Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

luận văn thạc sỹ triết học Một số giá trị đạo đức trong triết học phật giáo và những định hướng vận dụng trong việc xây dựng đạo đức cho người việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.05 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------------------------------------

ĐOÀ N NAM CHUNG

MỘT SỐ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

VÀ NHỮNGĐỊNH HƢỚNG VẬN DỤNG TRONG VIỆC XÂY DƢ̣NG
ĐẠO ĐỨC CHO NGƢỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Phạm Công Nhất

HÀ NỘI - 2009


2
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Giá trị đạo đức và những cơ sở hình thành các giá
trị đạo đức trong triết học Phật giáo



5

1.1. Quan niệm chung về đạo đức và giá trị đạo đức

5

1.2. Cơ sở hình thành các giá trị đạo đức trong triết học Phật giáo.

10

1.3. Một số giá trị đạo đức cơ bản trong triết học Phật giáo

39

Chƣơng 2: Một số định hƣớng vận dụng các giá trị đạo đức trong
triết học Phật giáo trong việc xây dựng đạo đức cho ngƣời Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay
2.1. Cơ sở khách quan và những quan điểm cơ bản để vận dụng

54
54

2.2. Một số định hướng vận dụng cơ bản trong việc xây dựng đạo
đức cho người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

75

KẾT LUẬN


96

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

98


3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Phâ ̣t giáo là mô ̣t trào lưu triế t ho ̣c tôn giáo xuấ t hiê ̣n vào cuố i thế kỷ
VI
trước công nguyên ở miề n B ắc Ấn Độ . Trong hê ̣ thố ng tư tưởng của Phâ ̣t giáo
có chứa đựng nhiều nộ i dung, nhưng những đặc sắc nhất vẫn là các giá trị về
đạo đức, về nhân sinh. Phâ ̣t giáo khuyên con người làm điề u thiê ̣n và cố tìm
cách tạo cho con người những phương tiện để thực hiện điều thiện , tìm cách
giải thoát cho con người k hỏi đau khổ, cứu vớt cho con người khỏi những lầ m
lạc bằng hoạt động, bằ ng ý thức… của chính bản thân.
Phâ ̣t giáo đươ ̣c truyề n vào Viê ̣t Nam vào những năm đầ u công nguyên , và
đă ̣c biê ̣t, sự du nhâ ̣p này không phải do sự cưỡng chế của chính quyề n đô hô ̣
mà qua giao lưu buôn bán - nó đến bằng con đường hòa bình . Những giáo lý
của Phật giáo v ề bình đẳng , bác ái , cứu khổ , cứu na ̣n rấ t gầ n gũi với triế t lý
nhân sinh của người dân Viê ̣t Nam - được chấ p nhâ ̣n theo phương thức “tiế p
biế n văn hóa”.
Từ khi đế n Viê ̣t Nam cho tới nay , Phâ ̣t giáo luôn có mô ̣t vi ̣trí đă ̣c biê ̣t
trong đời số ng tinh thầ n của người Viê ̣t . Phâ ̣t giáo khi được truyền đến Việt
Nam và được bắ t đầ u vớ i các sinh hoạt đời thường của nhân dân và có lúc trở
thành hệ tư tưởng chủ đạo khi được giai cấ p cầ m quyề n tro ̣ng du ̣ng , cho đến
khi không còn ở vi ̣trí đó thì nó vẫn tồ n ta ̣i trong đời số ng tinh thầ n của nhân
dân. Có thể dễ d àng nhận thấ y rằ ng , ngay từ buổ i bình minh , Phâ ̣t giáo đã tim

̀
đươ ̣c chỗ đứng trong mo ̣i tầ ng lớp ở xã hô ̣i Viê ̣t Nam . Tuy sự tiế p nhâ ̣n và sự
phát triển ở các thời kỳ lịch sử có khác nhau , song Phâ ̣t giáo đã thić h ứng và
bám rễ bền bỉ trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam . Với nô ̣i dung tư
tưởng và cả những hành đô ̣ng thực tế , Phâ ̣t giáo đã có những đóng góp cho nề n
văn hóa , cho đa ̣o đức của cư dân Viê ̣t Nam . Lịch sử Phật giáo ghi nhậ n nhiề u
người Viê ̣t Nam đã tự nguyê ̣n đế n với đa ̣o Phâ ̣t , lấ y các nguyên lý từ bi , hỉ xả,
phổ độ chúng sinh của đạo Phật để tu luyện mình và giúp đỡ người khác
Con người Viê ̣t Nam , văn hóa Viê ̣t Nam không tiế p nhâ ̣n cả hê ̣ thố ng tư
tưởng của Phâ ̣t giáo , không tim
̀ hiể u , nghiên cứu nhiề u , thâ ̣m chí it́ quan tâm
tới vấ n đề bản thể , vấ n đề nhâ ̣n thức hay những điề u bí ẩ n , cao siêu của Phâ ̣t
giáo mà chủ yếu là tiếp nhận triế t lý nhân sinh, đặc biệt là những giá trị đạo đức
của Phật. Bởi chính những giá trị đạo đức của Phật giáo đã góp phần làm phong
phú thêm tâm hồn , đa ̣o đức cũng như hành vi ứng xử của con người Việt Nam ,
làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam.
Hiện nay, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu đã đạt được,
nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những hiện tượng đáng lo ngại về lối sống,
đạo đức. Đó là sự xuất hiện đến mức báo động của các hiện tượng phản đạo
đức, phi nhân tính trong đời sống xã hội. Chính lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền, thói ích kỷ, buông thả, phai mờ lý tưởng, bất chấp đạo lý, xa đà vào


4
các tệ nạn xã hội… đã và đang từng ngày từng giờ làm xói mòn, băng hoại
những nét đẹp văn hoá, đặc biệt là những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc. Mặc dù Đảng ta đã có nhiều quan điểm, đường lối nhằm phát huy những
giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kế thừa những giá trị đạo đức
trong kho tàng văn hoá nhân loại phù hợp với văn hoá Việt Nam trong đó có

những giá trị đạo đức của Phật giáo. Từ đó, xây dựng con người Viê ̣t Nam hoàn
thiện về tư tưởng đa ̣o đức , tâm hồ n , tình cảm, lố i số ng… nhằm xây dựng môi
trường văn hóa lành ma ̣nh cho sự phát triể n xã hô ̣i . Đứng trên lập trường triết
học mác - xít để nghiên cứu những giá trị đạo đức Phâ ̣t giáo từ đó chỉ ra những
yế u tố tích cực và cả những mă ̣t ha ̣n chế của nó trong sự ảnh hưởng đế
n đời
số ng đạo đức cho người Việt Nam hiê ̣n nay là viê ̣c làm cầ n thiế t . Với ý nghiã
đó, tôi cho ̣n vấ n đề : “ Một số giá trị đạo đức trong triết học Phật giáo và
những định hướng vận dụng trong việc xây dựng đạo đức cho người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay ” làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành triế t
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu triết học Phật giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức trong triết
học Phật giáo là chủ đề của nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước.
Có thể kể tới một số công trình và kết quả nghiên cứu tiêu biểu sau:
Fundamentals of Buddhism (Nền tảng của đạo Phật) - của tác giả Peter D.
Santina, năm 1984. Cuốn sách được Thích Tâm Quang dịch sang tiếng Việt
năm 1996. Trong cuốn sách này tác giả trình bày 12 bài giảng về lịch sử ra đời
của đạo Phật, những giáo lý căn bản nhất của đạo Phật như: Tứ diệu đế, Lý
nhân duyên, Nghiệp, Ngũ uẩn,… Tác giả xuất phát từ quan niệm của một phật
tử ở phương Tây có hiểu biết sâu sắc phần giáo lý nên khi trình bày, tác giả cố
gắng làm rõ từng nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật nguyên
thuỷ.
Việt nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, NXB Văn học, Hà Nội
1992. Tác giả đã phân tích các vấn đề Phật học then chốt và ảnh hưởng của nó
trong đời sống văn hoá tinh thần ở Việt Nam một cách tự nhiên như “nước
thấm lòng đất”.
Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam
hiện nay do tác giả Nguyễn Tài Thư chủ biên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997. Phần viết về Phật giáo, các tác giả đã tập trung vào các khái niêm từ, bi,

hỉ, xả cùng các giá trị tư tưởng của Phật giáo với tư tưởng của con người Việt
Nam.
Văn hoá Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc
Bộ của tác giả Nguyễn Thị Bảy, NXB Văn hoá Thông tin 1997 đã chỉ rõ: Phật
giáo tuy có lúc suy vi nhưng không bao giờ phai tàn trong đời sống văn hoá Đại
Việt.
Đạo học Phật giáo do Hoà thượng - Tiến sĩ Thích Minh Châu giới thiệu
và Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành, 1995, là những bài tham luận
của nhiều tác giả. Thông qua nội dung cuốn sách này, các tác giả đã nêu nên


5
những cơ sở và nhiều phạm trù đạo đức Phật giáo, phân tích để cắt nghĩa thêm
nội dung như: Giới, Hạnh, Nguyện, Thiện, Ác .v.v…
Có một nền đạo lý Việt Nam do giáo sư Nguyễn Phan Quang chủ biên,
NXB TP.Hồ Chí Minh, 1996. Trong cuốn sách này tác giả đã cho người đọc
thấy sự hoà hợp của đạo đức Phật giáo trong đạo lý dân gian Việt nam.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Viê ̣n Triế t ho ̣c do tác giả Nguyễn Tài Thư
(chủ biê n, 1988), NXB Khoa ho ̣c - Xã hội . Cuố n sách đươ ̣c đề câ ̣p đế n quá
trình du nhập và phát triển của Phật giáo vào Việt Nam từ đầ u công nguyên cho
đến nửa đầu thế kỷ XX.
Lược khảo tư tưởng Thiề n trúc Lâm Viê ̣t Nam của tác giả Nguyễn Hùng
Hâ ̣u, NXB Khoa ho ̣c - Xã hội 1997. Trong đó tác giả phân tích khía ca ̣nh bản
thể luâ ̣n, quan niê ̣m nhân sinh của các t hiề n sư đ ời Trần như Trần Thá i Tông,
Trầ n Nhân Tông , Pháp H oa, Huyề n Quang ,... Ở đây , tác giả mớ i đề câ ̣p giai
đoa ̣n Phâ ̣t giáo phát triể n đế n đỉnh cao - thời kỳ nhà Trầ n.
Phật giáo với văn hóa Việt Nam của tác giả Nguyễn Đăng Duy - NXB Hà
Nội, 1999. Tác giả đã trình bày sự du nhập, tồn tại của Phật giáo và sự ảnh
hưởng của nó đối với văn hóa Việt Nam.
Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt

Nam hiện nay. Luận án tiến sỹ triết học, Hà Nội, năm 2003 của Tạ Chí Hồng.
Tác giả nghiên cứu về đạo đức Phật giáo tìm ra sự ảnh hưởng của nó trong đời
sống đạo đức xã hội Việt Nam truyền thống và hiện nay.
Nhìn chung các công trình trên của các tác giả đã nghiên cứu một cách có
hệ thống về triết học Phật giáo và khía cạnh đạo đức trong triết học Phật giáo
cùng với việc xây dựng một nền đạo đức cho người Việt Nam. Mặc dù, ở góc
độ này hay góc độ khác các tác giả đã có những hướng đi riêng để đạt được
mục đích của mình song có thể nói chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
những giá trị đạo đức trong triết học Phật giáo và những định hướng vận dụng
trong việc xây dựng đạo đức cho người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay một
cách có hệ thống. Đó là khoảng trống khoa học mà luận văn này hướng tới để
góp phần khoả lấp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ một số giá trị đạo đức
trong triết học Phật giáo đối với vấn đề đạo đức ở nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu và làm sáng tỏ một số giá trị đạo đức trong triết học
Phật giáo.
Hai là, phân tích những ảnh hưởng (tích cực và tiêu cực) của nó đối với
vấn đề xây dựng đạo đức của người Việt Nam trong quá trình đổi mới hiện nay.
Ba là, bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo đức Phật giáo đối với vấn đề đạo
đức ở nước ta hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu


6
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống những quan điểm về giá trị
đạo đức trong triết học Phật giáo và những ảnh hưởng của nó đến vấn đề xây
dựng đạo đức của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Về phạm vi, luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản của
đạo đức và giá trị đạo đức trong triết học Phật giáo nguyên thuỷ và những ảnh
hưởng của nó đối với vấn đề xây dựng đạo đức cho người Việt Nam trong điều
kiện cụ thể hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng
Sản Việt Nam về tôn giáo và quản lý các hoạt động của tôn giáo.
Đề tài sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu lý luận chung của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu chung
như: phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, lôgic - lịch sử v.v.. Ngoài ra
luận văn còn sử dụng một số phương pháp có tính đặc thù như: so sánh - đối
chiếu, khảo cứu văn bản học v.v..
6. Những cái mới về khoa học của luận văn
Về lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số nội dung của triết
học Phật giáo.
Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tạo thêm cơ sở lý
luận cho việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách về văn hóa và đời sống
đạo đức ở nước ta hiện nay; Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng bổ sung
thêm vào hệ thống các tài liệu nhằm phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu
đối với các môn học như triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học v.v..
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 2 chương, 5 tiế t.


7
Chƣơng 1
GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC GIÁ TRỊ
ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ ĐẠO ĐỨC VÀ GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC

1.1.1. Đạo đức.
Theo Từ điển tiếng Việt: Đạo đức là những nguyên lý phải theo trong
quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã hội, tuỳ theo yêu cầu của
chế độ chính trị và kinh tế nhất định. Đạo đức không sinh ra từ mảnh đất trống
không của lịch sử, mà được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả
của quá trình hoạt động thực tiễn của con người trong lịch sử. Những quan
niệm đạo đức đầu tiên được hình thành từ rất sớm trong lịch sử của xã hội loài
người. Tuỳ thuộc vào các giai đoạn lịch sử và cách tiếp cận khác nhau mà các
vấn đề đạo đức được hiểu theo những nghĩa khác nhau. Ở phương Đông cổ đại,
người Trung Quốc đã đưa ra nhiều học thuyết về đạo đức được biểu hiện trong
quan niệm về “đạo” và “đức” của họ. “Đạo” trong tiếng Hán có nghĩa là đường
đi, con đường. Khái niệm “đức” lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà
Chu Trung Quốc và từ đó trở đi nó được người Trung Quốc cổ đại sử dụng
nhiều. “Đức” dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung “đức” là sự
biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Theo quan niệm của
người Trung Quốc cổ đại thì đạo đức là những yêu cầu, những nguyên tắc do
cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.(Trong tiếng Việt: đạo là lẽ phải,
đức là điều tốt lành).
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại đã có nhiều nhà triết học đưa ra
nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề đạo đức. Trong số đó, Xôcrát (469 – 399
tr.CN) là người đầu tiên đặt nền móng cho khoa học đạo đức học. Về sau
Arixtôt (384 – 322 tr.CN) đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con người và cho
ra đời bộ sách đạo đức học. Nội dung phẩm hạnh con người theo Arixtôt chính
là ở chỗ con người biết định hướng đúng, biết làm việc thiện. Epiquya (341279 tr.CN) là nhà triết học rất quan tâm đến vấn đề đạo đức. Ông là người đầu


8
tiên đưa ra phạm trù lẽ sống và là một trong những người có công luận giải về

sự tự do của con người.
Kế thừa những tư tưởng quý báu về đạo đức trước đó, chủ nghĩa MácLênin cũng đã đưa ra quan niệm cơ bản về đạo đức, theo đó: Đạo đức là một
hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội
nhằm điều chỉnh và đánh giá cách cư xử của con người trong quan hệ với nhau
và quan hệ với xã hội, chúng được biểu hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi tryền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội [33,tr.7].
Từ quan niệm trên, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực của đời sống đạo đức xã hội. Quan
điểm này đã khắc phục được những sai lầm của các nhà triết học trước Mác (cả
duy vật lẫn duy tâm) khi họ xem xét các vấn đề xã hội và đạo đức. Theo họ,
đạo đức là biểu hiện của một sức mạnh siêu nhiên nào đó, là biểu hiện của
những năng lực “tiên thiên” nhất thành bất biến của lý trí con người. Những
nhà triết học duy vật trước Mác tiêu biểu là Phoi-ơ-Bắc đã nhìn thấy đạo đức
trong quan hệ con người, giữa người với người. Nhưng với ông con người chỉ
là một thực thể trừu tượng, bất biến, con người nhân bản, nghĩa là con người ở
bên ngoài lịch sử, đứng trên giai cấp, thoát ly khỏi điều kiện lịch sử cụ thể của
dân tộc.
Theo Quan điểm “Đác-uyn xã hội” sau này cũng đã tầm thường hoá chủ
nghĩa duy vật bằng cách cho rằng, những phẩm chất đạo đức của con người là
đồng nhất với những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ đạo đức, về
thực chất cũng chỉ là những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người,
ngoài xã hội. Như vậy, nét chung của các lý thuyết này là coi đạo đức không
phải là cái phản ánh cơ sở xã hội hiện thực khách quan.
Khác với tất cả những quan điểm trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cho
rằng: đạo đức được nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội, là kết quả của sự
phát triển lịch sử. Trong khi phê phán Đuyrinh muốn đưa ra một học thuyết đạo
đức vĩnh cửu, bất biến, đúng với mọi thời đại lịch sử và mọi dân tộc,


9

Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết đạo đức đã có
từ truớc đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”.
Nói cách khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, do tồn tại xã hội sinh
ra và phản ánh tồn tại xã hội, cho nên nội dung của các giá trị đạo đức không
đứng yên mà luôn vận động biến đổi cùng với sự biến đổi của cái đã sinh ra nó.
Trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp đều có
những quan niệm về đạo đức riêng, phản ánh những quan hệ thực tiễn đang làm
cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức những quan hệ kinh tế mà trong đó,
người ta tiến hành sản xuất và trao đổi. Theo Ăngghen, cho đến nay “không có
đạo đức nào là chân chính cả, nếu nói theo ý nghĩa tuyệt đối cuối cùng” của nó.
Song, Ph.Ăngghen cũng không hề phủ nhận giá trị của các học thuyết đạo đức
đối với sự phát triển xã hội mà ông còn cho rằng đối với đạo đức cũng như đối
với tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại, nói chung người ta thấy có một
sự tiến bộ, đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, trong tất cả các
học thuyết về đạo đức, có học thuyết chỉ có giá trị thúc đảy sự tiến bộ xã hội ở
một thời điểm nhất định nào đó, nhưng cũng có những học thuyết đạo đức có
thể có giá trị lâu dài đối với sự phát triển xã hội.
Thật vậy, trong đạo Phật, tất cả những lời dạy của Đức Phật được lưu
truyền cho đến nay đều liên hệ trực tiếp hay gián tiếp đến vấn đề đạo đức nói
cách khác đó có thể coi là một học thuyết về đạo đức. Và học thuyết về Đạo
đức của Phật giáo là một trong những học thuyết như thế.
1.1.2. Giá trị đạo đức.
Theo Từ điển tiếng Việt thuật ngữ giá trị được hiểu với nhiều nghĩa. Liên
quan đến chủ đề luận văn, thuật ngữ “giá trị” được hiểu là những quan niệm và
thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của xã hội: ta vẫn duy trì các giá trị đạo
đức của con người qua các thời đại. Giá trị, theo nghĩa chung nhất, chúng ta có
thể hiểu nó là cái mà do nó đã làm cho một khách thể nào đó có ích, có nghĩa,
đáng quý đối với chủ thể, được mọi người thừa nhận. Theo tác giả Nguyễn Văn
Huyên “Giá trị là một phạm trù người. Chỉ trong con người mới có cái gọi là



10
giá trị. Trong quá trình “chiếm hữu” để trưởng thành và để tự vượt lên mình
giữa con người với ngoại giới, giữa con người với con người trong xã hội xuất
hiện khái niệm giá trị” [36, tr.8-11]. Giá trị được đề cập và nghiên cứu trong rất
nhiều lĩnh vực khoa học: đạo đức học, tâm lý học, xã hội học, chính trị học,
kinh tế học, triết học… Tuy nhiên, trong mỗi lĩnh vực khác nhau, khái niệm về
giá trị có thể mang những nội dung khác nhau.
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về phạm trù giá trị, song có thể
khái quát lại một số đặc điểm sau:
Một là, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái
đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có
vị trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào sự
phát triển của xã hội.
Hai là, giá trị không phải cái gì nhất thành bất biến mà nó luôn luôn vận
động biến đổi theo thời gian và thời gian sao cho phù hợp trong từng thời điểm
nhất định. Chính vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì đã có giá trị trong
quá khứ thì đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều này cho thấy giá trị
mang tính lịch sử khách quan, sự ra đời, tồn tại hay mất đi của một giá trị nào
đó không phụ thuộc vào ý thức của con người mà do yêu cầu của từng thời đại
nhất định trong lịch sử.
Ba là, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội,
giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá trị giúp
con người định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình, là động
cơ thúc đẩy hoạt động của con người.
Để phân loại giá trị, tuỳ theo mục đích tiếp cận mà các tác giả nêu lên
những căn cứ khác nhau về giá trị. Thế nhưng thông thường cách phân loại khá
phổ biến là chia giá trị thành hai loại: giá trị vật chất và giá trị tinh thần (cách
phân chia này căn cứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của con
người). Giá trị vật chất thể hiện rõ nhất trong đời sống kinh tế - nơi gắn bó trực

tiếp với tồn tại xã hội, quyết định sự tồn tại của xã hội loài người, vì vậy giá trị


11
vật chất cũng liên quan mật thiết với các lĩnh vực chính trị, pháp quyền, thiết
chế xã hội… còn giá trị tinh thần mặc dù “vượt thoát” hiện thực nhưng không
phải vì thế mà xa rời hiện thực mà trái lại nó hướng tới một xã hội nhân văn, xã
hội mà nhân loại tiến bộ trên thế giới đang mong tới.
Trong các giá trị tinh thần, người ta thường đề cập đến các loại giá trị
như: giá trị khoa học (giá trị nhận thức, cái chân lý), giá trị chính trị (cái chính
nghĩa, cái cách mạng), giá trị tôn giáo (sự thiêng liêng, sự thánh thiện), giá trị
đạo đức (cái thiện và cái ác)…. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính
tương đối. Trong phạm vi luận văn, tác giả xin góp phần làm rõ thế nào là “giá
trị đạo đức” và “giá trị đạo đức Phật giáo”.
Trong hệ thống các giá trị tinh thần của đời sống xã hội thì giá trị đạo
đức là một yếu tố vô cùng quan trọng, nó là những chuẩn mực những khuôn
mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi của
con người trên cơ sở tự nguyện, tự giác. Vì vậy, giá trị đạo đức được đánh giá
là: “có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình, dư
luận biểu dương. Giá trị đạo đức vì thế có ý nghĩa thiết yếu đối với đời sống xã
hội” [38, tr.51]. Theo Giáo sư Huỳnh Khái Vinh: “giá trị đạo đức biểu hiện
những chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa người với người, giữa người với
giới tự nhiên và xã hội (gia đình, cộng đồng…) trên tinh thần yêu thương hay
thù hận, tôn trọng hay không tôn trọng, sự phát triển hay kìm hãm tài năng, tự
do và hạnh phúc” [65, tr.60].
Còn giá trị đạo đức Phật giáo được hiểu là sự kết hợp giữa giá trị đạo đức
và giá trị tôn giáo, là sự kết hợp giữa chuẩn mực đạo đức, những khuôn mẫu lý
tưởng những quy tắc ứng xử với niềm tin tôn giáo (sự thiêng liêng, sự thánh
thiện) nhằm điều chỉnh và chuẩn hoá hành vi của con người trên cơ sở tự
nguyện, tự giác tuân theo “Giới luật”, luôn chú ý những điều nên làm và không

nên làm. Nói cách khác trong thực hành giáo Phật giáo (giới luật) thì đạo đức
và giá trị đạo đức là cái nền để cho con người nói riêng và chúng sinh nói


12
chung làm phẩm phương tiện tiến tu trên con đường giải thoát khỏi “vạn sự
khổ”, đồng thời đó cũng chính là cái nền để giữ gìn và phát triển Phật pháp.
1.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRONG TRIẾT HỌC PHẬT
GIÁO

1.2.1. Cơ sở hình thành và phát triển triết học Phật giáo
1.2.1.1. Cơ sở hình thành và phát triển của triết học Phật giáo
Ấn Độ là một quốc gia nằm trên một bán đảo lớn - “tiểu lục địa” nằm ở
miền Nam Châu Á trông gần giống một tam giác cân mà đáy giáp Đại Tây
Dương, một cạnh bên giáp biển Ấn Độ Dương, còn cạnh bên kia án ngữ bởi
dãy Himalaya hùng vĩ dài tới 2.600 km, trong đó có bốn mươi ngọn núi cao
trên bảy cây số. Theo tiếng Phạn (Sanskrit) chữ Himalaya có nghĩa là “xứ sở
của tuyết”. Người Ấn Độ cổ cho đây là nóc nhà của thế giới, nơi ngự trị của các
đấng thần linh, nơi chứa đựng nguyên khí của trời đất. Tuy vậy, từ vị trí địa lý
cho thấy Ấn Độ cổ đại là một quốc gia tương đối khép kín ngăn cách với nhiều
quốc gia của Châu Á.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu ở Ấn Độ hết sức phức tạp. Địa hình vừa
có nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những đồng bằng trù
phú; có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá tuyết phủ quanh
năm, lại có những vùng sa mạc, khô khan, nóng lực như thiêu như đốt, nơi thì
lũ lụt, nơi thì gió cát bụi mù mịt… Tính đa dạng và khắc nghiệt của điều kiện
tự nhiên cũng như khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và
ghi dấu ấn đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ, phần nào cũng phản ánh sự
đa dạng trong triết học Ấn Độ.
Thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ ở Ấn Độ vào khoảng thiên

nhiên kỷ thứ III trước công nguyên. Theo tài liệu khảo cổ học thời kỳ này
người ta đã biết sử dụng công cụ bằng kim loại. Nghề gốm, làm đồ trang sức,
trạm trổ trên đá phát triển. Nhiều di tích của cung điện, nhà hai tầng, bể bơi,
cống ngầm khá hoàn bị. Có nhiều dấu hiệu của chữ viết, các đơn vị đo lường…
Chứng tỏ Ấn Độ có nền văn minh sớm so với các nơi khác trên thế giới.


13
Khoảng cuối thiên nhiên kỷ thứ II trước công nguyên, người Aryan là dân
du mục ở Trung Á tràn xuống bán đảo Ấn Độ đồng hoá dân bản địa Đravidien.
Cuộc chiến tranh kéo dài, khốc liệt đã hình thành các khúc hát (Veda) phản ánh
đời sống xã hội, tình cảm nguyện vọng của con người trước cuộc sống chết
chóc, điêu linh, khổ cực. Tuyển tập Veda đã trở thành nguồn suối tư tưởng của
Ấn Độ. Các trường phái Triết học, Tôn giáo đều bắt nguồn từ Veda.
Đến trước Thiên nhiên kỷ I tr. CN lực lượng sản xuất phát triển mạnh
dẫn đến sự phân hoá giai cấp trong xã hội. Sự phân chia dân cư thành bốn đẳng
cấp với quyền lợi địa vị khác nhau phản ánh mâu thuẫn giai cấp gay gắt trong
xã hội, nhưng lại được giải thích như là ý chí, sự sắp đặt của đấng sáng tạo tối
cao theo tôn giáo đương thời. Bốn đắng cấp đó là:
Thứ nhất, đẳng cấp Brahman-na (Bàlamôn) gồm: tăng lữ hay tu sĩ những
người chuyên làm công việc cúng tế thần, chuyên nghiệp cứu giảng dạy thánh
kinh, họ nắm quyền thống trị về mặt tinh thần, chiến địa vị cao nhất trong xã
hội Ấn Độ. Đẳng cấp này có những đặc quyền đặc vị to lớn, được tôn làm
"Thần của nhân gian".
Thứ hai, đẳng cấp Kshatriya (Sát đế lợi) gồm: vua chúa, vương công,
tướng lĩnh, võ sĩ; họ nắm giữ quyền thống trị về mặt kinh tế, xã hội, cai trị và
thâu tóm ruộng đất và được coi là người bảo hộ của nhân dân.
Thứ ba, đẳng cấp Vaishya (Vệ xá) gồm: thương nhân, điền chủ, và
những người trong nghề thủ công. Đẳng cấp này là lực lượng chính tạo ra của
cải vật chất cho xã hội và có nghĩa vụ phải nộp thuế.

Thứ tư, đẳng cấp Shudra (Thủ đà la) gồm: những người lao động bình
thường, nô lệ. Đẳng cấp này phục tùng những đẳng cấp trên.
Ngoài bốn đẳng cấp trên, còn có những người bị coi là ngoài lề đẳng cấp
xã hội, đó là tầng lớp hạ tiện nhất gọi là Ba-lị-xá gồm những người cùng khổ
dưới đáy xã hội. Họ bị các đẳng cấp trên đối xử như thú vật, cuộc sống vô cùng
khổ nhục, tối tăm.
Trong các đẳng cấp trên, đẳng cấp Brahman-na và Kshatriya là giai cấp


14
thống trị; đẳng cấp Vaishya và Shudra thuộc giai cấp bị trị. Bốn đẳng cấp này
theo chế độ thế tập, cha truyền con nối ở đẳng cấp nào thì đời đời vẫn ở đẳng
cấp ấy.
Một xã hội bất bình đẳng như thế làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng
gay gắt, nhất là khi đẳng cấp thống trị giàu có có sinh ra truỵ lạc, pháp luật
không còn được tôn trọng. Tình hình xã hội Ấn Độ thời bấy giờ đã chín muồi
một cuộc đấu tranh nhằm lật đổ những giai cấp thống trị, áp bức bóc lột. Đây là
cơ sở xã hội quan trọng làm cho nhân sinh quan Phật giáo - với tư cách là một
trào lưu tư tưởng chống lại sự "nghèo nàn hiện thực" - đưa ra chủ trương thực
hiện "bình đẳng xã hội" của mình, kiến lập một chế độ xã hội công bằng hơn.
Có thể nói, Phật giáo là sản phẩm của cuộc đấu tranh giữa thần quyền và thế
quyền, đấu tranh giai cấp trong xã hội, là sự kế thừa văn hoá triết học và tôn
giáo trước đó. Ngay từ khi mới ra đời nó đã được quần chúng nô lệ bị áp bức
chào đón một cách nồng nhiệt. Ra đời cùng với Phật giáo còn có Jaina và một
số giáo khác. Tuy là khác nhau nhưng đều thống nhất ở chỗ phủ nhận quyền uy
và sự thống trị của tôn giáo chính thống đương thời là đạo Bà la môn.
+ Vai trò người sáng lập triết học phật giáo
Theo truyền thuyết, người sáng lập Phật giáo là Buddha (Trung Quốc
dịch là Phật), có nghĩa là “giác ngộ”. Theo cuốn Jataka (Phật bản sinh kinh),
Buddha vốn là một thái tử, tên là Siddhàrta (Trung Quốc dịch là Tất Đạt Đa có

nghĩa là “người thực hiện được mục đích”), con trai của Suddhodana (Tịnh
Phạn), vua một nước nhỏ ở Bắc Ấn Độ (nay thuộc đất Nêpan). Vì muốn tìm
cách giải thoát nhân loại khỏi sự khổ đau trong vòng luân hồi, Siddhàta đã bỏ
gia đình, đi tu. Khi đã “giác ngộ”, có nghĩa là khi đã phát hiện được nguyên
nhân của nỗi khổ đau nhân thế và cách dứt bỏ nó, Ngài lấy hiệu là Buddha.
Người ta còn gọi Ông là Sakya-muni (Trung Quốc dịch là Thích Ca Mâu Ni),
có nghĩa là “nhà hiền triết của xứ Sakya”. Người ta không biết rõ đích xác năm
sinh của Buddha, nhưng theo truyền thống, Ngài được coi là sinh vào năm 623
tr. CN, sống khoảng 80 năm. Sau khi Ngài chết, các học trò của Ngài đã tiếp


15
tục phát triển tư tưởng của Ngài, xây dựng thành một hệ thống tôn giáo - triết
học lớn, có ảnh hưởng lớn ở Ấn Độ, và từ đó, lan ra nhiều vùng của thế giới.
Đạo Phật với luật lệ, lễ nghi đơn giản, giáo lý sâu sắc, nêu lên khả năng
chế ngự dục vọng, vai trò tự giải thoát của con người, sự bình đẳng của con
người với con người... nên được đông đảo quần chúng tin theo. Sau khi Phật
tịch diệt khoảng hai thế kỷ, dưới thời vua A Dục, vào thế kỷ III tr.CN, Phật
giáo đã lan rộng khắp Ấn Độ. Phật giáo ở Ấn Độ tiếp tục phát triển cho đến
thời vua Gúp Ta, sau đó Phật giáo không giữ được vai trò như trước nữa và dần
dần phải nhường chỗ cho một tôn giáo mới: Ấn Độ giáo - một tôn giáo kết hợp
giữa đạo Bàlamôn và một số tín ngưỡng dân gian, trong đó có một số yếu tố
của Phật giáo. Từ thế kỷ VIII trở đi, Hồi giáo xâm nhập vào Ấn Độ làm cho
Phật giáo bị suy tàn dần.
Tuy vậy, Phật giáo vẫn phát triển sang các nước ngoài Ấn Độ một cách
nhanh chóng theo hai hướng: xuống phía Nam (gồm các nước như Mianma,
Lào, Campuchia, Nam Việt Nam...) gọi là Phật giáo Nam Tông (Tiểu thừa).
Kinh điển chủ yếu ghi bằng chữ Pali. Phái Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): tự tu, tự
chứng, tự giác với phương châm "Hãy làm ngọn đèn cho chính bản thân mình",
thiên về cá nhân hơn, theo giáo lý nguyên thuỷ, chỉ thờ Phật Thích ca Mâu ni;

một hướng truyền lên phía Bắc (gồm các nước: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều
Tiên, Bắc Việt Nam...) gọi là phái Bắc Tông (Đại thừa). Kinh điển chủ yếu của
Phật giáo được viết bằng chữ Phạn. Phái Đại thừa quan niệm: tự giác, giác tha,
tức là không chỉ giác ngộ cho bản thân mình mà con giác ngộ cho người khác,
có tính xã hội cao hơn, thờ Phật Thích ca Mâu ni và cả các vị Bồ Tát với cách
thờ cúng khoa trương và "đa nguyên". Ngày nay quá trình giao lưu, hội nhập
quốc tế được mở rộng, giao thông thuận lợi và kinh điển được trao đổi ở khắp
các nước nên sự chia rẽ giữa Bắc Tông và Nam Tông không còn được rõ ràng
như trước nữa: trong Đại thừa vẫn có Tiểu thừa, trong Tiểu thừa vẫn có Đại
thừa.
Hiện nay, Phật giáo phát triển chủ yếu ở các nước châu Á, đạo Phật có


16
tín đồ chiếm số đông trong dân chúng như Xrilan-ca, Mianma, Thái Lan, Lào,
Campuchia và chiếm số lượng đáng kể ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Nêpan và Việt Nam. Song, trong nửa thế kỷ gần đầy, Phật giáo vượt ra khỏi
châu Á, bắt rễ sang các nước châu Âu và châu Mỹ.
Đã có trên một triệu tín đồ ở châu Mỹ, hơn một trăm nghìn người ở Ôxtrây-li-a, hơn mười nghìn người ở châu Phi và đặc biệt là khoảng ba chục năm
nay, lan rộng ở châu Âu, thu hút gần hai triệu tín đồ mới. Thống kê tháng 102004 trên toàn thế giới, đạo Phật đang có khoảng 450 triệu tín đồ [61, tr. 67].
Ngày 15-12-1999 tại Đại hội đồng Liên Hợp quốc phiên họp 54, mục 174
của chương trình nghị sự Liên Hợp quốc đã chính thức thừa nhận và tổ chức
Đại lễ Phật đản hay còn gọi là đại lễ Tam hợp (kỷ niệm đức Phật đản sinh,
thành đạo và niết bàn, thời gian tương đương với tháng 5 dương lịch). Từ năm
2000 được gọi là đại lễ Vesak Liên hợp quốc như ngày lễ hội văn hoá tôn giáo
thế giới của Liên hợp quốc tại trụ sở Liên Hợp quốc và các trung tâm Liên Hợp
quốc ở khu vực. Đại lễ tổ chức với sự cổ suý của Liên Hợp quốc nhằm tôn vinh
những giá trị tư tưởng sâu sắc của đức Phật Thích ca Mâu ni về hoà bình, hoà
hợp, hoà giải, vị tha, nhân ái vốn đã có từ hơn 2500 năm trước và vẫn còn
nguyên giá trị trong thế giới ngày nay. Lần đầu tiên Việt Nam được đăng cai tổ

chức và chủ trì Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc lần thứ V - 2008 với chủ đề
chính: "Sự đóng góp của Phật giáo trong quá trình xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh" [67, tr.20].
1.2.1.2. Vài nét về tình hình Phật giáo ở Việt Nam hiện nay
+ Đặc điểm Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo là tôn giáo lớn thế giới được truyền vào sớm nhất và cũng là tôn
giáo có đông tín đồ nhất ở Việt Nam (trên 10 triệu tín đồ). Vào Việt Nam, Phật
giáo lại có đặc điểm khá đặc thù không hoàn toàn giống Phật giáo Ấn Độ và
Phật giáo Trung Quốc, như:
Phật giáo vào Việt Nam mang đậm nét tính chất dân gian. Từ khi mới du
nhập vào Việt Nam, một mặt Phật giáo tìm cách hoà đồng với các tôn giáo khác


17
như: Nho giáo và Đạo giáo, mặt khác nó còn kết hợp để hoà trộn với các tín
ngưỡng dân gian của người Việt. Phật giáo ở Việt Nam được đặt cạnh và đồng
nhất với các mẫu. Nghi lễ thờ cúng và rước xách các bà dâu - với tư cách là
Phật là nghi lễ có tính chất dân gian, vừa uy nghi vừa rộn ràng náo nhiệt. Tín
đồ thì có tín đồ thực thụ (nhà tu hành) và tín đồ quần chúng (các phật tử). Tư
tưởng từ bi, hỉ, xả của đạo Phật được diễn giải một cách dân gian là sự cứu khổ,
cứu nạn.
Phật giáo Việt Nam mang tính thống nhất nhưng không thuần nhất. Nếu ở
Ấn Độ và Trung Quốc, các môn phái được phân biệt rất rõ ràng vì ở đó các nhà
tu hành rất chú ý đến giáo lý thì trái lại, ở Việt Nam các nhà tu hành chủ yếu
chú ý đến hành động và mục đích cứu độ chúng sinh của Phật giáo nên sự phân
biệt giữa các môn phái không rõ nét. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo
Việt nam chỉ là một, họ còn đồng nhất một cách đơn giản giữa Phật giáo với
phái Thiền tông. Các phật tử thì chỉ tuyên bố quy Phật chứ không quan tâm đến
phái nào.
Tuy nhiên, Phật giáo không thuần nhất, vì ở mỗi giai đoạn lịch sử với

những khu vực, miền, địa phương khác nhau Phật giáo lại mạng những nét
riêng, đặc thù rất đa dạng.
Phật giáo Việt nam là một tôn giáo nhập thế khác với Phật giáo ở Ấn Độ
và Trung Quốc (chủ trương xuất thế). Ở Việt Nam, nhiều nhà sư, nhiều bậc cao
tăng đồng thời cũng là những trí thức xã hội, những bậc mưu sĩ. Hoạt động
Phật giáo ở Việt Nam không tách rời quá trình dựng nước và giữ nước của dân
tộc.
+ Sự truyền bá và quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
Giai đoạn truyền bá Phật giáo vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến thế
kỷ thứ X). Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ khá sớm, có ý kiến cho rằng
ngay từ thế kỷ thứ III tr.CN. Chính sử Trung Quốc cũng đã ghi nhận rằng vào
những năm đầu công nguyên, khi miền nam Trung Quốc chưa biết đến Phật
giáo thì ở Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành - Bắc Ninh - Việt Nam) đã


18
có trung tâm Phật giáo và Phật học khá phồn thịnh, tương đương với trung tâm
Lạc Dương - kinh đô của Đông Hán và Bình Thành của nước Sở [67, tr.75].
Giai đoạn này lại được chia làm hai thời kỳ với những đặc điểm riêng:
Thời kỳ đầu (trước thế kỷ thứ V), Phật giáo được truyền vào Việt Nam
thông qua các nhà sư Ấn Độ đi theo đường biển cùng với các thương gia. Từ
thế kỷ II đến thế kỷ V, quá trình truyền giáo gắn liền với các tên tuổi nhà sư Ấn
Độ và Trung Quốc, như:
Thế kỷ II: Ma Ha Kỳ Vực (Marajavaka) và Khưu Đà La (K’sudara) người
Ấn Độ, năm 188.
Thế kỷ III: Khương Tăng Hội (người Ấn Độ, năm 200-247) và Chi Lương
Cương (người Ấn Độ, năm 266).
Thế kỷ IV: Du Pháp Lan và Du Đạo Thái (người Trung Quốc, vào năm
361).
Thế kỷ V: Đàm Hoằng (người Trung Quốc, vào năm 423) [48, tr.95].

Đây là thời kỳ mà đạo Phật được truyền bá khá rộng rãi vào Việt Nam. Đặc
biệt, đã xuất hiện nhà sư Việt Nam có danh tiếng (như: Huệ Thắng (giữa thế kỷ
thư V); Thích Đạo Thiền (457-583)). Hai nhà sư này đã từng được mời sang
Trung Quốc thuyết pháp và đã có những đóng góp nhất định vào quá trình lịch
sử phát triển Phật giáo ở Trung Quốc.
Thời kỳ từ thế kỷ thứ VI đến thế kỷ X, ở thời kỳ này vẫn được coi là quá
trình truyền giáo. Đây là thời kỳ Phật giáo ở Việt nam đã phát triển khá mạnh.
Vai trò truyền giáo của các nhà sư Ấn Độ giảm, Phật giáo từ Trung Quốc
truyền vào nước ta tăng lên, đặc biệt là phái Thiền.
Nhà sư Ấn Độ Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci, 580-594) là tổ thứ ba của
phái Thiền Trung Quốc vào nước ta tu tại chùa Pháp Vân (Bắc Ninh) và trở
thành sư tổ của phái Thiền Việt Nam, phái này truyền được 18 đời với 29 vị sư
tổ, kể từ người đầu tiên là Pháp Hiển (năm 626) đến người cuối cùng là Y Sơn
(năm 1216) [67, tr.76].


19
Phái thiền Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc vào Việt Nam năm 820, truyền
qua 15 đời với 40 vị sư tổ, kể từ người đầu tiên là Cảm Thành (năm 860) đến
người cuối cùng là Ứng Vương (năm 1287) [67, tr.77].
Đến thế kỷ thứ X, sau hàng nghìn năm Bắc thuộc, nước nhà được độc lập,
nhà Đinh và tiền Lê đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Đinh Tiên Hoàng
đã triệu tập các tăng già để định rõ phẩm trật và mời tham gia triều chính. Lê
Đại Hành đã cử phái đoàn sang Trung Quốc thỉnh kinh. Có thể nói dưới triều
đại Đinh và tiền Lê các nhà sư (Ngô Chân Lưu, Khuông Việt Thái sư, Đỗ
Thuận…) đã được trọng dụng, phong thưởng cho công lao giúp việc triều
chính.
Phật giáo thời Lý - Trần (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV). Đây là thời kỳ cực
thịnh của Phật giáo ở Việt Nam và cũng là hai triều đại phong kiến bền vững và
hưng thịnh nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến nước ta. Ở đó, Phật giáo

đóng vai trò là hệ tư tưởng xã hội, chính trị và đạo đức… trong xã hội.
Các vua nhà Lý và nhà Trần được đào tạo và trưởng thành từ nhà chùa
như Lý Công Uẩn. Nhiều bậc đế vương có công nghiên cứu truyền bá Phật giáo
và trở thành sư tổ của nhiều môn phái (như: Lý Thái Tôn (1028-1054) là sư tổ
đời thứ 12 của thiền Vô Ngôn Thông, Lý Thánh Tông (1054-1072) là sư tổ thứ
12 của Thiền Thảo Đường, Trần Nhân Tông (1279-1293) là sư tổ của phái
Thiền Trúc Lâm Việt Nam - Trúc Lâm Yên Tử).
Các nhà sư thời Lý - Trần không chỉ có công lao với đạo pháp mà còn có
những đóng góp lớn cho đất nước. Họ đã tham gia triều chính, góp phần xây
dựng nhà nước đương thời và cùng với nhân dân ta thành công trong công cuộc
thắng Tống, bình Nguyên. Vạn Hạnh quốc sư đã có công lớn trong việc dời đô
từ Hoa Lư ra Thăng Long. Viên Chiếu, Thông Biện, Pháp Loa, Tuệ Trung
Thượng Sĩ, Huyền Quang và nhiều nhà sư tiêu biểu khác không chỉ có công lao
trong công cuộc giữ nước, họ còn là những nhà văn hoá góp phần tạo dựng nền
văn hoá Việt Nam với các thành tựu về văn học nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc
có giá trị lớn, đồng thời họ còn tham gia đào tạo nhân tài cho đất nước.


20
Có thể nói hai triều đại Lý - Trần đã lập được nhiều thành tựu võ công văn
trị thật hiển hách trong đó có phần đóng góp không nhỏ của Phật giáo.
Sang thời Hậu Lê và nhà Nguyễn, Phật giáo không còn là quốc giáo. Bởi
ngay từ thế kỷ XV, giai cấp phong kiến Việt Nam thay vì sử dụng Phật giáo đã
sử dụng Nho giáo làm cơ sở chính trị, tư tưởng và đạo đức cho xã hội. Tuy
nhiên, vốn đã được chấp nhận từ lâu cho nên đến lúc này Phật giáo đã ăn sâu,
bám rễ vào trong đời sống của nhân dân ta và các chùa chiền thì vẫn tiếp tục
được xây dựng, sự tu hành vẫn tiếp tục được duy trì. Có thể nói với tinh thần từ
bi, đạo Phật vẫn tiếp tục tồn tại, cùng chung sống với Nho giáo và Đạo giáo.
Thời kỳ này ở Việt Nam đã xuất hiện thêm hai phái Thiền là Thiền Tào
Động ở Đàng Ngoài và Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong (vốn ở Trung Quốc). Hiện

nay vẫn chưa có thống kê về các đời sư tổ và số lượng các thiền sư của cả hai
phái trên. Ngoài ra, ở Đàng Ngoài còn có phái Thiền Lâm Tông do thiền sư
Trịnh Lập (1696-1773) lập ra dưới thời vua Lê Hy Tông (1675-1705), nhưng
không mở rộng được ảnh hưởng.
Bước sang thế kỷ XIX, một mặt bị Nho giáo lấn át, mặt khác thực dân
Pháp ráo riết truyền bá Thiên Chúa giáo vào Việt Nam đã làm cho Phật giáo bị
suy yếu thêm. Song đến đầu thế kỷ XX, một số nhà tu hành cùng các nhân sĩ có
tinh thần dân tộc đã vận động “chấn hưng Phật giáo”. Các cơ sở đào tạo và các
tổ chức Phật giáo được hình thành.
Ở miền Nam, năm 1930, nhà sư Khánh Hoà lập “Hội Nam Kỳ nghiên cứu
Phật học”. Năm 1951 ông Mai Thọ Truyền tổ chức lại hội đó và đổi tên là “Hội
Phật học Việt Nam” và cũng trong năm này thì “Hội tăng già Việt Nam” được
thành lập.
Ở miền Trung, năm 1932 lập “An Nam Phật học”. Năm 1949 lập “Hội
tăng già Trung Việt”
Ở miền Bắc, “Hội Phật giáo Bắc Kỳ” do ông Nguyễn Đăng Quốc lập
năm 1949.


21
Tại Huế, năm 1951, thành lập “Tổng hội Phật giáo Việt Nam”, thực dân
Pháp định lợi dụng Phật giáo, nhưng đại đa số Phật tử đều giữ nguyên truyền
thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, tu hành theo Sơn môn Tông phái.
Trong kháng chiến chống Pháp, Phật giáo cũng đã đóng góp nhiều sức
người, sức của. Nhiều đại biểu Phật giáo tham gia mặt trận Việt Minh, Liên
Việt, nhiều nhà chùa là cơ sở che dấu, hội họp cho cán bộ kháng chiến tổ chức
“Phật giáo cứu nước” thu hút phần lớn tăng ni, Phật tử đấu tranh chống Pháp.
Từ năm 1945 đến năm 1975, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền. Miền
Bắc được giải phóng, năm 1958, “Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam” được
thành lập, quy tụ giới Phật giáo miền Bắc thành một tổ chức thống nhất vừa

hoạt động tôn giáo vừa góp phần vào công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu
tranh thống nhất nước nhà.
Ở miền Nam, Phật giáo phức tạp hơn, các giáo phái hoạt động theo
những chiều hướng khác nhau. Năm 1964 “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống
nhất” được thành lập, nó tập hợp các hệ phái một cách lỏng lẻo, sau bị phân
hoá (Phái Quốc tự chủ trương theo đường hướng dân tộc; phái Ấn Quang bị đế
quốc Mỹ thao túng. Sau giải phóng phái Ấn Quang còn tiếp tục một thời gian
gây rối ở miền Trung nhờ sự tiếp tay của bọn phản động. Có thể nói, ở miền
Nam xu hướng “hiện đại hoá” chi phối rất lớn đến Phật giáo. Bằng chứng là họ
đảy nhanh việc triển khai lực lượng, mở rộng trường đào tạo, xây dựng chùa
tháp, xây dựng các cơ sở kinh tế văn hoá để tạo thế cân bằng với Thiên chúa
giáo. Tuy nhiên đại đa số Phật tử giữ được truyền thống sống tốt đời, đẹp đạo
gắn bó với dân tộc, ủng hộ và tham gia cách mạng. Vào những năm 1960, Phật
giáo đã đấu tranh quyết liệt với chế độ độc tài Ngô Đình Diệm; nhà sư Thích
Quảng Đức đã tự thiêu năm1963 để phản đối Mỹ Ngụy.
Sau khi đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất đã tạo cơ duyên rất thuận
lợi cho giới Phật giáo thực hiện một Phật sự lớn đã đặt ra từ rất lâu. Đó là việc
thống nhất các tổ chức hệ phái Phật giáo trong một tổ chức chung. Tháng 2
năm 1980, Ban Vận động Phật giáo thống nhất được thành lập gồm 33 vị tăng


22
ni, cư sĩ đại diện cho các hệ phái Phật giáo trong cả nước. Đến tháng 11 năm
1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo đã long trọng tổ chức tại Thủ đô Hà
Nội với 165 đại biểu tăng ni, cư sĩ đại diện cho các hệ phái trong cả nước đã về
dự và đã lập ra “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, thông qua Hiến chương và
chương trình hoạt động của giáo hội với đường hướng “Đạo pháp - Dân tộc Chủ nghĩa xã hội”. Tiếp đó, đã bầu ra hai cơ quan cao nhất lãnh đạo Giáo hội là
“Hội đồng trị sự” và “Hội đồng chứng minh”. Có thể nói, từ sau khi đất nước
thống nhất Đảng và Nhà nước ta cũng rất chú ý đến các tôn giáo, đặc biệt là
Phật giáo. Nhiều chủ trương, chính sách được ban hành để hướng dẫn và chỉ

đạo công tác tôn giáo. Nhất là từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, với những
chủ trương mới, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng cũng được khởi sắc.
Nhiều chùa tháp được xây dựng, kinh sách được phép in ấn, nhiều cơ sở đào
tạo được mở rộng. Các tín đồ Phật giáo phấn khởi hơn, có thể nói ít nhiều đã
vui phần đạo, yên phần đời.
Hiện nay nhiều chức sắc Phật giáo là thành phần tích cực của Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận
nhỏ trong phật giáo bị lợi dụng nên cũng ít nhiều gây nên sự phức tạp về mặt
chính trị - xã hội trong một số năm vừa qua, đặc biệt là ở phía Nam.
1.2.2. Tƣ tƣởng về “Giải thoát” và lý luận về “Tứ diệu đế”.
Phật giáo là một hệ thống triết học - tôn giáo ra đời ở một quốc gia đất
rộng, người đông nằm ở miền Nam Châu Á với lịch sử lâu đời - là một trong
những nơi có nền văn minh sớm nhất và rực rỡ nhất trên thế giới. Ý nghĩa cao
cả của Phật giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng cũng như sự dụng
tâm của các học thuyết khác là chỉ ra mục đích sống và ý nghĩa của cuộc đời
con người. Từ đó chỉ ra con đường để con người nói riêng và chúng sinh nói
chung tự giải thoát khỏi “vạn sự khổ”. Tuy nhiên, khi Phật giáo cho cuộc đời là
“vạn sự khổ” thì đó không phải là cái nhìn bi quan mà đơn thuần chỉ là một
nhận định. Bởi theo tinh thần của Phật giáo thì cái khổ nằm ở cái hữu ngã, cũng
có nghĩa là con người bằng ý thức của cái “Ta” hoặc cái “Tôi” thấy những điều


23
khó chịu đựng ấy là khổ và cái khổ đó của con người là do vô minh mà ra, bao
giờ diệt hết vô minh là hết khổ. Như vậy, muốn thực hiện hoài bão “diệt hết vô
minh” thì trên nền tảng đạo đức - Phật giáo đã đưa ra tư tưởng về “giải thoát”
và lý luận về “Tứ diệu đế” giúp con người có được niềm tin vào cuộc sống, xác
định được cái ý nghĩa đích thực của nhân sinh.
1.2.2.1. Tư tưởng về “Giải thoát”
Các trường phái triết học ở Ấn Độ cổ đại chú trọng vào các lĩnh vực kinh

nghiệm tâm linh và vấn đề cơ bản là tôi luyện tâm linh để giải thoát con người
khỏi những khổ đau, trở về với bản thể đại ngã. Vấn đề giải thoát là một trong
những vấn đề cơ bản của đạo đức Phật giáo. Đức Phật không chỉ dừng lại ở chỗ
nói về khổ nạn mà con người phải chịu đựng trong cuộc đời mà quan trọng hơn
là sau đó Đức Phật nói về việc kết thúc khổ nạn, nói về mục tiêu của Đạo Phật
đối với con người. Phật Thích Ca từng nói:
“Hỡi chư tăng, trước kia và ngày nay ta chỉ nêu ra và lý giải về nỗi khổ
đau và giải thoát nỗi khổ đau, tựa như nước của bể cả, chỉ thấm nhuần một
hương vị, hương vị mặn của muối. Đạo lý của ta chỉ thấm nhuần một hương vị,
hương vị của đạo giải thoát” [69].
Trong các kinh điển và giáo lý của mình, Phật giáo cho rằng con người
là nguyên nhân của con người theo quan niệm “tự kỷ nhân quả”. Con người
quá khứ là nguyên nhân của con người hiện tại là nguyên nhân của con người
tương lai chứ không phải do lực lượng nào khác tạo ra. Phật giáo còn cho rằng
mỗi chúng sinh đều có Phật tính (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính), đều
đi trên con đường giải thoát. Do đó, Phật chủ trương tất cả mọi chúng sinh,
không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, đều có thể giải thoát, trở thành Phật. Bản
thân Phật Thích Ca cũng nhận mình không phải là thần thánh, mà chỉ là người
đã giác ngộ, giải thoát. Sau khi Người tuyên bố: Ta là Phật đã thành, Chúng
sinh là Phật sẽ thành, Phật Thích Ca kêu gọi: Hỡi các đệ tử hãy quay lại với
chính mình, các người là Phật cả đấy! [69]. Sách Phật ví Phật tính như ngọn
đèn, thân xác như bóng đèn, còn vô minh, tham dục như bụi trần che lấp. Nếu


24
không tu luyện thân tâm, bụi vô minh, tham dục sẽ che lấp Phật tính. Ngược
lại, nếu thường xuyên tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ vô minh, tham dục thì ngọn
đèn sẽ càng sáng, càng trong, tức là Phật tính mới phát ra được.
Có thể nói, với Phật giáo sự giác ngộ, giải thoát là công việc của chúng
sinh, do bản thân mỗi chúng sinh thực hiện và tuỳ thuộc vào quá trình tu tập

của từng người. Nếu ai tu dưỡng rèn luyện tốt thì nhanh chóng giác ngộ, giải
thoát. Phật Thích Ca dạy các đệ tử: “Hãy tự mình là ngọn đèn soi sáng cho
mình, hãy tự tạo cho mình một chỗ nương tựa và đừng nương tựa vào ai khác
ngoài bản thân mình. Hãy cầm vững ngọn đèn chân lý. Hãy nương tựa vững
chắc vào ngọn đèn chân lý, cũng đừng tựa vào những gì ngoài chân lý. Phải
coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời” [67, tr.52].
Ngay trong phần Diệt đế (Nirodha), Đức Phật cũng nói về mục tiêu tối
hậu của Phật là giải thoát cho con người thoát khỏi nỗi khổ, thoát khỏi luân hồi,
để đạt tới trạng thái Niết bàn. Theo chữ Phạn, Niết bàn gồm hai phần, “Nir” và
“Vâna”. Trong đó “Nir” - một hình thức phủ định được hiểu là không còn
“Vâna” có nghĩa là ái dục. Cho nên “Đã diệt trừ lòng tham, đã diệt trừ lòng
nóng giận, oán giận, diệt trừ si mê (vô minh), đó là Niết bàn” (Kinh Tạp A
Hàm) [7, tr.86]. Ở một đoạn kinh khác, Đức Phật lại nói “Dứt được lòng vị kỷ,
thì chứng được cảnh giới Niết bàn”. Theo Tôn giáo từ điển: “Niết bàn là một
thế giới tinh thần sau khi đã tiêu diệt được luân hồi sinh tử” [12, tr.899]. Song
những điều mà chúng ta định nghĩa về Niết bàn chỉ có thề làm rõ mặt này hay
mặt kia của Niết bàn mà thôi. Vì chúng ta đã đem cái ý niệm nhị nguyên, tương
đối, còn có sự phân biệt vật - ta, vô - hữu, sinh - diệt vào giải thích một trạng
thái tuyệt đối, đó là: Trạng thái diệt trừ mọi danh sắc, cảm giác, ý thức, ý niệm;
trạng thái diệt mọi ái dục, vô vi, thanh, tịnh, vắng lạng, không vọng động, tịch
diệt, bất tử, an lạc, hoàn thiện, vĩnh hằng…. Có thể nói, Niết bàn là cảnh giới
siêu thời gian và không gian, là cảnh giới an lạc, giác ngộ và giải thoát của bậc
giác ngộ trong đạo Phật. Chúng ta không thể dùng tư duy và ngôn ngữ để định


25
nghĩa hay mô tả trực tiếp Niết bàn được mà phải bằng chính sự chứng ngộ, trực
giác.
Vấn đề cơ bản là phải thấy rằng: Niết bàn chỉ do chính ta tự thấy mà
thôi. Con người phải thấu hiểu về những khổ đau và tự thực hành việc loại trừ

nguyên nhân sinh ra khổ đau để giải thoát cho mình khỏi những phiền não vô
minh, sân hận và tham ái, đạt tới sự an lạc thanh tịnh trong tâm hồn. Việc giải
thoát do chính con người tự lực cánh sinh đảm nhiệm lấy. Phật quan niệm mọi
chúng sinh đều bình đẳng ngang nhau trên con đường giải thoát. Phật nói “Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Người ta ai cũng có Phật tính,
nếu có công tu dưỡng thì cuối cùng cũng thành Phật. Phật không chỉ nói mọi
người đều có khả năng thành Phật, mà Đức Phật còn nói tất cả chúng sinh đều
bình đẳng trên con đường giải thoát. Chính ở đây thể hiện được tinh thần chống
bất bình đẳng của đạo Phật. Đức Phật đã chỉ rõ: “Tình thương và nhu cầu là
những dây liên lạc giữa mọi người. Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng
đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. Mỗi người
sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây truyền ở cổ hay dấu tin-ka ở
trán…” [64, tr.115].
Những lời nói trên có thể coi như một lời tuyên ngôn của Đức Phật
chống lại sự bất công, bất bình đẳng trong một xã hội có sự phân chia đẳng cấp
rất rõ ràng. Đây chính là yếu tố có tác dụng khích lệ lớn đối với con người sống
trong xã hội có sự phân biệt đẳng cấp ngặt nghèo như ở Ấn Độ lúc bấy giờ.
Song bằng cách nào để thực hiện được mục đích và lý tưởng giải thoát, xoá bỏ
vô minh, vọng tưởng, làm mê tâm mờ tính, diệt mọi ái dục và đau khổ, đưa đến
sự an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và đạt tới cảnh giới Niết bàn? Lý giải vấn
đề này Đức Phật có nêu ra Đạo đế (Marga Satya). Đó chính là những quan
điểm về con đường, cách thức hay phương pháp giải thoát của Đạo Phật.
Theo triết lý của Phật giáo, có 37 phương pháp tạo thành con đường và
cách thức để giải thoát còn gọi là 37 đạo phẩm, gồm có: bốn niệm sứ, bốn
chính cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám con đường


×