Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phân tích lý luận về kinh tế hàng hóa vận dụng lý luận vào điều kiện việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN VÀ CHẤT LƯỢNG CAO


BÀI TẬP LỚN
Môn: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin II
Đề tài:
PHÂN TÍCH LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA.
VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY.

Người hướng dẫn: PGS. TS. Tô Đức Hạnh

HÀ NỘI


A. LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta đã phải trải qua hơn 30 năm của hai cuộc chiến tranh
trường kỳ gian khổ chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ. Hai cuộc chiến tranh đó
đã để lại những hậu quả nặng nề cho đất nước ta về mặt kinh tế. Sau chiến tranh,
nền kinh tế nước ta vẫn dậm chân tại chỗ, đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung,
tự cấp, một số vùng núi còn mang đậm dấu ấn của kinh tế tự nhiên. hàng hoá sản
xuất ra không đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa kinh
tế hàng hoá ở nước ta lại có một thời gian dài hoạt động theo cơ chế của nền kinh tế
tập trung chỉ huy. Vì tất cả những lý do đó, công cuộc phát triển kinh tế đã trở
thành nhiệm vụ, mục tiêu số 1 đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước
đường đi tới.
Trong công cuộc phát triển kinh tế đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, đường lối, trong đó việc phát triển nền kinh tế hàng hoá là nhiệm vụ cơ bản
nhất. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch tập trung, hành chính,
quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là nội


dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của nước ta trong
hiện tại và trong tương lai. Quá trình đó giúp đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ
cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân
vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là chủ trương có
tính chiến lược trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của nước ta
hiện nay mà Đảng và nhà nước ta đã xác định.

2


B. NỘI DUNG
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN THEO CHỦ NGHĨA MARX - LENIN VỀ NỀN
KINH TẾ HÀNG HOÁ:
1. Sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hóa hay kinh tế hàng hóa:
a) Từ sản xuất tự cấp tự túc cho đến nền sản xuất hàng hóa:
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội tồn tại hai
kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc (nền kinh tế tự nhiên) và sản xuất
hàng hóa. Trong đó sản xuất tự cấp tự túc xuất hiện đầu tiên và là nền tảng cho sản
xuất hàng hóa ra đời. Vậy trước hết ta hãy tìm hiểu thế nào là sản xuất tự túc tự
cấp.
Sản xuất tự túc tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra
là nhằm để thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất. Sản xuất tự cung tự cấp
hay còn được gọi là sản xuất tự túc tự cấp hoặc nền kinh tế tự nhiên. Đây là kiểu tổ
chức khép kín tức là không có sự giao lưu với bên ngoài vì vậy nó thường gắn liền
với sự bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn bởi nhu cầu hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ lạc hậu, nó
thiếu động lực thúc đẩy khiến cho nền sản xuất phát triển chậm chạp. Chính vì vậy,
nền kinh tế tự nhiên tồn tại trong các giai đoạn phát triển thấp của xã hội: thời
nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến.
Trong quá trình sản xuất công cụ dần dần được cải tiến, lực lượng sản xuất

phát triển làm cho sản phẩm sản xuất ra được nhiều nhiều hơn điều đó dẫn tới việc
trao đổi hàng hoá và dẫn tới sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá
là kiểu tổ chức kinh tế trái ngược hẳn với sản xuất tự túc mà ở đó sản phẩm được
sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường. Với mục đích sản xuất nhắm
chủ yếu vào giá trị của sản phẩm và lợi nhuận, nền sản xuất hàng hóa là động lực
thúc đẩy nền sản xuất phát triển nhanh chóng.
Sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát
triển của xã hột loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng “mông muội”, xóa

3


bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả
kinh tế xã hội.

b) Hai điều kiện ra đời của nền sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa chỉ ra đời khi xã hội hội tụ đủ hai điều kiện sau đây:

- Sự phân công lao động xã hội:
Trước hết phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội
một cách tự phát thành các ngành, nghề khác nhau. Cho đến nay trong lịch sử đã
diễn ra ba cuộc phân công lớn đó là: việc chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt; nền thủ
công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp hình thành các ngành sản xuất độc lập như:
rèn, gốm…; sự xuất hiện ngành thương nghiệp.
Chính sự phân công đó đã tạo ra sự chuyên môn hóa lao động, do đó dẫn đến
chuyên môn hóa sản xuất. Bởi sự xuất hiện phân công lao động xã hội nên mỗi
người sản xuất sẽ làm một công việc cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra một hoặc một vài
loại sản phẩm nhất định. Tuy nhiên trong cuộc sống mỗi người lại đòi hỏi rất nhiều
các loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn cho những nhu cầu đó, đòi hỏi họ phải
mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Chính sự trao đổi

sản phẩm đó là cơ sở, là tiền đề cho sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa. Điều đó đã
được khẳng định qua nhận định của K.Marx: “Sự phân công lao động xã hội này là
điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hóa, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hóa
không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội”.
Tuy vậy cũng theo ý kiến của Marx ở trên, sự tồn tại của phân công lao động
là điều kiện cần nhưng chưa đủ cho sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa. Người đã
chứng minh điều đó khi chỉ ra rằng trong công xã thị tộc Ấn Độ thời cổ đại đã có
sự phân công lao động khá chi tiết nhưng những sản phẩm mà họ tạo ra vẫn chưa
phải là hàng hóa. Bởi tư liệu sản xuất lúc đó là của chung nên sản phẩm làm ra dù
được chuyên môn hóa nhưng vẫn là của chung, được phân phối trực tiếp cho từng
thành viên chứ không phải là trao đổi. Chính vì vậy sản xuất hàng hóa ra đời cũng
cần đến điều kiện thứ hai.

- Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất:
Sự tách biệt này hình thành bởi các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất, mà ban đầu là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Điều này đã xác định
4


người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Dựa vào điều
kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu
sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm họ tách biệt nhau về mặt kinh tế.
Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất
khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành
hàng hoá. K.Marx đã thể hiện điều đó qua nhận định: “Chỉ có sản phẩm của những
lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như
là những hàng hóa”.
Từ những phân tích ở trên ta có thể thấy rằng sản xuất hàng hóa chỉ ra đời
khi xuất hiện và tồn tại đồng thời hai điều kiện tiên quyết nói trên, nếu thiếu một

trong hai điều kiện đó thì không có sản xuất hàng hóa cũng như sản phẩm lao động
không mang hình thái hàng hóa.
2. Các loại hình kinh tế hàng hóa:
Nền kinh tế sản xuất hàng hóa ra đời cùng với chế độ chiếm hữu nô lệ, phát
triển trong chế độ phong kiến và đạt đến đỉnh cao trong Chủ nghĩa Tư bản và Chủ
nghĩa Xã hội và cuối cùng theo chủ nghĩa Marx – Lenin sẽ tự tiêu vong khi sự
chiếm hữu tư liệu sản xuất kết thúc tức là khi Chủ nghĩa Cộng sản ra đời. Trong
suốt chu kì hình thành và phát triển của nó, nền sản xuất hàng hóa phát triển trải
qua nhiều loại hình khác nhau, có thể khái quát thành hai giai đoạn chính:
a ) Giai đoạn sản xuất hàng hóa phát triển thấp, hay nền kinh tế hàng hóa
giản đơn:
Đây là giai đoạn đầu của nền sản xuất hàng hóa, khi nền kinh tế hàng hóa
đơn giản chỉ dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất kết hợp sức
lao động cá nhân của người lao động . Trong giai đoạn này, người lao động sở hữu
hoàn toàn tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó họ tự tổ chức sản xuất và mọi sản phẩm
làm ra đều thuộc về bản thân. Loại hình sản xuất này chủ yếu nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu sinh sống và một phần nhu cầu sản xuất của bản thân người sản xuất
và gia đình họ, vận động theo công thức H – T – H (Hàng – Tiền – Hàng) Ở giai
đoạn này, nền sản xuất chỉ có quy mô nhỏ, và phân tán, sản phẩm được làm chủ
yếu theo phương pháp thủ công lạc hậu khiến cho nền sản xuất phát triển chậm.
5


Đặc trưng của giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn này là: Dựa trên cơ sở kỹ thuật
thủ công tương ứng với văn minh nông nghiệp; tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất; cơ
cấu kinh tế là nông nghiệp – thủ công nghiệp; hàng hoá chưa mang tính phổ biến;
cơ chế kinh tế vận động theo quan hệ giữa giá cả và giá trị theo cạnh tranh và cung
cầu nhưng ở trình độ thấp. Chính vì vậy sản xuất hàng hóa giản đơn nảy sinh vào
cuối thời kì tan rã của chế độ công xã nguyên thủy và chỉ tồn tại qua phương thức
thức sản xuất phong kiến và chỉ tồn tại một phần rất nhỏ ở các phương thức sản

xuất tiếp theo. Cùng với sự xuất hiện các phương thức sản xuất mới, sản xuất hàng
hóa giản đơn từng bước phát triển lên nền sản xuất hàng hóa cao hơn, phát triển
hơn.
b) Giai đoạn sản xuất hàng hóa phát triển, nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là một hình tức phát triển cao độ của nền kinh tế hàng hóa
giản đơn. Trong giai đoạn này, nền sản xuất có quy mô tập trung và lớn hơn nhiều
so với gia đoạn trước, sử dụng máy móc công nghệ hiện đại có năng suất cao. Ở
hình thực sản xuất này, hầu hết các quan hệ kinh tế trên diễn ra trên thị trường, chịu
sự chi phối của các qui luật kinh tế vốn có của nó , hay chịu sự chi phối của cơ chế
thị trường tự điều chỉnh. Căn cư vào sự phát triển của kinh tế thị trường, ta có thể
chia chúng thành hai gia đoạn nhỏ hơn đó là nền kinh tế thị trường tự do và nền
kinh tế thị trường hỗn hợp.
Kinh tế thị trường tự do (cổ điển) là bước chuyển từ kinh tế hàng hóa giản
đơn. Bước chuyển này gắn với các điều kiện như : giao thông vận tải và nói rộng
hơn kết cấu hạ tầng sản xuất phải đạt đến trình độ nhất định ; nền đại công nghiệp
cơ khí đã hình thành; tín dụng đã phát triển nhất định ; các thị trường đất đai và thị
trường sức lao động đã hình thành. Đặc trưng của bước chuyển giai đoạn kinh tế thị
trường tự do là: Dựa trên kỹ thuật cơ điện gắn với nền văn minh công nghiệp ; dựa
trên tư hữu nhỏ và tư hữu lớn ; ứng với cơ cấu kinh tế nông – công nghiệp và tiến
tới công – nông nghiệp – dịch vụ ; vận động theo cơ chế thị trường tự điều chỉnh.
Kinh tế thị trường hỗn hợp là bước chuyển từ kinh tế thị trường tự do lên,
đây là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá , một hình thức mà ở đó
hầu hết các quan hệ kinh tế , các câu hỏi sản xuất cái gì , bằng công nghệ gì và cho
ai đều được xử lý của nhà nước. Người ta gọi kinh tế thị trường hiện đại là kinh tế
thị trường hỗn hợp , bởi lẽ nguyên tắc chi phối thị trường ở giai đoạn này không chỉ
6


do bàn tay vô hình – cơ chế thị trường tự điều chỉnh , mà còn do bàn tay hữu hình –
sự qủan lý vĩ mô của nhà nước. Trong thời đại ngày nay, hầu hết các quốc gia trên

thế giới đều vận động theo mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp , mặc dầu vậy với
mức độ , phạm vi ảnh hưởng có khác nhau. Mặt khác cần ý thức sâu sắc rằng :
kinh tế thị trường, một hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá và mang tính
phổ biến trong xã hội tư bản, song không vì thế mà đồng nhất kinh tế hàng hoá với
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Bước chuyển từ kinh tế thị trường tự do lên kinh tế thị
trường hiện đại gắn với các điều kiện: sự xuất hiện sở hữu Nhà nước, thị trường
chứng khoán, quốc tế hoá sản xuất, đời sống. Đặc biệt sự xuất hiện vai trò mới –
vai trò quản lý vĩ mô - của Nhà nước đối vơi kinh tế thị trường. Đặc trưng của hình
thức kinh tế thị trường hỗn hợp: dựa trên kỹ thuật điển tử tin học gắn liền với nền
văn minh hậu công nghiệp hay văn minh trí tuệ; tồn tại các hình thức sở hữu Nhà
nứơc, sở hữu cổ phần ,sở hữu quốc tế, dựa trên cơ cấu kinh tế công nghiệp – dịch
vụ – nông nghiệp; vận động theo cơ chế kinh tế hỗn hợp của 2 bàn tay vô hình và
hữu hình.
3. Ưu thế của kinh tế hàng hóa so với nền kinh tế tự nhiên:
So với nền sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa hay nền kinh tế hàng
hóa có những ưu thế cơ bản:
Thứ nhất, do mục đích của sản xuất hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu
cầu của bản thân người sản xuất như trong nền kinh tế tự nhiên mà để thỏa mãn nhu
cầu của người khác, của thị trường, chính vì sự gia tăng không hạn chế của thị
trường đó đã tạo nên một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai, do cạnh tranh gay gắt nên buộc mỗi người sản xuất hàng hóa phải
năng động hơn trong sản xuất – kinh doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật,
hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm
nhằm tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi nhuận nhiều hơn. Chính cạnh tranh đã
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Thứ ba, sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất “mở”, các quan hệ
hàng hóa – tiền tệ làm cho giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các địa phương trong
nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân.


7


Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, sản xuất hàng hóa cũng tạo nên sự
phân hóa giàu nghèo, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá
hoại môi trường sinh thái…

II/ VẬN DỤNG NHỮNG LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ HÀNG HÓA VÀO
ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY:
1. Sự cần thiết của việc phát triển nền kinh tế hàng hóa đặc biệt là nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng Xã hội Chủ nghĩa:
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước, khu vực kinh tế
nhà nước đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế phục vụ
cho tiền tuyến. Trong thời kì đó chúng ta đã đạt được những thành quả kinh tế
không thể phủ nhận được. Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất. Chúng ta đã duy
trì được một nền kinh tế tập trung với tham vọng tập trung phát triển công nghiệp
nặng đồng thời phát triển toàn diện công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Tuy nhiên,
nền kinh tế đó không đem được lại hiệu quả như mong muốn bởi chúng ta đất nước
ta vẫn chưa hội tụ đủ những yếu tố cơ bản về kinh tế. Thứ nhất, do vừa thoát ra
khỏi chiến tranh, của cải vật chất chủ yếu đổ vào phục vụ kháng chiến nên vốn tích
lũy trong nước không là bao. Không những thế, cơ sở hạ tầng và máy móc trang
thiết bị bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh. Trong khi đó bộ máy quản lý kinh tế lại
cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, kém năng động, sản sinh ra đội ngũ quản lý thiếu
năng lực, phong cách cửa quyền quan liêu. Chính vì phát triển nền kinh tế một cách
thiếu toàn diện như vậy nên nền kinh tế Việt Nam trở nên sa sút, người dân mất
lòng tin với Đảng và Nhà nước.
Tình hình trong nước đã vậy, trong khi đó trên thế giới nền kinh tế hàng hóa
đặc biệt là nền kinh tế hỗn hợp đã và đang được thực hiện một cách hiệu quả.
Chính vì vậy năm 1986, chúng ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, vận

động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường chính
là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế nước ta vượt khỏi thực trạng thấp
kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách Nhà nước
8


hạn hẹp. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế trong đó
các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh tế thị trường được tự giác tạo
lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống của
nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Khuyến khích làm giàu hợp
pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người. Phát triển như vậy là nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa
các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay. Và thực chất nó cũng đáp
ứng được yêu cầu của việc phát triển lực lượng sản xuất cũng như việc chuyển từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn (nền sản xuất xã hội chủ nghĩa) đồng thời nó cũng hết
sức phù hợp với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở đất nước ta. Công cuộc
chuyển đổi kinh tế mà Đại hội Đảng VI đề ra trong hoàn cảnh đó là hết sức cần
thiết và phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta thời kì đó.
2. Thực trạng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam.
Thành quả đạt được và những mặt hạn chế:
Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh
tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.

Ðường lối đổi mới của Ðảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hình thành và phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành phần kinh tế được đổi
mới cơ bản từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập
thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen hỗn
hợp, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện
thuận lợi cho khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã
hội. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh
nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
9


Việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo
đạt nhiều kết quả tích cực. GDP bình quân theo đầu người của Việt Nam trong cuộc
khủng hoảng kinh tế năm 1989 từ 97.2 USD mỗi người cũng như tổng GDP là 6.3
tỷ USD đã tăng lên 1168 USD mỗi người và 101 tỷ USD tổng GDP năm 2010, tăng
lần lượt 1201.6% và 1603.2%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể là: Tỉ trọng khu vực công nghiệp
trong cơ cấu GDP từ 21.6% (năm 1988) tăng lên 41,1% (năm 2010); khu vực dịch
vụ từ 33.1% (năm 1988) tăng lên 38,3% (năm 2010); khu vực nông nghiệp từ
46.3% (năm 1988) giảm xuống 20,6% (năm 2010). Trong giai đoạn này, nền kinh
tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì tốc độ
tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình
trạng kém phát triển.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế của đất nước. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng
bộ và thống nhất. Việc xử lý các vấn đề liên quan đến đất đai còn nhiều vướng
mắc. Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà nước chưa
giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước,

nhất là khi tiến hành cổ phần hóa. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình
thành, phát triển chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm được
khắc phục. Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương còn
mang tính bình quân, chưa bảo đảm đời sống của người hưởng lương, chưa khuyến
khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện tốt chức
năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới công nghệ,
nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu. Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy
nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải cách hành
chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí
vẫn nghiêm trọng. Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi
mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu
nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã
hội còn sơ khai. Tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội thấp. Nhiều vấn đề bất cập,
bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
10


3. Những giải pháp khắc phục khó khăn và tiếp tục hoàn thiện nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa:
a) Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm tránh khỏi nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa:
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới
trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng tự bản thân kinh tế thị trường không đồng
nghĩa với chủ nghĩa tư bản. Thực tiễn đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức
thuyết phục về việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Hơn lúc nào hết chúng ta cần phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân,
bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Ðảng, làm cho nền kinh tế Việt Nam đi đúng hướng xã
hội chủ nghĩa.

b) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh:
Trước hết chúng ta cần phải tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng khẳng định sự tồn tại
khách quan, lâu dài và khuyến khích sự phát triển đa dạng các hình thức sở hữu,
các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ sở
hữu khác nhau trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với
các loại tài sản mới, như trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước, khoáng sản...
Hoàn thiện thể chế về sở hữu nhà nước theo hướng tách bạch vai trò của Nhà nước
với tư cách là bộ máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế - xã hội với vai trò
chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới, củng cố và phát huy vai
trò của mô hình công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước. Khuyến khích liên kết
hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, làm cho chế độ cổ
phần, sở hữu hỗn hợp trở thành hình thức sở hữu chủ yếu của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế.
Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp lại, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước để góp phần giữ vững và phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
11


Thực hiện nghiêm túc, nhất quán một mặt bằng pháp lý và điều kiện kinh doanh
cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế;
khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các lĩnh
vực mà pháp luật không cấm; tạo điều kiện để các doanh nghiệp của tư nhân tiếp
cận các nguồn lực của Nhà nước trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng. Tăng cường
đầu tư và đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước để các đơn vị sự nghiệp công lập
phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả.
c) Đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại
thị trường:

Tiếp tục hoàn thiện thể chế về giá, về cạnh tranh và kiểm soát độc quyền
trong kinh doanh. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường có sự điều tiết vĩ mô
của Nhà nước. Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc bình ổn giá bằng các
biện pháp kinh tế vĩ mô và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, giảm tối đa
các can thiệp hành chính trong quản lý giá. Ða dạng hóa các loại thị trường hàng
hóa, dịch vụ theo hướng văn minh, hiện đại, chú trọng phát triển thị trường dịch vụ.
Phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho các thị trường này. Thực hiện tự do hóa
thương mại và đầu tư phù hợp với các cam kết quốc tế. Phát huy tốt hơn vai trò
điều hành thị trường tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước như một ngân hàng trung
ương hiện đại, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Tạo điều kiện
phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế trong nước,
khuyến khích hợp tác và liên kết giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
d) Gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường:
Tiếp tục thực hiện chủ trương, chính sách khuyến khích làm giàu đi đôi với
tích cực thực hiện giảm nghèo, vươn lên no ấm, đặc biệt là ở các vùng nông thôn,
miền núi, vùng dân tộc và căn cứ cách mạng trước đây. Chính sách giảm nghèo
không chỉ nhằm mục tiêu ổn định mà còn tạo động lực cho sự phát triển. Tạo điều
kiện để mọi công dân nắm bắt được cơ hội làm ăn, nâng cao thu nhập và đời sống,
được hưởng thành quả chung của phát triển. Tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước,
của cộng đồng xã hội cho người nghèo, giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, vươn
lên thoát nghèo, đồng thời khắc phục tư tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà
12


nước. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng và linh hoạt phù hợp với yêu
cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðiều chỉnh lương hưu và
trợ cấp bảo hiểm xã hội theo cơ chế tạo nguồn, độc lập tương đối với chính sách
tiền lương, giảm dần phần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước; từng bước cải thiện đời
sống của người về hưu theo trình độ phát triển của nền kinh tế. Phát triển đa dạng

các hình thức tổ chức tự nguyện, nhân đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
để chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội, Tạo cơ hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội,
trước hết là người còn khả năng lao động, tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công
thiết yếu, cơ hội giáo dục, đào tạo, dạy nghề, việc làm, chăm sóc sức khỏe, nhà ở,
văn hóa, thể thao.
Bảo vệ môi trường phải được coi trọng ngay từ đầu và trong suốt quá trình
xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế. Có kế hoạch phòng tránh, khắc
phục hậu quả thiên tai; xây dựng kế hoạch ứng phó và giảm nhẹ tác động tiêu cực
do sự biến đổi khí hậu.
e) Nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, các
tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế xã hội:
Ðảng tăng cường chỉ đạo nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xác
định rõ, cụ thể và đầy đủ hơn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhất là những nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường. Ðổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực xây
dựng và thực thi thể chế kinh tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp
phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ðổi mới, tăng cường vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù
hợp với những yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao vai trò của
các tổ chức dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và
của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các
13


tổ chức xã hội; tinh giản bộ máy nhà nước, tập trung nguồn lực vào một số lĩnh vực

quan trọng nhất trong phát triển kinh tế, xã hội.

C. KẾT LUẬN
Sự ra đời của nền kinh tế sản xuất hàng hóa là một bước ngoặt trong lịch sử
phát triển loài người. Trải qua một quá trình phát triển lâu dài bắt đầu từ nền kinh tế
hàng hóa giản đơn cho đến kinh tế thị trường hỗn hợp hiện đại nhiều thành phần,
kinh tế hàng hóa đã chứng minh được nó là kiểu tổ chức kinh tế phát triển và có
nhiều ưu điểm nhất tính cho đến thời điểm này. Thực hiện chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo
đường lối của Đảng và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nền kinh
tế nước ta đã đạt được những thành công bước đầu hết sức khả quan. Tuy vẫn còn
tồn tại một số khuyết điểm cũng như mặt hạn chế, nhưng đây thật sự là một bước đi
đúng hướng mà Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện. Đổi mới toàn diện, đồng bộ và
triệt để nhưng cũng không bỏ qua sự tôn trọng, giữ gìn những thành quả mà trước
đây đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam đã và đang trên con đường phát triển bắt kịp
với nhịp độ phát triển của khu vực, hòa chung cùng nhịp với nguồn máy kinh tế thế
giới.

14


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 2010
2. Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin cũ
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 1999
3. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
4. Nghị quyết số 21 – NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tại Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X) về tiếp tục hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

5. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, X, XI.
6. Thời báo kinh tế Việt Nam

7. Tạp chí Cộng sản.
8. Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam.
9. Số liệu kinh tế Việt Nam trên WIKIPEDIA và cơ sở dữ liệu của World Bank .

15



×