Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.59 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể thấy, vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động kinh doanh và
có ý nghĩa quyết định tới kết quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Đối với loại công
ty đối vốn điển hình như công ty cổ phần (CTCP), vốn càng có vai trò quan trọng trong
hoạt động kinh doanh và trong việc xác định phạm vi, quy mô cũng như năng lực cạnh
tranh của CTCP trên thị trường. Với những vai trò đó, việc tìm hiểu những quy định
pháp luật về vốn nói chung và huy động vốn nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Nhận
thức được tính thực tiễn của vấn đề, em đã chọn đề tài “Tìm hiểu pháp luật về huy
động vốn của công ty cổ phần” để làm bài tập học kỳ cho mình.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung về công ty cổ phần, vốn và huy động vốn trong công ty cổ phần.
1.
Khái quát chung về công ty cổ phần.
1.1. Khái niệm công ty cổ phần.
CTCP được xem là loại công ty đối vốn điển hình nhất, có cơ cấu vốn linh
hoạt. Việc tổ chức và hoạt động của CTCP cũng như quyền lợi, trách nhiệm của các cổ
đông đều được thực hiện theo nguyên tắc đối vốn. Theo Điều 77 Luật doanh nghiệp
năm 2005 (LDN 2005), CTCP là:
“1. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế
số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.
2.Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
3.Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động
vốn”.


1.2. Đặc điểm công ty cổ phần.
Thứ nhất, thành viên của CTCP là các tổ chức, cá nhân góp vốn vào công
ty bằng cách mua cổ phần.
Thứ hai, về vốn công ty: vốn do các cổ đông góp hoặc cam kết góp trong
một thời hạn nhất định được ghi trong Điều lệ tạo thành vốn điều lệ của công ty.
Thứ ba, CTCP là chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân.
Thứ tư, CTCP chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác trong phạm vi tài sản của công ty.
Thứ năm, cơ cấu tổ chức bộ máy của CTCP rất phức tạp, gồm: Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và có thể có Ban kiểm soát.
2.
Khái quát chung về vốn của công ty cổ phần.
2.1. Khái niệm vốn của công ty cổ phần.
Vốn của doanh nghiệp nói chung được hiểu là giá trị tính bằng tiền của
những tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh
nghiệp sử dụng trong kinh doanh. Vốn là nhân tố cơ bản không thể thiếu để thực hiện

1


các hoạt động kinh doanh. Về cơ bản, đó là một chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ tác động qua lại với nhau.
Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, CTCP phải có vốn. Dưới khía
cạnh kinh tế có thể hiểu vốn của CTCP là giá trị toàn bộ tài sản tính bằng tiền của
CTCP được đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích kiếm lợi nhuận
cho công ty. Dưới khía cạnh pháp lý thì cho đến nay vốn của CTCP vẫn chưa có một
định nghĩa chính thức và đầy đủ.
2.2. Đặc điểm về vốn của công ty cổ phần.
Thứ nhất, vốn của CTCP được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau,
trong đó chủ yếu là vốn huy động từ bên ngoài.

Thứ hai, đặc trưng về vốn của CTCP thường biểu hiện ở vốn điều lệ.
Khác với vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn của CTCP bắt buộc phải
chia thành những phần nhỏ nhất có giá trị bằng nhau gọi là cổ phần.
Thứ ba, vốn của CTCP có ảnh hưởng tới tổ chức nội bộ của CTCP.
Thứ tư, phần vốn của các cổ đông trong công ty có thể tự do chuyển
nhượng thông qua việc chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ một số trường hợp nhất
định) mà biều hiện về mặt hình thức là chuyển nhượng cổ phiếu.
Thứ năm, vốn của CTCP có sự liên quan mật thiết tới thị trường chứng
khoán. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, CTCP có quyền phát hành các loại
chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Trong quá trình huy động vốn, CTCP là
chủ thể sản xuất “hàng hóa” cho thị trường chứng khoán. Ngoài ra, hoạt động sản xuất
kinh doanh của CTCP còn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thị trường
chứng khoán. Nếu CTCP làm ăn có lãi, các nhà đầu tư sẽ yên tâm, giá cổ phiếu tăng,
thị trường sẽ phát triển, ngược lại, công ty làm ăn không hiệu quả, hoặc có hành vi lừa
lọc, làm mất lòng tin của các nhà đầu tư, giá cổ phiếu giảm gây phản ứng không tốt cho
thị trường.
2.3. Cơ cấu vốn của công ty cổ phần.
Cơ cấu vốn của CTCP là một chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu thành
vốn của CTCP và có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cơ cấu vốn của CTCP
được xem xét từ hai phương diện: phương diện kinh tế và phương diện pháp lí.
2.3.1. Dưới góc độ kinh tế.
Dưới góc độ kinh tế, cơ cấu vốn của CTCP bao gồm:
- Vốn cố định: là giá trị được tính bằng tiền của tài sản cố định và các khoản đầu tư dài
hạn.
- Vốn lưu động: là biểu hiện bằng tiền (trị giá) của tài sản lưu động.
2.3.2. Dưới góc độ pháp lý.
- Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty được hình thành từ nguồn
đóng góp của các cổ đông và vốn do CTCP tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty. Bộ
phận chủ yếu trong vốn chủ sở hữu là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của CTCP được chia
làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. CTCP có thể phát hành nhiều loại cổ phần

trong đó cổ phần phổ thông là nền tảng cơ bản về vốn của CTCP.
- Vốn vay: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau, như:
vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân hoặc vay bằng cách phát hành trái phiếu
để đảm bảo hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty, phải hoàn trả cả gốc và lãi khi

2


hết thời hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc ghi nhận trên một
giấy tờ có giá trị nào đó.
3. Huy động vốn trong công ty cổ phần.
3.1. Vai trò của vốn đối với tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần.
Tổ chức và hoạt động của CTCP dựa trên nguyên tắc đối vốn, do đó vốn
có ảnh hưởng cơ bản đến việc phân chia lợi nhuận cũng như đến cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý của CTCP.
Về phân chia lợi nhuận: Lợi nhuận còn lại của công ty sau khi đã nộp thuế
và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác được dùng để trả cổ tức. Loại cổ phần, số
lượng cổ phần mà cổ đông sở hữu chi phối đến thứ tự ưu tiên để được hưởng cổ tức
cũng như số cổ tức mà họ nhận được.
Về tổ chức, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý trong CTCP dựa trên sức
mạnh kinh tế của các nhóm sở hữu trong công ty. Sự phân chia quyền lực trong cơ cấu
tổ chức quản lí phụ thuộc vào mức độ góp vốn của các cổ đông.
3.2. Các phương thức huy động vốn của công ty cổ phần.
Các phương thức huy động vốn của một doanh nghiệp được pháp luật quy
định trên cơ sở phù hợp với cơ cấu vốn của doanh nghiệp đó. CTCP có cơ cấu vốn linh
hoạt nên có một cơ chế huy động vốn đa dạng, năng động với nhiều phương thức khác
nhau nhằm tạo điều kiện phát huy tối đa thế mạnh của loại hình công ty này. Đó là các
phương thức huy động vốn: phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu, vay các tổ chức
cá nhân trong và ngoài nước, vay ngân hàng, thuê tài chính.
3.2.1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu.

Điểm khác biệt lớn nhất và cũng là thế mạnh của CTCP đối với các loại
hình doanh nghiệp khác là việc CTCP có quyền phát hành cổ phiếu để huy động nguồn
vốn nhàn rỗi từ công chúng để thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Với quyền
phát hành cổ phiếu cho phép CTCP có thể dễ dàng huy động được số vốn lớn. Thực
chất của việc phát hành cổ phiếu là việc công ty chào bán cổ phần để huy động thêm
vốn, mà kết quả của nó là vốn điều lệ của CTCP tăng lên và làm cho cơ cấu tổ chức
của CTCP có thể bị thay đổi. Với lí do này mà việc phát hành cổ phiếu để huy động
vốn phải được cân nhắc rất kỹ để đảm bảo vị thế của từng cổ đông trong CTCP.
3.2.2. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu.
Phát hành trái phiếu là một trong những cách thức vay vốn quan trọng của
CTCP. Về cơ bản, có thể hiểu phát hành trái phiếu là cách thức vay vốn, theo đó người
vay phát hành chứng chỉ thường là với lãi suất xác định và đảm bảo thanh toán vào một
thời hạn xác định trong tương lai. Kết quả của việc phát hành trái phiếu sẽ làm tăng
vốn vay của công ty. Người mua trái phiếu (được coi là người cho vay) sẽ trở thành
chủ nợ của công ty, có quyền đòi thanh toán các khoản theo cam kết song không có
quyền tham gia vào các hoạt động của công ty và không có quyền biểu quyết trong
công ty như người mua cổ phần. Trái phiếu có khả năng trao đổi, người mua trái phiếu
ban đầu có thể bán nó đi chứ không nhất thiết phải giữ đến thời điểm đáo hạn. Do đó,
trái phiếu tạo điều kiện vay dài hạn cho người phát hành trong khi người vay vẫn có
thể thu hồi vốn vào bất cứ khi nào khi có sự tồn tại và hoạt động của thị trường chứng
khoán.
3.2.3. Huy động vốn bằng phương thức khác.

3


.1.

Huy động vốn bằng phương thức khác thực chất là hình thức vay vốn của
CTCP mà không phải thực hiện bằng phát hành trái phiếu. Các phương thức này

thường là: vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng, vay vốn của các tổ chức, cá
nhân khác trong và ngoài nước, vay qua việc thuê tài chính. Bên cạnh những vai trò
nhất định đối với CTCP thì việc sử dụng nguồn vốn này có nhiều hạn chế lớn. Do đó,
đây không phải là hình thức huy động vốn mà các CTCP có thể trông cậy để huy động
được nguồn vốn lớn.
II. Thực trạng pháp luật về huy động vốn của CTCP theo pháp luật hiện hành.
Phần này chỉ tập trung tìm hiểu hai phương thức huy động vốn quan trọng
của CTCP, đó là huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu và huy động vốn bằng phát
hành trái phiếu.
1.
Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu.
Theo LDN 2005, cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP.
Cổ phần của CTCP tồn tại dưới hai loại là: cổ phần phổ thông và cỏ phần ưu đãi. Trong
cổ phần ưu đãi lại bao gồm nhiều loại như: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi
cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại, và các loại cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy
định. Còn cổ phiếu là sự biểu hiện về mặt hình thức của cổ phần. Cổ phiếu là chứng chỉ
do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ
phần của công ty đó. Tùy từng loại cổ phiếu mà pháp luật hay Điều lệ công ty quy định
phải ghi tên hay không. Mỗi cổ phiếu có thể xác nhận một cổ phần hay một số cổ phần.
Theo khoản 1 Điều 85 LDN 2005 thì một cổ phiếu phải có những nội dung sau: Tên,
địa chỉ trụ sở chính của công ty; Sổ và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
Số lượng cổ phần và loại cổ phần; Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần
ghi trên cổ phiếu; Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân
dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên,
địa chỉ thường trú, quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng ký kinh doanh của
cổ đông là chức đối với cổ phiếu có ghi tên; Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ
phần;Chữ ký mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty; Số đăng ký
tại sổ đăng ký cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu; Các nội dung khác
theo quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của LDN 2005 đối với cổ phiếu của cổ phần
ưu đãi.

CTCP có thể bán cổ phần mà không phát hành cổ phiếu chứng chỉ.
Trường hợp này, việc phát hành cổ phiếu của công ty sẽ thực hiện dưới hình thức bút
toán ghi sổ và các thông tin về cổ đông phải được ghi vào sổ đăng ký cổ đông để chứng
thực quyền sở hữu cổ phần của cổ đông đó trong công ty.
Phương thức phát hành của cổ phiếu.
LDN 2005 quy định hai phương thức phát hành cổ phiếu, đó là: phát hành
cổ phiếu ra công chúng và phát hành cổ phiếu riêng lẻ. Tuy nhiên, các nội dung cụ thể
của phát hành cổ phiếu ra công chúng lại do pháp luật về chứng khoán về thị trường
chứng khoán điều chỉnh, bao gồm điều kiện, phương thức, thủ tục chào bán.
Phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Căn cứ vào khoản 12 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006 (LCK 2006) về
chào bán chứng khoán ra công chúng thì phát hành cổ phiếu ra công chúng được hiểu
là phương thức phát hành cổ phiếu mà cổ phiếu được chào bán rộng rãi ra công chúng

4


.2.

theo một trong các phương thức sau đây: Thông qua phương tiện thông tin đại chúng,
kể cả Internet; Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể
nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không
xác định.
Phát hành cổ phiếu riêng lẻ.
LDN 2005 lần đầu tiên đưa ra quy định về việc CTCP phát hành thêm cổ
phần phổ thông và chào bán cổ phần phổ thông cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ
phần hiện có của họ tại công ty (Điều 87). Nhưng hiện nay, việc chào bán cổ phần
riêng lẻ không chỉ hướng tới các thành viên trong CTCP mà còn mở rộng ra các nhà
đầu tư bên ngoài có nhu cầu. Do đó, để đảm bảo cho thị trường chứng khoán phát triển
ổn định, sôi nổi và để đưa phương thức này vào khuôn khổ có sự quản lý của pháp luật

thì Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy định về chào bán cổ phần
riêng lẻ.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 4 của Nghị định có thể hiểu phát hành cổ phiếu
riêng lẻ là hình thức phát hành cổ phiếu trong đó cổ phần được chào bán hoặc quyền
mua cổ phần một cách trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng
cho một trong các đối tượng sau: các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; dưới 100
nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Thông thường các nhà đầu tư chứng khoán này là các khách hàng đặc biệt
như các công ty bảo hiểm, các công ty đầu tư chứng khoán… Điểm khác biệt giữa
phương thức phát hành cổ phiếu riêng lẻ với phát hành cổ phiếu ra công chúng là cổ
phiếu riêng lẻ được phát hành ra để bán cho phạm vi số nhà đầu tư được chọn lọc từ
trước với số lượng hạn chế. Và mục đích của phát hành cổ phiếu riêng lẻ là để huy
động thêm một lượng vốn nhỏ hoặc cần tăng vốn điều lệ mà không muốn thực hiện
phát hành cỏ phiếu ra công chúng (phải cần đến chi phí phát hành lớn).
Điều kiện phát hành cổ phiếu.
Việc phát hành cổ phiếu có ảnh hưởng to lớn tới hoạt động của thị trường
chứng khoán và tác động tới cơ cấu tổ chức của CTCP nên LDN 2005 yêu cầu CTCP
phải có đủ các điều kiện sau mới được phát hành cổ phiếu:
- Đối với cổ phần phổ thông: LDN 2005 quy định: “các cổ đông sáng lập phải cùng
nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và
phải thanh toán đủ số cổ phần đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Yêu cầu này đặt ra thường nhằm vào
các CTCP mới thành lập và phát hành cổ phiếu lần đầu. Bởi vì đối với các công ty này,
đây là thời điểm công ty chưa khẳng định được năng lực hoạt động của mình cũng như
khả năng tài chính để đảm bảo an toàn trong các quan hệ với đối tác bên ngoài và với
công chúng đầu tư. Chính vì vậy, pháp luật đưa ra quy định này để gắn chặt quyền lợi
và trách nhiệm của các cổ đông sang lập (thường là những người thông qua Điều lệ đầu
tiên của CTCP) với lợi ích của công ty và đề cao trách nhiệm của họ trong giai đoạn
đầu thành lập của CTCP đối với công chúng đầu tư.
- Về giá chào bán cổ phần: LDN 2005 quy định: “Giá chào bán cổ phần không được

thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá ghi trong sổ sách của cổ phần
tại thời điểm gần nhất”. Để hiểu rõ được quy định này ta phải làm rõ các vấn đề sau:
Giá trị của cổ phần ghi trên cổ phiếu gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mệnh giá cổ phiếu, giá

5


a)
b)
c)
d)

chào bán cổ phiếu và giá cổ phiếu trên thị trường có thể rất khác nhau. Mệnh giá cổ
phiếu là giá phát hành của cổ phiếu chỉ có giá trị tham chiếu nên còn được gọi là giá
danh nghĩa của cổ phiếu. Giá chào bán cổ phiếu là giá của cổ phiếu do CTCP tự xác
định để công ty thực hiện bán đấu giá cổ phiếu trên thị trường hoặc để mời các nhà đầu
tư mua cổ phiếu của mình. Còn giá cổ phiếu trên thị trường là giá giao dịch của cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán. Trong đó, nó bao gồm giá cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán sơ cấp (giá do CTCP bán cho các nhà đầu tư) và giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán thứ cấp (giá mua bán cỏ phiếu giữa các nhà đầu tư với nhau). Tuy
nhiên, giá thị trường của cổ phiếu mà LDN 2005 nhắc tới là giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán sơ cấp và giá này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: cung
cầu của thị trường, giá trị tài sản hiện có và cả ở những lợi thế trong tương lai của
CTCP phát hành. Như vậy chỉ có giá thị trường của cổ phiếu mới phản ánh giá trị thực
của cổ phần nên việc đưa mệnh giá cho cổ phiếu là điều không cần thiết. Bởi vậy, hiện
nay LCK 2006 khi quy định về vấn đề này đã xóa bỏ quy định cứng trước đây về mệnh
giá cổ phiếu mà chỉ quy định mệnh giá cho cổ phiếu chào bán lần đầu là 10.000 đồng
để làm đại lượng xác định vốn điều lệ của CTCP khi thực hiện phát hành cổ phiếu lần
đầu. Còn đối với giá chào bán cổ phần thì có ý nghĩa trong việc mời chào hoạt động
đầu tư của các cổ đông hay công chúng đầu tư vào CTCP khi CTCP phát hành cổ

phiếu. Đây thường là giá bán ban đầu của cổ phiếu do CTCP phát hành áp dụng. Vì
vậy, việc LDN 2005 đưa ra quy định đối với giá chào bán cổ phần như trên là để đảm
bảo việc chào bán cổ phiếu của CTCP cho các cổ đông được thực hiện một cách công
bằng và hạn chế việc CTCP tạo ra các ưu thế cho các cổ đông có ưu đãi và những bất
lợi cho các cổ đông khác. Đặc biệt là nhằm loại bỏ tình trạng công ty bán hạ giá cổ
phiếu để thu hút cổ đông một cách không lành mạnh. Tuy nhiên, vì nhà làm luật không
tính đến trường hợp nếu CTCP phát hành cổ phiếu lần đầu thì làm gì có giá thị trường
của cổ phiếu vào thời điểm này để làm cơ sở xác định giá chào bán cho cổ phiếu mới
phát hành của công ty. Còn nếu căn cứ vào giá của cổ phần được ghi trong sổ sách
công ty tại thời điểm gần nhất thì giá này cũng chính là giá của cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán sơ cấp mà CTCP đang bán cho các nhà đầu tư. Vì vậy, không thể dựa vào
các căn cứ này để xác định mức giá chào bán hợp lý cho cổ phần mới phát hành. Do
đó, quy định của LDN 2005 về giá chào bán cho cổ phiếu mới phát hành ở trên vẫn
chưa thật trọn vẹn.
Bên cạnh quy định cứng về giá chào bán cổ phần ở trên thì LDN 2005 vẫn
đưa ra một vài ngoại lệ cho CTCP được chào bán cổ phần với giá thấp hơn quy định,
đó là các trường hợp sau đây:
Cổ phần chào bán lần đầu tiên cho những người không phải là cổ đông sáng lập;
Cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ ở công ty;
Cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Trong trường hợp này, số
chiết khấu hoặc tỷ lệ chiết khấu cụ thể phải được sự chấp thuận của số cổ đông đại
diện cho ít nhất 75% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết;
Các trường hợpkhác và mức chiết khấu trong trường hợp đó do Điều lệ công ty quyết
định.
Việc đưa ra các trường hợp này là để tạo điều kiện cho CTCP phát hành
có thể tiến hành thành công đợt phát hành cổ phiếu của mình, cũng như đảm bảo được
6


quyền ưu tiên cho các cổ đông và các đối tượng ưu tiên khác của công ty khi CTCP

thực hiện phát hành cổ phiếu riêng lẻ.
Đối với cổ phiếu riêng lẻ.
LDN 2005 yêu cầu CTCP phát hành phải dành quyền ưu tiên mua cổ
phiếu mới phát hành cho các cổ đông hiện hữu trong công ty theo tỷ lệ cổ phần hiện có
của họ tại công ty. Việc đưa ra quyết định này là muốn đảm bảo cho quyền lợi và địa vị
của các cổ đông cũng như cơ cấu tổ chức trong CTCP không bị thay đổi nhiều khi công
ty tiến hành phát hành cổ phiếu theo phương thức này. Tuy nhiên, việc cho phép các cổ
đông được ưu tiên mua số cổ phần theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty mà
không có sự phân biệt rõ ràng loại cổ phần được ưu tiên mua là chưa hợp lý. Vì, đối
với cổ đông ưu đãi biểu quyết nếu như thực hiện theo quy định này thì họ lại tiếp tục
được ưu tiên mua số lượng cổ phần ưu đãi biểu quyết mà CTCP mới phát hành theo tỷ
lệ cổ phần ưu đãi biểu quyết hiện có tại công ty và nhờ đó cỏ đông ưu đãi biểu quyết có
cơ hội để nắm quyền kiểm soát công ty và gây ảnh hưởng đối với quyền lợi của các cổ
đông khác trong công ty.
Ngoài ra, LDN 2005 cho phép nếu cổ đông của công ty không có nhu cầu
thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của công ty thì các cổ đông này
được chuyển quyền ưu tiên mua của mình cho người khác để tạo điều kiện cho CTCP
khi phát hành cổ phiếu riêng lẻ có thể bán hết số cổ phiếu dự định phát hành.
Đối với cổ phiếu phát hành lần đầu.
Khoản 4 Điều 84 LDN 2005 quy định: “Trường hợp các cổ đông sáng
lập không đăng ký mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại
phải được chào bán và phải bán hết trong thời hạn ban năm, kể từ ngày công ty được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Điều này được đặt ra để yêu cầu CTCP nếu
đã tiến hành chào bán cổ phiếu thì phải thực hiện đến cùng để huy động được số vốn
điều lệ như đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh. Việc quy định thời hạn này có
liên quan đến thời hạn mà cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập được tự do chuyển
nhượng, nhằm gắn trách nhiệm của cổ đông sáng lập đối với công chúng đầu tư cũng
như đối với CTCP phát hành trong giai đoạn đầu thành lập, buộc cổ đông sáng lập chỉ
được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người khác không phải là cổ
đông sáng lập của công ty khi CTCP đã hoàn thành đợt phát hành cổ phiếu lần đầu.

Tuy nhiên, vì không quy định về trách nhiệm pháp lý khi CTCP không thực hiện đúng
điều luật nên việc thực hiện điều luật này trên thực tế gặp nhiều khó khăn.
Ngoài các điều kiện do LDN 2005 quy định, thì các điều kiện cụ thể đối
với CTCP khi phát hành cổ phiếu theo các phương thức khác nhau được các văn bản
chuyên ngành của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định. Đối
với các điều kiện của phát hành cổ phiếu ra công chúng thì được quy định trong LCK
2006. Còn các điều kiện phát hành cổ phiếu riêng lẻ thì được quy định trong Nghị định
số 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ phần riêng lẻ. Ở đây, chúng ta chỉ tập trung phân
tích một vài điều kiện quan trọng có ảnh hưởng đến vấn đề bảo đảm an toàn về năng
lực hoạt động của CTCP khi phát hành do các văn bản trên đề cập.
Đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng.

7


.3.

Thứ nhất, CTCP muốn chào bán cổ phiếu phải có tiềm lực tài chính,
thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán cổ phiếu. Mức vốn
điều lệ mà CTCP phải thỏa mãn là 10 tỷ đồng tính theo sổ sách ghi trên sổ kế toán.
Thứ hai, CTCP có nhu cầu chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là
công ty kinh doanh hiệu quả. Điều đó phải được thể hiện cụ thể ở kết quả kinh doanh
của công ty đó vào năm liền trước năm chào bán. Kết quả kinh doanh này phải được
xem xét trên cả hai phương diện: năm liền kề trước đó phải có lãi và công ty không có
lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán cổ phiếu. Trong đó, điều kiện không có lỗ lũy
kế là điều kiện mới của LCK 2006 so với các nghị định cũ.
Thứ ba, CTCP dự định chào bán cổ phiếu ra công chúng phải có được
sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông về phương án phát hành và phương án sử
dụng vốn huy động được từ đợt chào bán. Điều này nhằm đảm bảo Đại hội đồng cổ
đông của công ty phát huy được quyền quyết định cao nhất đối với định hướng phát

triển của CTCP đã được quy định trong LDN 2005. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu ra
công chúng của CTCP sẽ làm cho vốn điều lệ tăng lên và có nhiều thay đổi đối với tổ
chức, hoạt động của công ty.
Đối với chào bán cổ phần riêng lẻ.
Các điều kiện khác mà Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy định đối với
phát hành cổ phiếu riêng lẻ thoáng hơn so với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Bởi phương thức phát hành này không tác động đến nhiều đối với sự thay đổi về quyền
lợi cổ đông hiện hữu và cơ cấu tổ chức của CTCP như phát hành ra công chúng.
Phương án chào bán và phương án sử dụng số tiền thu được từ việc chào bán đợt phát
hành cổ phiếu riêng lẻ không nhất thiết phải có sự thông qua của Đại hội đồng cổ đông
mà có thể do Hội đồng quản trị thông qua. Tuy nhiên, vì phát hành cổ phiếu riêng lẻ
chỉ được bán cho số lượng người mua nhất định nên trong phương án chào bán phải
xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán là dưới 100 nhà đầu tư và
hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 1 năm kể từ ngày hoàn thành đợt
chào bán. Các đối tượng được chào bán thường là cổ đông của công ty hoặc những nhà
đầu tư được hưởng quyền ưu tiên mua nên quy định này đưa ra để tránh việc người
mua không có nhu cầu mua nhưng thực hiện việc mua cổ phiếu để chuyển nhượng lại
cho người không thuộc đối tượng chào bán. Ngoài ra, với trường hợp có sự tham gia
của nhà đầu tư nước ngoài thì CTCP phát hành phải bảo đảm tuân thủ các quy định về
tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư để đảm bào không thay đổi hình thức hoạt động ban đầu
của công ty, cũng như quyền quyết định đối với công ty.
Thủ tục tiến hành.
Theo các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán thủ tục tiến hành phát hành cổ phiếu tuân theo ba bước là: đăng ký chào bán cổ
phiếu, công bố thông tin trước khi phát hành và phân phối chứng khoán.
Đăng ký chào bán cổ phiếu.
Để được chào bán cổ phiếu thì CTCP phát hành phải chuẩn bị hồ sơ đăng
ký chào bán cổ phiếu gửi tới Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Tùy từng phương thức
phát hành mà CTCP phải chuẩn bị các bộ hồ sơ khác nhau. Nếu là phát hành cổ phiếu
ra công chúng thì CTCP chuẩn bị hồ sơ theo yêu cầu của Luật Chứng khoán 2006 để

được cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phiếu ra công chúng. Nếu là phát hành cổ phiếu

8


riêng lẻ thì CTCP chuẩn bị bộ hồ sơ theo yêu cầu của Nghị định số 01/2010/NĐ-CP
của Chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ và chỉ cần sự đồng ý của Ủy ban chứng
khoán nhà nước hoặc sau 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn mà pháp luật quy định thì
CTCP được tiến hành chào bán cổ phiếu.
Công bố thông tin trước khi phát hành cổ phiếu.
Công bố thông tin là một nghĩa vụ bắt buộc đối với CTCP khi phát hành
cổ phiếu để đảm bảo yêu cầu về tính công khai, minh bạch của hoạt động này.
Đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng: Luật Chứng khoán 2006 yêu
cầu CTCP sau khi được cấp giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng
phải công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về đợt phát hành và
cung cấp nội dung của bản cáo bạch có trong hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu tới công
chúng đầu tư. Trong đó, việc cung cấp nội dung của bản cáo bạch là rất quan trọng vì
bản cáo bạch sẽ cung cấp cho công chúng đầu tư những thông tin cần thiết về CTCP
phát hành. Khách hàng của phương thức phát hành này bao gồm cả các nhà đầu tư
chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Cho nên, nếu không quy định chặt chẽ việc
công bố thông tin của CTCP phát hành thì sẽ gây bất lợi cho những nhà đầu tư không
chuyên nghiệp vì bản thân họ không có nhiều hiểu biết về tính rủi ro của từng loại
chứng khoán.
Đối với phát hành cổ phiếu riêng lẻ: LDN 2005 có đưa ra yêu cầu đối với
trường hợp CTCP phát hành cổ phiếu riêng lẻ để chào bán cổ phần đó cho tất cả các cổ
đông trong công ty theo tỷ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty thì “CTCP phải thông
báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo đảm đến được địa chỉ
thường trú của họ. Thông báo phải được đăng bào trong ba số liên tiếp trong thời hạn
10 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo” nhằm đảm bảo tính công khai, công bằng của
đợt phát hành vì không phải cỏ đông nào trong CTCP cũng được tham gia vào các cơ

quan quản lý của công ty để biết được các quyết định hay hoạt động cụ thể mà công ty
định tiến hành. Do đó, nếu không thông báo rõ ràng đến từng cổ đông thì cổ đông đó
không thể biết mà tham gia vào đợt phát hành của CTCP để thực hiện quyền ưu tiên
mua cổ phiếu của mình. Hơn nữa, vì việc thông báo thường khá tốn kém nên các công
ty phát hành không muốn thực hiện do đó pháp luật phải có quy định bắt buộc để các
CTCP tuân thủ nghiêm túc. Còn Nghị định số 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ phần
riêng lẻ thì yêu cầu CTCP phát hành cổ phiếu theo phương thức này mặc dù vẫn phải
tuân thủ yêu cầu công bố thông tin theo quy định của Luật Chứng khoán 2006 và các
văn bản pháp luật liên quan nhưng không được công bố thông tin có nội dung quảng
cáo về đợt phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo đúng bản
chất của phát hành cổ phiếu riêng lẻ.
Phân phối cổ phiếu.
Việc phân phối cổ phiếu được LDN 2005 quy định “sau khi cổ phần được
bán, CTCP phát hành phải trao cổ phiếu cho người mua. Công ty có thể bán cổ phần
mà không trao cổ phiếu (phát hành cổ phiếu dưới dạng bút toán ghi sổ). Trong trường
hợp này, các thông tin về cổ đông chỉ cần ghi vào số đăng ký cổ đông để chứng thực
quyền sở hữu cổ phần của cổ đông đó trong công ty”.
Đối với trường hợp phát hành cổ phiếu riêng lẻ, nếu số lượng cổ phần dự
định phát hành không được cổ đông và người nhận chuyển quyền ưu tiên mua đăng ký

9


.1.

mua hết thì số cổ phần dự kiến phát hành còn lại sẽ do Hội đồng quản trị quản lý. Hội
đồng quản trị có thể phân phối số cổ phần đó cho cổ đông của công ty hoặc người khác
theo cách thức hợp lý với điều kiện không thuận lợi hơn so với những điều kiện đã
chào bán cho các cổ đông, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông có chấp thuận khác
hoặc cổ phần được bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán (điểm d khoản 2 Điều 87

LDN 2005). Quy định này được đưa ra để giải quyết đối với trường hợp nếu cổ phiếu
riêng lẻ không được bán hết cho những người mua định trước của công ty, thì pháp luật
đưa ra hướng mở khác cho CTCP phát hành để công ty phân phối được hết số cổ phiếu
dự định phát hành. Tuy nhiên, việc số cổ phần còn lại của đợt phát hành riêng lẻ có thể
được bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán như quy định ở trên mà không có
hướng dẫn cụ thể có thể sẽ khiến nhiều người hiểu rằng LDN 2005 cho phép số cổ
phiếu còn lại của đợt phát hành riêng lẻ của CTCP sẽ được công ty bán hết thông qua
phát hành ra công chúng.
2. Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu là loại chứng khoán mà CTCP có thể sử dụng để huy động vốn
vay trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của
CTCP.
Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được LDN 2005 quy định tại khoản
1 Điều 88 như sau: “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các
loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”.
Khoản 3 Điều 6 LCK quy định: “Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát
hành”. Như vậy, khác với cổ phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền sở hữu cổ phần
trong CTCP thì trái phiếu là chứng khoán chỉ xác nhận quyền của người sở hữu được
trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn. Do đó, người mua trái phiếu
của CTCP không có quyền tham gia quyết định các hoạt động của công ty và cũng
không trở thành cổ đông của công ty như việc mua cổ phiếu.
Dù phát hành trái phiếu không làm ảnh hưởng tới cơ cấu của CTCP và địa
vị của các cổ đông hiện hữu nhưng nó lại có sự ảnh hưởng tới sự tồn tại, hoạt động của
công ty cũng như trách nhiệm của các cổ đông đối với khoản nợ của công ty. Vì vậy,
LDN 2005 quy định: “Trong trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì
Hội đồng quản trị có quyền quyết định loại trái phiếu, tổng giá trị trái phiếu và thời
điểm phát hành nhưng phải báo cáo Đại hội đồng cổ đông tại các cuộc họp gần nhất.
Báo cáo phải kèm theo tài liệu và hồ sơ giải trình quyết định của Hội đồng quản trị về
phát hành trái phiếu” để đảm bảo quyền cho phép cao nhất vẫn thuộc về Đại hội đồng

cổ đông của CTCP nơi mà bao gồm các cổ đông có quyền biểu quyết.
Phương thức phát hành của trái phiếu.
Theo LCK 2006, CTCP có quyền phát hành trái phiếu theo hai phương
thức phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như đối với phát hành cổ phiếu.
Tuy nhiên, phát hành trái phiếu theo phương thức riêng lẻ thì tuân theo quy định của
LDN 2005, còn phát hành trái phiếu ra công chúng sẽ tuân theo các quy định của LCK
2006. Trong khi phát hành trái phiếu ra công chúng thì luật không phân biệt về hình
thức phát hành lần đầu và phát hành thêm trái phiếu giống như đối với phát hành cổ

10


.2.

a)
b)
c)
d)

a)
b)

phiếu vì để được phát hành trái phiếu hiển nhiên CTCP phải là công ty đã có sự khẳng
định thực lực trên tị trường bằng kết quả kinh doanh cụ thể.
Điều kiện phát hành trái phiếu.
Phát hành trái phiếu ra công chúng.
Theo khoản 2 Điều 12 LCK 2006, muốn thực hiện phát hành trái phiếu ra
công chúng CTCP phải có những điều kiện sau đây:
CTCP có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỉ đồng Việt
Nam trở lên tính theo giá ghi trên sổ kế toán;

Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng
thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải
trả quá hạn trên một năm;
Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán
được Hội đồng quản trị công ty thông qua;
Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện
phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều
kiện khác.
Như vậy, ngoài những điều kiện giống với việc phát hành cổ phiếu ra
công chúng, CTCP muốn phát hành trái phiếu ra công chúng còn phải đáp ứng thêm
các điều kiện khác như: không có các khoản nợ quá hạn trên một năm, phải có cam kết
thực hiện nghĩa vụ đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên, phương án phát hành cổ phiếu ra
công chúng chỉ cần có sự thông qua của Hội đồng quản trị thay vì phải có được sự chấp
thuận của Đại hội đồng cổ đông. Có sự khác biệt này cơ bản xuất phát từ sự khác biệt
giữa bản chất của hai loại chứng khoán trái phiếu và cổ phiếu. Tuy nhiên, nếu trái
phiếu được chào bán là trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu có kèm theo chứng quyền
thì phương án phát hành, kế hoạch phát hành và phương án sử dụng vốn lại cần được
Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Phát hành trái phiếu riêng lẻ.
LDN 2005 tại khoản 2 Điều 88 đã đưa ra các trường hợp CTCP không
được phát hành trái phiếu, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc
thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước đó;
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ban năm liên tiếp trước đó không cao hơn
mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
Quy định này được đưa ra để loại bỏ việc tham gia phát hành trái phiếu
của những CTCP không đủ năng lực trả nợ nhằm ngăn chặn rủi ro tiềm tàng cho các
nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính
được lựa chọn không bị hạn chế bởi các quy định tại điểm a và điểm b trên. Việc đưa
ra ngoại lệ này là để phù hợp với các CTCP có vốn của Nhà nước. Các công ty này

luôn có sự đảm bảo của Nhà nước về vốn hoạt động cũng như năng lực trả nợ và hơn
nữa việc tồn tại của các công ty này thường không vì mục đích kinh tế mà để thực hiện
các nhiệm vụ do Nhà nước giao phó nên việc phát hành trái phiếu của công ty thường
là do các tổ chức tài chính như ngân hàng hay tổ chức tín dụng do Nhà nước lựa chọn
để thông qua đó cấp vốn vay cho công ty hoạt động. Vì vậy, đối với trường hợp này
năng lực trả nợ của CTCP không cần phải đặt ra.

11


.3.

Ngoài quy định ở trên thì dưới góc độ của một hoạt động phát hành chứng
khoán và hoạt động vay vốn thì việc phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP vẫn phải
đáp ứng những điều kiện được quy định tại Điều 17 Nghị định 52/2006/NĐ-CP:
Thứ nhất, CTCP phải có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ
ngày chính thức đi vào hoạt động để có thể chứng minh được thực lực của CTCP trong
thời gian đã qua và để khẳng định tiềm lực của CTCP trong thời gian sắp tới;
Thứ hai, CTCP phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm
phát hành được kiểm toán để đáp ứng yêu cầu về tài chính minh bạch, đồng thời, còn
cung cấp thông tin đáng tin cậy cho các nhà đầu tư để họ có thể đánh giá năng lực kinh
doanh và tình hình tài chính của công ty, từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn;
Thứ ba, kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh củaCTCP ở năm liền
kề năm phát hành phải có lãi. Với điều kiện này, chỉ có CTCP kinh doanh có hiệu quả
mới được quyền huy động vốn bằng phát hành trái phiếu;
Thứ tư, CTCP phải có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ đã được
Hội đồng quản trị công ty thông qua. Trong đó, nội dung của phương án phát hành phải
giúp nhà đầu tư xác định được vốn mà mình cho công ty vay được dùng vào việc gì,
tổng khối lượng trái phiếu sẽ phát hành, kỳ hạn trả nợ và mức lãi suất mà mình được
hưởng là bao nhiêu, địa điểm bán trái phiếu…. Còn nếu phát hành trái phiếu chuyển

đổi còn phải có thêm vài nội dung như tỉ lệ chuyển đổi, thời hạn chuyển đổi,…
Thủ tục tiến hành.
Đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng.
LCK 2006 quy định thủ tục tiến hành phát hành trái phiếu ra công chúng
gồm có 3 bước: Đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng, công bố thông tin trước
khi chào bán và phân phối chứng khoán. Trong đó, nội dung của các bước này thực
hiện tương tự như đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng. Chỉ khác ở yêu cầu đối
với hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu đó là: thứ nhất, thay vì có quyết định của Đại hội
đồng cổ đông thông qua phương án phát hành thì CTCP phát hành cần có quyết định
của Hội đồng quản trị, thứ hai, phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP
phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ.
Thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ chỉ gồm 2 bước là: công bố thông tin
trước khi chào bán và phân phối trái phiếu.
Công bố thông tin trước khi phát hành: CTCP khi phát hành trái phiếu
riêng lẻ phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định về công bố thông tin trước khi phát hành
để đảm bảo hoạt động phát hành công khai, minh bạch, công bằng và bảo vệ quyền
cũng như lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Những thông tin mà CTCP phải công bố là:
Công khai báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm phát hành làm cơ
sở cho nhà đầu tư; Công bố phương án phát hành trái phiếu đã được Hội đồng quản trị
thông qua; Công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của mình đối với
người sở hữu trái phiếu. Ngoài ra, tùy thuộc vào loại trái phiếu sẽ chào bán là loại trái
phiếu chuyển đổi hay trái phiếu không chuyển đổi mà CTCP sẽ phải tuân thủ thêm các
yêu cầu khác.

12


Phân phối trái phiếu: CTCP tiến hành phân phối trái phiếu sau khi đã

hoàn thành nghĩa vụ công bố thông tin để đưa trái phiếu tới tay người mua. Việc phân
phối trái phiếu có thể được hoàn thành bởi chính công ty hoặc thông qua tổ chức trung
gian. Thông thường, việc phân phối trái phiếu riêng lẻ được thực hiện theo phương
thức đấu thầu. Việc đấu thầu trái phiếu có thể được tiến hành trực tiếp tại công ty hoặc
thông qua tổ chức trung gian hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán.
III. Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện
hành về huy động vốn của công ty cổ phần.
1. Một số nhận xét đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về huy động vốn
của công ty cổ phần.
1.1. Những thành công trong quy định pháp luật hiện hành về huy động vốn của công ty cổ
phần.
Thứ nhất, việc LDN 2005 quy định cho CTCP có các phương thức huy
động vốn đa dạng, linh hoạt như đã trình bày ở trên, đã đưa CTCP trở thành loại hình
doanh nghiệp ưu việt hẳn so với các loại hình doanh nghiệp khác ở khả năng tập trung
vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất, kinh
doanh của công ty.
Thứ hai, việc LDN 2005 đa dạng hóa các loại cổ phần của CTCP đã đáp
ứng được các nhu cầu và kì vọng khác nhau của các nhà đầu tư.
Thứ ba, quy định của pháp luật về cơ chế huy động vốn của CYCP hiện
nay khá hoàn thiện và khắc phục được nhiều hạn chế của các văn bản pháp luật trước
đó khi điều chỉnh về hoạt động này.
Thứ tư, không chỉ riêng LDN 2005, các văn bản pháp luật về chứng khoán
cũng góp phần không nhỏ để tạo ra sự hoàn thiện trong cơ chế huy động vốn của CTCP
hiện nay. Trong đó phải kể đến là sự ra đời của Nghị định số 01/2010/NĐ-CP ngày
14/1/2010 của Chính phủ để điều chỉnh một mảng riêng về phát hành cổ phần riêng lẻ
và sự ra đời của Luật chứng khoán 2006 – đạo luật có giá trị cao nhất điều chỉnh hoạt
động của thị trường chứng khoán.
1.2. Những hạn chế của LDN 2005 về huy động vốn của công ty cổ phần.
Thứ nhất, khi quy định về các loại cổ phần ưu đãi, LDN 2005 ngoài việc
đưa ra ba loại cổ phần ưu đãi cơ bản còn có thêm quy định “Cổ phần ưu đãi khác do

Điều lệ công ty quy định”. Việc này nhằm tạo điều kiện cho các CTCP có thể tự do
sáng tạo thêm các loại cổ phần ưu đãi khác. Tuy nhiên quy định này rất khó có thể thực
hiện trên thực tế. Bằng chứng là từ khi có quy định này đến nay, chúng ta chưa thấy
CTCP nào phát hành một loại cổ phần ưu đãi khác ngoài những cổ phần do pháp luật
quy định.
Thứ hai, có thể nói phát hành trái phiếu là một hình thức quan trọng để
huy động vốn vay hiệu quả cho CTCP. Tuy nhiên, những quy định về phát hành trái
phiếu riêng lẻ trong LDN 2005 là quá ít ỏi. Ngoài quy định tại Điều 88 về quyền phát
hành trái phiếu nói chung của CTCP và một số trường hợp CTCP không được phát
hành trái phiếu thì Luật không có thêm quy định điều chỉnh các nội dung cụ thể về phát
hành trái phiếu riêng lẻ. Trong khi đó, đối với phát hành cổ phiếu riêng lẻ, LDN 2005
quy định khá cụ thể và còn có cả Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy định riêng về chào
bán cổ phần riêng lẻ. Cho nên thực tế hiện nay, phương thức huy động vốn bằng phát

13


hành trái phiếu không có được sự đón nhận của các nhà đầu tư cũng như không giành
được sự quan tâm của các công ty cổ phần.
Thứ ba, khi quy định về giá chào bán cổ phần với hai căn cứ là giá thị
trường của cổ phần tại thời điểm chào bán và giá ghi trong sổ sách của CTCP tại thời
điểm gần nhất để làm căn cứ xác định giá chào bán, LDN 2005 đã không bao quát
được trường hợp giá chào bán đối với cổ phần được phát hành lần đầu của CTCP như
đã phân tích ở phần thực trạng. Do đó, giá cổ phiếu phát hành lần đầu sẽ không thể
thực hiện theo các yêu cầu về giá chào bán mà pháp luật quy định.
Thứ tư, về quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của các cổ đông
trong CTCP mà LDN 2005 quy định là chưa phù hợp với mục đích không làm thay đổi
địa vị của từng cổ đông hiện hữu sau mỗi đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ. Hơn nữa, đối
với cổ phần ưu đãi biểu quyết, việc pháp luật không quy định khống chế một tỉ lệ cổ
phần ưu đãi biểu quyết mà từng cổ đông sáng lập được ưu tiên mua sẽ khiến cho các cổ

đông sáng lập lợi dụng quyền ưu tiên mua cổ phiếu này để nắm quyền kiểm soát công
ty và gây ảnh hưởng đến quyền lợi cho các cổ đông khác trong CTCP.
Thứ năm, trong quy định về phát hành cổ phiếu riêng lẻ, Luật cho phép
các cổ đông của CTCP “được chuyển quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của
mình cho người khác” hay quy định cho phép CTCP “được phân phối số cổ phiếu còn
lại của đợt phát hành riêng lẻ cho cổ đông của công ty hoặc người khác theo cách
thức hợp lí với điều kiện không thuận lợi hơn so với những điều kiện đã chào bán cho
các cổ đông” mà không có quy định rõ ràng “người khác” ở đây là những đối tượng
nào sẽ khiến cho phát hành cổ phiếu riêng lẻ và phát hành cổ phiếu ra công chúng của
công ti cổ phần không có được sự phân biệt rõ ràng cũng như khiến cho quy định của
pháp luật trong trường hợp này bị hiểu sai đi.
Thứ sáu, đối với cổ phần còn lại của đợt phát hành riêng lẻ của CTCP
được bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán vì Luật không quy định việc bán này
được tiến hành như thế nào có thể khiến hiểu san rằng LDN 2005 cho phép số cổ phiếu
còn lại của đợt phát hành riêng lẻ của CTCP có thể được phát hành ra công chúng.
Thứ bảy, đối với phát hành cổ phiếu lần đầu, LDN 2005 đưa ra yêu cầu
CTCP phải chào bán và bán hết số cổ phần được quyền chào bán của công ty trong thời
hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, vì nhà
làm luật không quy định trách nhiệm pháp lí kèm theo hoặc hướng giải quyết cụ thể
cho công ty nếu không thực hiện được yêu cầu đó nên khiến cho mục đích trong quy
định của pháp luật đối với vấn đề trên là không đạt được cũng như việc thực thi điều
luật trên thực tế sẽ kém hiệu quả.
2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về huy động vốn trong
công ty cổ phần.
Thứ nhất, LDN 2005 cần xóa bỏ quy định “Cổ phần ưu đãi khác do Điều
lệ công ty quy định” để tạo thêm hàng hóa cho thị trường chứng khoán cũng như tạo
điều kiện tối đa cho hoạt động huy động vốn của CTCP dưới hình thức phát hành cổ
phiếu và đảm bảo loại hàng hóa này luôn có sự quản lí của pháp luật. Thay vào đó, luật
nên quy định thêm các loại cổ phần ưu đãi khác để CTCP lựa chọn phát hành. Sau đây
là một vài loại cổ phần ưu đãi trong pháp luật một số nước như Thái Lan, Malayxia,

Philippin, Singapo… được lấy để làm tham khảo, như: cổ phần ưu đãi dồn lãi, cổ phần

14


ưu đãi dự phần được chia tổ chức; cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi, cổ phần ưu đãi
phức hợp,…
Thứ hai, đối với quy định về phát hành trái phiếu của CTCP, LDN 2005
cần có thêm các quy định về phát hành trái phiếu riêng lẻ của CTCP. Trong đó phải có
những nội dung như:
- Cần đưa ra khái niệm trái phiếu, ví dụ như: trái phiếu là chứng chỉ do công ty phát
hành (CTCP hoặc CTTNHH) xác nhận quyền đòi nợ của chủ nợ đối với khoản vay có
thời hạn ghi trên trái phiếu và các nội dung liên quan đến việc thanh toán nợ của chủ
thể phát hành.
- Các điều kiện mà CTCP phải thỏa mãn khi phát hành trái phiếu riêng lẻ như đã trình
bày ở phần thực trạng. Vì nếu không có quy định cụ thể thì các cơ quan nhà nước rất
khó kiểm soát được hoạt động phát hành này của CTCP.
- Cần quy định các nội dung cơ bản của trái phiếu và quy định thêm các loại trái phiếu
cho CTCP lựa chọn phát hành như: trái phiếu trả lãi theo thu nhập, trái phiếu lãi suất
thả nổi, trái phiếu có quyền bá lại trước khi đáo hạn,…
Thứ ba, đối với giá chào bán cổ phần, để điều chỉnh trọn vẹn cho cả
trường hợp cổ phiếu được phát hành lần đầu, LDN 2005 cần quy định: Giá chào bán cổ
phần không được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán hoặc giá trị được ghi
trong sổ sách của cổ phần tại thời diểm gần nhất hoặc giá trị cổ phần do tổ chức định
giá chuyên nghiệp xác định cho cổ phần của công ty tại thời điểm chào bán.
Thứ tư, LDN cần đưa ra tỉ lệ khống chế thích hợp của cổ phần ưu đãi biểu
quyết so với tổng số cổ phần phổ thông phát hành cho các CTCP nói chung và tỷ lệ cổ
phần ưu đãi biểu quyết mà mỗi cổ đông sáng lập của công ty được ưu tiên mua. Ngoài
ra luật cũng cần quy định tỷ lệ cổ phần được ưu tiên mua thích hợp tương ứng với mỗi
loại cổ đông của công ty hoặc nên quy định thứ tự ưu tiên mua cổ phần riêng lẻ của

từng loại cổ đông. Thứ tự đó có thể là: cổ đông phổ thông, cổ đông ưu đãi biểu quyết,
cổ đông ưu đãi khác.
Thứ năm, đối với khái niệm “người khác” như đã phân tích ở trên thì
LDN 2005 cần có hướng dẫn cụ thể đó là những đối tượng nào để đảm bảo giữ đúng
bản chất ban đầu của phát hành cổ phiếu riêng lẻ là phát hành hẹp cho những người
mua xác định. “Người khác” ở đâycó thể là: những người không phải là cổ đông của
công ty nhưng được công ty lựa chọn từ trước để chào bán trực tiếp cổ phiếu riêng lẻ
mà công ty dự định phát hành. Trong trường hợp CTCP phát hành cổ phiếu riêng lẻ để
chào bán cho các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty thì người khác
được mua ở đây phải là những nhà đầu tư chuyên nghiệp theo quy định của Luật
Chứng khoán 2006.
Thứ sáu, việc số cổ phần còn lại của đợt phát hành riêng lẻ có thể được
bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán thì để không bị hiểu sai, LDN 2005 nên
hướng dân rằng việc bán cổ phần qua trung tâm giao dịch chứng khoán ở đây là bán
theo phương thức đấu thầu.
Thứ bảy, đối với phát hành cổ phiếu lần đầu của CTCP mà LDN 2005 quy
định tại khoản 4 Điều 84, để quy định của pháp luật được trọn ven và có giá trị thực thi
cao thì luật nên quy định: Trường hợp các cổ đông sáng lập không đăng kí mua hết số
cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại phải được chào bán hết trong thời

15


hạn ban năm , kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Nếu
hết thời hạn trên mà CTCP vẫn không bán hết được số cổ phần được quyền chào bán
thì số cổ phần còn lại được xử lí theo một trong các cách sau đây:
a. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau mua hết số cổ phần đó theo tỉ lệ sở hữu cổ phần
của họ trong công ty.
b. Một hoặc một số cổ đông sáng lập nhận mua hết số cổ phần đó.
c. Nếu số cổ phần trên không được mua hết bằng một trong các cách quy định tại điểm a,

điểm b của điều luật thì CTCP không được tiến hành phát hành cổ phiếu mới cho đến
khi số cổ phần đó được chào bán hết.
KẾT LUẬN
CTCP là loại hình công ty đang ngày càng chiếm ưu thế ở nước ta trong
bối cảnh nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển. Những quy định trong LDN
2005 và những văn bản pháp luật khác về CTCP, đặc biệt là những cơ chế về huy động
vốn của nó đã tỏ ra thông thoáng, mềm dẻo hơn, tạo hành lang an toàn cho sự hoạt
động của CTCP. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc thi hành pháp luật còn là một vấn đề
khó khăn, phức tạp. Để những quy định về huy động vốn của CTCP đi vào thực tế cuộc
sống và phát sinh hiệu quả đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều mặt cũng như sự hướng dẫn cụ
thể từ phía Nhà nước.

16



×