Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thực tiễn hoạt động cho vay và một số hạn chế pháp luật phát sinh trong quá trình cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.8 KB, 21 trang )

Mục lục
A. LỜI NÓI ĐẦU.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát về hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các TCTD:
1, Chủ thể tham gia giao dịch cho vay giữa các TCTD với khách hàng.
2, Hợp đồng tín dụng - hình thức pháp lý của hoạt động cho vay.
2.1. Khái niệm, đặc điểm, hình thức của hợp đồng tín dụng.
2.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng:
2.3. Giao kết hợp đồng tín dụng.
2.4. Hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
2.5. Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô
hiệu
2.6. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng.
2.7. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng và các phương thức giải
quyết tranh chấp.
II. Thực tiễn hoạt động cho vay và một số hạn chế pháp luật phát sinh trong
quá trình cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng:
1, Mức lãi suất cho vay
2, Điều chỉnh lại các đối tượng cấm cho vay
3, Quyền xử lý tài sản bảo đảm
4, Cho vay không có tài sản bảo đảm
5, Các hình thức cho vay
III. Những giải pháp để giải quyết hạn chế pháp luật phát sinh trong quá
trình cho vay:
1. Mức lãi suất cho vay
2, Quyền xử lý tài sản bảo đảm
3, Các hình thức cho vay
C. KẾT BÀI.
Tài liệu tham khảo

1


1
1
2
3
3
4
6
6
8
8
9
9
10
11
11
12
12
16
16
16
17
19
20

1


Đề bài: Tìm hiểu hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín
dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết để giải quyết
hạn chế pháp luật phát sinh trong quá trình cho vay.

Bài làm
A. LỜI NÓI ĐẦU.
Hiện nay nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh, có tốc
độ phát triển kinh tế cao và khá ổn định, vì thế mà việc đáp ứng nhu cầu về vốn
phục vụ cho phát triển đất nước là rất cần thiết. Hoạt động cho vay theo hợp
đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng là hình thức huy động vốn chiếm tỷ trọng
lớn đem lại hiệu quả cao đối với các doanh nghiệp lẫn các tổ chức tín dụng. Tuy
nhiên, hoạt động này tiềm ẩn không ít rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay, vì
theo cam kết bên cho vay chỉ đc đòi tiền vay sau một thời hạn nhất định, do đó
có nhiều tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng hơn so với các loại hợp đồng
khác. Với vai trò quan trọng của hoạt động cho vay, việc tìm hiểu hoạt động,
phát hiện những hạn chế để có biện pháp khắc phục để hoàn thiện khung pháp
cho hình thức cho vay là vô cùng cần thiết.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát về hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín
dụng:
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài
người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự,
cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người khác được sử dụng tài sản
của mình trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở
sự tín nhiệm của mình với người đó.

2


Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng là một trong những hình thức cấp
tín dụng của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên
vay (khách hàng) một khoản vốn tiền tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó
trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả
gốc và lãi theo hoả thuận.

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đối với các tổ chức tín dụng, hoạt
động cho vay đem lại lợi nhuận chủ yếu trong các dịch vụ của ngân hàng, tạo
điều kiện duy trì hoạt động và phát triển về quy mô lẫn chất lượng. Đối với chủ
thể đi vay, họ có được nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình.
Việc tiếp cận được nguồn vốn kịp thời sẽ giúp họ nắm bắt tốt được các cơ hội
kinh doanh. Đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động này đã tăng khả năng sinh
lời của những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Ngoài ra, hoạt động tín dụng này
còn là công cụ giúp Nhà nước thực hiện các chính sách của mình như ưu đãi một
số ngành, vùng kinh tế trọng điểm, thông qua hoạt động cho vay để xây dựng
một số công trình công cộng,…
1, Chủ thể tham gia giao dịch cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách
hàng.
Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng luôn xuất hiện hai bên
chủ thể là bên cho vay và bên vay. Bên cho vay luôn là các tổ chức tín dụng - là
bên có tài sản chưa dùng đến và muốn cho người khác sử dụng để thỏa mãn một
số lợi ích của mình. Bên cho vay là các tổ chức tín dụng có đủ những điều kiện
do pháp luật quy định : có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà
nước cấp; có điều lệ do Ngân hàng nhà nước chuẩn y; có giấy chứng nhận đăng
kí doanh nghiệp hợp pháp; có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao
kết hợp đồng tín dụng với khách hàng.
3


Bên đi vay là các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có đủ điều kiện đi
vay - là những người đang cần sử dụng loại tài sản đó để thỏa mãn nhu cầu về
kinh doanh, tiêu dùng…Về yêu cầu với nhóm chủ thể này là phải có năng lực
pháp luật và năng lực hành vi dân sự, các điều kiện này có thể xem xét qua giấy
tờ, tài liệu khách hàng xuất trình, hoặc chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu,…
Thứ hai là phải có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, điều kiện này phải

được ghi trong hợp đồng tín dụng như một điều khoản. Ngoài ra, còn một số
điều kiện bắt buộc khác nếu tổ chức tín dụng yêu cầu như bên vay có khả năng
tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết; có phương án sử dụng vốn khả
thi hiệu quả; có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của người thứ ba trên
cơ sở hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh.
2, Hợp đồng tín dụng - hình thức pháp lý của hoạt động cho vay.
2.1. Khái niệm, đặc điểm, hình thức của hợp đồng tín dụng.
Hợp đồng tín dụng là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng là tổ chức, cá nhân, theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận ứng trước
một số tiền cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất định, với điều kiện
có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản, trong đó
có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền
vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương
thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận (Điều 17 – Quyết
định 1627/2001/QĐ-NHNN về ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng).
Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản
thiên về ràng buộc chặt chẽ đối với bên vay và có lợi hơn cho ngân hàng.

4


Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện
luật định, còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp
luật quy định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm
tiền mặt và bút tệ.
Hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho
vay. Do bên cho vay chỉ có thể đồi tiền của bên vay sau thời hạn nhất định nên
nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.

Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của
bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
Về hình thức, theo quy định tại Điều 17 – Quyết định 1627/2001/QĐNHNN, mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá
trị pháp lý. Văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản viết và văn
bản điện tử.
Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ
thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng tín dụng. Nó còn là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ
pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó
mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết. Mặt
khác, hợp đồng tín dụng bằng văn bản khiến cho các cơ quan Nhà nước thi hành
công vụ được tốt hơn.
2.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng:
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có
đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp
với pháp luật. Theo Điều 17 – Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN, nội dung của
hợp đồng tín dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
5


-

Điều khoản về điều kiện vay vốn: Trong hợp đồng tín dụng cần ghi rõ

những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì hợp đồng tín dụng mới có
hiệu lực.
-

Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải


thỏa thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín
dụng đáo hạn.
-

Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay: Các bên phải ghi rõ trong hợp

đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ
ngày ký hợp đồng. Ngoài ra, các bên có thể dự liệu trước về khả năng gia hạn
hợp đồng.
-

Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay: Các bên phải thỏa thuận

rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay là trả toàn bộ
một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên
cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với
khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
-

Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay: Về nguyên tắc, bên vay vốn

được sử dụng vốn vay vào bất kỳ mục đích nào nếu không bị pháp luật cấm
nhưng để hạn chế rủi ro cho các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên
vay sử dụng vốn một cách tùy tiện vào mục đích mạo hiểm. Ngoải ra, các bên có
quyền thỏa thuận lại về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và
điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
-

Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng: Các bên có


quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường thương
lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán sẽ giải quyết tranh chấp cho
mình. Nếu không ghi điều khoản này, việc giải quyết tranh chấp phát sinh sẽ
được thực hiện theo quy định của pháp luật.

6


2.3. Giao kết hợp đồng tín dụng.
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật
nghiệp vụ – pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao
kết hợp đồng tín dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện
dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí
mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng. Thông thường, bên đề nghị giao
kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay vốn và văn bản đề
nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các giấy tờ, tài liệu chứng minh tư
cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử dụng vốn vay.
- Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Việc thẩm định hồ sơ tín dụng sẽ do nhân viên chuyên trách của ngân hàng thực
hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay, trên cơ sở đó mà
quyết định cho vay hay không. Trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng
phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và nêu rõ căn cứ xác đáng. Quyết
định cho vay của tổ chức tín dụng chưa được coi là hợp đồng đã kí kết mà chỉ
hoàn thành sau khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực
tiếp các điều khoản của hợp đồng và người đại diện có thẩm quyền của các bên
đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.
- Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng
của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn này, các bên gặp nhau

để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai đoạn này được coi là
kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn bản hợp đồng tín
dụng.
2.4. Hiệu lực của hợp đồng tín dụng.
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
7


Hợp đồng tín dụng là một loại hình giao dịch dân sự đặc thù chỉ có hiệu
lực khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự
2005, cụ thể như sau:
Một là chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng tín dụng có đủ năng lực pháp
luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với chủ thể là tổ chức thì người đại diện hợp
pháp của tổ chức phải thỏa mãn điều kiện có đủ năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự. Ngoài ra còn các điều kiện khác do các bên thỏa thuận như có
phương án sử dụng vốn khả thi, có tài sản bảo đảm,…
Hai là mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức
xã hội. Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi chung, giá trị đạo đức đã được Nhà
nước và xã hội thừa nhận.
Ba là có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng và tự do ý chí. Một hợp đồng tín dụng được coi là không có
sự đồng thuận khi sự thỏa thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự
nhầm lẫn, lừa dối, lừa gạt hoặc sự ép buộc trong khi giao kết hợp đồng. Trên
nguyên tắc, các khuyết tật này phải ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí
giao kết của các bên mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng
vô hiệu.
Thứ tư là hình thức của giao dịch, để ngăn ngừa các rủi ro pháp lí pháp
luật ngân hàng quy định hợp đồng tín dụng phải được xác lập dưới hình thức văn
bản hay tài liệu giao dịch hợp thức và có giá trị chứng cứ chứng minh nội dung
cam kết của các bên.

Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng:
Ở nước ta, do hợp đồng tín dụng thuộc loại hợp đồng ưng thuận nên pháp
luật quy định thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng là thời điểm các bên đã
thỏa thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã kí tên, đóng
dấu và văn bản hợp đồng tín dụng.
8


2.5. Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô
hiệu
Tùy vào mức độ vi phạm các điều kiện, sự vô hiệu được xem xét ở hai
trường hợp là vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối.
Hợp đông tín dụng được coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung và
hình thức của hợp đồng vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã
hội hoặc phương hại đến lợi ích chung. Do đó nếu bất kì ai quan tâm đến lợi ích
chung đều có thể yêu cầu toà án tuyên bố vô hiệu.
Hợp đông tín dụng được coi là vô hiệu tương đối vi phạm các quy tắc có
mục đích bảo vệ lợi ích tư như không có năng lực hành vi dân sự, không có sự tự
nguyện,…Trường hợp này, Nhà nước tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên
bằng cách tuyên bố vô hiệu khi các bên có yêu cầu hoặc cho các bên tự khắc
phục các vi phạm trong hợp đồng.
2.6. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng.
Vi phạm hợp đồng tín dụng là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia
hợp đồng cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín
dụng và phải thỏa mãn các điều kiện:
-

Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia hợp đồng tín dụng.

-


Trái với các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.

-

Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.

-

Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền

và lợi ích chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác.
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý
phát sinh khi có việc vi phạm hợp đồng tín dụng:

9


-

Trách nhiệm nộp phạt vi phạm: Đây là loại trách nhiệm này do các bên

thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật nhằm để nâng cao tính kỷ luật
hợp đồng nên không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. .
-

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại: được áp dụng khi có thiệt hại vật chất

thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi thường
thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài phán

có thẩm quyền.
2.7. Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng và các phương thức giải quyết
tranh chấp.
Tranh chấp phát sinh từ hợp đông tín dụng chấp khi sự xung đột, bất đồng ý
chí với nhau về phương diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên
ngoài. Theo pháp luật Viêt Nam, có những phương thức giải quyết sau đây:
-

Giải quyết bằng phương thức thương lượng hoặc hòa giải qua trung gian.

Cơ chế này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, tránh những chi phí
không cần thiết do phải theo kiện trước tòa.
-

Giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tài phán: đây là giải pháp cuối cùng để

phân định quyền lợi giữa các bên. Theo điều 22 BLTTDS 2004 tòa án theo thủ
tục dân sự sẽ có thẩm -quyền giải quyết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
điều khoản lựa chọn trọng tài thương mại khi có tranh chấp phát sinh,lúc này sẽ
áp dụng theo Pháp lệnh trọng tài thương mại.
II. Thực tiễn hoạt động cho vay và một số hạn chế pháp luật phát sinh trong
quá trình cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng:
Để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng, các cá nhân, tổ chức tham gia
các hoạt động tín dụng một cách an toàn, hiệu quả, Nhà nước đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật và đã tạo được một hành lang pháp lý khá vững chắc. Tuy
10


nhiên, trong thực tiễn áp dụng các quy định này còn bộc lộ nhiều bất cập không
phù hợp với thực tiễn nến kinh tế, cụ thể ở những điểm sau:

1, Mức lãi suất cho vay
Quy định về mức trần lãi suất huy động chỉ còn mang tính hình thức, bởi
hiện tại lãi suất huy động lại vượt trần, chuyện mà bất kỳ khách hàng và ngân
hàng nào cũng hiểu với nhau. Mức lãi suất tỷ lệ thuận với số tiền gửi của khách
hàng. Theo những lời quảng cáo của nhân viên chi nhánh của một ngân hàng tại
Hà Đông, hiện mức lãi suất huy động thấp nhất tại chi nhánh của ngân hàng này
là 16%/năm được áp dụng đối với khoản tiền dưới 100 triệu đồng. Khoản tiền từ
100 triệu đến 1 tỷ đồng được áp mức lãi suất từ 16,5 đến 17%/năm, còn trên 1 tỷ
có thể được áp dụng mức lãi suất lên tới 17,5%/năm. Các ngân hàng thường
"lách luật" bằng cách như tự nguyện chịu phạt do vi phạm hợp đồng để tăng lãi
suất huy động cho khách hàng hoặc trả chi phí môi giới cho người thân của
khách hàng để tăng lãi suất vượt trần…
Kéo theo đó, với mức lãi suất huy động phổ biến đã vượt khá xa so với
mức trần lãi suất quy định của Ngân hàng Nhà nước thì các ngân hàng bắt buộc
phải đẩy lãi suất cho vay lên mức rất cao để đảm bảo kinh doanh có lãi. Anh
Nguyễn Văn Minh, người dân ở Cầu Diễn, Từ Liêm, Hà Nội vay 300 triệu đồng
tại ngân hàng TMCP Quốc Tế (VIB) từ tháng 11 năm 2010. Anh Minh cho biết,
cách đây 1 tuần, anh nhận được thông báo của ngân hàng là từ tháng 5 khoản
tiền của anh sẽ bị tính mức lãi suất lên tới 23%/năm thay cho mức 20%/năm vào
tháng trước. Không riêng khách hàng cá nhân bị điều chỉnh mức lãi suất tăng
thêm vài %/năm, những khách hàng doanh nghiệp cũng gặp khó khăn với sự
điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng. Ví dụ như trường hợp của anh Vi Khắc
Tuyên, Giám đốc một công ty chuyên cung cấp thiết bị chống trộm cho biết,

11


ngân hàng vừa thông báo sẽ áp dụng mức lãi suất 24%/năm đối với khoản vay 3
tỷ đồng của công ty anh.


2, Điều chỉnh lại các đối tượng cấm cho vay
Theo Điều 126 Luật các tổ chức tín dụng về những trường hợp không
được cấp tín dụng: “Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không
được cấp tín dụng đối với những tổ chức, cá nhân sau đây:
“…Cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội
đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó
Tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương.”
Quy định trên là phù hợp vì những người này có quan hệ gần gũi, thân cận
với người có thẩm quyền xét duyệt cho vay, hoặc có ảnh hưởng lớn đến hoạt
động ngân hàng nên việc cho vay sẽ thiếu tính khách quan. Tuy nhiên, hạn chế
này làm mất đi nhiều đối tượng tiềm năng cho ngân hàng, thiết nghĩ cần nới lỏng
nếu họ có tài sản bảo đảm hợp pháp với mục đích đi vay không vi phạm quy
định pháp luật thì có thể xét quyết định cho vay.
3, Quyền xử lý tài sản bảo đảm
Trong thực tế, việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của các tổ chức tín
dụng gặp nhiều vướng mắc. Về xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận giữa tổ
chức tín dụng và bên bảo đảm, Nghị định 163/2006/NĐ-CP đã quy định nguyên
tắc xử lý tài sản bảo đảm thực hiện theo thỏa thuận của các bên, nếu không có
thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá. Tuy nhiên, việc tổ chức tín dụng tự xử lý
tài sản bảo đảm theo thỏa thuận gặp nhiều khó khăn do các trình tự, thủ tục xử lý
còn phụ thuộc vào thái độ hợp tác của bên bảo đảm, bên giữ tài sản, tổ chức tín
dụng chưa được toàn quyền xử lý tài sản bảo đảm trong khuôn khổ pháp luật.
12


Việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và nhà ở còn đặc biệt gây
khó khăn cho tổ chức tín dụng. Trước hết, các quy định tại Luật Đất đai và Bộ
luật Dân sự không thống nhất về phương thức xử lý tài sản bảo đảm trong trường
hợp các bên không có thỏa thuận. Luật Đất đai 2003 quy định quyền sử dụng
đất,tài sản gắn liền với đất trong trường hợp không có thoả thuận về phương thức

xửlý được bán đấu giá (Điều 68). Trong khi đó, Bộ luật Dân sự 2005 quy định
nếu không thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng
đất, bên nhận thế chấp có quyền khởi kiện tại Tòa án (Điều 721). Mặt khác, thủ
tục xử lý tài sản thông qua khởi kiện ra Tòa án còn chậm, đặc biệt là thủ tục thi
hành án thông thường phải kéo dài ít nhất 2 năm. Thực trạng này ảnh hưởng xấu
đến hiệuquả thu hồi vốn vay cũng như kết quả kinh doanh của tổ chức tín dụng.
4, Cho vay không có tài sản bảo đảm
Đây là trường hợp các tổ chức tín dụng không nắm quyền chủ động nên
cần có các quy định rõ ràng nhằm bảo vệ quyền lợi của bên cho vay. Tuy nhiên,
trường hợp này pháp luật lại không quy định cụ thể về trách nhiệm của bên đứng
ra bảo lãnh, tín chấp.
Ví dụ như trường hợp cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính
phủ, pháp luật không quy định cụ thể nếu trường hợp không trả được nợ thì bên
cho vay sẽ thu hồi nợ ở đâu. Tương tự là trường hợp ngân hàng cho vay theo tín
chấp của các tổ chức chính trị - xã hội cũng không quy định cụ thể khi các cá
nhân, hộ nghèo không trả được nợ sẽ tiến hành thu hồi như thế nào. Thực tế cũng
cho thấy rất ít ngân hàng tham gia hình thức cho vay này.
Do vậy, cần thiết có quy định cụ thể về việc trách nhiệm trả nợ của Chính
phủ và tổ chức chính trị - xã hội, khi đó, các tổ chức tín dụng sẽ tích cực hơn
trong hoạt động cung cấp vốn vay này giúp thực hiện hiệu quả chính sách kinh
tế, xã hội mà Nhà nước đặt ra.
13


5, Các hình thức cho vay
Cho vay tiêu dùng
Hiện nay, nhiều ngân hàng còn kiềm chế tăng trưởng tín dụng bằng cách
“siết” việc cho vay tiêu dùng. Anh Nguyễn Minh Trực, Gia Lâm, Hà Nội có nhu
cầu vay tiền từ ngân hàng để mua một căn hộ chung cư. Tuy nhiên, khi liên hệ
với các ngân hàng, nhân viên của họ đều không tha thiết lắm với khoản vay của

anh và giải thích ngân hàng đang rất hạn chế cho vay cá nhân, đặc biệt là cho vay
tiêu dùng. Một trường hợp khác khác là vay vốn để kinh doanh nhưng anh Lê
Quang Thắng, Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội cũng đang gặp phải khá
nhiều trở ngại. Anh Thắng cho biết, mặc dù anh đã trình bày khá rõ cụ thể về
phương án kinh doanh của gia đình mình và có tài sản thế chấp khi vay nhưng
liên hệ với ba ngân hàng thì đều phải chờ đợi sự xem xét.
Nhân viên tín dụng làm việc tại một chi nhánh của Ngân hàng TMCP Việt
Nam Thịnh Vượng (VPBank) cho biết, hiện đối với các khoản vay của khách
hàng cá nhân, ngân hàng đang rất hạn chế. “Chỉ giải quyết nốt những hợp đồng
còn tồn đọng từ trước, còn các khoản vay mới, đặc biệt là vay tiêu dùng thì hầu
như hoãn giải ngân”. Việc hạn chế giải ngân, đặc biệt là đối với những khoản
vay tiêu dùng được lãnh đạo một số ngân hàng giải thích là do đẩy mạnh thực
hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị số 01/CT-NHNN của Ngân
hàng Nhà nước nhằm kiểm soát lạm phát, đồng thời đảm bảo tính thanh khoản.
Bên cạnh đó, theo lý giải của chuyên viên một số ngân hàng thì việc hạn chế tín
dụng cá nhân còn do một nguyên nhân nữa là hiện nay tình trạng nợ xấu của
nhiều ngân hàng đang chiếm tỷ lệ khá cao, vượt mức an toàn là 5%.
Ngoài ra, tình trạng này một phần do việc giải ngân tràn lan đối với những
khoản vay đầu tư vào chứng khoán và bất động sản đã khiến nhiều ngân hàng
đang phải chạy đua để giải quyết hậu quả. Hiện nay, lợi nhuận của đa số các
14


ngân hàng ở Việt Nam đều phụ thuộc vào hoạt động tín dụng nên tính rủi ro khá
cao, phần lớn các ngân hàng tại Việt Nam có lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
chiếm tới 60-70%. Một số ngân hàng đã nhận thức được tính rủi ro của việc duy
trì thực trạng này nên đang xây dựng chiến lược phát triển theo hướng thu hẹp
tín dụng".
Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

(VCCI), có đến 75% doanh nghiệp muốn tìm vốn bằng hình thức vay ngân hàng,
nhưng thực chất không phải đơn vị nào cũng tiếp cận được. Hiện mới có khoảng
30% doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Không ít doanh
nghiệp cho rằng, thủ tục các ngân hàng đặt ra quá sức với họ, thậm chí ngay cả
khi có chính sách ưu đãi của Chính phủ cũng chỉ có rất ít số doanh nghiệp vừa và
nhỏ được vay.
Các doanh nghiệp ở nhiều tỉnh thành cho rằng, vướng mắc khi vay vốn
sản xuất, kinh doanh, tập trung vào thủ tục vay vốn còn rườm rà, nhất là thủ tục
tín chấp, quy định về chứng thư bảo lãnh; thời hạn cho vay vốn đối với các hộ
sản xuất nông nghiệp có những điểm chưa phù hợp với chu kì sản xuất; nguồn
vốn vay trung và dài hạn đối với doanh nghiệp có thời điểm còn thiếu do chính
sách tiền tệ thắt chặt ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…
Về phía ngân hàng, cho vay tính dụng cho các doanh nghiệp lớn vẫn được
ưu tiên hơn. Do các doanh nghiệp lớn đã khẳng định vị trí của mình bằng quy
mô và tên tuổi của họ. Sự ổn định là rất cao vì tài chính lớn mạnh cũng như chi
phí trung bình là thấp. Chính phủ còn có cơ chế chính sách khác để tạo điều kiện
thuận lợi cho họ phát triển. Ngoài ra, với một lượng vốn nhất định thì ngân hàng
cho các doanh nghiệp lớn vay sẽ an toàn và lợi nhuận hơn vì chi phí giao dịch là
thấp.

15


Cho vay chứng khoán
Gần 11.200 tỉ đồng khoản phải thu của các công ty chứng khoán cùng với
lo ngại về việc phải trích lập dự phòng các khoản phải thu khó đòi tại nhiều công
ty chứng khoán đã khiến cho lo lắng về tình trạng nợ xấu của các khoản cho vay
chứng khoán có thể gia tăng.
Theo số liệu từ báo Đầu tư chứng khoán ngày 9/3, tổng dư nợ các loại tín
dụng mà các NHTM cấp cho hoạt động đầu tư chứng khoán đến cuối năm 2010

ước khoảng gần 10.000 tỉ đồng.
Cùng với đó, Chỉ thị 01 của NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại
phải giảm tỷ trọng dư nợ phi sản xuất xuống dưới mức 22% vào cuối tháng
6/2011 và tiếp tục giảm xuống mức 16% vào cuối năm nay. Do việc tài trợ vốn
cho các khoản vay bất động sản, tiêu dùng thường kéo dài lâu hơn cho vay
chứng khoán nên các ngân hàng thương mại sẽ tập trung vào việc thu hồi nợ các
khoản cho vay này.
Những rủi ro khi gửi tiền cho công ty chứng khoán ngày càng gia tăng khi
đã có trường hợp, khách hàng kiện công ty chứng khoán vì việc không trả lại tiền
làm cho khách hàng lo ngại và rút khoản tiền gửi tại công ty chứng khoán theo
hình thức hợp tác đầu tư. Do không phải là ngân hàng, công ty chứng khoán
không thể tiếp cận trực tiếp ngân hàng Nhà nước để xin hỗ trợ thanh khoản, nên
nếu như có nhiều khách hàng đồng thời rút tiền, khả năng mất thanh khoản tại
các công ty chứng khoán hoàn toàn có thể xảy ra, kéo theo đó là những rủi ro với
nguồn vốn đã cho vay của ngân hàng.
III. Những giải pháp để giải quyết hạn chế pháp luật phát sinh trong
quá trình cho vay:
1. Mức lãi suất cho vay

16


Với thực trạng lãi suất như hiện nay đã có nhiều biện pháp được đưa ra
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết, Ngân hàng Nhà nước đang
cân nhắc đến việc áp trần lãi suất cho vay trong hệ thống tổ chức tín dụng, bỏ
trần lãi suất huy động 14% như hiện nay. Thực tế việc áp dụng các biện pháp
hành chính cứng nhắc thường ít tác dụng, nếu để lãi suất theo điều tiết của thị
trường sẽ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, với thực trạng lãi suất hỗn loạn như hiện nay
thì việc bỏ trần lãi suất huy động và áp trần lãi suất cho vay lại là điều nên làm,
khi khống chế được trần lãi suất cho vay thì sẽ tạo được sự ổn định về nguồn vốn

của doanh nghiệp. Các ngân hàng sẽ phải tính đến việc hạ lãi suất huy động để
giữ lợi nhuận cho mình.
2, Quyền xử lý tài sản bảo đảm
Cần hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền vay theo
hướng thống nhất. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa được thiết kế có hệ
thống, còn nhiều trùng lặp, chồng chéo, mối liên hệ giữa các văn bản không rõ
ràng. Cùng với đó là việc ban hành văn bản mới tạo cơ chế cho tổ chức tín dụng
có thể nắm quyền chủ động trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
Với các tổ chức tín dụng hiện nay nếu xảy ra tình trạng nợ quá hạn có tài
sản đảm bảo thì các tổ chức này thường áp dụng biện pháp kiện lên tòa án để thu
hồi nợ tuy nhiên quá trình này thường kéo dài, ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh.
Phương án thứ hai là bán nợ cho các tổ chức có chức năng mua - bán nợ
chuyên nghiệp, đây là cách thức xử lý nợ xấu nhanh nhất giúp chủ nợ thu hồi
một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới,
nhằm cải thiện tình hình tài chính. Hiện nay, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn
đọng của doanh nghiệp (DATC) của Bộ Tài chính đang thực hiện nghiệp vụ này.
Tính đến nay, DATC đã trực tiếp giúp xử lý nợ xấu cho các ngân hàng thương
17


mại nhà nước, cổ phần và các chủ nợ khác. DATC đã trở thành chủ nợ của gần
80 doanh nghiệp với giá trị sổ sách khoản nợ xấu đã mua trên 5.000 tỷ đồng.
Việc xử lý các khoản nợ đã mua này được thực hiện thông qua nhiều biện pháp
khác nhau tùy thực tế cụ thể tại doanh nghiệp khách nợ và đánh giá của DATC,
như bán tài sản đảm bảo nợ, khai thác cho thuê tài sản, sử dụng tài sản đảm bảo
để góp vốn với doanh nghiệp khác; thu nợ có chiết khấu hoặc bán nợ cho tổ chức
kinh doanh nợ khác, xử lý tài chính để cơ cấu lại nợ và hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp…
3, Các hình thức cho vay

Cho vay tiêu dùng
Tín dụng tiêu dùng là một trong những khoản mang lại lợi nhuận nhiều
nhất cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên đây cũng là một dịch vụ cho vay mà
chứa đựng nhiều rủi ro và chi phí bỏ ra cao nhất vì thu nhập của người vay có thể
thay đổi nhanh chóng tuỳ theo tình trạng công việc, sức khoẻ của họ hay sự thay
đổi vĩ mô của nền kinh tế.
Với quy mô dân số trên 80 triệu dân, trong đó phần lớn là dân số trẻ, trình
độ dân trí ngày càng cao, nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ cao nhiều
năm qua...thì Việt Nam là thị trường tín dụng tiêu dùng rất lớn. Thực tế hiện nay
cho vay tín dụng tiêu dùng chưa đạt mức 1 triệu đồng/người trong khi GDP bình
quân đầu người đã đạt mức gần 17 triệu đồng. Mặt khác, chưa đến 10% dân số
tiếp cận với dịch vụ ngân hàng. Do vậy có thể tin vào tiềm năng của thị trường
tín dụng tiêu dùng của nước ta.Cho vay tiêu dùng là một thị trường còn rất rộng
và đầy tiềm năng. Các ngân hàng Đông Á, Sacombank, Eximbank, Phương
Đông hiện nay đều vào cuộc với các chương trình khá phong phú như cho vay
mua xe, mua đất dự án, mua nhà trả góp, xây dựng và sửa chữa nhà.

18


Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả vốn vay và hạn chế rủi ro cho ngân hàng,
các ngân hàng kiến nghị các cơ quan nhà nước tạo điều kiện cho người dân có
thể vay vốn nhiều hơn bằng cách cải cách các thủ tục hành chính có liên quan
đến quyền sử dụng, quyền sở hữu bất động sản và động sản, đăng ký giao dịch
bảo đảm để hỗ trợ và phối hợp tốt với các ngân hàng trong quá trình giải ngân,
thu nợ. Về phía các tổ chức tín dụng để đáp ứng nhu cầu vốn của số đông người
dân, các ngân hàng cần chuẩn hóa việc xử lý hồ sơ, công bố rõ đối tượng cho
vay tín dụng tiêu dùng và kết hợp các sản phẩm dịch vụ hiện có của từng ngân
hàng.
Cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ

Trong hoàn cảnh hiện này, Việt Nam là một nước đang phát triển do đó
các chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ nhiều
hơn về số lượng mà còn cho thấy tính linh hoạt và hiệu quả kinh tế xã hội tổng
thể ngày một cao.Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới gần 96% tổng số doanh
nghiệp cả nước, đóng gáp 25% GDP và thu hút một lực lượng lao động đáng kê.
Tuy có tốc độ phát triển tương đối khá nhưng các doanh nghiệp này còn
gặp rất nhiệu trở ngại trong quá trình giải quyết những tồn tại của bản thân doanh
nghiệp và những khó khắn về: trình độ tổ chức và quản lý yếu kém, năng suất
lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém ,giá cao , thị trường không ổn định do
bị hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa của các doanh nghiệp lớn cạnh tranh gay gắt,
thiếu vốn để đổi mới công nghệ,… Để khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển chính phủ có những chính sách như hướng dẫn xây dựng kế hoạch, chương
trình trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng cường khả năng tiếp cận
nguồn vốn tín dụng và huy động các nguồn lực hỗ trợ tài chính, tháo gỡ khó
khăn về mặt bằng sản xuất, đẩy mạnh thực hiện một số giải pháp cải cách thủ
tục hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa,…
19


Cho vay chứng khoán
Ngân hàng nhà nước sẽ siết chặt hơn việc cho vay kinh doanh chứng
khoán. Theo dự thảo Thông tư quy định các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng thay thế Thông tư 13 và 19 ban hành 2010 (về các tỷ
lệ an toàn vốn) và Thông tư 15 ban hành năm 2009 (quy định tỷ lệ tối đa vốn
ngắn hạn được ngân hàng sử dụng cho vay trung - dài hạn) sẽ có hiệu lực từ
1/1/2012.
Trong đó, quy định cụ thể và khá chặt đối với hoạt động cấp tín dụng cho
khu vực phi sản xuất, đặc biệt là cho vay để đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Cụ
thể, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ không được cấp

tín dụng dưới hình thức chiết khấu giấy tờ có giá để khách hàng đầu tư, kinh
doanh cổ phiếu. Tuy vậy, hoạt cho vay vẫn được thực hiện dưới hình thức bảo
lãnh vay vốn đầu tư.
Về điều kiện đối với ngân hàng, dự thảo quy định các tổ chức tín dụng
phải đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn phải từ 10% trở lên mới được cho công ty chứng
khoán vay để tự doanh, cho vay có bảo đảm (cầm cố cổ phiếu, bảo đảm bằng tài
sản khác, ứng trước đối với cổ phiếu khách hàng đã bán). Ngoài ra, dư nợ cho
vay đối với lĩnh vực này tại các ngân hàng cũng không được vượt quá 3% vốn tự
có. Các tổ chức tín dụng được phép góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp
bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng... nhưng phải nắm
giữ số cổ phần này tối thiểu 3 năm. Ngoài ra, ngân hàng thương mại cũng chỉ
được phép mua, nắm giữ cổ phiếu của tối đa là 2 tổ chức tín dụng khác.
C. KẾT BÀI.
Từ những phân tích ở trên ta thấy, bên cạnh những mặt ưu điểm trong
pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thì vẫn còn tồn
tại những hạn chế có thể gây ra những rủi ro cho các tổ chức tín dụng. Với xu
20


hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới, lĩnh vực tài chính – ngân hàng
tại Việt Nam đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng nền kinh tế nước nhà.
Việc hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật là vấn đề gấp rút cần được giải quyết
nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống các tổ chức tín dụng, cũng như cả hệ thống
tài chính giúp nền kinh tế ngày càng phát triển.
Tài liệu tham khảo
1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2010.
2, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.
3, Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.
4, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.

5, Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
6, Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước số 127/2005/QĐ-NHNN ngày
3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
ngày 31/12/2001.
7, Nguyễn Thành Long, “Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động
cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa”, Tạp chí luật học, số 12/2007.
8, Nguyễn Văn Tuyến, “Các giải pháp hoàn thiện pháp luật ngân hàng ở Việt
Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, Tạp chí luật học, số 12/2007.
9,
10, />11, />%E1%BB%81-ho%E1%BA%A1t-d%E1%BB%99ng-cho
21



×