hơn rất nhiều.
Điều đó càng được khẳng định trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Khi giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản các bên sẽ ghi đầy đủ
nội dung, các điều khoản của hợp đồng và kí tên xác nhận. Thông thường hợp
đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản, coi như đã có trong

tay một bằng chứng, chứng minh quyền và nghĩa vụ dân sự của mình với bên
kia. Chính vì thế khi có tranh chấp xảy ra các bên không thể phủ nhận hoặc
gian dối về nội dung của hợp đồng như hợp đồng miệng. Trong các hình thức
thì hình thức giao kết hợp đồng bằng văn bản là có giá trị pháp lí cao nhất.
Hình thức hợp đồng bằng văn bản được chia làm hai loại: văn bản
thông thường và văn bản có công chứng, chứng thực. Sự phân chia này xuất
phát từ đối tượng của hợp đồng. Đối với những tài sản thông thường, có giá
trị không lớn thì chỉ chúng ta sử dụng văn bản thông thường. Nhưng đối với
những tài sản có giá trị lớn, cần được Nhà nước quản lí, kiểm soát khi chúng
được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác, thì các bên phải lập thành
văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền. Hợp đồng được lập ra theo hình thức này có giá
trị chứng cứ cao nhất.VD: “Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập thành văn
bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”.
2.1.3. Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể
Thông thường, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được sử dụng
khi bên thực hiện hành vi giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung của hợp đồng
và chấp nhận tất cả các điều kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia không loại trừ
việc trả lời bằng hành vi, hoặc không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về hình thức

13 | P a g e


của sự trả lời chấp nhận. VD: hành vi mua cà phê bằng máy bán tự động, gọi
điện thoại công cộng…
2.2. Mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng
Qui định hình thức là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như
BLDS 1995 là không thực tế (Điều 131), tạo kẽ hở về mặt pháp lí để một bên
tham gia giao dịch có thể lợi dụng nhằm trục lợi cho mình gây thiệt hại đến

quyền và lợi ích chính đáng của bên kia. BLDS 2005 đã tách riêng qui định
về hình thức ra khỏi nhóm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự.
Khoản 2 Điều 124 BLDS: “Trong trường hợp pháp luật có qui định giao dịch
dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, phải có công chứng chứng thực, phải
đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân theo các qui định đó”. Ngoài ra Điều 401
cũng qui định về điều kiện hình thức của hợp đồng. Theo quy định của BLDS
2005 thì không phải trong tất cả mọi trường hợp vi phạm về hình thức của
hợp đồng cũng là căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu mà chỉ khi có qui định
cụ thể hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên, BLSD
không có qui định nào chỉ rõ việc không tuân thủ điều kiện về hình thức sẽ
làm cho hợp đồng vô hiệu, mà chỉ có các cụm từ “hợp đồng phải lập thành
văn bản” hoặc “hợp đồng được lập thành văn bản có công chứng, chứng
thực”. Các quy định này cho phép ta suy đoán là việc lập thành văn bản
thường hoặc văn bản có công chứng chứng thực là điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng.
Pháp luật qui định hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực
trong một số trường hợp nhất định nhằm ràng buộc một cách chặt chẽ mối
quan hệ quyền và nghĩa vụ giữa các bên, và có căn cứ khi giải quyết các tranh
chấp.
2.3. Hậu quả pháp lý khi vi phạm các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Sự vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng sẽ dẫn
đến hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Điều 410, từ Điều 127 đến Điều 138 có qui
định về hợp đồng dân sự bị vô hiệu.
14 | P a g e


Điều 137 BLDS: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục
lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận, nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản
giao dịch, hoa lợi. lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, khi hợp đồng bị vô hiệu thì phát sinh nghĩa vụ hoàn trả của các bên.
Đối với những hợp đồng có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, VD:
hợp đồng mua bán vũ khí quân sự, động vật quí hiếm..thì tài sản, hoa lợi lợi
tức đều bị tịch thu.
Đối với hợp đồng vô hiệu có hai loại: vô hiệu toàn bộ và vô hiệu từng
phần. Điều 135: “Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi một phần của giao
dịch vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao
dịch”.
Sự vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng còn gây ra hậu quả
pháp lý đó là ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba có liên quan. Có hai
trường hợp: người thứ ba ngay tình và không ngay tình. Điều 138 BLDS có
qui định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự
vô hiệu.
III. MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG ÁP DỤNG QUI ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP
ĐỒNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN.
1. Một số vướng mắc trong phần điều kiện “Người tham gia giao dịch hoàn
toàn tự nguyện”
Khái niệm “tự nguyện” được đưa ra ở đây rất mơ hồ, chung chung, gây
khó khăn và tùy tiện trong quá trình áp dụng luật. Chẳng hạn, việc tham gia
giao dịch của một bên không có lợi thế về sức mạnh thị trường do sức ép của
một bên có vị thế mạnh trên thị trường, hay giao dịch giữa một bên là cấp
dưới trực tiếp buộc phải tham gia giao dịch vì sợ “uy thế” của cấp trên có bị
coi là không đáp ứng điều kiện “hoàn toàn tự nguyện” theo quy định của Điều
122 vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Việc một bên chủ thể dùng lợi thế thị
15 | P a g e


trường, quyền lực thương mại để ép buộc một hoặc các bên chủ thể khác tham
gia và thực hiện GDDS rất có thể được ngụy biện là sự thỏa thuận, thương

lượng, đánh đổi lợi ích giữa các bên. Ở cấp độ mất tự nguyện nghiêm trọng,
có thể nhận biết dễ dàng như việc một bên chủ thể dùng vũ lực, đe dọa dùng
vũ lực với bên kia nhằm đạt mục đích trong GDDS thì đương nhiên giao dịch
này sẽ vô hiệu và chủ thể thực hiện hành vi ép buộc có thể sẽ phải chịu trách
nhiệm hành chính hoặc hình sự. Ở cấp độ dân sự và thương mại, do có sự
giao thoa, khó phân biệt giữa ép buộc và thỏa thuận cho nên rất cần phải có
một khái niệm để chỉ ra những dấu hiệu của sự ép buộc, mất tự nguyện khi
các bên chủ thể thực hiện một GDDS.
Một vấn đề khác trong phần này là hợp đồng bị xác lập do nhầm lẫn.
Theo BLDS Việt Nam sự nhầm lẫn là một bên bị bên kia vô ý làm cho nhầm
lẫn, chứ không thể có hai bên cùng nhầm lẫn. Hay nói cách khác là pháp luật
chỉ công nhận nhầm lẫn đơn phương chứ không công nhận nhầm lẫn song
phương. Qui định này là bất hợp lý vì trên thực tế hoàn toàn có trường hợp
hai bên chủ thể cùng nhầm lẫn.
Trong hợp đồng bị xác lập do đe dọa cũng có vướng mắc. Điều 132
BLDS: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ
ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, danh dự uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha,
mẹ, vợ, chồng, con của mình”. Qui định này có nghĩa là đối tượng đe dọa
không chỉ là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của người trực tiếp bị đe dọa
mà còn cả tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của những người thân thích của
người đó (những người thân thích chỉ gồm cha, mẹ, vợ, chồng, con cái). Qui
định này là bất hợp lý, vì luật đã phủ nhận trường hợp đối tượng bị đe dọa là
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm người những người thân thích khác như anh
chị em ruột, ông bà nội ngoại. Hoặc những người không phải là thân thích
nhưng học lại rất quan trọng với người bị đe dọa như người yêu, bạn bè.
Trong trường nếu có sự đe dọa về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của những
16 | P a g e



người này thì chắc chắn người bị đe dọa sẽ phải thực hiện một hợp đồng trái
với nguyện vọng, ý chí đích thực của họ. Và rõ ràng đó là sự vi phạm điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng “Người tham gia hoàn toàn tự nguyện”. Qui
định tại Điều 132 BLDS đã làm cho những người rơi vào trường hợp này
không có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng bị vô hiệu.
2. Một số vướng mắc về phần điều kiện “Năng lực hành vi của người xác
lập hợp đồng dân sự”
Theo Điều 122 khoản 1 BLDS, người xác lập, thực hiện hợp đồng dân
sự có thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong trường hợp cá nhân là người xác lập hợp
đồng thì cá nhân đó phải là người có năng lực hành vi. Vì thế những hợp đồng
dân sự do người mất năng lực hành vi, người không có năng lực hành vi xác
lập, những hợp đồng dân sự do người chưa thành niên, người bị hạn chế năng
lực hành vi xác lập vượt quá khả năng của mình thì vô hiệu do những người
không có năng lực hành vi dân sự cần thiết vào thời điểm giao kết. Để đáp
ứng các lợi ích của những người này trong các trường hợp nêu trên, pháp luật
qui định hợp đồng dân sự của họ phải do người đại diện theo pháp luật xác
lập, thực hiện. Pháp nhân và các chủ thể còn lại của pháp luật dân sự xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự phải thông qua vai trò của người đại diện. Việc
Điều 122 khoản 1 chỉ đề cập đến điều kiện về năng lực hành vi mà không đề
cập đến điều kiện về năng lực pháp luật dân sự của chủ thể xác lập, thực hiện
hợp đồng dường như mâu thuẫn với các qui định được ghi nhận tại chế định
đại diện nói chung và chế định giám hộ nói riêng. Bởi với điều kiện “người
tham gia giao dịch là người có năng lực hành vi” thì rõ ràng người đại diện,
và người giám hộ trong hầu hết mọi trường hợp đều đáp ứng được điều kiện
này và vì thế hợp đồng mà người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm
quyền đại diện hoặc hợp đồng mà người giám hộ xác lập, thực hiện có đối
tượng là tài sản của người được giám hộ phải được xem là có hiệu lực. Tuy
nhiên, đối với các trường hợp nêu trên thì thái độ của pháp luật lại hòan toàn
17 | P a g e



khác. Điều 146 khỏan 1 BLDS qui định: “Giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền,
nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện, …”. Như vậy, điều rõ ràng là hợp đồng do người đại
diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện sẽ vô hiệu nhưng không
phải vô hiệu do người đó không có năng lực hành vi mà do người này không
có năng lực pháp luật đối với tài sản hoặc công việc là đối tượng của hợp
đồng (không có quyền đối với tài sản hoặc công việc đó).
3. Một số vướng mắc về điều kiện “Hình thức của hợp đồng”
Hình thức của hợp đồng dân sự được ghi nhận tại Điều 401 BLDS 2005
thực chất chỉ là sự sao chép lại Điều 124 BLDS, Điều 122, Điều 127 của Bộ
luật này do vậy sự có mặt của điều khỏan này là không cần thiết. Hơn nữa,
Điều 401 khoản 2 đoạn 2 còn qui định: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong
trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”. Qui định này có thể dẫn đến hiểu lầm là trừ trường hợp pháp luật có
quy định một cách minh thị một hợp đồng cụ thể nào đó vi phạm về hình thức
sẽ dẫn tới giao dịch dân sự đó là vô hiệu còn các hợp đồng khác nếu vi phạm
điều kiện về hình thức cũng sẽ không thể bị xem xét vô hiệu. Tuy nhiên các
qui định của BLDS về hình thức của các hợp đồng dân sự thông dụng, các
biện pháp bảo đảm, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất chỉ qui định các loại
hợp đồng này phải tuân theo hình thức nào chứ không qui định cụ thể các hợp
đồng này nếu không tuân theo hình thức bắt buộc thì sẽ vô hiệu. Do vậy có
thể hiểu các loại hợp đồng nói trên nếu không tuân theo hình thức luật định
thì cũng sẽ không vô hiệu do pháp luật không có qui định cụ thể. Tuy nhiên,
cách hiểu này lại mâu thuẫn với chính Điều 122 khỏan 2 BLDS: Hình thức
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp
luật có quy định”. Bởi với ngôn từ của điều luật này thì chỉ cần trong trường
hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự (hợp đồng) phải tuân theo hình


18 | P a g e


thức thể hiện nào thì hợp đồng phải tuân theo hình thức đó và nếu không tuân
theo (vi phạm) thì hợp đồng đó sẽ có thể bị xem xét hiệu lực của nó.
C- KẾT LUẬN
So với pháp luật hợp đồng của một quốc gia (Pháp, Anh, Mỹ, …), qui
định trong luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng vẫn còn nhiều điểm chưa
tương đồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng
vào các nền kinh tế trên thế giới đòi hỏi cần phải có sự cải cách thích ứng hệ
thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng, theo hướng tiếp thu có
chọn lọc những điểm tiến bộ trong pháp luật hợp đồng của các nước, làm cho
pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng hoàn thiện và có sự tương đồng hơn
so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới.

19 | P a g e


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2, Nxb
CAND, Hà Nội, 2006.
2. Bộ luật dân sự 2005
3. Lê Minh Hùng, luận án tiến sĩ luật học, Hiệu lực của hợp đồng theo qui
định của pháp luật Việt Nam, Tp Hồ Chí Minh, 2010.
4. Nguyễn Văn Cường, Luận án tiến sĩ luật học, Giao dịch dân sự vô hiệu và
việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, Hà Nội, 2005
5. Trần Thị Nhường, Khóa luận tốt nghiệp, Điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành, Hà Nội, 2010.
6. Viện khoa học pháp lí, Bộ tư pháp, Từ điển luật học, Nxb tư pháp và Nxb

từ điển bách khoa, Hà Nội.

Các trang web:
1. />
20 | P a g e



×