Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Vận dụng quan điểm lịch sử, cụ thể để phân tích quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.08 KB, 25 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Sau khi dành được hoà bình, thống nhất đất nước, Việt Nam phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn về mọi lĩnh vực. Nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta lúc đó là vừa phải khắc phục những hậu quả nặng nề
của hai cuộc chiến tranh tàn khốc, khôi phục nền kinh tế để tiến kịp các nước
trên thế giới và khu vực vừa phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã
hội (CNXH). Tuy nhiên, phải nói rằng trong một thời gian khá dài (sau khi
thống nhất đất nước năm 1975 đến trước năm 1986) nền kinh tế nước ta vẫn
là nền sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp tự túc vận hành theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Thêm vào đó, do có một số sai lầm về nhận thức trong quá
trình xây dựng CNXH đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng
khủng hoảng, trì trệ kéo dài, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta xác định cần phải đổi mới nền
kinh tế đất nước. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 – 2986)
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả
hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI là cột mốc đánh dấu
bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy
nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong từng thời kỳ mà
Đảng ta đã liên tục đưa ra những chiến lược và kế hoạch cụ thể khác nhau
trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Có thể thấy rõ rằng Quan điểm lịch sử cụ thể
đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng triệt để trong công cuộc đổi mới kinh
tế (trong đó xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong
những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế).
Một thực tế không thể phủ nhận được là nước ta sau hơn 20 năm đổi
mới, nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội: kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện,… Điều này đã cho chúng ta thấy được sự tài tình của Đảng và
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để hiểu được


rõ hơn sự vận dụng những lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn
của Việt Nam trong thời gian qua, trong bài tiểu luận Triết học của mình, em
xin chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm lịch sử, cụ thể để phân tích quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” để nghiên cứu, tìm hiểu.
Để hoàn thành bài viết này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của
cô giáo TS. Nguyễn Thị Bích Thủy. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn
nên sẽ còn nhiều sai sót. Em kính mong nhận được sự hướng dẫn của các thầy
cô để bài viết của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I, Quan điểm lịch sử, cụ thể.
1.Cơ sở của quan điểm lịch sử, cụ thể.
Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử, cụ thể chính là hai nguyên lý
của phép biện chứng duy vật : Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và Nguyên
lý về sự phát triển.
1.1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định,
sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ
giữa các sự vật và hiện tượng khác, đều chịu sự tác động, sự quy định lẫn
nhau, làm tiền đề cho sự phát triển của nhau, không sự vật nào tồn tại biệt lập
ngoài mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, các yếu tố, các giai
đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật đều có tác động quy định lẫn nhau,

mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Mối liên hệ phổ biến có những đặc điểm sau:
- Tính khách quan: Liên hệ là vốn có của các sự vật, hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại và phát
triển của các sự vật hiện tượng, con người không thể tạo ra được mối liên hệ
của các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ
đó.
- Tính đa dạng: Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng, phong
phú, do đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể hiện qua
nhiều hình thức: mối liên hệ chung –riêng, bên trong – bên ngoài, trực tiếp –
gián tiếp, tất nhiên - ngẫu nhiên, cơ bản – không cơ bản.
1.2.Nguyên lý về sự phát triển.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguyên lý về sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động tiến từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và
chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn
trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi. Phát triển là khuynh
hướng chung tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Cách thức và hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: sự phát triển của các sự vật, hiện tượng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Tính phức tạp của sự phát triển:
+ Phát triển không chỉ là sự tăng đơn thuần về mặt lượng mà bao hàm

cả sự nhảy vọt về chất.
+ Phát triển bao hàm sự phủ định cái cũ và nảy sinh cái mới, sự lặp lại
cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2.Nội dung của quan điểm lịch sử, cụ thể:
Quan điểm này cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại,
vận động và phát triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể,
xác định, những điều kiện này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc
điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ
khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. Ví dụ,
một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ
không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Từ nội dung trên ta có thể thấy rằng, quan điểm lịch sử cụ thể có ý
nghĩa rất to lớn trong quá trình nghiên cứu và cải tạo tự nhiên, xã hội. Khi vận
dụng quan điểm này cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và
phát triển.
- Khi nghiên cứu một lý luận khoa học nào đó cần phải phân tích hoàn
cảnh ra đời và phát triển của lý luận đó.
- Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn cũng cần phải tính đến
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nơi đó. Đồng thời cần phải có những
bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn để đạt được hiệu quả
tốt nhất.
II. Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
1.Nền kinh tế thị trường, ưu điểm, nhược điểm.
1.1.Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, tức là

một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao
đổi, để bán trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường toàn bộ các yếu tố
“đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế thị
trường phát triển qua hai giai đoạn: kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị
trường hỗn hợp (còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại). Sự khác biệt cơ bản
giữa hai giai đoạn này là, kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của Nhà
nước.
1.2. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường kích thích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, từ đó dẫn đến:
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, làm tăng năng xuất lao động.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời
của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản
xuất, kinh doanh giỏi.
- Hàng hoá, dịch vụ dồi dào, phong phú, chất lượng ngày càng được
nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
1.3.Nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
- Phân phối thu nhập không công bằng dẫn đến hoá giàu nghèo trong xã
hội và mâu thuẫn xã hội.
- Cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp tất yếu dẫn đến khủng
hoảng chu kì, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp.
- Mục tiêu theo đuổi lợi nhuận tối đa luôn luôn gắn liền với những thủ
đoạn không lành mạnh: lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi
trường; đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường đạo đức và
truyền thống xã hội.
- Độc quyền của những doanh nghiệp lớn và các nước lớn trong việc
khống chế và lưu thông giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá,… làm

lũng đoạn nền kinh tế.
2.Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.1.Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được hiểu như thế
nào?
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường
định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN
chính là nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu; nước mạnh; xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế thị trường đinh hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội.
2.2.Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Như đã biết, Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu,
trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là
mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát
vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc. Nhưng đi lên CNXH bằng cách
nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng. Suốt một thời gian dài, Việt Nam
cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình CNXH kiểu Xô - viết mô hình
kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được
những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước
có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm, và

trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa
của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận
thức về CNXH không đúng với thực tế Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển
của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và ở
Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng
bước quá độ lên CNXH. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử
phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là cái “phổ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biến”, còn kinh tế thị trường định hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt
Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Sự lựa chọn mô hình phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN”
là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung
(đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống
kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng XHCN). Đây
không phải là nền kinh tế thị trường dập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường
văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội
hoá – xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng triệt để quan điểm lịch sử cụ thể trong việc lựa chọn phát triển kinh tế
đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Lựa chọn mô
hình này không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và
CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh
tế thị trường trong thời đại ngày nay.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

Website: Email : Tel : 0918.775.368
III.Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm lịch sử cụ thể trong triết học Mác – Lênin, khi nghiên
cứu quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta,
thì việc tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước là hết sức cần thiết.
1.Những điều kiện, hoàn cảnh khi nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN.
1.1.Điều kiện, hoàn cảnh trong nước.
- Về kinh tế:
Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam năm trước đổi mới là tăng
trưởng thấp khoảng 3,7% /năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ
từ nước ngoài là chủ yếu. Những năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang
và không thể kiểm soát được.
Thêm vào đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại chịu ảnh hưởng của
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài đã làm cho nền kinh tế Việt
Nam đã nghèo nàn lại càng lạc hậu về mọi mặt: công nghiệp, nông nghiệp
dịch vụ, giao thông vận tải,...
- Về chính trị:
Vì nước ta đi thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nên đã gặp phải
rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong việc xây dựng một hệ thống chính trị
vững mạnh. Thêm vào đó, khi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của công
cuộc đổi mới – giai đoạn rất quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn
đường thì CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây
nhiều hoang mang cho Đảng ta. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều thế lực phản
động đã và đang tìm cách chống phá quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Website: Email : Tel : 0918.775.368

×