Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Một số đặc điểm của phật giáo thời Ngô Đinh Tiền Lê và ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (952.51 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

TRỊNH THỊ HÒA

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

TRỊNH THỊ HÒA

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Luận văn “ Một số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền
Lê và ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tài liệu sử
dụng tham khảo, trích dẫn trong Luận văn đều đảm bảo có nguồn gốc rõ ràng,
trung thực. Các kết quả nghiên cứu được công bố trong Luận văn là hoàn toàn
chính xác, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố trong và
ngoài nước.
Tôi xin cam đoan điều này là đúng sự thật. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm trước pháp luật.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Tác giả

TRỊNH THỊ HÒA


LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ tình cảm biết ơn chân thành tới tất cả các thầy cô
trong Khoa sau đại học - Trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội –
Đại học Quốc Gia Hà Nội với những chỉ dẫn và giúp đỡ trong quá trình học tập
cũng như khi tiến hành làm luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô PGS.TS Đỗ Thị Hòa Hới, người trực

tiếp hướng dẫn khoa học, các thầy giáo trong khoa Triết học - Trường Đại học
Khoa học Xã Hội và Nhân Văn Hà Nội – Đại học Quốc Gia Hà Nội đã có những ý
kiến đóng góp quý báu cho nội dung của luận văn.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình và các bạn đồng nghiệp đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Vì thời gian thực hiện luận văn có hạn nên không thể tránh khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô, bạn bè và
đồng nghiệp.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2015
Tác giả

TRỊNH THỊ HÒA


MỤC LỤC
A MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu. ............................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. ..................................... 7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................................... 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu. .............................................. 8
6. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. ................................................ 8
8. Kết cấu của luận văn . ................................................................................. 9
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT
GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ DIỆN MẠO CỦA NÓ. ....... 10
1.1 Bối cảnh cho sự phát triển Phật giáo thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê.. 10
1.1.1 Điều kiện chính trị - kinh tế xã hội ......................................................... 10
1.1.2 Điều kiện văn hoá – tư tưởng ................................................................. 22

1.2 Diện mạo của Phật giáo trƣớc và trong thời Ngô – Đinh – Tiền Lê... 27
1.2.1 Diện mạo Phật giáo trước thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. ......................... 27
1.2.2 Diện mạo Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. .................................. 34
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH –
TIỀN LÊ NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI LỊCH SỬ VIỆT
NAM ............................................................................................................... 39
2.1 Đặc điểm nhập thế của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê ............ 39
2.1.1 Đặc điểm Phật giáo nhập thế trong đời sống chính trị - xã hội. .......... 39
2.1.2 Đặc điểm Phật giáo nhập thế biểu hiện qua vai trò của các thiền sư. .. 43
2.2 Đặc điểm dung thông của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê ........ 58
2.2.1 Đặc điểm dung thông của Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng bản địa. ..... 59


2.2.2 Đặc điểm dung thông của Phật giáo trong Tam giáo............................ 67
2.2.3 Đặc điểm dung thông giữa các tông phái khác nhau trong Phật giáo ......... 72
2.3 Ý nghĩa của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đối với lịch sử Việt
Nam thời kỳ này. ........................................................................................... 77
2.3.1 Một số giá trị nổi bật của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê đối với
lịch sử Việt Nam thời kỳ này. .......................................................................... 77
2.3.2 Một số hạn chế của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê..................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. .................................................... 89


A MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VI TCN ở Ấn Độ và nhanh
chóng trở thành một tôn giáo lớn thu hút được đông đảo tín đồ tham gia. Sở dĩ
Phật giáo có sự lôi cuốn mạnh mẽ như thế không chỉ vì Phật giáo có giáo lý
cao siêu mà quan trọng hơn đem lại quan niệm sự công bằng, bình đẳng giữa

con người với con người, ngợi ca tình thương lòng từ bi bác ái. Phật giáo sau
khi ra đời ở Ấn Độ đã nhanh chóng lan tỏa đi ra các nước trong khu vực. Với
sự mềm mỏng, khoan dung, uyển chuyển trong giáo lý, giáo lễ, giáo luật dựa
trên tinh thần “khế lý khế cơ” đi đến đâu Phật giáo cũng nhanh chóng hòa
hợp, ăn sâu bám rễ vào nền văn hóa nơi mà nó truyền bá tới. Mà ở Việt Nam
cũng không phải là một ngoại lệ.
Phật giáo truyền vào Việt Nam vào khoảng đầu công nguyên khi nước
ta đang chìm đắm trong vòng nô lệ của phong kiến phương Bắc. Đứng trước
nỗi bất hạnh của một dân tộc bị mất độc lập chủ quyền, có nguy cơ bị đồng
hóa về mặt văn hóa. Phật giáo đã không đứng ngoài cuộc mà chia sẻ đứng về
phía người dân Việt Nam bị đọa đầy đau khổ, động viên, ủng hộ họ trong các
cuộc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Và trong suốt hai ngàn năm lịch sử
du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật giáo luôn đồng hành cũng dân tộc,
đứng về phía dân tộc để chống lại các thế lực ngoại bang.
Với sự hội nhập của Phật giáo với văn hóa dân tộc, nên những tư tưởng
cao siêu thấm đẫm tinh thần triết học Phật giáo tự khi nào đã thấm vào trong
quần chúng nhân dân lao động trở thành giá trị định hướng cho suy nghĩ và
hành động của người Việt. Phật giáo đã kết hợp với văn hóa tín ngưỡng bản
địa tạo nên một lâu đài tráng lệ về văn hóa mà vẫn đậm bản sắc dân tộc. Với
những kết quả to lớn của Phật giáo hòa nhập với văn hóa Việt Nam thì việc
đúc rút nghiên cứu về những đặc điểm, đặc trưng của Phật giáo trong các triều

1


đại trong lịch sử sẽ luôn là một vấn đề bức thiết đặt ra đối với những người
muốn tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam.
Việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam bởi thế đã có nhiều công
trình nghiên cứu, tuy nhiên không phải giai đoạn lịch sử Phật giáo nào cũng
được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phân tích một cách đẩy đủ, hệ thống

rạch ròi mà tiêu biểu là thời đại Ngô – Đinh – Tiền Lê. Do đây là một giai
đoạn lịch sử bản lề từ thời kỳ mất chủ quyền bước vào kỷ nguyên độc lập tự
chủ, tuy ngắn ngủi nhưng lại chứa đầy ắp những sự kiện lịch sử cần phân
tích, làm rõ. Phân tích sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn này là hết
sức quan trọng, nhất là những đặc điểm của nó. Chỉ có giải quyết được vấn đề
những điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của Phật giáo này thì
chúng ta mới lý giải rõ ràng được tại sao Phật giáo thời kỳ này lại có những
đặc điểm như vậy. Và giai đoạn đã kế thừa những gì của Phật giáo giai đoạn
trước đó. Đồng thời làm rõ được giai đoạn này góp phần đi tới luận giải được
những lý do, đặc điểm nào đã đưa Phật giáo thời đại Lý – Trần phát triển lên
đến đỉnh cao vàng son.
Hiện nay đất nước ta đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ trong
việc xây dựng và hoạch định phát triển kinh tế xã hội văn hóa với những khó
khăn và thách thức rất lớn. Vì vậy đòi hỏi Đảng và Nhà nước và đặc biệt là
các nhà khoa học cần có những nghiên cứu từ trong truyền thống các kinh
nghiệm lịch sử đưa ra kiến giải hợp lý để làm bài học đưa đất nước, kinh tế,
khoa học và cả văn hóa không ngừng đi lên. Tuy nhiên để có thể đưa ra
những kiến giải khoa học một mặt chúng ta cần phải dựa trên những lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng mặt khác cần phải
đào sâu tìm hiểu lại lịch sử văn hóa của dân tộc để đúc rút, học hỏi những bài
học kinh nghiệm của ông cha ta đã để lại. Và tôi thiết nghĩ tìm hiểu sâu hơn
về cách ứng xử với Phật giáo của thời Ngô – Đinh - Tiền Lê từ việc tìm hiểu

2


bối cảnh những vấn đề chính trị - xã hội và đặc điểm của Phật giáo thời kỳ
này sẽ cung cấp cho hậu thế những kiến thức và gợi ý bổ ích.
Vì vậy nghiên cứu một số đặc điểm của Phật giáo trong các triều đại
mở đầu kỷ nguyên tự chủ trên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan

trọng. Điều đó không những góp phần giúp chúng ta tìm hiểu tinh hoa tư
tưởng và văn hóa dân tộc trong quá khứ mà còn giúp ta có một cái nhìn khách
quan về vị trí của Phật giáo trong các triều đại Ngô- Đinh –Tiền Lê đã đóng
góp cho dân tộc Việt Nam.
Chính vì những lý do nêu trên mà tôi lựa chọn vấn đề tìm hiểu: “Một
số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê và ý nghĩa của nó
đối với lịch sử Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Lịch sử Phật giáo truyền vào nước ta từ những thế kỷ đầu công
nguyên, đến nay đã ngót 2000 năm. Qua thời gian dài Phật giáo đã để lại cho
dân tộc ta nhiều dấu ấn, có thế thấy từ tín ngưỡng đến văn hóa, phong tục tập
quán, từ tư tưởng chính trị, luật pháp đến tình cảm. Với ảnh hưởng lâu dài,
sâu rộng của Phật giáo ở nước ta, cho đến ngày nay có rất nhiều công trình
nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam nói chung, đóng góp của Phật giáo cho tư
tưởng Việt Nam, văn hóa Việt Nam, mà điển hình là các công trình sau:
Tác phẩm được cho là công trình nghiên cứu sớm nhất về tinh hoa Phật
giáo Việt Nam lưu truyền cho đến ngày nay là tác phẩm “Thiền uyển tập
anh”. Đây là công trình tập trung nghiên cứu truyền thừa hai dòng thiền Tỳ
Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông với những đại diện là những thiền sư cụ
thể. Tuy nhiên tác phẩm này lại chưa đi sâu tìm hiểu và đánh giá về các mặt
đầy đủ, cụ thể của Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê.
Đến thế kỷ cận hiện đại ở nước ta có hai công trình nghiên cứu về Phật
giáo là “Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII” của Trần Văn
Giáp, “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Thích Mật Thể. Hai cuốn sách này
3


đã mang những giá trị nhất định đều đáp ứng phần nào đó yêu cầu hiểu biết về
lịch sử Phật giáo tại Việt Nam của người đương thời, đều để lại những kiến
thức và kinh nghiệm cho những người nghiên cứu Phật giáo về sau. Tuy

nhiên hai công trình này với số lượng trang có hạn nên khi trình bày về lịch sử
Phật giáo Việt Nam còn hết sức đại cương nhất là thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền
Lê thì lại bàn rất ít.
Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Nguyễn Lang đã cho xuất bản
cuốn sách “Việt Nam Phật giáo sử luận” gồm 3 tập với dung lượng gần 1200
trang viết về sự du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên
đến giữa thế kỷ XX. Cuốn sách đã viết rất chi tiết và cụ thể về từng giai đoạn
nhất là trong giai đoạn bước đầu du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt
Nam, đặc biệt là hai thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Tác giả
đã phân tích chỉ rõ vị trí và vai trò của từng nhà sư đối với sự phát triển của
Phật giáo nói riêng và đất nước nói chung. Tuy nhiên công trình này lại ít đề
cập cụ thể đến diện mạo giai đoạn Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê mà lại
trực tiếp đi tìm hiểu Phật giáo thời Lý. Hoặc có trình bày thì chỉ dừng lại ở
các thiền sư cụ thể mà chưa tập trung chỉ rõ được những đặc điểm chung của
Phật giáo thời kỳ này.
Năm 1991, nhà xuất bản bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho xuất bản
cuốn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” do Nguyễn Tài Thư chủ biên với dung
lượng hơn 500 trang trong đó đã giành hơn 30 trang để phân tích về Phật giáo
thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, qua đó đưa ra những kiến giải tổng quan nhất về
vai trò Phật giáo thời Đinh – Lê, đã bắt đầu chuẩn bị cho sự phát triển đến cực
thịnh của Phật giáo thời Lý – Trần. Tuy nhiên để đi sâu một cách có hệ và làm
rõ từng đặc điểm Phật giáo của thời Ngô – Đinh – Tiền Lê thì lại còn một số
những khoảng trống cần được tiếp tục bổ sung trong công trình.
Năm 1993, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho ra mắt
quyển sách “ Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 1” do Nguyễn Tài Thư chủ biên,
4


với dung lượng gần 500 trang đã giành những trang viết về quá trình du nhập
và phát triển của Phật giáo Việt Nam trong dòng chảy phát triển của lịch sử tư

tưởng dân tộc trong đó có thời Ngô – Đinh – Tiền Lê. Trong giai đoạn này
sách đã chỉ ra được một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Ngô – Đinh –
Tiền Lê nhưng với dung lượng trang có hạn nên những đặc điểm này chỉ được
phân tích sơ lược.
Năm 1999, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội đã cho xuất bản
cuốn sách “Tư tưởng Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh với dung
lượng dạy dặn hơn 800 trang. Đây là một cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu về
tư tưởng của Phật giáo Việt Nam. Tác giả đã đi từ trong phân tích nội dung
kinh kệ được du nhập qua các thời đại khác nhau để chỉ ra sự vận động, phát
triển của tư tưởng Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên tác giả lại không đi nghiên
cứu một cách cụ thể về đặc điểm Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê
Năm 2006, Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh đã cho in
lại có bổ sung công trình nghiên cứu “Lịch sử Phật giáo Việt Nam I, II, III”
của Lê Mạnh Thát. Trong Tập II của công trình này đã đề cập cụ thể đến Phật
giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê với đại diện là những Thiền sư Khuông Việt,
Pháp Thuân, Vạn Hạnh… Trong đó nghiên cứu về những thiền sư cụ thể, tác
giả đã đưa ra những phân tích nhận xét, sắc sảo, kỹ càng về đóng góp của họ.
Tuy nhiên tác giả lại chưa xâu chuỗi lại các sự kiện để chỉ ra hệ thống những
đặc điểm chung cơ bản nhất của Phật giáo giai đoạn này thể hiện xu hướng
vận động của Phật giáo.
Gần đây, nhà xuất bản Khoa học xã hội đã cho phát hành cuốn sách:
“Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam”( 2002) của Nguyễn Hùng Hậu,
trong cuốn sách này thì tác giả đã giành nhiều trang nói về nội dung thế giới
quan và nhân sinh quan của Phật giáo Việt Nam, nhưng phần khảo về đặc
điểm Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê còn chưa được lưu ý, hệ thống hóa.

5


Trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là tạp chí Triết học cũng

có một số bài đề cập về vai trò, đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng
Việt Nam “Thử bàn về một vài tư tưởng Phật giáo” của tác giả Nguyễn Hùng
Hậu đăng trên tạp chí triết học 1/3 – 1989 cũng có nhắc sơ qua về giai đoạn
buổi đầu Phật giáo đóng góp cho tư tưởng Việt Nam.
Năm 2010, Viện nghiên cứu Phật học Hà Nội kết hợp với Đại học
Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn – ĐHQG Hà Nội đã tổ chức: Hội nghị khoa
học về nhân vật Phật giáo có nhiều đóng góp cho dân tộc trong buổi đầu khôi
phục và xây dựng quốc gia là Đại sư Khuông Việt – Ngô Chân Lưu.
Năm 2013, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, đã cho xuất bản
cuốn sách “Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam” do Doãn Chính chủ biên, với
dung lượng hơn 1000 trang. Với một dung lượng khá dày dặn nhưng tác giả
đã không trình bày đặc điểm Phật giáo thời Ngô – Đinh –Tiền Lê mà chỉ
trình bày một cách gián tiếp thông qua các thiền sư khi trình bày về hai thiền
phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông nhưng cũng dung lượng rất ít.
Đặc biệt chú ý là vào năm 2010, Viện nghiên cứu tôn giáo kết hợp với
Ban trị sự Phật giáo tỉnh Ninh Bình hướng đến để kỷ niệm 1000 năm Thăng
Long Hà Nội đã tổ chức Hội Thảo chuyên đề về Phật giáo thời Đinh – Tiền
Lê, nhằm khẳng định lại vai trò của Phật giáo hai triều đại Đinh - Tiền Lê đối
với công cuộc dựng nước và giữ nước và sau đó đã xuất bản kỷ yếu: “ Phật
giáo thời Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước”sách do
PGS.TS Nguyễn Hồng Dương – Thượng tọa Thích Thọ Lạc đồng chủ biên.
Trong kỷ yếu Hội thảo có các ý kiến của các tác giả là nhà nghiên cứu, có tác
giả là nhà tu hành, nhà báo… Do vậy có rất nhiều ý kiến phong phú, thậm trí
đối lập nhau. Điều này cho thấy việc đánh giá khách quan, toàn diện về vai trò
diện mạo của Phật giáo thời Đinh – Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam là khó
khăn và phức tạp.

6



Điểm qua tình hình nghiên cứu, ta có thể nhận thấy về vấn đề một số
đặc điểm của Phật giáo Việt Nam nói chung đã có nhiều công trình nghiên
cứu đề cập tới và có những nhận định sâu sắc. Nhưng đặc biệt đến nay chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về đặc điểm Phật
giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê chỉ ra đóng góp và hạn chế mà mới chỉ dừng
lại ở những lát cắt riêng về nhân vật lịch sử, các phương diện cụ thể, cần được
tiếp tục nghiên cứu hệ thống hơn, sâu thêm nữa. Nhằm có được cơ sở nhìn
nhận về tiến trình Phật giáo trong dòng chảy của văn hóa dân tộc và có sự
nhìn nhận về vai trò, vị trí của Phật giáo một cách đầy đủ khách quan hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
Mục đích của luận văn là khái quát tiến trình Phật giáo và từ đó đi sâu
nghiên cứu một số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh và Tiền Lê và từ
đó chỉ ra ý nghĩa đối với lịch sử thời kỳ này.
Để đạt được mục đích nêu trên thì luận văn cần phải thực hiện được
các nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát điều kiện cho sự phát triển của Phật giáo đến thời
Ngô – Đinh – Tiền Lê và diện mạo của nó trong lịch sử Việt Nam.
- Phân tích một số đặc điểm cơ bản của Phật giáo thời Ngô – Đinh –
Tiền Lê và chỉ ra ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam thời kỳ này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Từ góc độ chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, để nghiên cứu về đối tượng là Phật giáo trong thời Ngô
– Đinh – Tiền Lê và những nội dung đặc điểm Phật giáo thời kỳ này có ảnh
hưởng của nó đến lịch sử Việt Nam thời kỳ này.
Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo thời Ngô
– Đinh – Tiền Lê qua một số tài liệu lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử Phật
giáo, Lịch sử tư tưởng Phật giáo trong thời kỳ Ngô – Đinh –Tiền Lê.
7



5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: luận văn có sơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.
Về phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng kết hợp hệ phương pháp
nghiên cứu triết học, tôn giáo học. Một số phương pháp cụ thể được áp dụng
như: lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh… Đặc biệt có vận dụng phương pháp liên ngành: triết học tôn giáo học
,triết học văn hóa học.
6. Những đóng góp của luận văn
Kế thừa thành quả của người đi trước, luận văn cố gắng đưa ra những
nhân thức mới về diện mạo của Phật giáo thế kỷ X. Khái quát nội dung trong
các công trình nghiên cứu trước để hoàn thiện xây dựng chúng theo một hệ
thống quan niệm mang tính thống nhất logic và lịch sử về tiến trình của Phật
giáo trong sự đồng hành với dân tộc.
Luận văn đã trình bày được khái quát các điều kiện, cơ sở tiền đề cho
quá trình du nhập, tồn tại và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam trong lịch sử
từ đầu công nguyên đến thời Ngô – Đinh – Tiền Lê và từ đó tập trung phân
tích một số đặc điểm của Phật giáo biểu hiện cụ thể trong một số lĩnh vực:
chính trị, văn hóa, giáo dục.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
Việc tìm hiểu về các điều kiện, cơ sở cho sự tồn tại và phát triển để từ
đó chỉ ra giá trị, vai trò, đặc điểm của Phật giáo trong các triều đại Ngô –
Đinh – Tiền Lê có ý nghĩa học thuật hết sức quan trọng, nó bổ sung làm đầy
đủ hơn trong việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo thế kỷ X là thế kỷ bản lề cho
giai đoạn độc lập tự chủ cũng như góp phần cung cấp những bài học kinh
nghiệm từ giai đoạn này gợi ý cho việc giải quyết những vấn đề thực tiễn đất
nước hiện nay.
8



Thông qua kết quả nghiên cứu luận văn góp phần làm phong phú thêm
nguồn tư liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập môn lịch sử
tư tưởng Việt Nam nói chung, lịch sử tư tưởng Phật giáo Việt Nam giai đoạn
Ngô – Đinh – Tiền Lê nói riêng, là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên
các ngành lịch sử, triết học, tôn giáo….
8. Kết cấu của luận văn .
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,thì luận
văn gồm hai chương, năm tiết.
Chương 1:Những điều kiện cho sự phát triển Phật giáo thời Ngô –
Đinh –Tiền Lê và diện mạo của nó.
Chương 2: Đặc điểm của Phật giáo thời Ngô – Đinh – Tiền Lê nội dung
và ý nghĩa của nó đối với lịch sử Việt Nam thời kỳ này.

9


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHO SỰ PHÁT TRIỂN PHẬT
GIÁO THỜI NGÔ – ĐINH – TIỀN LÊ VÀ DIỆN MẠO CỦA NÓ
1.1 Bối cảnh cho sự phát triển Phật giáo thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê
1.1.1 Điều kiện chính trị - kinh tế xã hội
Điều kiện chính trị:
Với chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng dưới sự lãnh đạo của Ngô
Quyền, đã kết thúc gần 1000 năm Bắc thuộc. Đã đánh dấu một bước phát
triển mới về chất của lịch sử dân tộc. Nó chấm dứt giai đoạn đen tối khi mà
chính quyền phong kiến phương Bắc dùng mọi thủ đoạn thâm độc để biến
nước ta trở thành một quận, một huyện của chúng.
Ngay sau khi giành chiến thắng, Ngô Quyền đã biết kế thừa kinh
nghiệm từ các thời kỳ Phục Hưng, Khúc Hạo tiếp tục tiến hành công cuộc

dựng nước và giữ nước mà ông cha ta đã gây dựng. Ngô Quyền đã thiết lập
lên nhà nước tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội. Đồng thời quyết
định bỏ chức Tiết độ sứ của phong kiến phương Bắc và tự xưng Vương (năm
939), tự đặt các chức quan văn, võ, quy định các chế độ lễ nghi trong triều
đình… xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung, một vương quốc độc
lập. Tuy nhiên, quyền lực của nhà Ngô lúc đó chỉ tập trung ở khu vực đồng
bằng châu thổ sông Hồng, trung du Bắc Bộ và khu vực đồng bằng và trung du
Thanh Nghệ, tức là chủ yếu vẫn trên địa bàn hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân
trước đây.
Khi Ngô Quyền cho đóng đô ở Cổ Loa, ông muốn dựa vào vị trí định
đô cũ vốn có thành cao, hào sâu ở vị trí đầu mối của các luồng giao thông
thủy bộ giữa trung tâm miền châu thổ để triều đình trung ương có thể nắm
chắc toàn bộ miền châu thổ mà vương ra quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia.
Thành Cổ Loa được nhân dân Âu Lạc xây dựng không chỉ là kinh đô ở trung
tâm đất nước mà còn là căn cứ phòng ngự liên hoàn của cả bộ binh và thủy
10


quân với hàng trăm thuyền chiến cơ động hoạt động thông qua hệ thống song
Hoàng Giang, sông Cầu, sông Đuống…. Tòa thành Cổ Loa được mệnh danh
là tòa thành hùng vĩ, kiên cố, dinh lũy của chính quyền đô hộ. Chính bởi lẽ đó
mà khi vương triều Ngô thành lập, Ngô Quyền đã thừa hưởng một tòa thành
như vậy do ông cha đã xây dựng nên không cần tốn quá nhiều công sức xây
dựng mới.
Hơn nữa, Ngô Quyền đã rút được bài học từ đường lối cai trị “Khoan,
giải, an, lạc” của Khúc Hạo và Khúc Thừa Dụ, ông đặc biệt quan tâm, khen
thưởng người có công nâng đỡ người dân trong vùng, miễn mọi thứ binh
lương, thuế khóa cho dân các làng Gia Viễn, Quang Đàm cùng nhiều làng xã
khác. Nhiều vị tướng sau chiến thắng cũng không ngần ngại đem cả gia đình
và dòng họ về vùng đất Hải Phòng - vùng quan ải hiểm yếu nhất của đất nước

lúc bấy giờ để xây dựng lập quê hương mới. Đó là dòng họ Phạm xã Đằng
Giang huyện An Hải - theo truyền thuyết ông tổ dòng họ vốn là người nơi
khác theo Ngô Quyền đến đánh trận Bạch Đằng và sau này chiến thắng ông
đã mang cả vợ con và tộc thuộc đến đây khai cơ lập nghiệp. Tuy không có gia
phả dòng họ nào ghi chép cụ thể thế thứ ngược lên đến giữa thế kỷ X, nhưng
cũng có thể tin truyền thuyết dân gian rằng nhiều dòng họ ở khu vực An
Dương, An Hải, Thủy Nguyên vốn có nguồn gốc từ chiến tướng, chiến binh
của Ngô Quyền sau khi thắng giặc tự nguyện hoặc được giao trọng trách ở lại
vùng đất cửa sông này để giữ gìn bờ cõi.
Ngô Quyền trị vì đất nước chưa đầy sáu năm, mà đã để lại ấn tượng rõ
rệt về công cuộc dựng nước của ông, đúng như nhà sử học Lê Văn Hưu (12301322) nhận xét: “Chính thống của nước Việt ta, Ngô hầu đã nối lại được”[ 16,
tr205]. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên cho rằng: “Tiền Ngô [ Vương ] nổi lên không
chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm
phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương” [16, tr205].

11


Sau khi Ngô Quyền mất, các con cháu của ông không đủ uy tín và tài
năng để duy trì chính quyền quân chủ tập trung đang còn trong thời kỳ trứng
nước thì em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng là Bình Vương. Sách
Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Lúc trước, Tiền Ngô Vương bệnh nặng, có
di chúc giao cho Tam Kha giúp cho con. Khi Vương mất, Tam Kha cướp
ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là Xương Ngập sợ, chạy về Nam Sách
Giang, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Côn ở Trà Hương. Tam Kha lấy con thứ hai
của Ngô Vương là Xương Văn làm con mình. Các con thứ của Ngô Vương là
Nam Hưng, Càn Hưng còn bé đều theo Dương quốc mẫu. Được ít lâu, Tam
Kha sai chỉ huy sứ là Dương Cát Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem quân đến nhà Phạm
Lệnh Côn đòi bắt Xương Ngập, tất cả ba lần đều không thực hiện được mệnh
lệnh. Lệnh Côn sợ bèn giấu Xương Ngập trong động núi. Tam Kha biết, lại

đòi bắt như trước, rốt cuộc vẫn không bắt được”. [ 16, tr205].
Năm 950 người em là Ngô Xương Văn được sự ủng hộ của các chỉ huy
sứ Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi đã nhận việc đi cầm quân đàn áp cuộc
nổi dậy ở các thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình ( Hà Tây), quay về kinh đô
bắt Dương Tam Kha, và đã giành được chính quyền. Xương Văn tự xưng là
Nam Tấn vương, và đón anh trai Ngô Xương Ngập về cùng coi việc nước.
Xương Ngập về, tự xưng là Thiên sách vương nắm hết quyền hành. Do vậy
mà mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ngô lại diễn ra càng tạo điều kiện cho các thổ
hào, thứ sử địa phương cát cứ nổi dậy làm loạn, chiêu mộ quân, làm chủ vùng
mình trấn trị, tách khỏi quyền lực chính quyền trung ương.
Từ những năm 60 của thế kỷ X đất nước càng rối loạn, Xương Văn
nhiều lần mang quân đi đàn áp các cuộc nổi loạn nhưng không có kết quả. Đất
nước có nguy cơ bị phân cắt.
Sau khi Xương Ngập mất năm 954 và Xương Văn mất năm 965 triều
Ngô thực sự không còn tồn tại, đất nước rơi vào thế hỗn loạn, các tướng lĩnh

12


chiếm giữ các vùng địa phương đánh giết lẫn nhau. Và sử gọi là “loạn mười
hai sứ quân”.
Lãnh thổ Việt Nam từ thế kỷ X bao gồm phần đất Bắc Bộ và Bắc Trung
Bộ trên địa bàn tồn tại 12 sứ quân:
1. Kiều Công Hãn tự xưng là Kiều Tam Chế chiếm giữ Phong Châu
(Phú Thọ).
2. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm giữ Tam Đái
(Phú Thọ) và Yên Lạc ( Vĩnh Phúc).
3. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lam Công chiếm giữ Đường Lâm
(Hà Tây).
4. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ vùng Bảo Đà (Thanh Oai – Hà Tây).

5. Ngô Xương Xí con Ngô Xương Ngập chiếm giữ Bình Kiều ( Thanh
Hóa).
6. Lý Khuê tự xưng là Lý Lăng Công giữ đất Siêu Loại ( Bắc Ninh).
7. Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công chiếm giữ Tiên Du
(Bắc Ninh).
8. Lữ Đường tự xưng Lữ Tá Công chiếm giữ Tế Giang (Văn Giang –
Hưng Yên).
9. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công chiếm giữ Tây Phù Liệt
(Thanh Trì – Hà Nội).
10. Kiểu Thuận tự xưng là Kiểu Lệnh Công chiếm giữ vùng Cẩm Khuê
(Hà Tây).
11. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át chiếm giữ Đằng Châu
(Hưng Yên).
12. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công chiếm giữ Bố Hải Khẩu
(Thái Bình).

13


Cũng trong thời gian này ở Trung Quốc nhà Tống vừa mới thành lập
đang bắt đầu mở rộng thế lực xuống phía Nam, đất nước ta đứng trước nguy
cơ bị xâm lược.
Cũng trong thời gian này ở Ninh Bình nổi lên nhân vật Đinh Bộ Lĩnh
sinh năm 924 tại động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, nay thuộc xã Gia Phương,
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Cha Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Công Trứ từng
làm nha tướng của Dương Đình Nghệ, làm Thứ sử châu Hoan, sau tham gia
cùng Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng và được Ngô Quyền tin tưởng tiếp tục
giao cho chức vụ cũ.
Đinh Bộ Lĩnh từ nhỏ không sống cùng cha mà chỉ sống với mẹ ở quê
hương. Và đến khi trưởng thành thì cha sớm lại qua đời. Ông hầu như không

gắn bó với triều đình nhà Ngô. Khi Dương Tam Kha cướp ngô Đinh Bộ Lĩnh
đã tự xây dựng cho mình một lực lượng riêng, không phục tùng triều đình Cổ
Loa và dần dần độc lập với triều đình.
Sau khi Trầm Lãm chết thì lực lượng của Đinh Bộ Lĩnh tập hợp được
coi là lực lượng mạnh mẽ nhất, đã lần lượt dẹp yên các thế lực các cứ, từ đó
giang sơn thu về một mối.
Sau khi đã dẹp loạn mười hai sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua, lấy
hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư, Ninh
Bình làm đất đóng đô. Kinh đô Hoa Lư chủ yếu nằm ở địa phận xã Trường
Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình được bao bọc bởi hệ thống núi đá vôi khá
hiểm trở. Nơi đây từ sớm đã là một tụ điểm cư dân đông đúc ở vào vị trí yết
hầu trên trục đường Nam – Bắc, rất gần sông và ở thế kỷ X vẫn còn chưa xa
biển. Mạch máu giao thông quan trọng nhất nối thông Hoa Lư với châu thổ
sông Hồng và mọi miền đất nước là con đường thủy sông Hoàng Long nối
thông với sông Đáy.

14


Kinh thành Hoa Lư bao gồm hai toàn thành riêng biệt, được chia ra
thành các khu triều đình, quan lại, quân sĩ và được nối lại với nhau bằng con
đường kín đáo là Quèn Vông nơi tiếp giáp giữa núi Hang Sung và Quèn Dót.
Ngay từ buổi đầu xây dựng xây dựng triều đình, cùng với việc bổ
nhiệm các quan văn, võ như: Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm
Đô hộ phủ Sỹ Tư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân… Đinh Tiên Hoàng
cũng rất chú ý việc xây dựng nền tảng tinh thần cho quốc gia, đến vai trò các
tăng đạo. Triều đình phong Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống và ban hiệu là
Khuông Việt Đại sư, Trương Ma Ni làm chức Tăng Lục, đạo sĩ Đặng Huyền
Quang được trao chức Sùng chân uy nghi. Đây là thời kỳ đánh dấu cho một
nhà nước riêng có hoàng đế đứng đầu và có quốc hiệu riêng sau gần 1000

năm Bắc Thuộc.
Về mặt ngoại giao, trong thời gian này đất nước vẫn đang trong giai
đoạn khẳng định vị thế với các nước lân bang, đặc biệt là nhà Tống ở phương
Bắc. Đinh Tiên Hoàng thừa hiểu Phương Bắc chưa bao giờ từ bỏ âm mưu
xâm lược và đồng hóa dân tộc ta. Vì thế Đinh Tiên Hoàng đã có những chính sách
mềm dẻo với nhà Tống để bảo toàn một nhà nước non trẻ là một đối sách đúng.
Năm 978, Đinh Tiên Hoàng lập con nhỏ là Hạng Lang làm thái tử,
phong con thứ là Toàn làm Vệ Vương. Đinh Liễn là con trai đầu đã từng có
nhiều công lao trong sự nghiệp dẹp loạn mười hai sứ quân dựng lên triều đại
nhà Đinh nhưng chỉ được phong Nam Việt Vương. Không chấp nhận điều đó
thì Đinh Liễn đã âm mưu giết chết em trai mình là Hạng Lang.
Đầu mùa đông năm 979, Đỗ Thích là cháu nội của sứ quân Đỗ Cảnh
Thạc đang làm chức lại (chuyên trông coi về giấy tờ) ở Đồng Quan trong kinh
thành Hoa Lư, nhân lúc vua ăn yến ban đêm, say rượu nằm trong sân, Thích
bèn giết chết, lại giết luôn cả Nam Việt Vương Liễn.
Triều thần trong triều đã đưa Đinh Toàn lúc đó mới 6 tuổi lên ngôi vua,
thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cử làm phụ chính.
15


Khi ấy quân Tống đã hoàn thành công cuộc thống nhất Trung Quốc,
nội bộ bắt đầu ổn định, tình hình miền nam cũng trở lại yên tĩnh. Tống Thái
Tông đẩy mạnh mưu đồ bành trướng và xâm lược các nước phương Nam.
Trước tình thế cấp bách của dân tộc thì mẹ của Đinh Toàn đã cử thập đạo
tướng quân Lê Hoàn làm tổng chỉ huy quân đội để chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến. Trong buổi hội triều bàn kế hoạch chống giặc, dựa vào đề nghị của các
tướng lĩnh, bà thái hậu họ Dương đã khoác áo long cổn lên mình Lê Hoàn và
mời ông lên ngôi vua lập ra nhà Tiền Lê.
Được sự phò tá của Phạm Cự Lạng và vai trò cố vấn của các nhà sư
Pháp Thuận , Ngô Chân Lưu… Lê Hoàn đã giành thắng lợi trước quân Tống.

Lê Hoàn sinh năm 941, tại Ái Châu, huyện Thụy Nguyên, nay thuộc
thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, trong một
gia đình nghèo khó, cha mẹ mất sớm. Lớn lên Lê Hoàn biết đến cha con Đinh
Bộ Lĩnh nổi lên ở Hoa Lư nên đã theo giúp và tỏ ra là người phóng khoáng có
chí lớn. Lê Hoàn là một trong những người có công trong sự nghiệp dẹp loạn
mười hai sứ quân, thống nhất đất nước của Đinh Bộ Lĩnh nên đã được tin cậy
phong là Thập đạo tướng quân.
Nhà Lê tồn tại từ năm 980 – 1009, mô hình triều đình thời Lê Đại Hành
(Lê Hoàn) về cơ bản là sự tiếp nối triều đình của nhà Đinh, cả chức năng,
nhiệm vụ và bộ máy trung ương cho xuống tận các địa phương, đã được thử
thách dày dạn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống và giờ đây
tiếp tục củng cố theo hướng trung ương tập quyền. Lê Hoàn đổi niên hiệu là
Thiên Phúc và lấy năm 980 là năm Thiên Phúc nguyên niên, giáng phong
Đinh Toàn làm Vệ Vương.
Sau khi Lê Hoàn mất con là Lê Long Đĩnh lên ngôi vua. Nhưng Long
Đĩnh được sử ghi là người tàn ác, trụy lạc, mắc bệnh nặng trong triều đình
không đủ uy tín và năng lực để trị vì đất nước. Sau khi Long Đĩnh mất, với sự
cố vấn của thiền sư Vạn Hạnh, triều thần do Đào Cam Mộc khởi xướng đã
16


suy tôn điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, và lập ra nhà Lý vào
năm 1009. Năm 1010, Lý Công Uẩn rời đô ra Thăng Long.
Như vậy thời kỳ Ngô – Đinh – Tiền Lê tồn tại khoảng 71 năm trong
lịch sử dân tộc. Trong thời kỳ này thì các triều đại đã xây dựng một triều đình
trung ương do vua là người đứng đầu, nắm mọi quyền hành về dân sự cũng
như quân sự. Nhà nước thời kỳ này là nhà nước võ trị bởi vì các vua Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành đều xuất thân là những tướng lĩnh,
là tổng chỉ huy tối cao của quân đội, nắm giữ trong tay mọi quyền hành. Hệ
thống quan lại chủ yếu xuất thân là các quan võ có sự tham chính của các

thiền sư. Chẳng hạn như trong thời Lê Hoàn có chức Đại tổng quản, Thái úy,
Điện tiền chỉ huy sứ…. Các sư được phong là Tăng Thống, Quốc sư.
Quân đội thời Ngô – Đinh – Tiền Lê là một quân đội đông và mạnh,
theo sử ghi quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, một quân có
10 lữ, một lữ có 10 tốt, một tốt có 10 ngũ, một ngũ có 10 người. Như vậy tổng
số theo lý thuyết là một triệu người. Tuy nhiên con số này theo nhiều nhà
nghiên cứu là không có thực, chữ “Thập” theo Lê Văn Siêu chỉ mang tính
chất khái quát toàn thể về cách tổ chức theo kiểu “ngụ binh ư nông” như nhà
Lý sau này, thời bình làm ruộng tập trung thành đội ngũ có chỉ huy khi cần.
Còn Trần Trọng Kim cho rằng :ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có
đến 10 vạn người. Các quân sĩ đều được trang bị quần áo mũ da bốn bề khâu
giáp nhau lại, trên hẹp, dưới rộng, chóp phẳng và có vũ khí đầy đủ: cung, nỏ,
giáo mác, lao, gậy, mộc bài. Thủy quân gồm nhiều chiến thuyền, trang bị đầy
đủ với những tướng lĩnh có nhiều kinh nghiệm. Nhìn chung quân đội thời kỳ
Ngô – Đinh – Tiền Lê đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh đất nước
và chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc.
Do ảnh hưởng của nhiều năm từ thời loạn lạc có nhiều người quen thói
lúc loạn không chịu tuân theo luật pháp. Do đó thời Ngô – Đinh – Tiền Lê rất
coi trọng luật pháp nhất là Hình Pháp hà khắc như trong quân đội.
17


Hình pháp dưới thời Đinh, sách Đại việt sử ký toàn thư có chép: “vua
Đinh Tiên Hoàng muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều,
nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng : “kẻ nào trái phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho
hổ ăn thịt”. Mọi người đều sợ phục không ai dám phạm”.[16, tr154]
Hay Trần Trọng Kim có viết rằng: hình uy nghiêm như thế, thì cũng
quá lắm, nhưng nhờ có những hình luật ấy thì dân trong nước mới dần dần
được yên.
Hình pháp dưới thời Tiền Lê nhà vua thường trực tiếp phán xét. Theo

sứ nhà Tống là Tống Cảo ghi nhân, bấy giờ “tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi
hoặc đánh từ 100 đến 200 roi, bọn giúp việc ai hỏi có điều gì sai trái ý cũng
đánh 30 hay 50 roi, truất làm tên gác cổng, khi hết giận lại gọi về làm chức
cũ”. Năm 1002, vua Lê Định luật lệnh, tiếc rằng sách xưa không còn, nên ko
có thông tin cụ thể. Về bước tiến bộ này, theo nhà sử học Phan Huy Chú:
“thời cổ làm việc chỉ có quy chế, không dùng hình luật vì đơn thuần, phép
giảm, có thể châm chước tùy nghi được” [10, tr94]. Đến thời Ngô – Đinh –
Tiền Lê đã có bước tiến sử dụng hình luật.
Nhìn chung những hành động chống lại quyền lực của vua, triều đình
nhà nước trung ương, phá hoại trật tự an ninh xã hội đều bị trừng phạt rất
nặng nề.
Về việc tuyển chọn quan lại đương thời cũng tùy tiện chưa có chế độ cụ
thể. Những người nắm quyền chủ yếu là võ tướng, đã từng tham gia vào các
cuộc kháng chiến, dẹp loạn. Về sau thì một số văn hầu cũng được cân nhắc
lên những vị trí thân cận với vua. Đặc biệt vua dựa vào vai trò cố vấn của các
thiền sư.

18


Về mặt xã hội:
Phù hợp với cơ sở hạ tầng là quan hệ kinh tế nông nghiệp tiểu nông lúa
nước cũng như chính trị phong kiến tản quyền thì thời Ngô – Đinh – Tiền Lê
cũng có một kết cấu giai tầng tương ứng:
Thứ nhất, giai cấp phong kiến thống trị trước hết là tầng lớp quý tộc,
quan liêu mà đại biểu là nhà vua, quan nắm giữ mọi quyền hành ở triều đình
và trong xã hội.
Thứ hai, giai cấp địa chủ, lúc đầu số lượng còn ít nhưng về sau lại tăng dần.
Thứ ba, tăng lữ là một tầng lớp xã hội đáng kể và có một lực lượng
đông đảo từ cuối thời Bắc Thuộc sang đến đầu thời Lý. Nhưng chỉ có những

quý tộc đi tu và chức sắc tầng lớp trên trong nhà chùa mới thực sự gia nhập
vào hàng ngũ tăng quan trực tiếp phục vụ cho giai cấp phong kiến. Nhà nước
đã sử dụng tầng lớp này để nhằm duy trì sự ổn định xã hội và củng cố quyền
lực của triều đình. Sĩ Nhiếp là nhà là nhà lãnh đạo thành công nhất ở nước ta
trong thời Bắc Thuộc. Thậm chí có học giả đã gọi Sĩ Nhiếp : một nhà lãnh
đạo Phật giáo”. Ông là người tiên phong cho mô hình quân vương. Và bài
học đó sau này đã được Lê Hoàn kế thừa, phát triển, ông là người đã đưa
những giá trị tư tưởng của Phật giáo vào áp dụng triệt để những giá trị đó vào
trong việc trị quốc của mình. Trong thời gian làm Thập đạo tướng quân, Lê
Hoàn cũng đã hấp thụ niềm tin Phật giáo từ Đinh Tiên Hoàng. Do vậy sau khi
lên ngôi ông đã nhờ cậy rất nhiều đến học vấn của những bậc cao tăng, trí
thức trong giới Phật giáo để phục vụ công cuộc trị quốc an dân. Đặc biệt coi
trọng và sử dụng vai trò của các thiền sư Đỗ Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Ngô
Chân Lưu…
Thứ tư, quần chúng nhân dân bị trị gồm có người nông dân ở làng xã
lĩnh canh công điền công thổ hoặc ruộng tư của địa chủ là lực lượng chủ yếu
ở làng xã.

19


×