Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Phân tích Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động của xây dựng pháp luật và thực tiễn xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.83 KB, 18 trang )

A, ĐẶT VẤN ĐỀ:
Pháp luật là công cụ đẻ nhà nước qunar lí xã hội và thực hiện các chức
năng khác của mình.Pháp luật là công cụ tối ưu khi nó phản ánh đúng
với thực tế và ngược lại.Chính vì vậy mà việc xây dựng pháp luật có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì vậy em chọn đề tài: Phân tích Các yếu tố xã hội ảnh hưởng
đến hoạt động củaxây dựng pháp luật và thực tiễn xây dựng pháp
luật ở nước ta hiện nay”. Do hạn chế về kiến thức và tài liệu tham khảo
nên em không tránh khỏi sai sót mong thầy góp ý để bài làm của em
hoàn thiện hơn.
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
I, Một số vấn đề lí luận về xây dựng pháp luật:
1, Khái niệm xây dựng pháp luật:
Xây dựng pháp luật là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm tạo ra
công cụ, phương tiện, hữu hiệu phục vụ công tác quản lí nhà nước, quản lí xã hội.
Nói một cách khái quát, hoạt động xây dựng pháp luật là hoạt động soạn thảo, ban
hành các luật, văn bản pháp luật, bao gồm từ không nghiên cứu, soạn thảo và công
bố văn bản. “ Nếu nói về hoạt động xây dựng pháp luật về thực chất là đề cập việc
xây dựng và ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và cá nhân có thẩm quyền ở trung ương và địa phương”
2. Chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật:

1


Xét về mặt chủ thể, hoạt động xây dựng pháp luật bao gồm không chỉ các cơ quan
chính quyền nhà nước , các nhà chức trách có thẩm quyền,mà còn có các tổ chức
đoàn thể xã hội được giao những nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước.
nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây dựng pháp luật. Nhân dân đóng góp
ý kiến vào việc xây dựng văn bản pháp luật, kiến nghị bổ sung, sửa đổi văn bản
cho phù hợp với thực tế cuộc sống.



II. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt động của xây dựng pháp
luật :
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng pháp luật. Trong phân này
chúng tôi chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của các yếu tố: Kỷ năng soạn thảo các dự
ản luật, dư luận xã hội và thông tin đại chúng.
1. Kỹ năng soạn thảo các dự án luật.
Thực tế cho thấy, việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, nhất
là các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật ở nước ta trong thời gian qua, mặc dù
số lượng lớn, nhưng còn có những hạn chế nhất định; nhiều văn bản chồng chéo
nhau, có nội dung trùng lặp, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn nhau làm cho hiệu
quả điều chỉnh phá luật bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó, chất lượng của các văn
bản quy phạm pháp luật chưa được cao, thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả. Trình độ
lập pháp chưa theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống xã hội
nên đã không tiên liệu, dự báo được hết những sự kiện tình huống pháp lý có thể
xẩy ra trong thực tế xã hội. Từ đó dẫn đến tình trạng có những quy phạp pháp luật
được ban hành không phù hợp hoặc nhanh chóng trở nên lạc hậu so với đời sỗng
xã hội, không phát huy được hết hiệu lực trong thực tế cuộc sống.

2


Chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật, mà cụ thể là tính khả thi, hiệu lực và
hiệu quả của văn bản quy phạp pháp luật được ban hành phụ thuộc rất nhiều vào kỹ
năng soạn thảo các dự án luật. Vì vậy, đây là yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất
đến hoạt động xây dựng pháp luật. Vấn đề này lien quan đến các khía cạnh cụ thể
sau đây:
- Nhận thức của các chủ thể hoạt động xây dựng pháp luật về tầm quan trọng, sự
cần thiết của văn bản pháp luật cần xây dựng, ban hành. Sự nhận thức đúng đắn,
đầy đủ hay mờ nhạt, nửa vời sẽ quy định thái độ tích cực hay tiêu cực, sự hang hái

nhiệt tình hay thờ ơ, lãnh đạm của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động xây
dựng pháp luật. Đến lượt mình sự nhân thức này tác động đến kỹ năng soạn thảo
và chất lượng của các văn bản luật ban hành.
- Trình độ hiểu biết xã hội am hiểu nhất định của các chủ thể tham gia hoạt động
xây dựng pháp luật về lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần có pháp luật điều chỉnh có
tác động rất quan trọng. Nếu các chủ thể có được sự hiểu biết đầy đủ sâu sắc về các
mặt, các lĩnh vực cụ thể của lĩnh vực quan hệ xã hội đang cần đến pháp luật, từ tình
trạng thực tế, nguyên nhân phát sinh, tồn tại của các vấn đề cho đến các nhân tố
văn hóa – xã hội đang tác động đến vấn đề đó… thì hộ sẽ đưa ra các quy phạm,
chuẩn mực pháp luật sát với thực tế, dữ liệu được những khả năng, tình huống có
thể phát sinh trong tương lai mà đưa ra những quy phạm pháp luật đón trước.
Ngược lại, sự hiểu biết hời hợt, nông cạn là nguyên nhân làm cho văn bản pháp
luật có thể bị xa rời thực tiễn, không phát huy được tác dụng trong điều chỉnh các
quan hệ xã hội.
- Tri thức, hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể tham gia xây
dựng pháp luật là cái tác đông mạnh mẽ đến chất lượng văn bản pháp luật được
ban hành. Nó là cơ sở để các chủ thể nêu lên sang kiến luật, phân tích hình thức,
3


nội dung cấu trúc của các dự thảo quy phạp pháp luật đã hợp lý chưa, chỉ ra tính
hợp hiến hay không hợp hiến, sự trùng lặp hay không trùng lặp với những văn bản
đã được ban hành, đã bao quát được hết khả năng có thể hay còn bộc lộ những khe
hở nào đó… Những điểm này, khi được chú trọng xem xét trong quá trình soạn
thảo dự án luật sẽ ra đời văn bản pháp luật tốt, có chất lượng cao; ngược lại, sự
chồng chéo thiếu đồng bộ là chuyện có thể nhìn thấy trước.
- Hoạt động của cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan chuyên trách soạn thảo và cơ
quant ham gia phối hợp cũng có tác động không nhỏ đến chất lượng văn bản dự
thảo luật. Về nguyên tắc, cơ quan chuyên trách phải hoạt động độc lập thì mới đảm
bảo tính khách quan, vô tư của các quy phạm pháp luật, tránh tình trạng “ Vừa đá

bóng, vừa thổi còi” Sự tham vấn ý kiến của của các cơ quan khác là rất cần thiết
nhằm khắc phục sự cảm tính tùy tiện. Tham khảo các văn bản luật ở nước ngoài ở
lĩnh vực lien quan cũng rất quan trọng, nhưng chỉ là tham khảo, tránh lập khuôn,
máy móc vì mỗi đất nước có nền kinh tế văn hóa, xã hội khác nhau.
Thực tế chỉ ra rằng, trong một số trường hợp, pháp luật được ban hành nhanh
chóng trở nên lạc hậu so với yêu cầu của cuộc sống chính vì kỹ năng soạn thảo luật
của các chủ thể còn nhiều hạn chế, trình độ kiến thức hiểu biết xã hội, hiểu biết
pháp luật còn thấp chưa có các chuyên gia làm việc chuyên nghiệp trong lĩnh vực
này. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh ngành nào, lĩnh vực nào thì giao cho
ngành đó soạn thảo nên chưa đảm bảo tính khách quan, vô tư trong các chuẩn mực
pháp luật.Tất cả những điều đó cần được khắc phục để có thể nâng cao hơn nữa
chất lượng của hoạt động xây dựng pháp luật.
2. Dư luận xã hội:
Dư luân xã hội là tập hợp các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của
các nhóm xã hội hay của xã hội nói chung trươc những vấn đề mang tính thời sự,
4


có lien đến lợi ích chung, thu hút được sự quan tâm của nhiều người và được thể
hiện trong các nhận định hoặc hành động thực tiễn của họ.
Trong bất kì xã hội nào, dư luận xã hội cũng đều có ảnh hưởng nhất định và trong
nhiều trường hợp, còn có tác động mạnh mẽ đến quá trình chính trị, xã hội đến việc
lãnh đạo và quản lí xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội đóng vai
trò là yếu tố điều hòa các mối quan hệ xã hội và điều chỉnh hành vi của con người.
Sức mạnh của dư luân xã hội được thể hiện ngay cả khi trong xã hội còn chưa xuất
hiện các hiện tượng giai cấp nhà nước và pháp luật. Trong xã hội nguyên thủy, mặc
dù dư luận xã hội chỉ tồn tại những tư cách những ý kiến, quan điểm, thái độ sự
phán xét chung của cộng đồng người, nhưng nó đã giữ vai trò vừa là phương tiện
giáo dục, vừa là phương tiện định hướng, điều tiết hành vi của con người. Điều
đáng sợ nhất đối với mỗi thành viên trong xã hội nguyên thủy là bị dư luận xã hội

lên án, bị công đồng ruồng bỏ. Khi khái quát về chế độ xã hôi nguyên thủy, Ph.
Ăng gen đã nhận xét rằng, trong chế độ xã hội này, “ Ngoài dư luận công chúng ra,
không có một phương tiện cưỡng chế nào cả”. Trong xã hội có giai cấp vai trò điều
hòa các quan hệ xã hội của dư luận xã hội được thể hiện cùng với pháp luật. Khi
nói về pháp luật, theo C. Mác, dư luận xã hội là “ Kết quả của việc biến ý thức xã
hội thành sức mạnh xã hội… Nhờ có các luận pháp chung do chính quyền nhà
nước thì hành”. Sự khẳng định của C. Mac cho chúng ta chiếc chìa khóa để hiểu
biết về cơ chế biến đổi cơ chế dư luận xã hội thành sức mạnh xã hội và chỉ ra sự
ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật.
Dư luận xã hội có vai trò và tác động quan trọng đến nhiều lĩnh vực khác nhau của
đời sống xã hội, như kinh tế chính trị, đạo đức, pháp luật, văn hóa, giáo dục…,
trong số đó phải kể tới sự tác động, ảnh hưởng của dư luận xã hội đối với hoạt
động xây dựng pháp luật. Ở nước ta hiện nay sự ảnh hưởng đó thể hiện trên các
phương tiện sau:
5


Thứ hai, dư luận xã hội là sự thể hiện lợi ích chung thông qua tiếng nói chung của
nhân dân, nên nó là điều kiện cần thiết để các tầng lớp nhân dân phát huy quyền
làm chủ xã hội mở rộng nền dân chủ xã hội, tích cục tham gia vào hoạt động pháp
luật. Như đã nói ở trên các tầng lớp nhân dân là chủ thể rộng rãi của hoạt động xây
dựng pháp luất.Hiến pháp của nhà nước ta đã khẳng định nguyên tắc quyền lực
thuộc về nhân dân đồng thời thiết lập cơ chế bảo đảm sao cho lợi ích của nhân dân
và luôn nằm dưới sự kiểm soát của nhân dân. Dưới chế độ ta,nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước thông qua hai hình thức cơ bản là dân chủ trực tiếp và dân chủ
đại diện. Dân chủ trực tiếp là hình thức nhân dân trực tiếp thể hiện ý chí và nguyện
vọng của mình đây là hình thức hũ hiệu tạo cho nhân dân, với tính cách là chủ thể
tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, khả năng tham gia tích cực chủ động
vào các hoạt động của nhà nước, trong đó có hoạt động xây dựng pháp luật. Dân
chủ đại diện là hình thức cơ bản mà thông qua đó, nhân dân thực hiện quyền lực

nhà nước, vân hành theo quy định của hiến pháp. Theo cơ chế này, nhân dân tạo ra
cơ quan đại diện. Cơ quan đại diên trực tiếp tiếp nhân quyền lực về nhân dân nên
còn được gọi là cơ quan quyền lực nhà nước, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương.
Thứ hai: Dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa rất quan trọng và
thiết thực với quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật, đối với việc ban hành các quyết định của các ca
nhân, nhà chúc trách có thẩm quyền. Để có các văn bản pháp luật sat thực tế, các
văn bản quản lí hành chính nhà nước đúng đắn, có tính khả thi cao, trước khi xây
dựng, soạn thảo các dự án luật hay ban hành các quyết định, các cơ quan lập pháp,
các cơ quan quản lí phải nắm bắt được thực trạng tư tưởng, tâm lí các đối tượng xã
hội và văn bản pháp luật, quyết định nhăm vào. Mọi chủ trương, chính sách pháp
6


luật khó có thể trở thành hiện thực nếu không hợp long dân, không được nhân dân
ủng hộ. Khi đã có được các dự án luật, thông tin phản hồi lại càng quan trọng. Mọi
vướng mắc, lệch lạc trong quá trình triển khai thực hieenjj các văn bản pháp luật,
do nhiều yếu tố khó lường trước đều được bộc lộ qua du luận xã hội. Dư luận xã
hội là một trong những cơ sở thông tin phản hồi giúp các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đưa ra các văn bản quyết định phù hợp lòng dân. Dư luận xã hội có tác
dụng phát hiện những thiếu hụt, những khe hở tronng các quy phạm pháp luật, giúp
cho Nhà nước có biện pháp sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh kịp thời các văn bản
pháp luật còn khiếm khuyết, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn phát sinh trong quá
trình tổ chức thực hiện pháp luật.
Thứ ba, dư luận xã hội không mang tính pháp lý nhưng nó lại có sức mạnh rất
to lớn trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi, hoạt động của các thành viên
trong xã hội. trong hoạt động xây dựng pháp luật,các cá nhân,nhà chức trachhs có
thẩm quyền, với tư cách chủ thể xây dưng pháp luật, cần phải biết lắng nge dư

luận xã hội một cách nghiêm túc và phân tích nó một cách khoa học để có thể rút
ra được những kết luận chính xác về thực trạng của những lĩnh vực quan hệ xã hội
đang càn có phapps luật điều chỉnh. Nhờ đó, Nhà nước có thể ban hành pháp luật
một cách kịp thời,đồng bộ và hiệu quả; tác động đúng phạm vi, đúng đối tượng cần
điều chỉnh;góp phần tăng cường vai trò và hiệu lực của công tác quản lý xã hội
bằng pháp luật.

3.thông tin đại chúng:
Sự hoạt động của các phương tiện thông tin đai chúng như báo chí,phát
thanh,truyền hình có tác động rất mạnh mẽ và quan trọng tới hoạt động xây dựng
pháp luật,thể hiện ở các điểm sau:

7


Các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp thông tin tương đối đầy đủ và đa
dạng về các sự việc, sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong hệ thống chính trị, xã
hội, pháp luật, phản ánh hoạt động tiếp xúc cử tri của các đại biểu Quốc hội,Hội
đồng nhân dân các cấp , đưa tin về các kỳ họp Quốc hội. . . Qua đó, các phương
tiện truyền thông tác động tới nhận thức của các chủ thể về tầm quan trọng của
hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở thông tin để các tầng lớp xã hội tham gia
vào hoạt động xã hội tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Các phương tiện thông tin đại chúng đăng tải những thông tin về chính sách pháp
luật của nhà nước ,các dự thảo văn bản pháp luật mới, đư các thông tin đó đến
được với đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thông tin đại chúng tạo diễn đàn ngôn
luận để các chủ thể của hoạt động xây dựng pháp luật tham gia bình luận, phân
tích, đóng góp ý kiến vào hình thức, nội dung , cấu trúc của văn bản pháp luât.
Đồng thời các phương tiện thông tin đại chúng đăngtải các thông tin phản hồi, các
ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các tầng lớp nhân dân cho xây dựng pháp
luật. Bằn cách tác động đó, thông tin nhà nước giúp cho các cơ quan nhà nước có

thẩm quyền tập hợp thông tin, xử lí và chọn lọc các ý kiến xác đáng phục vụ cho
việc sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.
- Các phượng tiện thông tin đại chúng có vai trò định hướng thông tin pháp luật,
tạo thành các luồng dư luận tích cực phản ánh xây dựng pháp luật; ghóp phần đấu
tranh chống lại các âm mưu phá hoại, các luật điệu tuyên truyền, xuyên tạc và bịa
đặt các thế lực thù định về nội dung và bản chất hệ thống pháp luật của nhà nước
ta; củng cố niềm tin của nhân dân vào bản chất ưu việt của hệ thống pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
II, THỰCTIỄN XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM:

8


1, Các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngày càng hoàn thiện và sát
thực tế hơn:
Hệ thống pháp luật nước ta đang ngày càng hoàn thiện và có chất lượng cao
hơn.Hầu hết các quan hệ xã hội đã được pháp luật phản ánh và điều chỉnh một cách
cụ thể hơn.Các văn bản pháp luật từ Hiến Pháp đến các văn bản dưới luật đếu được
xây dựng dựa trên một nguyên tắc nhất định.Luật Ban Hành văn bản quy phạm
pháp luật đã phản ánh cụ thể vấn đề thẩm quyền xây dựng, nội dung, hình thức văn
bản quy phạm phạm pháp luật. Làm cho việc xây đựng pháp luật được thống nhất
và hoàn thiện hơn về nội dung các văn bản quy phạm pháp luật
Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước, kế thừa truyền thống, tập quán tốt đẹp của dân tộc,
hạn chế ý muốn chủ quan, duy ý chí. Các quy định cảu pháp luật ngày càng thiets
thực hơn với cuộc sống. Các quy định pháp luật lỗi thời lạc hậu so với sự biến đổi
của tình hình đất nước được thay thế bằng các quy định mới và ban hành them các
quy định mới để phù hợp với các quan hệ xã hội phát sinh.
Các chủ trương, chinhs sách của Đảng đã được thể chế hóa một cách sang tạo
thành các quy định của pháp luật phù hợp với nguyên tắc Đảng lãnh đạo.Trong

thời gian qua, nội dung các văn bản pháp luật đã bám sát nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ, thể chế hoá được nhiều đường lối, chính sách đổi mới của Đảng
trên nhiều lĩnh vực. Vì thế, nội dung của van bản pháp luật chứa đựng những tư
duy pháp lý mới, làm cho luật, pháp lệnh trở thành phương tiện đầy hiệu lực để
đưa đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống, làm cho đường lối, chính sách
của Đảng trở thành hiện thực. Việc thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng
thành các điều luật, pháp lệnh đã khắc phục được tình trạng “sao chép” giản đơn,
máy móc. Những tư duy chính trị - kinh tế mới trong cương lĩnh, trong nghị quyết
9


của Đảng đã được thể chế hoá thành những quy tắc xử sự chung trong các trường
hợp cụ thể, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và quan tâm đến tính hiện thực
của những quy phạm pháp luật. Vì vậy, nói chung, nội dung của các dự án luật,
pháp lệnh của nước ta thời gian qua so với trước đây đã chứa đựng nhiều nội dung
mới.
Trình độ lập pháp ngày càng cao. Tính rõ rang và trong sang trong các quy định
của pháp luật là tăng. Các quy định có tính dự báo cao và ngày càng phù hợp hơn
với thực tế hơn.
2, Hạn chế trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta:
Mặc dù có nhiều tiến bộ, nhưng, theo đánh giá của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5, khóa X, "Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc".
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam hiện nay có thể nói đang
trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu. Các văn bản quy phạm pháp luật ra đời là để
giải quyết, điều chỉnh các quan hệ, hành vi pháp lý nảy sinh trong xã hội. Các quan
hệ, hành vi pháp lý phát triển đến đâu thì các văn bản quy phạm pháp luật phải
được điều chỉnh đến đó. Chỉ có như thế thì các quy định mới nhanh chóng đi vào
cuộc sống, mới mang lại hiệu quả xã hội thiết thực. Tuy nhiên, trên thực tế do hiểu
không đúng về nhà nước pháp quyền, khi nhấn mạnh đến vai trò tối thượng của

pháp luật, nhưng lại đồng nhất với việc có nhiều văn bản pháp luật được ban hành
nên đang có tình hình muốn ban hành càng nhiều văn bản quy phạm pháp luật càng
tốt, lĩnh vực nào, ngành nào cũng muốn có luật, pháp lệnh riêng của mình. Do vậy,
nhiều vấn đề xã hội tuy chưa đặt ra yêu cầu cần phải có những quy định điều chỉnh
có tính chất pháp lý, nhưng một số bộ, ngành, tổ chức xã hội vẫn xây dựng các dự
10


án luật trình và thuyết phục để được thông qua. Kết quả là bên cạnh những bộ luật
hoặc pháp lệnh nhanh chóng đi vào thực tiễn và được cả xã hội đón nhận thì cũng
có những luật, pháp lệnh hoặc một phần nào đó của các văn bản này, ý nghĩa điều
chỉnh thực tiễn không cao hoặc rất yếu.Có thể thấy điều này khá cụ thể qua một số
luật về đối tượng, pháp lệnh về địa phương. Trong những văn bản đó do mang tính
chính trị, chủ trương nên không xác định rõ được quan hệ, hành vi, đối tượng,
phạm vi điều chỉnh. Nhiều quy định chỉ là các quan điểm hoặc mang tính hình
thức, nặng về ý nghĩa thuyết phục, hô hào, thiếu các quy định có tính chế tài - một
đặc trưng không thể thiếu của luật - nên hiệu lực pháp luật yếu, không thực sự đi
vào cuộc sống, hiệu quả xã hội không cao. Ngược lại, nhiều vấn đề rất cần phải
được quy định, điều chỉnh thì lại thiếu các văn bản pháp lý điều chỉnh. Thí dụ như
những vấn đề về thẩm quyền của chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp,
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính, của cán bộ, công chức
trong thực thi công vụ, hoặc vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng mà báo
chí đã nêu lại chưa được ban hành. Nói một cách khác, không ít các văn bản quy
phạm pháp luật được xây dựng chủ yếu xuất phát từ ý chí chủ quan của cơ quan
quản lý mà không phải từ yêu cầu của các quan hệ xã hội trên thực tế cần điều
chỉnh.
Thứ hai, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng "quá tầm".Nhiều vấn
đề xã hội chỉ cần các văn bản điều chỉnh của Chính phủ hoặc các văn bản quy định
của các bộ là đủ. Nhưng nhiều khi những vấn đề đó lại được nâng lên điều chỉnh
trong các văn bản pháp luật ở cấp độ cao hơn, khiến cho việc xây dựng bị kéo dài,

không đáp ứng kịp thời việc xử lý những vấn đề xã hội đặt ra. Do vậy, nội dung
quy định của các văn bản này nhiều khi không sát hợp, thiếu tính thuyết phục.
Nhiều văn bản tính dự báo và tiên liệu thấp, không đáp ứng yêu cầu phát triển của
tình hình.
11


Thứ ba, ngoài việc có nhiều văn bản "quá tầm" còn có hiện tượng nhiều quy định
pháp luật còn thiếu hệ thống, thiếu sự tập trung, thống nhất và cụ thể. Một quan hệ
pháp lý nhưng lại được quy định rải rác trong nhiều văn bản ở nhiều cấp khác nhau
(quy định ở cả trong luật, nghị định, thông tư), nên rất khó cho việc nắm vững và
áp dụng một cách thống nhất. Có thể thấy điều này trong hệ thống các văn bản điều
chỉnh về cán bộ, công chức, về chính quyền đô thị hay về hội; do vậy không thuận
lợi cho việc thực thi pháp luật ở cả phía người quản lý lẫn phía người bị quản lý.
Thứ tư, trong các văn bản quy phạm pháp luật, những nội dung khó thường bị gác
lại hoặc giao cho các văn bản có vị trí pháp lý thấp hơn quy định. Có những văn
bản luật được ban hành trong đó có nhiều điều giao cho Chính phủ quy định (Luật
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Pháp lệnh Cựu chiến binh, Luật Thanh niên...). Tình
hình này dẫn đến các quy định pháp luật trong các văn bản luật hoặc nghị định rất
ngắn, nhưng các văn bản triển khai hướng dẫn lại rất nhiều và vì thế các văn bản
pháp luật được xây dựng mất nhiều công sức, thời gian, theo nhiều quy trình, thủ
tục mà vẫn khó đi vào đời sống.
Thứ năm, tình trạng thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất về nội dung giữa các văn bản
pháp luật còn khá nhiều.Tình trạng này thể hiện trên hai phương diện. Một
là, nhiều văn bản công bố sau mâu thuẫn với những quy định của văn bản được
ban hành trước đó(1). Hai là, luật ban hành nhưng do chưa có văn bản hướng dẫn
thi hành một cách kịp thời nên đã rơi vào tình trạng "nằm chờ" (2). Thực tế đó cộng
với việc có nhiều nội dung cần các văn bản dưới luật quy định đã tạo cho các văn
bản triển khai, hướng dẫn có giá trị pháp lý "cao" hơn luật, pháp lệnh. Pháp lệnh đã
ban hành, nhưng phải chờ nghị định; nghị định ban hành phải chờ thông tư hướng

dẫn mới thực hiện được.

12


Thứ sáu, tình trạng chồng chéo, trùng lặp khá phổ biến của các văn bản quy phạm
pháp luật.Nhiều quy định của văn bản này mâu thuẫn với quy định của văn bản
khác, thậm chí ngay trong một văn bản.Như vấn đề quy định giấy tờ sở hữu nhà,
đất hay trong lĩnh vực tổ chức bộ máy. Qua rà soát về quy định chức năng nhiệm
vụ của các bộ, ngành trong thời gian qua đã phát hiện: chồng chéo - 27 việc, phân
công chưa rõ - 57 việc, phân công chưa hợp lý - 29 việc (3). Nhiều quy định không
còn phù hợp hoặc chậm được sửa đổi, bổ sung. Ngược lại, nhiều vấn đề cần phải
được ổn định thì lại thường xuyên sửa đổi, bổ sung, tính ổn định của nhiều văn bản
chưa cao, có những văn bản mới thông qua chưa có văn bản hướng dẫn thi hành đã
phải sửa, gây khó khăn trong việc hiểu, giải thích, áp dụng một cách thống nhất và
đầy đủ. Thí dụ như hệ thống pháp luật quy định về quản lý đất đai, cấp giấy phép
sở hữu nhà và đất. Các quy định này liên tục bị sửa đổi, bổ sung tạo tâm lý không
yên tâm trong quản lý và sử dụng tài sản của mình.
Thứ bảy, các văn bản pháp luật được ban hành, nhìn chung, đều có kết cấu "kinh
điển". Phần quy định chung được viết rất dài, nhưng nhiều điểm lại không thật sự
gắn với nội dung quy định tiếp sau. ở nhiều nghị định triển khai thực hiện luật,
pháp lệnh và thông tư hướng dẫn thi hành, phần tổ chức triển khai, hướng dẫn giải
thích ít, phần quy định chung lại rất dài mà thường phần này trong các văn bản
luật, pháp lệnh đã có. Tồn tại khá phổ biến tình trạng nghị định chép lại nội dung
luật, thông tư chép lại nội dung nghị định khiến cho các văn bản quy phạm pháp
luật trùng lắp nhiều, văn bản dài không cần thiết.
Thứ tám, hiện nay đang tồn tại tư duy là việc xây dựng các văn bản pháp luật càng
cụ thể càng tốt để giảm bớt việc phải có các văn bản giải thích ở cấp độ thấp hơn
và người thực hiện thì nhờ có những quy định cụ thể sẽ dễ thực hiện.Tư duy đó dẫn
đến nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định quá chi tiết, cụ thể. Nhưng dù

những văn bản này có chi tiết, cụ thể đến đâu vẫn không thể bao quát hết được các
13


đối tượng, phạm vi điều chỉnh. Vì thế đã có những kẽ hở pháp luật để những người
cố ý có thể lợi dụng, còn nhà quản lý thì lúng túng không biết xử lý như thế nào
đối với những vấn đề nảy sinh ngoài quy định.
Thứ chín, ngôn ngữ trong nhiều văn bản chưa thật sự là ngôn ngữ pháp lý. Nhiều
từ ngữ thiếu chính xác, mang nhiều nghĩa, hoặc không xác định như các từ "có
thể", "không nhất thiết"... vẫn được sử dụng nên khó hiểu, khó giải thích, trong khi
đó hoạt động giải thích pháp luật lại chưa được quan tâm đúng mức. Tình hình đó
khiến việc áp dụng thiếu thống nhất và đầy đủ, vừa khó thực hiện vừa tạo kẽ hở
cho những đối tượng cố ý lợi dụng vi phạm pháp luật.
Thứ mười : Việc thu thập ý kiến của nguuowif dân còn mang tính hình thức,
nhiều khi cử tri muốn bày tỏ ý kiến nguyện vọng của mình nhưng không gặp được,
trong khi đó những người được gặp thì lại không có ý kiến gì. Vì vậy mà nhiều khi
các văn bản pháp luật sau khi ban hành thì lại không phù hợp hoặc là không kịp
ban hành.Việc trưng cầu ý dân đang là một vấn đề lớn mà chưa được quy định cụ
thể và được thực hiện trên thực tế. Điều này nhiều lúc làm cho không phản ánh
được tâm tư nguyện vọng của nhân dân.
Đánh giá về chất lượng các văn bản pháp luật, Báo cáo giám sát chuyên đề của Ủy
ban Pháp luật Quốc hội trong kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI nhận xét: "... một số
luật, pháp lệnh chỉ mới dừng lại ở nguyên tắc chung, chưa cụ thể, gây khó khăn
cho các cơ quan, nhiệm vụ. Nhìn chung các văn bản còn thiếu về số lượng, yếu về
chất lượng, có biểu hiện cục bộ..."(4).
Thực trạng trên là do nhiều nguyên nhân. Về khách quan, do chúng ta đang trong
quá trình chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường nên nảy sinh rất nhiều vấn đề
mới phức tạp mà không thể ngày một, ngày hai đã dự báo được. Trong khi đó, việc
14



quản lý kinh tế xã hội trong điều kiện hiện đại thì lại luôn đặt ra yêu cầu phải tuân
theo những quy định của pháp luật. Chính điều đó bắt buộc chúng ta đã phải tiến
hành xây dựng pháp luật theo kiểu "nay làm mai sửa, yếu còn hơn không"(5).
Bên cạnh nguyên nhân khách quan, trong quá trình xây dựng thể chế chúng ta chưa
coi trọng việc nghiên cứu khoa học và thiếu sự tổng kết điều tra thực tiễn. Nhiều
vấn đề về lý luận và thực tiễn chưa được làm sáng tỏ, nên việc xây dựng các quy
định không sát, không hợp lý, không sửa đổi kịp thời, tính dự báo không cao. Kinh
nghiệm lập pháp còn hạn chế. Cách tổ chức xây dựng các văn bản pháp luật còn
thiếu chuyên nghiệp, còn chịu ảnh hưởng của tư duy xây dựng nghị quyết (6).
Thường vấn đề thuộc bộ, ngành nào thì do bộ, ngành đó soạn thảo, nên không khắc
phục được sự cục bộ. Đội ngũ chuyên gia hoạch định chính sách, thể chế có trình
độ cao còn thiếu, đầu tư chưa đủ tầm. Bên cạnh đó, bản lĩnh của người, cơ quan
soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật còn hạn chế, nhiều văn bản quy phạm pháp
luật còn "chiều" theo dư luận, không đúng với tinh thần luật pháp. Cơ chế thu hút
sự tham gia xây dựng văn bản pháp luật vẫn nặng về dân chủ hình thức, chưa có
hiệu quả, lãng phí nhiều, chưa phát huy được trí tuệ của các cơ quan, chuyên gia,
của nhân dân; thiếu cơ chế phản biện khách quan. Quy trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật còn nhiều bất cập, không hợp lý, thời gian kéo dài nên chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển nhanh chóng của tình hình.Theo quy định hiện hành,
các văn bản trước khi trình cấp có thẩm quyền phải có ý kiến của các cơ quan có
liên quan. Tuy nhiên, do thiếu quy định trách nhiệm nên nhiều cơ quan đã chỉ giao
cho một chuyên viên thực hiện, vì thế nhiều bản góp ý chỉ là đề nghị sửa câu chữ,
lỗi chính tả...

15


C, KẾT THÚC VẤN ĐỀ:
Vấn đề xây dựng pháp luật là một vấn đề quan trọng như vậy cho nên cần nhận

thức đúng đắn về vấn đề này.Hơn nữa cần khắc phục các tồn tại, hoàn thiện luật
ban hành văn bản pháp luật để việc xây dựng văn bản pháp luật được chặt chẽ
hơn.Làm cho mỗi người dân thực sự tham gia vào xây dựng pháp luật và đáp ứng
nguyện vọng của chính nhân dân.

16


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

ĐẶT VẤN ĐỀ……………………………………………………….…1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………1…15
I, Một số vần đề lí luận xây dựng pháp luật……………………….....1…2
1, Khái niệm……………………………………………………………..1
2, Chủ thể ………………………………………………………………..2

II. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hoạt
động của xây dựng pháp luật …………………………………..2…8
1. Kỹ năng soạn thảo các dự án luật………………………………….....2…4
2. Dư luận xã hội………………………………………………………..4…7

3. thông tin đại chúng……………………………………………7…8
II, TIỄN XÂY DỰNG PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM:…………………..8…15
1, Các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngày càng
hoàn thiện và sát thực tế hơn:……………………………………………8…10
2, Hạn chế trong việc xây dựng các văn bản
quy phạm pháp luật ở nước ta……………………………………………10…15

KẾT THÚC VẤN ĐỀ …………………………………………………….15
17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1, Giáo trình Xã hội học pháp luật.TS Ngọ Văn Nhân. NXB Tư Pháp
2, Tạp chí cộng sản điện tử
3, Tạp chí nghiên cứu lập pháp.

18



×