Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Giải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở việt nam.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 87 trang )

1
MUÏC LUÏC

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
1.1 TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH ........................................................................................1
1.2 CÁC LỢI ÍCH TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN.......................................................................................................3
1.3 CÁC RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN.......................................................................................................6
1.3.1 Dòng vốn chảy vào ồ ạt...................................................................................8
1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn ............................................................................9
1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn............................................................10
1.4 TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH - NỘI DUNG CHỦ YẾU LÀ TỰ DO HOÁ DỊCH
VỤ TÀI CHÍNH 12
1.4.1 Cơ hội từ quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính ............................................12
1.4.2 Thách thức của quá trình tự do hoá đối với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài
chính ......................................................................................................................17
1.5 NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH ......................................................................19
1.5.1 Một số đặc điểm cơ bản về thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam và mức
độ mở cửa đối với các nhà đầu tư nước ngoài ................................................................19
1.5.2 Những bài học kinh nghiệm của các nước đối với việt Nam trong quá trình
tự do hóa tài chính...........................................................................................................22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY .......25
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế ......................................................................................25
2.1.2 Chỉ số giá tiêu dùng.......................................................................................26
2.1.3 Lao động và việc làm ....................................................................................26
2.1.4 Thu chi ngân sách Nhà nước.........................................................................27
2.1.5 Tiết kiệm và đầu tư........................................................................................28


2
2.2 DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ.........................30
2.2.1 Những yếu tố chủ yếu để lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái......................30
2.2.2 Diễn biến quá trình điều hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam .......................31
2.3 QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT...................................................................34
2.4 THỰC TRẠNG VỀ TỰ DO HOÁ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH ...................................36
2.4.1 Các dịch vụ bảo hiểm ....................................................................................36
2.4.2 Các dịch vụ ngân hàng ..................................................................................38
2.4.3 Dịch vụ tài chính khác...................................................................................41
2.4.4 Thực trạng về các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính .................................41
2.5 NHỮNG KẾT QUẢ, HẠN CHẾ TRONG THỰC THI TỰ DO HOÁ
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 54
2.5.1 Kết quả 54
2.5.2 Hạn chế 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TỰ DO HÓA TÀI
CHÍNH VÀ MỘT SỐ CÔNG CỤ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ
TRÌNH ĐÓ Ở VIỆT NAM
3.1 CÁC QUAN ĐIỂM CẦN NHẤT QUÁN TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 57
3.1.1 Các nước đang phát triển cần theo đuổi một cách mạnh mẽ những
chính sách cho phép nước mình thu lợi từ dòng vốn toàn cầu và tránh
được những nguy hiểm tự do hoá 57
3.1.2 Đối phó với dòng chảy vốn ồ ạt trong thời kỳ đầu tự do hoá 58
3.1.3 Quản lý vấn đề bùng nổ cho vay song song với việc chỉnh đốn tình
trạng yếu kém của hệ thống ngân hàng 59
3.1.4 Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn vận hành tốt sẽ giảm được rủi
ro của sự bất ổn cũng như thu hút được đầu tư gián tiếp 60
3.1.5 Cần xây dựng những thiết bị giảm sốc tốt hơn và triển khai cơ chế
để đối phó với những bất ổn vì những nước này có thể bị tổn thương cao độ do sự

rối loạn kinh tế 61
3.1.6 Kết hợp mang tính quốc tế giữa khuôn khổ pháp lý với việc công
khai thông tin để đảm bảo cho thị trường được an toàn và hiệu quả 62
3
3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 62
3.2.1 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế từ phía Chính phủ 62
3.2.1.1 Chính sách quản lý tài chính công 64
3.2.1.2 Chính sách tiền tệ và tỷ giá 65
3.2.1.3 Hoàn thiện chính sách điều hành tỷ giá hối đoái nhằm
khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài 66
3.2.2 Nhóm các giải pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thiện thị trường tài
chính và lành mạnh hệ thống ngân hàng 69
3.2.2.1 Hoàn thiện thị trường tài chính 69
3.2.2.2 Lành mạnh hệ thống ngân hàng 72
3.2.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh hệ thống ngân hàng 75
3.2.2.4 Khuyến khích và hỗ trợ các NHTM hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế đất nước 78
3.2.2.5 Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường tính minh bạch thông
tin thị trường và tạo dựng môi trường đầu tư thân thiện 79
3.3 MỘT SỐ CÔNG CỤ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH
TIẾN HÀNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 80
3.3.1 Phòng ngừa rủi ro tỷ giá 80
3.3.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính 81
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN CHUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO









4
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

1.1 TỰ DO HỐ TÀI CHÍNH
Tự do hố tài chính là sự xố bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng buộc về số
lượng trong q trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng này sẽ được
thay thế bởi một cơ chế tỷ giá. Tự do hố mang lại cho các định chế tài chính quyền tự
do xác định các mức lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng cơng cụ lãi suất. Theo
lý thuyết thì tự do hố dẫn đến chấm dứt các mức trần lãi suất, cũng như các ràng buộc
trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động, khơng còn tồn tại các kênh cấp vốn ưu
đãi
1
.
Tự do hố đồng nghĩa với mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài
chính, với khả năng chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh
tế trong nền kinh tế một quốc gia. Tuy vậy, tự do hố khơng có nghĩa là khơng tồn tại
các quy định hay việc giám sát các hoạt động tài chính. Hơn thế nữa, tự do hố đòi hỏi
phải tăng cường cơ sở hạ tầng quy chế
2
và các cơ quan giám sát. Việc can thiệp vĩ mơ
hợp lý là cần thiết để đảm bảo sự vận hành hiệu quả của các thị trường tài chính và
ngân hàng.
Tự do hố tài chính, tuỳ theo từng quốc gia, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau phản
ánh những hạn chế khác nhau theo đánh giá mỗi nước. Tổng quan có 5 yếu tố quan

trọng nhất: tự do hố lãi suất và giá cả; tự do hố hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ
tục hành chính của các tổ chức tín dụng nhà nước; linh hoạt hoạt động ngoại hối; tự do
hố hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính; giảm thuế, thâm hụt
và lạm phát trên thị trường tài chính quốc gia.



1
Báo cáo của Jean-Pierre Landau, Tổng thanh tra tài chính, Tổng giám đốc Hiệp Hội Ngân Hàng Pháp trong chương
trình hội thảo “Tự do hố và an ninh tài chính” ngày 10/01/2001 tại Hà Nội.
2
J.Stiglit trong “Vai trò của hệ thống tài chính trong q trình phát triển”, HộI nghị thường niên về phát triển ở Châu Mỹ
Latin và Caribbean, 29/06/1998.
5
 Tự do hoá lãi suất và giá cả là cho phép các định chế tài chính, ngân hàng tự do
xác định các mức lãi suất tiềngân hàng gửi, lãi suất cho vay, tự do ấn định các
mức phí trong phạm vi hoạt động tài chính.
 Tự do hoá hoạt động tín dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính của các tổ chức
tín dụng nhà nước là việc xoá bỏ các hạn chế, định hướng chủ quan hay ràng
buộc về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động tín dụng và mở rộng tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Đồng
thời phải cải cách hơn nữa các thủ tục hành chính đang xảy ra đối với các đơn vị
tín dụng nhà nước, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh lành mạnh giữa các
thành phần kinh tế.
 Điều hành linh hoạt hoạt động ngoại hối chính là xoá bỏ các hạn chế về quản lý
ngoại hối và thực hiện điều hành tỷ giá hối đoái theo qui luật thị trường.
 Tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính là tiến
hành mở rộng tự do cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính thông
qua việc xoá bỏ các hạn chế trong phạm vi hoạt động, phạm vi kinh doanh của
các tổ chức tài chính.

 Giảm thuế, kiềm chế thâm hụt và lạm phát trên thị trường tài chính là tạo ra một
môi trường ổn định vĩ mô về thuế, pháp lý, công khai tình hình tài chính giúp
các tổ chức tín dụng đánh giá chính xác “sức khoẻ” của các doanh nghiệp để có
các biện pháp xử lý kịp thời, hạn chế khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, tự do hoá không nhất thiết phải kéo theo tư nhân hoá toàn bộ các hoạt
động tín dụng và cấp vốn. Điều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào việc quản lý hài hoà giữa
các thành phần kinh tế, một nền kinh tế muốn phát triển phải có động lực cạnh tranh
nhưng phải là cạnh tranh lành mạnh dựa trên khả năng lãnh đạo, quản lý và thực lực
của từng đơn vị.
Vấn đề đặt ra là liệu việc tự do hoá có đồng nghĩa với việc mở cửa cho cạnh tranh
nước ngoài? Mở cửa cho tự do cạnh tranh tức là cho phép các định chế tài chính nước
ngoài hoạt động trên lãnh thổ quốc gia và tạo những điều kiện hoạt động như những
định chế trong nước. Như vậy, tuỳ theo tiềm lực của từng quốc gia mà chính phủ có
những sách lược nhất định. Riêng Việt Nam, chúng ta có thể tự do hoá hệ thống tài
chính quốc gia trong thời điểm này và đẩy mạnh từng bước tiến tới cạnh tranh hoàn
toàn đối với các định chế tài chính nước ngoài.
6
Về phương pháp có thể tiến hành tự do hoá tài chính nội bộ đi kèm tự do hoá tài
chính quốc tế. Tự do hoá có thể dừng lại trong lĩnh vực ngân hàng hay chỉ nhằm thiết
lập thị trường vốn nội địa. Từ đó, mỗi quốc gia phài quyết định mức độ và các hình
thức tự do hoá mà họ mong muốn. Để làm được việc này đòi hỏi mỗi quốc gia cần phải
phân tích làm rõ những lợi ích và những rủi ro khi tiến hành quá trình tự do hoá tài
chính.
1.2 CÁC LỢI ÍCH TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động dịch vụ tài chính cũng giống như các hoạt động
trao đổi mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến
thu nhập và sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá
các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận
trên một số giác độ sau:

a. Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài
chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội
địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
b. Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được
cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản
phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
c. Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao
công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
d. Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách
kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở,
trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác
tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Kết quả của nhiều nghiên cứu đã cho thấy những lợi ích đề cập trên đây là thực tế.
Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc Ban thư ký của WTO (năm 1997) đã kết
luận rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở các nước theo đuổi chính sách mở
cửa đã có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó,
chi phí dịch vụ giảm đi đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng cao, các loại hình dịch
vụ được đa dạng hoá và khách hàng được tiếp cận với các loại hình dịch vụ một cách
nhanh nhất. Việc mở cửa thị trường tài chính tại các nước này cũng đồng thời góp phần
7
củng cố lại các tổ chức trung gian tài chính và tạo nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư,
thông qua việc nâng cao hiệu lực quản lý và giảm nhiều rủi ro. Việc mở cửa thị trường
dịch vụ tài chính ở hầu hết các nước cũng góp phần thúc đẩy chính phủ các nước chủ
nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách thức can thiệp vào
thị trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hàng lang pháp lý và hệ thống kiểm tra,
giám sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài chính có tác động tích cực
đến nền kinh tế chính là nhờ tác động lợi thế của kinh tế quy mô (Economy of scale),
do vậy các tổ chức tài chính có thể hạ giá thành phục vụ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ yếu
tố độc quyền, tăng cường sự cạnh tranh là nhân tố có tính quyết định trong việc nâng

cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn
cho người tiêu dùng.
Một nghiên cứu được thực hiện ở Mỹ nhằm xem xét tác động của cải cách trong
lĩnh vực Ngân hàng theo hướng mở cửa thị trường vào những năm 1970 và 1980 cho
thấy: việc cải cách đó đã góp phần làm tăng trưởng khoảng 0,5 đến 1,2% tổng sản phẩm
quốc nội trong khoảng thời gian 10 năm sau khi cải cách được thực hiện (theo
Jayaratune và Strahan, 1996).
Năm 1997, Bộ trưởng ngân khố Mỹ - Robert E. Rubin đưa ra kế hoạch nhằm hiện
đại hoá hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế hoạch dựa
trên những tính toán thực tế như sau:
Thời gian trước đây, khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh vực
dịch vụ tài chính, người tiêu dùng đã được hưởng những lợi ích đang kể... Năm 1995
giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đôla vào các hoạt động bảo hiểm, dịch vụ
ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử rằng, do kết quả cạnh tranh của kế hoạch
hiện đại hoá hoạt động dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối với người tiêu dùng có
thể giảm đi 1% thì cũng đã tiết kiệm được khoảng 3 tỷ đôla một năm. Tuy nhiên dựa
trên những cơ sở thực tế, tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến mức 5% - tức
là vào khoảng 15 tỷ đôla mỗi năm - một con số hoàn toàn không nhỏ đối với nền kinh
tế, (Robin, 1997).
Tương tự như vậy, một loạt các nghiên cứu thực hiện ở Châu Âu và Mỹ cũng chỉ
ra rằng: ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí, nâng cao lợi nhuận khoảng từ 20 đến
50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các loại dịch vụ được cung cấp. Các cơ quan
8
quản lý và kiểm soát ngân hàng quốc gia cũng có thể nâng cao hiệu quả với mức độ
tương tự do phát huy lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt động chi trả và thanh toán
(Berger, Hunterr và Timme 1993).
Cho đến nay những nghiên cứu về hiệu quả của các tổ chức tài chính ở những thị
trường mới nổi chưa có nhiều. Song, một số kết quả điều tra đã cho thấy, tiềm năng
nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí thông qua mở rộng cạnh tranh là rất lớn. Khả
năng lợi ích mang lại càng cao nếu hệ thống tài chính có khả năng cạnh tranh càng lớn.

Về phương thức các lợi ích mang lại từ tự do hoá tài chính gia tăng theo hai
phương thức chính như sau:
Thứ nhất, tự do hoá tài chính có khả năng thúc đẩy sự tăng trưởng do gia tăng
mức độ đầu tư và nâng cao tỷ suất sinh lợi của đầu tư thông qua việc các nước này tiếp
cận được với kinh nghiệm quản lý hiện đại, các thành quả khoa học trên thế giới và đặc
biệt tiếp cận được tác động của thị trường hiệu quả là thị trường mà các thông tin được
phản hối một cách đầy đủ và kịp thời vào trong giá đối với các nhà đầu tư (thị trường
hiệu quả dạng mạnh).
Thứ hai, tự do hoá tài chính cho phép mọi cá nhân tự bảo hiểm chống lại sự phát
triển không cân đối của nền kinh tế bằng cách đa dạng hóa đầu tư và khai thác thị
trường toàn cầu để làm dịu đi sự suy giảm tạm thời trong thu nhập.
Tự do hoá tài chính có thể thúc đẩy đầu tư ở các nước đang phát triển bằng cách
giải bài toán nan giải giữa tiết kiệm và đầu tư trong một quốc gia. Những kết quả tiềm
ẩn từ đầu tư biến đổi từ quốc gia này đến quốc gia khác tuỳ thuộc vào tỷ suất sinh lợi
của các cơ hội đầu tư và sự khác biệt giữa chi phí sử dụng vốn trong nước, thường rất
cao trước khi tự do hoá so với chi phí sử dụng vốn quốc tế.
Mức độ thành quả này có thể thấy từ minh họa sau đây: nếu dòng vốn vào đạt từ
3% đến 4% GDP (đây là con số điển hình cho những nước nhập khẩu vốn lớn hiện nay)
thì tốc độ tăng trưởng dựa trên vốn cổ phần và chỉ số lợi nhuận trên vốn sẽ gia tăng
khoảng 1,5% (theo World Bank). Hiệu ứng tăng trưởng nhất thời này rất đáng kể, tốc
độ tăng trưởng từ tăng 1,5% đến 2% sẽ làm rút ngắn thời gian thu hồi vốn gấp đôi
khoảng 12 năm. Tuy nhiên theo thống kê cho thấy những con số trên vẫn còn rất khiêm
tốn so với tiềm năng tăng trưởng của các nền kinh tế đang phát triển. Điều này chứng
tỏ sự khai thác thành công của thị trường vốn nước ngoài chỉ là một trong nhiều thành
phần chiến lược phát triển.
9
Mặt khác, tự do hoá tài chính cũng thúc đẩy tăng trưởng do khuyến khích các nhà
đầu tư chuyển hướng vào đầu tư những dự án có rủi ro cao hơn (vì nhà đầu tư có thể đa
dạng hoá các danh mục đầu tư của mình) để hưởng được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đó
là điều mà các nhà đầu tư khó có thể thực hiện được trong thời kỳ trước tự do hoá. Mức

độ chuyển dịch vào các cơ hội đầu tư có tỷ suất sinh lợi cao phụ thuộc vào 3 nhân tố:
sự tụt hậu về kỹ thuật, mức độ rủi ro quốc gia và mức độ phát triển của thị trường vốn.
Một kênh thứ ba và có thể làm gia tăng tự do hoá tài chính một cách nhanh chóng
hơn là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo World Bank, 1 đôla của FDI sẽ làm gia
tăng tổng số đầu tư trong nước và nước ngoài hơn 1 đôla. Vì thế, FDI bổ sung chứ
không làm giảm đi đầu tư nội địa. Quan trọng hơn, thực tế tại các nước cho thấy FDI
hiệu quả đáng kể hơn nhiều so với đầu tư trong nước. Nói chung lợi ích tăng trưởng có
được chủ yếu thông qua kênh này tập trung vào chất lượng hơn là số lượng đầu tư.
Tóm lại, lợi ích tối thượng của tự do hoá tài chính là tạo ra một sự cạnh tranh bình
đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố độc quyền.
Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng
phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường
chuyển giao công nghệ và tạo môi trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh
tế. Trên cơ sở đó, tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất
thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế.
1.3 CÁC RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính
cũng có những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều
kiện xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những
rủi ro của tự do hoá tài chính thông thường được nhìn nhận trên hai giác độ:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng
tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc
thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã từng là nỗi
ám ảnh tưởng như có mối quan hệ nhân quả đối với các nước thi hành chính sách này
trong khoảng thời gian trước đây. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng
ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng
10
hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy,

nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống
tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả
của tự do hoá tài chính. Nhận định này dường như được minh chứng bởi các cuộc
khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở Argentina, Brazil, Chile trong những năm 70, khủng
hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994 - 1995 và Thailand năm 1997. Những cuộc khủng
hoảng như vậy đã làm cho chính phủ của các nước Đông Nam Á tỏ ra thận trọng khi
cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hoá tài khoản vốn.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường tài chính, bản thân
nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính - ngân
hàng . Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm
trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã
tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những
cải cách tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây
cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ, mà chỉ góp phần phơi bày những
điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính
quốc tế mà thôi.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà nghiên cứu
khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ ngân hàng trên thế giới.
Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt
động thương mại; tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt
động cho vay; sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ
lưỡng để sẵn sàng tiến hành mở cửa, và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của
những cải cách tài chính.
Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính lại chính
là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống
chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả
và sự sai lệch trong đường lối cải cách, chứ không phải xuất phát từ bản thân quá trình
tự do hoá tài chính.
Thứ hai: tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực
đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan

trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao
11
nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các
tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn
là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng
cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài
chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính
của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến lược
của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ
lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá
sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu, sự thâm nhập của các tổ chức
tài chính nước ngoài có thể đưa đến những lợi ích đáng kể (như đã đề cập ở trên). Hơn
nữa, những mặt trái của việc mở cửa thị trường tài chính có thể được khống chế hoặc
hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa được
cải thiện đáng kể trước khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó được trợ
giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa
hợp lý . Nói cách khác, việc có tận dụng được những lợi ích tiềm năng đó với một chi
phí thấp nhất hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối cải tổ của chính sách các
nước theo đuổi chính sách mở cửa đó.
Trên thực tế, có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của tổ chức
tài chính nước ngoài làm phương hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài chính của
một nước. "Sự có mặt của các tổ chức tài chính nước ngoài thực chất lại làm tăng thêm
sự đa năng của hệ thống tài chính, và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn
nữa, sự hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ
giá và chính sách di chuyển vốn của nước chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt
hay không của các tổ chức tài chính nước ngoài" (Dobson & Jacquet, 1998).
Có 3 nhân tố liên quan đến vấn đề rủi ro khi thực hiện quá trình tự do hóa tài
chính đó là việc dòng vốn chảy vào ồ ạt trong thời kỳ đầu của tự do hóa; sự đối phó với
những đảo lộn nghiêm trọng và sự gia tăng tính biến động khi một quốc gia tự do hóa

tài chính.
1.3.1 Dòng vốn chảy vào ồ ạt
Một điều thấy rất rõ là mặc dù có sự khác biệt đáng kể về thời gian và qui mô,
dòng vốn này đã chảy vào rất mạnh mẽ suốt những thập niên 1990 (xem bảng 1.1).
12
Dòng chảy ồ ạt này có mối quan hệ chặt chẽ với quy mô của nền kinh tế, hơn
một nửa các nước thể hiện trong bảng 1.1 đã nhận dòng vốn đầu tư nước ngoài vào
trong nước trung bình hàng năm khoảng 4% GDP: Chi Lê, Malaysia, Thái Lan, Mexico
là những nước sớm nhất đón nhận dòng chảy vốn quốc tế mạnh mẽ vào thập niện
1990. Sau năm 1992, dòng vốn quốc tế cũng chảy vào các nước Nam Á nhưng với quy
mô nhỏ hơn, riêng các nước Đông Au, sau năm 1992, quy mô của dòng vốn vào rất
lớn, hơn cả những nước tiếp nhận vốn đầu tư lớn nhất ở Châu Mỹ Latinh và Đông Á.
Trong khi lãi suất quốc tế thấp là nhân tố chính làm thu hút dòng vốn tư nhân vào
các nước đang phát triển trong suốt thời kỳ 1990 - 1993, những thay đối trong việc
nhận thức mức độ tín nhiệm và kết quả sự điều chỉnh vốn cổ phần trong danh mục đầu
tư quốc tế là một nét đặc trưng cơ bản trong giai đọan đầu của tự do hóa.

Bảng 1.1: Dòng vốn tư nhân vào 20 nước đang phát triển trong thập niên 1990
(vốn quốc tế dài hạn trong khu vực tư nhân tính bằng % trên GDP)

Nước
Thời kỳ
dòng vốn vào
Vốn tích luỹ/GDP
vào cuối kỳ
Dòng vốn vào
hàng năm tối đa
Argentina 1991 – 1994 9,7 3,8
Brazil 1992 – 1995 9,4 4,8
Chi Lê 1989 – 1995 25,8 8,6

Colombia 1992 – 1995 16,2 6,2
Hungary 1993 – 1995 41,5 18,4
Ấn Độ 1992 – 1995 6,4 2,7
Indonesia 1990 – 1995 8,3 3,6
Hàn Quốc 1991 – 1995 9,3 3,5
Malaysia 1989 – 1995 45,8 23,2
Mexico 1989 – 1994 27,1 8,5
Marocco 1990 – 1995 18,3 5,0
Pakistan 1992 – 1995 13,0 4,9
Peru 1990 – 1995 30,4 10,8
Philippines 1989 – 1995 23,1 7,9
Ba Lan 1992 – 1995 22,3 12,0
Sri Lanka 1991 – 1995 22,6 8,2
Thái Lan 1988 – 1995 51,5 12,3
Thổ Nhĩ Kỳ 1992 – 1995 17,6 7,1
Turkey 1992 – 1993 5,7 4,1
Venezuela 1992 – 1993 5,4 3,3
Nguồn: Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế - Tổng quan kinh tế thế giới năm
1997
1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn
Sự đảo ngược lớn của dòng vốn tư nhân (dòng vốn quốc tế ra khỏi một nước) là
nỗi đe dọa lớn nhất. Trong thực tế đã có một số quốc gia đã có sự đảo ngược như thế.
13
Thổ Nhĩ Kỳ và Venezuela là những nước đầu tiên nếm mùi sự đảo ngược mạnh
mẽ của dòng vốn vào thập niên 1990. Cả hai trường hợp đều do sự mất niềm tin của
nhà đầu tư vào chính sách của chính phủ. Trường hợp của Mexico đáng lưu ý ở hai
mặt: qui mô của dòng vốn đảo ngược và sự lây lan sang một vài quốc gia khác là
Argentina và Brazil. Thời kỳ sự đảo ngược dòng vốn vào thập niên 1990 không lớn
hơn về mức độ tuyệt đối hoặc về phần trăm so với GDP nếu so với thời kỳ khủng
hoảng nợ.

Đặc điểm chung của sự đảo ngược ở hầu hết các nước đều là do thị trường thiếu
niềm tin vào chính sách kinh tế vĩ mô trong nước.
1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn
Ngoài tính dễ bị tổn thương bởi sự đảo ngược lớn của dòng vốn, các nhà đầu tư
cũng lo ngại tính biến động gia tăng cùng với dòng vốn tư nhân, đặc biệt là dòng vốn
đầu tư gián tiếp. Tự do hoá có thể làm tăng sự mất ổn định theo hai cách:
Thứ nhất, nó có thể mở toang nền kinh tế của các nước đang phát triển, tiếp cận
trực diện với những nguồn gốc mới của những cú sốc trong kinh tế quốc tế.
Thứ hai, khuyếch đại những cú sốc trong nước. Mối quan ngại này trở nên quan
trọng hơn bao giờ hết vì mức độ tự chủ của quốc gia trong việc hoạch định chính sách
suy giảm dần cùng với mức độ tăng trưởng trong tự do hoá tài chính.
Những nguồn gốc quốc tế chủ yếu của sự biến động đó là những thay đối trong tỷ
suất sinh lợi mong đợi (lãi suất quốc tế và tỷ suất sinh lợi trên thị trường chứng khoán);
xu hướng bầy đàn của các nhà đầu tư tiềm ẩn và nhiễm bệnh. Những thay đổi trong tỷ
suất sinh lợi quốc tế sẽ làm dịch chuyển dòng vốn bằng cách làm thay đổi những nền
tảng cơ bản của nền kinh tế. Trong khi đó thì xu hướng bầy đàn và việc nhiễm bệnh
thậm chí còn có sức công phá mạnh hơn nữa, nó có thể làm chuyển dịch cơ cấu đầu tư
trong một quốc gia ngay cả khi những nền tảng cơ bản của một nước vẫn không thay
đỗi. Mặc dù sự thay đổi trong lãi suất quốc tế vẫn còn ảnh hưởng mạnh đến dòng vốn
đầu tư gián tiếp, nhưng mức độ ảnh hưởng này sẽ giảm đi nếu các yếu tố đặc thù của
từng quốc gia trở nên quan trọng hơn. Có một vài bằng chứng cho thấy rằng ở những
thị trường mới nổi thì xu hướng bầy đàn của các nhà đầu tư nước ngoài dễ xuất hiện
hơn, nhưng kinh nghiệm của các nước bắt đầu qúa trình tự do hoá cho thấy rằng đỉnh
cao của hành vi bầy đàn như thế chỉ có thể tồn tại trong thời gian ngắn ngủi.
14
Về phía trong nước, các quốc gia đang phát triển dễ bị tổn thương bởi những cú
sốc thật (do thay đổi các điều kiện mậu dịch như sự thay đối trong giá cả nhiên liệu
quốc tế, sự thay đổi trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu, tỷ giá hối đoái thực
được định giá cao làm xấu đi cán cân tài khoản vãng lai) và cú sốc chính sách hơn là
các nước công nghiệp và đến lượt nó những thay đổi này lại gây ra sự biến động lớn

hơn trong dòng vốn ; giá cả của tài sản và tỷ suất sinh lợi trên tài sản. Thêm vào đó,
cũng có một vài đặc điểm của thị trường mới nổi có thể khuếch đại những cú sốc nội
địa và quốc tế trong thời kỳ đầu của tự do hoá. Ở các nước đang phát triển, hệ thống
thông tin bất hoàn hảo và mất cân xứng cũng như sự yếu kém về thể chế đã tác động
mạnh mẽ đến thị trường vốn và thị trường tài chính hơn là những nước công nghiệp.
Trong môi trường này, xu hướng bầy đàn của các nhà đầu tư lớn hơn, và những nhà
đầu tư trong nước có thể bị ảnh hưởng bởi những nhà đầu tư nước ngoài, dẫn đến sự
biến động càng lớn hơn. Các thị trường mới nổi nằm trong cận biên danh mục vốn của
các nhà đầu tư quốc tế nghĩa là chỉ cần một thay đổi nhỏ trong lãi suất quốc tế sẽ dẫn
đến việc chảy ra nhanh chóng của dòng vốn khỏi các thị trường mới nổi.
Tất cả những điều này cho thấy rằng: các nước đang phát triển dễ bị biến động
lớn trong thời kỳ đầu của tự do hoá tài chính. Điều này là do sự nhạy cảm và tính dễ bị
tổn thương đối với những cú sốc thực của các nước đang phát triển giảm sút trong suốt
thời kỳ này. Tuy nhiên có sự khác biệt đáng kể trong sự biến động của các nước và các
loại dòng vốn. Nhìn chung các nước Châu Á ít bị biến động hơn các nước Châu Mỹ
Latinh. Điều này cho thấy rằng điều kiện quốc gia là nhân tố quyết định đến sự biến
động.
Trong tất cả các kênh, FDI là dòng vốn ít biến động nhất. Dòng vốn gián tiếp biến
động nhiều hơn nhưng mức độ biến động có chiều hướng giảm xuống. Tính biến động
của dòng vốn ngân hàng tăng tương đối vào thập niên 1980 một phần là do dòng vốn
thuần giảm đi. Sự khác biệt về mức độ biến động của dòng vốn FDI và dòng vốn đầu tư
gián tiếp là do FDI tốn nhiều chi phí để có thể rút vốn về và do đó nó liên quan đến
những điều kiện và nền tảng dài hạn hơn là với những dao động ngắn hạn. Mặt khác,
dòng vốn đầu tư gián tiếp ngược lại lại rất nhạy cảm với sự khác biệt trong tỷ suất hoàn
vốn ngắn hạn. Hơn nữa, không như những nhà đầu tư FDI, những nhà đầu tư gián tiếp
có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư cổ phiếu hoặc trái phiếu của họ rất dễ dàng.
15
Cuối cùng, nên lưu ý rằng trong khi tính biến động (được hiểu là độ lệch xoay
quanh mức độ trung bình) có xu hướng giảm xuống hoặc chí ít là cũng không tăng
thêm ở nhiều nước, thì mức độ tuyệt đối của sự dao động ngày nay lớn hơn nhiều vì

mức độ trung bình của dòng vốn cao hơn. Kết quả là những tác động tiềm ẩn của sự
biến động như thế trong nền kinh tế nội địa cũng lớn hơn so với thập kỷ 1980. Những
nhân tố của môi trường quốc tế đã góp phần vào việc tăng thêm những biến động tiềm
ẩn của dòng vốn và giá tài sản trong những thị trường mới nổi vì những thị trường này
vẫn còn nằm trong cận biên danh mục vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước
ngoài, do đó những thị trường mới nổi vẫn dễ bị tổn thương bởi những điều kiện có
tính chất chu kỳ của những nước công nghiệp. Và vì những nhà đầu tư vẫn còn khá xa
lạ với thị trường mới nổi, nên những thị trường này là đối tượng xu hướng bầy đàn của
nhà đầu tư quốc tế hơn là những nước công nghiệp. Tuy nhiên, rủi ro chính yếu của sự
biến động và sự đảo ngược lớn phụ thuộc vào mức độ của từng quốc gia riêng biệt và
bắt nguồn từ sự tương tác lẫn nhau của các chính sách kinh tế và những điều kiện kinh
tế trong nước cùng với những nhân tố quốc tế.
1.4 TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH - NỘI DUNG CHỦ YẾU LÀ TỰ DO HOÁ DỊCH
VỤ TÀI CHÍNH
1.4.1 Cơ hội từ quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính
Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng ngày càng to lớn của
các lợi ích từ tự do hóa. Sach và Warner (1995) đã tìm ra sự liên quan giữa mức độ mở
cửa với tăng trưởng kinh tế tại các nước đang phát triển. Levine (1996 và 1997) cho
thấy rằng cả các nước phát triển và đang phát triển có ngành dịch vụ mở cửa đã tăng
trưởng nhanh hơn các nước có ngành dịch vụ đóng cửa. Như vậy, các nghiên cứu chỉ ra
rằng: những thành tựu kinh tế trong thời gian qua mà các nước đang phát triển đạt được
có sự đóng góp không nhỏ của quá trình tự do hóa ngành dịch vụ. Đặc biệt, tự do hóa
thương mại trong ngành dịch vụ tài chính, được thể hiện một cách minh bạch và có cơ
chế chính sách ổn định, sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác nhau cho người tiêu dùng,
bản thân ngành tài chính, các ngành liên quan và cho cả nền kinh tế.
a) Đối với người tiêu dùng
Việc mở cửa cho nước ngoài tham gia các ngành dịch vụ tài chính đảm bảo đa
dạng hóa lựa chọn và nâng cao chất lượng phục vụ người tiêu dùng (gồm cả nắm giữ
tài sản và hoạt động thương mại). Việc tham gia này kích thích cải cách và duy trì tính
16

ổn định và phát triển thị trường dịch vụ tài chính. Dưới áp lực cạnh tranh cao từ việc
mở cửa ngành dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính phải cải thiện phương thức hoạt
động và các kênh phân phối nên người tiêu dùng có được sự đa dạng hóa công cụ tài
chính mới, các công ty có thể dễ dàng lựa chọn sự kết hợp tối ưu về vốn cổ phần, trái
phiếu hoặc các khoản vay để tài trợ cho các hoạt động của họ. Đồng thời, việc tiếp cận
các dịch vụ tư vấn tài chính giúp cho các hoạt động thương mại trong nước có nhiều
phương hướng khả quan để tăng vốn đầu tư, tạo điều kiện cho người tiêu dùng có nhiều
lựa chọn cho kế hoạch về hưu sau này, và giúp các nhà đầu tư đa dạng hóa phương
thức đầu tư. Kết hợp các dịch vụ tư vấn tài chính với các sản phẩm tiên tiến trên thị
trường, người tiêu dùng có thể tự bảo vệ mình trước các rủi ro. Ví dụ, các sản phẩm
phái sinh cho phép các doanh nhân (tổ chức kinh tế) tự bảo hiểm trước những rủi ro từ
biến động của lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái. Những người gửi tiền cũng có thể được
hưởng lợi từ những tư vấn tốt hơn và những sản phẩm đa dạng hơn trong chiến lược
cạnh tranh của các tổ chức tài chính nhằm giành được khoản tiết kiệm của họ.
Hiện nay, tuy các sản phẩm dịch vụ tài chính ở Việt Nam đã đa dạng hơn nhưng
trên thực tế, các sản phẩm tài chính tiên tiến chưa tiếp cận với người tiêu dùng. Đồng
thời, các dịch vụ hỗ trợ như tư vấn bảo hiểm, tư vấn chiến lược đầu tư chưa phát triển
nên quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính là cơ hội "vàng" để người tiêu dùng Việt Nam
thụ hưởng những lợi ích của thị trường dịch vụ tài chính.
b) Đối với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính
Tuy nhiên, những tác động mạnh mẽ nhất của quá trình tự do hóa thương mại
dịch vụ tài chính hiển nhiên là các tổ chức tài chính nội địa. Cạnh tranh, kể cả cạnh
tranh quốc tế buộc các tổ chức tài chính phải giảm chi phí, nâng cao năng lực hoạt
động. Đồng thời các tổ chức tài chính cũng có những thuận lợi nhất định trong việc gia
tăng nguồn vốn bên ngoài, tiếp cận công nghệ hiện đại và các thị trường hội nhập trong
xuất khẩu dịch vụ tài chính. Có một số cách mà tự do hóa dịch vụ tài chính có thể tác
động đến các tổ chức tài chính.
Thứ nhất, áp lực cạnh tranh cao bắt buộc các tổ chức tài chính phải cải tiến
phương thức hoạt động, khai thác tối đa các kênh phân phối, tuân thủ các nguyên tắc
thị trường để giữ vững và phát triển thị phần, quản lý chặt chẽ chi phí để có lợi nhuận

cao. Nghiên cứu từ các nước OECD cho thấy tự do hóa đã làm chi phí nhân sự trong
tổng chi phí từ mức trung bình 40% xuống 34% trong giai đoạn 1980-1990. Chi phí
17
thấp và cạnh tranh đã làm cho chi phí hoa hồng giảm 50% trong cùng thời kỳ. Đồng
thời, tự do hóa tạo điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại hối, chứng khoán
quốc tế, phát triển các loại hình dịch vụ mới. Từ đó, các chủ thể trong nước thay đổi cơ
bản hoạt động kinh doanh theo hướng các tín hiệu thị trường kết hợp với đa dạng hóa,
phân tán rủi ro. Edey và Hviding (1995) có báo cáo rằng các ngân hàng đã bắt đầu
kiếm tiền nhiều hơn từ các buôn bán chứng khoán so với nghiệp vụ tín dụng ngân hàng
truyền thống khi họ tham gia các lĩnh vực kinh doanh mới.
Thứ hai, với sự mở cửa của thị trường dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính nội
địa có cơ hội gia tăng tiềm lực tài chính từ các nguồn vốn bên ngoài. Goldstein và
Turner (1996) báo cáo rằng tỷ lệ vốn bên ngoài tương đối cao đã giúp duy trì sự ổn
định của hệ thống ngân hàng của Hồng Kông, Chilê và Malaysia. Như chúng ta biết,
tiềm lực tài chính luôn là một hạn chế của các tổ chức tài chính khắc phục hạn chế này.
Thứ ba, cùng với quá trình mở cửa dịch vụ tài chính, các chủ thể trong nước được
tiếp cận với các công nghệ hiện đại bao gồm cả những hệ thống giám sát tiên tiến, các
kênh phân phối sản phẩm qua mạng, xử lý số liệu và các công cụ tài chính mới. Nó
thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng trực tuyến (online), phổ biến các sản phẩm dịch
vụ tài chính cung cấp qua mạng đồng thời hỗ trợ cho các chủ thể cung cấp dịch vụ tư
vấn tài chính. Theo thời gian, dịch vụ cung cấp qua biên giới sẽ ngày càng đóng góp
lớn hơn cho tất cả ngành dịch vụ tài chính.
Thứ tư, các chủ thể tài chính nội địa có thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với thị
trường dịch vụ tài chính thế giới. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng tự do hóa đóng
vai trò to lớn khi xuất khẩu dịch vụ tài chính. Ví dụ, Trung Quốc, Hồng Kông,
Singapore, Mexico và Brazil là các nhà cung cấp nhiều loại hình dịch vụ tài chính
mang tính chất khu vực và quốc tế.
Nói tóm lại, cạnh tranh quốc tế cũng như các lợi ích khác của quá trình mở cửa
thị trường dịch vụ tài chính đã góp phần nâng cao hiệu qua hoạt động của các chủ thể
trong nước làm cho các chủ thể này càng hoàn thiện hơn.

Đối với các tổ chức tài chính Việt Nam, không thể phủ nhận rằng các thuận lợi
của tự do hóa là vô cùng thiết yếu cho quá trình tự hoàn thiện và phát triển. Theo nhiều
nghiên cứu, tự do hóa dịch vụ tài chính tác động đầu tiên và mạnh mẽ đến hệ thống
ngân hàng. Các ngân hàng Việt Nam có sức mạnh và ưu thế hơn hẳn so với các ngân
hàng nước ngoài do có được mạng lưới chi nhánh rộng khắp, có được mối quan hệ
18
truyền thống với khách hàng và đặc biệt là hiểu được tâm lý khách hàng thông qua
những hiểu biết văn hóa mà các ngân hàng nước ngoài không có được. Chính vì vậy sự
tham gia của các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam sẽ tạo ra một động lực để các ngân
hàng Việt Nam cải thiện nhanh chóng các hoạt động của mình trong việc cung cấp các
dịch vụ tài chính cùng với việc đổi mới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng theo thông lệ
quốc tế. Tuy nhiên, điểm yếu của hệ thống ngân hàng trong nước là tiềm lực tài chính
hạn chế cũng như năng lực quản lý và giám sát chưa cao nên dẫn đến khả năng hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng giữa các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng Việt
Nam. Điều này giúp cho các ngân hàng Việt Nam học được phong cách quản lý ngân
hàng hiện đại theo những tiêu chuẩn quốc tế, được chuyển giao những công nghệ tiên
tiến cũng như gia tăng tiềm lực tài chính cho chính mình.
Tự do hóa dịch vụ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm sẽ giúp cho người dân trong
nước được tự do lựa chọn các dịch vụ bảo hiểm từ người cung cấp tốt nhất, hạn chế dần
sự bất cân xứng thông tin giữa người mua và người bán (bên cung cấp bảo hiểm) thậm
chí ngay cả đối với bên cung cấp dịch vụ bảo hiểm là công ty nước ngoài. Đồng thời
các doanh nghiệp bảo hiểm có thể tận dụng những ưu thế về khả năng khai thác thị
trường để thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài.
Trong giao dịch chứng khoán, việc tự do hóa các dịch vụ tài chính cùng với việc
nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của người nước ngoài có thể sẽ giúp vực dậy một thị
trường Việt Nam vốn rất ảm đạm trong những năm gần đây.
c) Đối với các ngành liên quan
Tự do hóa dịch vụ tài chính tạo cơ hội mới cho các ngành liên quan. Ví dụ, ngân
hàng, công ty bảo hiểm và công ty chứng khoán đặt niềm tin vào các chương trình
chuyên môn và luôn có nhu cầu về xử lý thông tin dữ liệu, do đó thúc đẩy sự phát triển

của thị trường mới và nhu cầu hoạt động dịch vụ liên quan đến máy tính. Bên cạnh đó,
tự do hóa dịch vụ tài chính cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành công
nghiệp du lịch. Các dịch vụ bảo hiểm du lịch, các tiện ích về thanh toán bằng thẻ tín
dụng, thẻ du lịch cũng là một lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.
Ngoài ra, tự do hóa dịch vụ tài chính còn tạo điều kiện về công ăn việc làm. Cả hoạt
động dịch vụ tài chính và dịch vụ lệ thuộc - như kế toán, dịch vụ tư pháp, tư vấn và
dịch vụ liên quan đến máy tính - đều thu hút lao động cao và thúc đẩy sự phát triển của
công việc đòi hỏi kỹ năng cao.
19
d) Đối với nền kinh tế
Có những bằng chứng chắc chắn để khẳng định rằng quá trình tự do hóa dịch vụ
tài chính có tác động tích cực đến sự tăng trưởng kinh tế thông qua thu hút vốn đầu tư,
phân phối các nguồn lực một cách hiệu quả và duy trì một hệ thống chính sách lành
mạnh.
King và Levine (1993) đã báo cáo rằng phần lớn đầu tư có liên quan đến hệ
thống dịch vụ tài chính. Số liệu từ Diễn đàn kinh tế thế giới (1997) cho thấy mối quan
hệ tích cực của hệ thống tài chính và dịch vụ trung gian tài chính đến tiết kiệm và đầu
tư. 10 nước đứng đầu xếp hạng của diễn đàn về mặt chất lượng dịch vụ tài chính đạt
mức tiết kiệm và đầu tư trên 33% GDP, trong khi các nước xếp hạng thấp nhất chỉ đạt
mức trung bình 22%. Mối quan hệ biện chứng giữa chất lượng dịch vụ tài chính và đầu
tư được chứng minh qua năng lực quản lý và bảo hiểm rủi ro. Các nhà đầu tư có cơ hội
tự bảo hiểm hoặc bảo đảm trước những rủi ro với những dự án có vốn đầu tư và lợi
nhuận cao hơn. Thêm một lợi ích của thương mại dịch vụ tài chính quốc tế là tạo điều
kiện cho nguồn vốn bên ngoài tập trung vào thị trường nội địa. Các nước có nguồn tiết
kiệm cao và lợi tức đầu tư thấp có thể xuất khẩu vốn đầu tư và qua đó nâng cao lợi
nhuận của mình. Việt Nam hiện đang có môi trường kinh tế tăng trưởng ổn định nên
việc tự do hóa dịch vụ tài chính sẽ làm gia tăng đáng kể các nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài.
Trong điều kiện thị trường dịch vụ tài chính bị kiềm hãm, các nguồn lực tài chính
có thể phân bổ không hiệu quả do chính sách can thiệp trực tiếp của Chính phủ. Sự can

thiệp của Chính phủ vào hệ thống tín dụng làm nguồn lực được bơm vào ngành ưu tiên
hoặc tài trợ cho sự thâm hụt của Chính phủ. Điều này dẫn đến tình trạng bóp méo, đặc
biệt khi lãi suất được ấn định ở mức thấp hơn mức thị trường. Ngoài ra, điều này có thể
dẫn đến tình trạng thiếu vốn trầm trọng ở một số ngành khác. Do đó, một số khoản đầu
tư tiềm năng mang lại lợi nhuận lớn không được tiến hành. Quá trình tự do hóa đòi hỏi
các nguồn lực tài chính được phân phối theo các tín hiệu của thị trường và giảm các
biện pháp can thiệp trực tiếp. Việc giảm (hoặc loại bỏ) những sự can thiệp này làm thay
đổi chi phí vay vốn và vốn được định hướng lại từ những ngành "được ưu tiên" trước
kia sang các khoản đầu tư có lợi tức cao hơn. Bên cạnh đó, để tồn tại trong môi trường
cạnh tranh khá gay gắt khi thị trường dịch vụ tài chính mở cửa, các chủ thể phải thực
hiện việc cung cấp dịch vụ (đặc biệt dịch vụ tín dụng) một cách thận trọng và sao cho
20
hiệu quả nhất. Điều này đòi hỏi các chủ thể phải tăng cường khả năng giám sát để đảm
bảo nguồn lực tài chính được phân bổ vào các ngành có tiềm năng lợi nhuận hơn.
Để thực hiện thành công quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính, một quốc gia phải
duy trì hệ thống chính sách lành mạnh. Đồng thời, có nhiều cơ sở vững chắc để tin rằng
tự do hóa dịch vụ tài chính giúp thực hiện tốt hơn các quy định của Chính phủ và chính
sách kinh tế vĩ mô. Thứ nhất, chính sách tiền tệ có thể được cải thiện. Tín dụng và trần
lãi suất thường được sử dụng như là công cụ tiền tệ để kiểm soát hoạt động tín dụng
trong hệ thống tài chính đóng cửa. Tự do hóa đòi hỏi phải thay thế sự kiểm soát như
vậy bằng các công cụ chính sách gián tiếp như là hoạt động thị trường mở để kiểm soát
khả năng thanh khoản. Các chính sách tiền tệ không trực tiếp sẽ giúp phát triển thị
trường tài chính. Tự do hóa ngành dịch vụ tài chính đặt áp lực lên các chính phủ theo
đuổi các chính sách hối đoái, tài chính và tiền tệ thận trọng. Thứ hai, các cam kết tự do
hóa cùng với các cải cách trong chính sách kinh tế có thể giúp mang lại một số lợi ích
từ thương mại cũng như từ sự ổn định tài chính và kinh tế vĩ mô.
Tự do hóa dịch vụ tài chính thường đi kèm với các cải cách khác có thể thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và nâng cao thu nhập. Nguồn vốn đầu tư đa dạng, việc phân bổ các
nguồn lực tài chính hiệu quả kết hợp với các chính sách tài chính lành mạnh và ổn định
là tiền đề để phát triển kinh tế. Levine (1996 và 1997) cho thấy rằng các các nước phát

triển và các nước đang phát triển có ngành dịch vụ tài chính mở cửa thông thoáng đã
tăng trưởng nhanh hơn những nước có ngành dịch vụ tài chính đóng cửa. Đặc biệt, tác
động tự do hóa đến tăng trưởng kinh tế thể hiện mạnh nhất ở các nước đang phát triển,
những nước có hệ thống tài chính kém hiện đại và tinh vi. Ví dụ, tại Ghana, các cuộc
cải cách cơ cấu và kinh tế vĩ mô, kể cả cải cách trong ngành dịch vụ tài chính đã thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế từ -1% trong những năm 1970 lên trên 5% trong giai đoạn
1983-1990. Thành công về mặt kinh tế của Hồng Kông và Singapore cũng dựa vào
ngành dịch vụ tài chính đang dần được tự do hóa.
1.4.2. Thách thức của quá trình tự do hóa đối với các chủ thể cung cấp dịch
vụ tài chính
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển, có thị trường tài chính mới mở cửa,
đều mang những bất hoàn hảo trong thị trường. Tương tự, các chủ thể cung cấp dịch vụ
tài chính có năng lực cạnh tranh chưa cao, còn hạn chế về mặt quy mô tài chính, công
nghệ... Do đó, chúng ta còn gặp nhiều thách thức trong quá trình tự do hóa các dịch vụ
21
tài chính xét về khía cạnh vi mô (các tổ chức tài chính) cũng như khía cạnh vĩ mô
(chính sách tiền tệ, chủ quyền kinh tế quốc gia...).
Các tổ chức tài chính của Việt Nam đang có ưu thế về thị phần và làm ăn có lãi
nhưng thực trạng cho thấy, hệ thống ngân hàng Việt nam dễ bị tổn thương do những
hạn chế về vốn và năng lực quản lý cũng như các rủi ro hệ thống. Nhìn chung, trong
quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính, các tổ chức tài chính Việt Nam sẽ gặp những
thách thức sau:
Thứ nhất, áp lực cạnh tranh quốc tế đòi hỏi các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính
phải có tiềm lực tài chính vững mạnh. Trong khi đó, thực trạng cho thấy tiềm lực tài
chính luôn là hạn chế đầu tiên của các tổ chức tài chính Việt Nam. Vì thế, sự cạnh
tranh giữa các định chế tài chính trung gian nội địa và nước ngoài luôn bất cân xứng về
quy mô tài chính.
Thứ hai, các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài luôn cạnh tranh với
ưu thế nổi trội về công nghệ. Ngoài lợi thế có được về chi phí thấp, chất lượng sản
phẩm cao, các tổ chức tài chính nước ngoài có khả năng khai thác những kênh phân

phối kỹ thuật cao (mạng Internet, E-banking...) và các sản phẩm đa tiện ích. Đồng thời
ưu thế công nghệ cho phép các tổ chức trên nâng cao năng lực giám sát, quản lý cũng
như hệ thống chăm sóc khách hàng.
Thứ ba, các định chế tài chính trung gian Việt Nam sẽ gặp những khó khăn nhất
định trong nguồn nhân lực. Hầu hết các tổ chức tài chính của các nước đang phát triển
gặp phải vấn đề này trong quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính. Không thể phủ nhận
rằng, các tổ chức tài chính nước ngoài hiện đang có ưu thế về nguồn chất xám, về khả
năng thu hút và đào tạo nguồn nhân lực. Điều này xuất phát từ các chế độ đãi ngộ, môi
trường làm việc, cơ hội thăng tiến và học tập hơn hẳn mà các tổ chức tài chính nước
ngoài dành cho người lao động.
Thứ tư, các tổ chức tài chính nước ngoài áp dụng những chuẩn mực quốc tế tiên
tiến trong hoạt động và quản lý. Từ đó, các tổ chức này có ưu thế cạnh tranh trong huy
động nguồn lực tài chính với chi phí thấp, cơ cấu đầ tư hợp lý với lợi nhuận cao.
Thứ năm, quá trình tự do hóa cũng mang lại một thách thức khác cho các tổ chức
tài chính Việt Nam là tính bất ổn và phức tạp của các sản phẩm tài chính phái sinh. Đây
là một lĩnh vực rất mới mẻ đối với hệ thống ngân hàng nước ta do đó chúng ta hoàn
toàn bất lợi trong khả năng cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Các sản phẩm
22
phái sinh này cũng được coi là một lĩnh vực cực kỳ nguy hiểm đối với các tổ chức tài
chính và cả nền kinh tế. Do đó chúng ta cần phải đánh giá hết mức độ phức tạp và tinh
vi của các sản phẩm phái sinh. Nếu sử dụng các sản phẩm này không đúng, chúng sẽ
gây ra tác động rất xấu, chủ yếu là mang tính đầu cơ. Với những ưu thế trên, các định
chế tài chính trung gian nước ngoài có khả năng nhanh chóng thu hút khách hàng,
chiếm lĩnh thị trường, thậm chí tiến đến vai trò độc tôn ở một số lĩnh vực nhất định (E-
banking, kinh doanh các sản phẩm phái sinh, chẳng hạn) nếu chúng ta không nhanh
chóng có những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.5 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
1.5.1 Một số đặc điểm cơ bản về thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam và
mức độ mở cửa đối với các nhà đầu tư nước ngoài

Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc mở cửa bắt đầu
từ năm 1986. Xu thế này ngày càng được khẳng định bằng một loạt các mối quan hệ
liên kết kinh tế được thiết lập vào những năm sau đó như tham gia ASEAN (1995),
APEC (1998), ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2000)... Song song với những
cải cách kinh tế, hệ thống tài chính cũng có những cải tổ văn bản theo hướng hiệu quả,
cạnh tranh và mở cửa từng bước.
Hệ thống ngân hàng của nước ta thực sự có những thay đổi căn bản vào những
năm đầu của thập kỷ 90 khi được tách làm 2 cấp: ngân hàng Nhà nước và ngân hàng
thương mại với hai chức năng riêng biệt. Sự cải tổ này đã đem đến những thay đổi đáng
kể theo chiều hướng tích cực làm cho hệ thống ngân hàng ngày càng thích ứng với cơ
chế thị trường hơn. Tuy vậy, nhìn một cách khái quát, hệ thống ngân hàng ở nước ta
vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc cải cách và vẫn có thể coi là chưa
phát triển. Một số hạn chế chủ yếu là:
 Non trẻ trong kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp
 Hệ thống các văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh
 Thiếu phương tiện và nhân viên lành nghề
 Hạn chế về công cụ thanh toán, chi trả
23
 Tỷ lệ cho vay không có khả năng thu hồi vốn lớn
 Thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra có hiệu quả
Được coi là một phần của công cuộc cải cách, Việt Nam cũng đã cho phép các
ngân hàng nước ngoài hoạt động. Một ngân hàng nước ngoài muốn hoạt động tại Việt
Nam có thể thành lập dưới 3 dạng: văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh hoặc chi
nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nếu mở văn phòng đại diện thì ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện
các hoạt động vì mục đích lợi nhuận như cho vay, nhận tiền gửi, mở thư tín dụng...
Hiện có khoảng trên dưới 50 văn phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài đang
hoạt động tại Việt Nam (Asean Year Book, 1999).
Nếu thành lập chi nhánh hoặc ngân hàng liên doanh thì có thể thực hiện một số
các hoạt động thông thường của nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng (cả nội và ngoại tệ)

như: cho vay, chiết khấu, thanh toán... hoặc các hoạt động khác được ngân hàng Nhà
nước Việt Nam cho phép.Hiện đã có 4 ngân hàng liên doanh và khoảng 24 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Mặc dù vậy, thị phần hoạt động
của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn nhỏ. Bốn ngân hàng thương mại
quốc doanh vẫn chiếm thị phần lớn nhất (trên 80%) trong việc huy động tiền gửi và cho
vay.
Thị trường bảo hiểm của Việt Nam có phần rộng mở hơn đối với hoạt động của
các công ty bảo hiểm nước ngoài. Chính sách mở cửa được thực hiện bắt đầu từ năm
1993 khi chính phủ ban hành chỉ thị 100/CP cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài
được phép đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức: liên doanh, mở chi nhánh hoặc
100% sở hữu vốn nước ngoài. Hiện giờ đã có 16 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam trong đó có 4 công ty liên doanh và 4 công ty 100% vốn
nước ngoài. Mặc dù vậy các công ty bảo hiểm Nhà nước vẫn giữ vị trí thống soái. Năm
1999 doanh thu của các công ty bảo hiểm Nhà nước chiếm khoảng 89% tổng doanh thu
ngành bảo hiểm.Tuy nhiên, doanh thu bảo hiểm của các công ty nước ngoài đang có xu
hướng tăng nhanh trong những năm gần đây và có thể sẽ chiếm thị phần đáng kể trong
một tương lai không xa.
24
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mới được hình thành vào tháng 7-2000.
Thực chất đây mới chỉ là thị trường ở thuở sơ khai và chưa ổn định. Tổng lượng giao
dịch còn hết sức mỏng so với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, sự tham gia của các hãng
nước ngoài trong lĩnh vực này hiện nay gần như không có. Hơn nữa, hệ thống luật pháp
cũng như chính sách tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán cũng sẽ còn nhiều thay
đổi, nên sự đầu tư của các công ty nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán cũng
mới chỉ dừng lại ở mức độ quan sát thăm dò.
Tóm lại: thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam có thể coi là chưa phát triển và
đang trong quá trình cải tổ, cơ cấu lại để nâng cao sức cạnh tranh và thích ứng với môi
trường kinh tế, xã hội đang ngày càng thay đổi theo xu thế quốc tế hoá.theo xu thế này,
Việt Nam đã dần dần mở cửa nền kinh tế nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói
riêng để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong một chừng mực nhất định,

có thể nói rằng chính sách đó đã tương đối thành công và trở thành một nhân tố mang
lại sự cải thiện về tính hiệu quả, tính ổn định và tính cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính - một lĩnh vực vốn được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ và mang nặng tính hành
chính bao cấp trong thời gian trước đây. Sự mở cửa thị trường của Việt Nam có thể coi
là tương đối hào phóng so với một số nước đang phát triển. Điều này đặc biệt đúng nếu
so sánh giữa Việt Nam và Trung Quốc- một nước đang phát triển có nhiều điều kiện
kinh tế, xã hội, chính trị khá tương đồng với Việt Nam và là nước đã có những cải cách
kinh tế đi trước Việt Nam một thập kỷ. Tuy nhiên điều đó cũng không có nghĩa rằng sự
mở cửa khá nhanh đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam mà ngược lại, tiến
trình đó có thể đã là một động lực thúc đẩy quan trọng làm cho công cuộc cải tổ của
Việt Nam nhanh đi đến đích hơn và do đó có khả năng thích ứng với nền kinh tế thế
giới một cách hiệu quả hơn.Chiến lược này một lần nữa được khẳng định thông qua
việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ (trong đó có những cam kết về việc mở
cửa, trao đổi thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính)- một bước đi quan trọng
trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.



25
1.5.2 Những bài học kinh nghiệm của các nước đối với Việt Nam trong quá
trình tự do hóa tài chính.
Dựa trên những phân tích về lợi ích mà rủi ro về việc tự doa hoá tài chính, kinh
nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc và Canada và thực tiễn cải cách hệ thống tài
chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, một số khuyến nghị có thể rút ra là:
Thứ nhất: Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài chính
với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực
và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ
quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho
thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao

chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm
tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Kinh nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc cũng đã cho
thấy , do có sự bảo hộ quá lâu thông qua những điều kiện ngặt nghèo không cho phép sự du
nhập phổ biến của hoạt động kinh doanh quốc tế, nên công cuộc cải cách đã diễn ra trên hai
thập kỷ song hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn kém phát triển với tính cạnh
tranh thấp. Đây là một trong những điểm bất lợi đáng kể để khi Trung Quốc gia nhập WTO
trong tương lai.
Thứ hai: Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với một
tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Phân tích ở trên đã
cho thấy rằng, mặc dù đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn
còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao
cấp.Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế
sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua những
cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế
khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân khác) là sự yếu kém của
chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành chính sách mở
cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của
đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột do không cho sự cai cách
đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ

×