Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội ở tỉnh nam định và việc phát huy các giá trị ấy trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------------------

LÊ XUÂN HỒNG

GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG TRONG LỄ HỘI
Ở TỈNH NAM ĐỊNH VÀ VIỆC PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ ẤY
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60 22 80

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2011
1


MỤC LỤC
Trang
Mục lục ……………………………………………………………….

1

Mở đầu ………………………………………………………………...

3



Chương 1. Giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam Định

12

1.1. Giá trị văn hoá truyền thống và lễ hội truyền thống ………

12

1.1.1.Giá trị truyền thống và giá trị văn hoá truyền thống………...

12

1.1.1.1. Giá trị và giá trị văn hoá…………………………………

12

1.1.1.2. Giá trị truyền thống và giá trị văn hoá truyền thống..........

20

1.1.2. Quan niệm về lễ hội truyền thống ………………………….

26

1.1.2.1. Lễ hội và phân loại lễ hội ………………………………...

26

1.1.2.2. Lễ hội truyền thống………………………………………


30

1.2. Giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam Định …....

38

1.2.1. Đặc điểm của Nam Định và ảnh hưởng của chúng đối với
giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội hiện nay.…………………….

38

1.2.2. Các lễ hội truyền thống và một số giá trị văn hoá truyền
thống trong lễ hội ở Nam Định ………………………………………..

42

1.2.2.1. Các lễ hội truyền thống ở Nam Định …………………….

42

1.2.2.2. Một số giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam
Định ……………………………………………………………………

65

Chương 2. Sự biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ
hội ở Nam Định và giải pháp phát huy các giá trị ấy hiện nay ........

78


2.1. Sự biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội ở
Nam Định ……………………………………………………………..

78

2.1.1. Những xu hướng biến đổi của các giá trị văn hoá truyền
thống trong lễ hội ở Nam Định hiện nay ……………………………..

78

2


2.1.1.1. Tính tất yếu của sự biến đổi các giá trị văn hoá truyền
thống ………………………………………………………………….

78

2.1.1.2. Xu hướng biến đổi của các giá trị văn hoá truyền thống
trong lễ hội ở Nam Định ………………………………………………

83

2.1.2. Một số vấn đề đặt ra trước sự biến đổi của các giá trị văn
hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam Định hiện nay ………………….. 102
2.2. Một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa các giá trị văn
hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam Định hiện nay ……………….. 104
2.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao
nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về giá trị văn hoá

truyền thống …………………………………………………………… 105
2.2.2. Xã hội hoá việc tổ chức các lễ hội theo định hướng của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước …………………………………….. 109
2.2.3. Nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tổ
chức và quản lý lễ hội …………………………………………………. 113
2.2.4. Hoàn thiện chính sách, quy chế tổ chức lễ hội của địa
phương ………………………………………………………………… 115
2.2.5. Xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương thức tổ chức lễ hội
phù hợp với nội dung của từng lễ hội và điều kiện cụ thể của địa
phương ………………………………………………………………… 118
Kết luận ……………………………………………………………….

121

Danh mục tài liệu tham khảo ………………………………………..

124

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta khẳng định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, công tác xây dựng
Đảng là then chốt; xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước, Đảng ta đã xác định,
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong tám đặc
trưng cơ bản của chế độ xã hội mới mà chúng ta xây dựng. Một trong những

nhiệm vụ hàng đầu của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc chính là giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống của dân
tộc.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng quan hệ quốc tế trong xu thế
toàn cầu hóa đang hàng ngày, hàng giờ tác động và tạo ra nhiều thay đổi trong
đời sống kinh tế - xã hội. Mức sống của nhân dân được cải thiện đã tạo điều
kiện để phát triển các nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hóa của cá nhân và
cộng đồng. Hàng loạt các giá trị mới được hình thành, góp phần làm đa dạng
và phong phú lối sống của các tầng lớp nhân dân. Giá trị văn hoá truyền thống
nói chung, giá trị văn hoá truyền thống của lễ hội nói riêng tiếp tục khẳng
định được sức sống bền vững và vai trò là động lực của sự phát triển. Song,
đã xuất hiện những biểu hiện, những xu hướng biến đổi tiêu cực cần nhận
thức rõ và có giải pháp khắc phục.
Theo thống kê của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch hiện cả nước có
7.966 lễ hội với nhiều loại hình khác nhau. Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan toả ở

4


hầu hết các địa phương trong cả nước, các lễ hội có nhiều chuyển biến tích
cực: vừa giữ gìn, phát huy những nét đẹp văn hoá truyền thống; vừa kết hợp
nhuần nhuyễn những yếu tố hiện đại, phát huy được tác dụng tích cực của lễ
hội, nêu cao ý nghĩa giáo dục truyền thống. Lễ hội đáp ứng một cách thiết
thực, hiệu quả đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân trong tổ chức nghi lễ
và hưởng thụ các hoạt động hội, tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hoá, các bậc tiền bối đã có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh
giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt lễ hội nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo
văn hoá.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, không ít lễ hội còn nặng về

phần lễ, phần hội bị lạm dụng, còn nhiều lễ hội có khuynh hướng thương mại
hoá, không ít hiện tượng thiếu lành mạnh xuất hiện làm phiền lòng du khách
như dịch vụ khấn thuê, xóc thẻ, bán ấn, xem bói, chèo kéo khách tham gia các
trò chơi cá cược, các dạng cờ bạc… điều này đang làm phai mờ, xói mòn
những giá trị văn hoá truyền thống của các lễ hội.
Thực trạng này đòi hỏi các nhà nghiên cứu cần tiếp tục tập trung làm rõ
những vấn đề về mặt lý luận như: giá trị và hệ giá trị văn hoá truyền thống
Việt Nam; các giá trị văn hoá thể hiện trong các lễ hội truyền thống; cơ sở
khoa học, ý nghĩa lịch sử và giá trị văn hoá để khôi phục và tổ chức lễ hội
truyền thống nói chung, của từng vùng, miền và lễ hội cụ thể nói riêng; đặc
biệt là sự biến đổi của các giá trị văn hoá trong lễ hội truyền thống hiện nay...
Những vấn đề lý luận này đã được hàng trăm nhà nghiên cứu quan tâm ở
nhiều góc độ, phạm vi, mức độ khác nhau và đã có hàng trăm ấn phẩm được
xuất bản. Nó cho thấy sự đa dạng, phong phú trong lĩnh vực văn hoá, có nhiều
vấn đề còn đang được tranh luận trong giới nghiên cứu, thậm chí các quan
điểm của các nhà nghiên cứu đôi khi còn trái ngược nhau. Điều này, chứng tỏ
rằng về mặt lý luận vấn đề này vẫn đang còn mang tính cấp thiết.

5


Về mặt thực tiễn, từ khi ra đời Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì ở nước
ta đã tổ chức nhiều chương trình hoạt động văn hoá ở các lĩnh vực, cấp độ,
phạm vi với những tính chất, đặc điểm khác nhau. Hầu hết, các cấp, các
ngành, các địa phương đều có chương trình hành động để triển khai Nghị
quyết, trong đó việc khôi phục và tổ chức lễ hội truyền thống được các địa
phương rất quan tâm thực hiện. Nhưng, qua việc tổ chức lễ hội ở các địa
phương những năm qua đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề đòi hỏi phải tính
toán, cân nhắc kỹ lưỡng, có kế hoạch chi tiết, cụ thể về mở lễ hội. Đây là vấn

đề cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và có các bước thể nghiệm để đảm bảo sự
hài hoà giữa phát triển kinh tế của địa phương với giữ gìn và phát huy giá trị
văn hoá truyền thống của lễ hội.
Tuy vậy, tác giả không có tham vọng xây dựng một hệ thống lý thuyết
hoàn chỉnh, mà trong phạm vi hiểu biết của mình, cố gắng học hỏi, kế thừa
kết quả các công trình nghiên cứu, lựa chọn cho đề tài của mình những khái
niệm công cụ để tìm hiểu về giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội của một
địa phương cụ thể và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm phát huy các giá trị ấy.
Xuất phát từ nhận thức và mong muốn đó, tôi chọn đề tài “Giá trị văn
hoá truyền thống trong lễ hội ở tỉnh Nam Định và việc phát huy các giá trị
ấy trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Văn hoá và giá trị văn hoá truyền thống là đề tài đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về giá trị văn
hoá truyền thống rất phong phú, đa dạng trên những phạm vi và góc độ khác
nhau.

6


* Các công trình, tác phẩm, bài viết đi sâu mặt lý luận, phương pháp
luận về văn hoá, giá trị văn hoá truyền thống:
- Công trình của Hồ Bá Thâm "Bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Văn hóa
Thông tin, 2003; Ngô Đức Thịnh, Hoàng Vinh “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
xây dựng văn hóa ở nước ta” Viện Văn hóa, Nxb VHTT, 1999; Trường Lưu
“Văn hóa một số vấn đề lý luận” Nxb CTQG, 1999. Bài viết của Ngô Đức
Thịnh “Một số vấn đề lý luận nghiên cứu hệ giá trị văn hoá truyền thống trong
đổi mới và hội nhập” Đề tài KX.03.14/06-10 TP.HCM-Biên Hoà, 2009.
- Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa hiện nay, việc nghiên cứu các giá trị văn hoá truyền thống trước tác

động và yêu cầu của việc thực hiện cơ chế thị trường, của mở rộng giao lưu
quốc tế càng thu hút các nhà nghiên cứu quan tâm, nhằm xác định những giá
trị cần được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Các bài báo, công trình
nghiên cứu đã xây dựng được các quan niệm về giá trị và xác định được hệ
giá trị văn hoá truyền thống dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, tiêu biểu
như: Phẩm An Ninh “Quan niệm về giá trị và hệ giá trị văn hoá” Đề tài
KX.03.14/06-10 TP.HCM-Biên Hoà, 2009; Hoàng Chí Bảo “Hệ giá trị văn hoá
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập”, Tạp chí cộng sản, số 5,
2007; Hà Minh Đức “Giá trị văn hoá, nhận thức và chuyển đổi” Tạp chí Viện
văn học, 2009; Lê Thị Lan “Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống Việt Nam
trong giá trị nhân loại” Tạp chí triết học, số 7/2001…
- Những nghiên cứu về bảo tồn, phát huy bản sắc và các giá trị văn hoá
truyền thống trong giai đoạn hiện nay đã được các tác giả phân tích sâu sắc về mối
quan hệ biện chứng giữa bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá; về thực trạng của
việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, từ đó đề ra những giải
pháp nhằm bảo tồn và phát huy hiệu quả bản sắc văn hoá Việt Nam. Điển hình là

7


các công trình, bài viết như: Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên), "Xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2004; Nguyễn Văn Huyên “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc” Tạp chí triết học, số 1, 1999; Lê Thị
Tuyết Ba “Vấn đề bảo vệ các giá trị đạo đức truyền thống trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam” Tạp chí triết học, số 1, 1999; Dương Phú Hiệp “Quan niệm
về mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển hệ giá trị văn hoá truyền thống với tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại” Đề tài KX.03.14/06-10 TP.HCM-Biên Hoà,
2009; Nguyễn Trọng Chuẩn “Văn hoá Việt Nam và sự phát triển lâu bền của
quốc gia” Tạp chí triết học, số 5, 1998…

- Đáng chú ý là những bài viết, đề tài nghiên cứu về sự biến đổi các giá trị
văn hoá nói chung và giá trị văn hoá trong lễ hội nói riêng đã làm rõ được một số
giá trị văn hóa trong các lễ hội cụ thể của nhiều vùng miền trên cả nước, như:
Nguyễn Thị Hiền Oanh “Sự chuyển đổi các giá trị văn hoá trong nền kinh tế
thị trường” Đề tài KX.03.14/06-10 TP.HCM-Biên Hoà, 2009; Trần Ngọc Thêm,
“Giá trị và sự chuyển đổi giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam” Đề tài
KX.03.14/06-10 TP.HCM-Biên Hoà, 2009; Tô Duy Hợp “Bàn về mối quan hệ
giữa truyền thống và hiện đại từ hướng tiếp cận hệ giá trị văn hoá” Đề tài
KX.03.14/06-10 TP.HCM-Biên Hoà, 2009; Nguyễn Thị Phương Châm (chủ
nhiệm) “Biến đổi văn hoá ở một số làng thuộc Bắc Ninh trong quá trình đô
thị hoá, công nghiệp hoá hiện nay” Đề tài NCKH, Viện nghiên cứu văn hoá,
Viện KHXHVN, 2008...
- Cuốn sách “Sự biến đổi các giá trị văn hoá trong bối cảnh xây dựng
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa do PGS.TS. Nguyễn Duy Bắc làm chủ biên đã xây dựng được hệ thống
lý luận cơ bản về văn hóa, giá trị văn hóa, biến đổi giá trị văn hóa. Đồng thời
đã chỉ ra được thực trạng biến đổi các giá trị văn hóa, phát triển văn hóa trong

8


điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay; góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống đường lối, chính
sách về phát triển văn hóa và con người, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, hình thành các giá trị văn hóa mới trong điều
kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế
* Các công trình, tác phẩm chuyên bàn về lễ hội dưới nhiều góc độ khác
nhau:
- Cuốn sách của Phạm Thị Thanh Quy “Quản lý lễ hội cổ truyền hiện

nay”, Nhà xuất bản Lao động, năm 2009 đã nghiên cứu về thực trạng công tác
tổ chức quản lý các lễ hội cổ truyền ở vùng Thủ đô Hà Nội, nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chống lại những luồng văn hoá
ngoại lai, làm biến dạng bản sắc văn hoá dân tộc.
- Công trình đồ sộ “Kho tàng lễ hội cổ truyền Việt Nam” của nhiều tác
giả, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc và Tạp chí văn hoá nghệ thuật, năm 2000
đã khái quát về lịch sử nghiên cứu lễ hội, nêu lên các tiêu chí phân loại lễ hội
và xây dựng phương pháp tiếp cận về lễ hội cổ truyền. Đồng thời, đem lại cái
nhìn tổng quan về lễ hội cổ truyền thông qua việc nghiên cứu 211 lễ hội tiêu
biểu, với cách sắp xếp và nghiên cứu lễ hội gắn với từng vùng văn hoá, đã có
được ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhất định trong việc sưu tầm, nghiên cứu lễ
hội cổ truyền ở Việt Nam hiện nay.
- Đề tài khoa học “Lễ hội và các giải pháp quản lý lễ hội trên địa bàn
tỉnh Nam Định” do Sở Văn hoá thông tin tỉnh Nam Định chủ trì, chủ nhiệm
đề tài Nguyễn Văn Bút - Phó Giám đốc Sở VHTT Nam Định, thực hiện năm
2007 là công trình nghiên cứu khá đồ sộ, chuyên sâu về lễ hội của tỉnh Nam
Định. Đề tài đã nghiên cứu, khảo sát các lễ hội ở Nam Định một cách có hệ

9


thống, chọn lọc đưa ra nhận định khách quan về các lễ hội, nghiên cứu, khảo
tả chi tiết các lễ hội điển hình, đề tài cũng đã chỉ ra những mặt tích cực và tồn
tại trong tổ chức và quản lý lễ hội, từ đó khuyến nghị một số giải pháp cụ thể
về tổ chức và quản lý lễ hội ở Nam Định hiện nay.
Các công trình, tác phẩm đã đi sâu về mặt lý luận, phương pháp nghiên
cứu và xây dựng được những quan niệm về giá trị, hệ giá trị văn hoá truyền
thống, đã trình bày hệ thống các lễ hội truyền thống, những giá trị văn hoá của
nhiều lễ hội trên cả nước. Qua đó, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra một số
biến đổi của lễ hội và giá trị văn hoá của lễ hội. Song, việc nghiên cứu dưới

góc độ triết học về giá trị văn hoá truyền thống trong các lễ hội ở tỉnh Nam
Định thì chưa được thực hiện một cách hệ thống. Mặt khác do tác động mạnh
của mặt trái kinh tế thị trường, của đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng,
những giá trị văn hoá truyền thống trong các lễ hội ở tỉnh Nam Định đang có
xu hướng biến đổi phức tạp. Do vậy, cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để có
nhận thức đúng đắn, sâu sắc về sự biến đổi đó, thấy được những vấn đề bức
thiết đang đặt ra và đề ra giải pháp phát huy tốt hơn nữa các giá trị văn hoá
truyền thống trong lễ hội ở Nam Định. Chính vì vậy, đề tài “Giá trị văn hoá
truyền thống trong lễ hội ở tỉnh Nam Định và việc phát huy các giá trị ấy
trong giai đoạn hiện nay” nhằm góp phần thực hiện yêu cầu này, có ý nghĩa
cả về mặt lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ các giá trị văn hoá truyền thống và sự biến đổi của các giá trị ấy
trong lễ hội ở Nam Định, đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn
nữa các giá trị đó.

10


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính sau:
+ Mô tả một số lễ hội truyền thống tiểu biểu và khái quát một số giá trị
văn hoá truyền thống trong các lễ hội ở Nam Định.
+ Phân tích thực trạng sự biến đổi của các giá trị văn hoá truyền thống
trong lễ hội ở Nam Định và những vấn đề đặt ra hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tốt hơn nữa các giá trị văn
hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam Định giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Với mục đích và nhiệm vụ đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối
tượng nghiên cứu là các giá trị văn hoá trong lễ hội truyền thống ở Nam
Định dưới góc độ triết học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Luận văn tập trung nghiên cứu các lễ hội truyền thống tiêu biểu ở Nam
Định do chính quyền và nhân dân địa phương tổ chức trong giai đoạn hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận.
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về văn hoá, bản sắc văn hoá, giá trị văn hoá
truyền thống.

11


Luận văn kế thừa kết quả của các công trình, đề tài nghiên cứu liên
quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, làm rõ các vấn đề; đồng thời kết hợp
sử dụng các phương pháp: lịch sử và lôgic; phân tích và tổng hợp; quy nạp và
diễn dịch; điều tra thực tế, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá... nhằm đạt
mục đích và nhiệm vụ mà luận văn đã đề ra.
6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn.
Luận văn làm rõ một số giá trị văn hoá truyền thống trong các lễ hội ở
Nam Định, phân tích thực trạng sự biến đổi của các giá trị văn hoá ấy; bước
đầu đề xuất một số giải pháp định hướng phát huy hơn nữa các giá trị văn hoá

truyền thống trong lễ hội ở Nam Định giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm cơ sở lý luận
trong việc hoạch định chính sách, quy chế tổ chức và quản lý lễ hội của địa
phương, làm cho các giá trị văn hoá truyền thống được phát huy hơn nữa và lễ
hội ngày một tốt hơn.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Giá trị văn hoá truyền thống trong lễ hội ở Nam Định
Chương 2: Sự biến đổi các giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội ở
Nam Định và giải pháp phát huy các giá trị ấy hiện nay.

12


Chương 1
GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG TRONG LỄ HỘI Ở
NAM ĐỊNH
1.1. Giá trị văn hoá truyền thống và lễ hội truyền thống.
1.1.1. Giá trị truyền thống và giá trị văn hoá truyền thống.
1.1.1.1. Giá trị và giá trị văn hoá.
Giá trị (Value) là một khái niệm của nhiều bộ môn khoa học khác nhau,
trong mỗi bộ môn khoa học, khái niệm này lại mang những hàm nghĩa rộng,
hẹp, cụ thể khác nhau. Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá trị học gắn
liền với triết học. Đến đầu thế kỷ XX, giá trị học mới hình thành như một
khoa học riêng và khái niệm giá trị trở thành trung tâm của giá trị học. Song,
khái niệm giá trị cũng có nhiều cách tiếp cận, do các công trình nghiên cứu
xuất phát từ những góc độ khoa học, những mục đích khác nhau.
Từ điển Bách khoa toàn thư Xô viết định ghĩa:
Giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng

thuộc thế giới chung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc
toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản
thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút (lôi cuốn)
của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người,
phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn
mực và phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong
các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục
đích. [40, tr 72]
Trong tài liệu Giáo dục giá trị của Bộ giáo dục thể thao Philippin khái
niệm giá trị được hiểu là: Một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và

13


cần có; tiền bạc và nhà cửa có giá trị vì chúng được công nhận là có ích, và
việc mong muốn có được những thứ đó đã ảnh hưởng đến thái độ và hành vi
của con người. Không chỉ có hàng hoá vật chất mà cả lý tưởng và những khái
niệm đều có giá trị như “sự thật”, “lương thiện” và “công lý” [40, tr 73]
V.E.Đaviđôvích thì quan niệm rằng, “giá trị, sự đánh giá, cái được ưa
thích, cái được mong đợi, cái được chờ đợi, nội dung tốt - tất cả những điều
đó nói lên một cái gì đó tích cực đối với con người và đời sống của con
người” [40, tr 73]
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau, song cách tiếp cận giá trị từ góc độ
triết học được xem là có tính khái quát nhất.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính
nhận thức được và tính thực tiễn của giá trị. Giá trị là những hiện tượng xã hội
đặc thù và nguồn gốc của mọi giá trị đều từ quá trình lao động sáng tạo của
con người. Giá trị không phải là ý niệm về sự vật hay chuẩn mực chủ quan về
sự vật mà là những hiện tượng xã hội hiện thực có ý nghĩa hiện thực đối với
con người. Song, giá trị bao giờ cũng được xác định trong mối quan hệ giữa

một bên là khách thể - bản thân sự vật, với những thuộc tính khách quan của
nó, và một bên là chủ thể - con người với sự cảm nhận, đánh giá về khách thể.
Xét về mặt khách thể, giá trị là khách quan bởi vì sự vật mang trong
chính mình những thuộc tính có thể thoả mãn những nhu cầu hết sức đa dạng
và không ngừng tăng lên của con người, mang lại lợi ích cho con người, được
con người cảm nhận và đánh giá. Giá trị không phải là chủ quan mà là những
chuẩn mực chung trong đời sống của cộng đồng, là sản phẩm của sự đánh giá
và xác nhận của xã hội, được thực tiễn kiểm nghiệm, được lịch sử xác nhận là
phù hợp với yêu cầu tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. Cần nhấn mạnh
rằng, “giá trị là ý nghĩa của sự vật, hiện tượng chứ không phải bản thân sự vật

14


hiện tượng và chỉ có thể là sự vật, hiện tượng mang giá trị mà thôi” [40,tr 75].
“Phải phân biệt giá trị với quan hệ, giá trị với hoạt động, giá trị với các sự vật
của hiện thực để khẳng định rõ giá trị chỉ là những thuộc tính chính diện (mặt
tích cực trong ý nghĩa) chứ không phải bất kỳ thuộc tính nào” [23, tr 374].
Xét về mặt chủ thể, giá trị phải là sự cảm nhận, đánh giá của con người
đối với khách thể. Việc xác định giá trị phụ thuộc nhiều yếu tố, tuỳ vào mỗi
lúc, mỗi nơi, mỗi chủ thể, nên không có một chuẩn chung để đong, đo giá trị
cho mọi đối tượng. Một sự vật, hiện tượng đối với chủ thể này là có giá trị,
đối với chủ thể khác lại không có ý nghĩa gì cả, thậm chí cùng một chủ thể ở
thời điểm này thì có giá trị nhưng ở thời điểm khác nó lại là phản giá trị. Theo
đó giá trị là “những cái gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp, nói cách khác đó là
những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ, giúp khẳng định và nâng
cao bản chất người” [50, tr 11]. Tất nhiên, sự đánh giá của con người luôn
mang tính lịch sử - cụ thể. Mỗi thời đại lịch sử, mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc
sẽ có những quan niệm khác nhau về giá trị, do chính quá trình lao động sáng
tạo hình thành, nó được giữ gìn và phát huy trong đời sống xã hội hiện thực.

Vì vậy, giá trị là một phạm trù biểu hiện trình độ văn minh, sức sáng tạo và
năng lực vươn lên của con người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên, cải
biến xã hội và chính mình.
Cũng từ góc độ triết học còn cho thấy, giá trị của mỗi cộng đồng, dân
tộc bao giờ cũng tạo thành một hệ thống các giá trị, chúng nảy sinh, tồn tại,
biến đổi trong sự liên hệ, tác động hữu cơ với nhau. Trong những hoàn cảnh
lịch sử - xã hội cụ thể của mỗi cộng đồng, dân tộc lại luôn tồn tại hệ giá trị
tổng quát (gồm những giá trị chung nhất, mang tính phổ quát, có vai trò định
hướng đối với mọi hoạt động của cả cộng đồng, dân tộc) và hệ giá trị bộ phận
(là những giá trị được đúc rút trong từng lĩnh vực của đời sống và có vai trò
định hướng trong từng lĩnh vực riêng lẻ ấy)

15


Từ những cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu còn tiến hành
phân loại các giá trị dựa trên các tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào sự thoả mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần giá trị được
phân thành 3 dạng: giá trị vật chất, giá trị tinh thần và giá trị vật chất - tinh
thần.
- Theo chiều dài lịch sử giá trị được chia thành giá trị truyền thống và
giá trị hiện đại.
- Nhìn từ nhu cầu xã hội, hệ thống giá trị được phân loại dựa vào các
lĩnh vực nhu cầu khác nhau của đời sống con người: giá trị thuộc về mặt sinh
học; giá trị kinh tế; giá trị tri thức; giá trị tâm linh; giá trị chính trị.
Ngoài ra còn có những giá trị chung cho toàn nhân loại, có những giá
trị riêng của một cộng đồng, dân tộc hay của cá nhân; có những giá trị nội
sinh và có những giá trị ngoại nhập…
Đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đưa ra những
khái niệm khác nhau về giá trị. Mặc dù cách tiếp cận, mục đích và ngôn từ

diễn đạt không đồng nhất, song qua các khái niệm, quan niệm về giá trị nêu
trên, chúng ta có thể rút ra một số điểm chung sau:
Thứ nhất, giá trị là những cái có thể thoả mãn những nhu cầu tích cực
của con người và góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Khẳng định điều
này cũng có nghĩa là đã phân biệt với những cái không mang giá trị, “phản giá
trị”, “vô giá trị”, đi ngược lại xu hướng phát triển của lịch sử, ngăn cản sự tiến
bộ của xã hội. Giá trị là cơ sở, chuẩn mực để dựa vào đó con người xác định
mục đích, phương hướng hoạt động, là cơ sở để đánh giá thái độ, hành vi
đúng sai, nên làm hay không làm. “Nói đến giá trị là muốn khẳng định mặt
tích cực, mặt chính diện, nghĩa là bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với

16


cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến cái có khả năng thôi thúc con
người hành động và nỗ lực vươn tới” [6, tr 16].
Thứ hai, giá trị có tính lịch sử khách quan, nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại
hay mất đi của một giá trị cụ thể nào đó không phải do ý thức của con người,
mà do yêu cầu của thời đại lịch sử. Điều này cho thấy, giá trị hay một hệ giá
trị không phải là cái “nhất thành bất biến” trái lại nó luôn biến đổi, chuyển đổi
theo lịch sử và do yêu cầu của thực tiễn.
Thứ ba, giá trị bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố thuộc về chủ thể, qua
đó nó thể hiện sự lựa chọn, đánh giá và xác nhận của chủ thể.
Thứ tư, giá trị còn được xác định trong mối quan hệ thực tiễn với con
người. Giá trị phải được đánh giá và kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Tiêu chuẩn
chân lý của giá trị phải là thực tiễn, do đó một sự vật hiện tượng có giá trị hay
không không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của chủ thể mà còn phải căn cứ
vào thực tiễn, vào hiệu quả xã hội của những hoạt động mà chủ thể nhằm theo
đuổi giá trị ấy.
Thứ năm, giá trị khi đã được xác nhận sẽ trở thành động lực và là

khuôn mẫu cho mọi hoạt động của con người, vì mỗi cá nhân để hoàn thiện
nhân cách của mình đều cần đối chiếu những mục đích, nhu cầu của mình với
hệ giá trị đã được hình thành.
Như vậy, dưới góc độ triết học giá trị “là một phạm trù triết học dùng
để chỉ ý nghĩa tích cực của các sự vật, hiện tượng, quá trình, quan hệ… (cả
vật chất lẫn tinh thần) đối với một cá nhân, một cộng đồng, một giai cấp, một
xã hội hay toàn thể nhân loại trong một điều kiện lịch sử cụ thể. Điều đó cũng
có nghĩa là, các sự vật, hiện tượng, quá trình, quan hệ… có thể được coi là có
giá trị khi chúng có khả năng thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần
mang tính tích cực, lành mạnh của con người” [40, tr 75].

17


Văn hoá là một hiện tượng xã hội rất đa dạng, phong phú và phức tạp.
Thuật ngữ “văn hoá” xuất hiện từ rất sớm trong ngôn ngữ nhân loại. Nó bắt
nguồn từ gốc chữ la tinh “cultura” - có nghĩa là canh tác, nuôi dưỡng, giáo
dục, phát triển, tôn trọng. Các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đã đưa ra
hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá, do chỗ khái niệm văn hoá có nội
hàm rất rộng, chứa đựng nhiều sắc thái, nhiều nội dung khác nhau. Trải qua
các thời kỳ lịch sử, khái niệm văn hoá được bổ sung thêm nhiều nội dung
mới. Song, dù tiếp cập văn hoá dưới góc độ nào thì “mọi người đều dễ dàng
đồng ý với nhau rằng văn hoá là cái chỉ có ở con người, ở các cộng đồng
người, ở các dân tộc, không kể là lạc hậu hay tiên tiến” [7, tr 7]. Văn hoá là
phạm trù Người, nó chỉ toàn bộ đời sống con người trong mối quan hệ với
thiên nhiên và quan hệ với nhau trong xã hội, ở đó kết tinh toàn bộ những giá
trị, phương thức sống, năng lực hoạt động và trình độ phát triển của chính con
người. Với nghĩa rộng nhất văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử. “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ

viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [32,
tr 431]. Đây được xem là định nghĩa của Hồ Chí Minh về văn hoá, tuy Người
không dùng thuật ngữ giá trị song khi cho rằng văn hoá được sáng tạo “nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” thì có nghĩa
rằng văn hoá là giá trị, cái gốc của văn hoá là giá trị.
Văn hoá được hình thành như là một đòi hỏi tất yếu cho sự tồn tại và
phát triển của con người với tư cách là thực thể có nhân bản, có khát vọng

18


vươn tới những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ. Văn hoá chứa đựng
những chuẩn mực theo khuynh hướng tiến bộ, nhân văn, quay trở lại “giáo
hoá” con người và định hướng lý tưởng, đạo đức, tri thức... cho con người.
Quá trình đó, văn hoá thực hiện chức năng cao đẹp là bồi dưỡng nhân tính,
hoàn thiện nhân cách và định hướng hoạt động của con người. Với ý nghĩa
như vậy, văn hoá trở thành mục tiêu, động lực cho sự phát triển con người, sự
tiến bộ xã hội.
Giá trị, như đã phân tích có nhiều cấp độ, nhiều lĩnh vực khác nhau
song giá trị văn hoá là rộng nhất, bao trùm nhất, vì theo nghĩa rộng văn hoá là
tất cả những gì “do con người sáng tạo ra”. Song, đã có nhiều quan niệm về
“giá trị văn hoá” theo nghĩa hẹp và đồng nhất “giá trị văn hoá” với “giá trị đạo
đức”, “giá trị tinh thần” hoặc với “chuẩn mực”. Theo chúng tôi những quan
niệm như vậy là không đúng, bởi lẽ, văn hoá rộng hơn đạo đức, đạo đức chỉ là
một khía cạnh, một thành tố của văn hoá, văn hoá không chỉ là tinh thần và hệ
giá trị văn hoá gồm cả giá trị vật chất lẫn giá trị tinh thần. Trong giá trị văn

hoá có các chuẩn mực nhưng không hoàn toàn là một, giữa chúng được phân
biệt với nhau theo tiêu chí thời gian. Giá trị văn hoá có tính lịch sử (gồm các
giá trị do con người sáng tạo ra trong quá khứ và hiện tại) trong khi chuẩn
mực là những giá trị mà con người hướng tới trong hiện tại và tương lai. Như
vậy, “Giá trị văn hoá đối lập với giá trị tự nhiên và bao gồm tất cả các loại giá
trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị pháp lý, giá trị ký hiệu học, giá trị toán học,
v.v..., vì mọi giá trị và hệ giá trị do con người sáng tạo ra đều thuộc văn hoá
cả rồi” [47, tr 100].
Giá trị văn hoá biểu hiện ở nhiều loại giá trị khác, bởi lẽ bên cạnh giá
trị đặc thù của mỗi lĩnh vực còn có những chuẩn mực chung để điều chỉnh
hành vi, định hướng hoạt động của con người trong việc ứng xử với môi
trường, ứng xử với xã hội và chính mình, nhờ đó con người thoả mãn được

19


nhu cầu trong lĩnh vực nhất định để góp phần vươn tới sự hoàn thiện. Nói
cách khác giá trị văn hoá là một “thấu kính” phản chiếu mọi chiều cạnh của
đời sống xã hội, nó có trong toàn bộ các quan hệ của con người với tự nhiên,
với xã hội. Cho nên, văn hoá và giá trị văn hoá là những gì còn đọng lại sau
khi người ta đã quên đi những cái khác và nó là cái khiến con người theo đuổi
không mệt mỏi. Cái còn lại, cái khiến con người theo đuổi chính là cái tinh
tuý - cái thăng hoa bản chất - linh hồn xã hội, làm cho chúng trở thành bản sắc
của dân tộc, đặc trưng của xã hội, diện mạo Người của mỗi cá nhân.
Giá trị văn hoá là hạt nhân, là cái tinh tuý nhất chứa đựng trong các
hiện tượng văn hoá. Giá trị văn hoá do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra
trong lịch sử, biểu hiện năng lực sáng tạo, năng lực lựa chọn của con người và
một khi hệ giá trị văn hoá được hình thành thì nó lại có vai trò định hướng
cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong xã hội ấy.
Đối với mỗi cộng đồng dân tộc, giá trị văn hoá là một thuộc tính cơ bản

của nền văn hoá dân tộc, được phát hiện trong mối quan hệ tương tác giữa chủ
thể đánh giá với nền văn hoá đó. Giá trị văn hoá được ẩn chứa trong văn hoá
nên nó là một thuộc tính khách quan. Vì nhu cầu phát triển, con người khai
thác nhân tố tích cực của văn hoá và có sự đánh giá về giá trị của văn hoá.
Tuy nhiên việc phát hiện ra các giá trị văn hoá không phải là sự quy
chụp, áp đặt những nhu cầu của con người đối với văn hoá mà ngược lại để
thoả mãn những nhu cầu tích cực của mình mà con người phải đi tìm những
hạt nhân tích cực nhất, tinh tuý nhất, phù hợp nhất trong chính nền văn hoá.
Các Mác cũng khẳng định, văn hoá là phương thức hoạt động sống của con
người, phương thức mà con người “nhào nặn vật chất theo quy luật của cái
đẹp” [10, tr 137]. Giá trị văn hoá không phải là cái bất biến mà là cái có tính
lịch sử, nghĩa là cùng với sự vận động, biến đổi của lịch sử giá trị văn hoá

20


cũng luôn có sự thay đổi cho phù hợp. Bởi vì, bản thân văn hoá - cái chứa
đựng những giá trị văn hoá - đã bao hàm trong nó sự giao tiếp, sự trao đổi, sự
lan toả không ngừng. Quá trình đó, tất yếu mang theo những thay đổi của giá
trị văn hoá mà con người cần tìm tòi, khám phá để đáp ứng nhu cầu phát triển
và tiến bộ xã hội.
1.1.1.2. Giá trị truyền thống và giá trị văn hoá truyền thống.
Ngày nay, trong đời sống của bất kỳ một dân tộc nào, trên mọi lĩnh vực
của quá trình phát triển luôn có mặt cả hai yếu tố truyền thống và hiện đại.
Lĩnh vực thường được nói đến nhiều nhất, làm thành nền tảng cho tất cả các
lĩnh vực khác đó là lĩnh vực văn hoá. Để văn hoá và giá trị văn hoá trở thành
động lực cho sự phát triển bền vững của xã hội thì cần phải nhìn nhận yếu tố
truyền thống và hiện đại trong sự vận động, đan xen, hoà nhập vào nhau, làm
thành diện mạo văn hoá của một dân tộc. Mỗi yếu tố đều có vai trò nhất định,
song những truyền thống văn hoá tốt đẹp của mỗi dân tộc là nhân lõi làm nên

bản sắc văn hoá của dân tộc ấy.
Truyền thống là một từ Hán - Việt, được sử dụng khá phổ biến trong
tiếng Việt hiện nay. Khái niệm này đã có nhiều định nghĩa khác nhau. Khi nói
đến truyền thống người ta thường nghĩ ngay đến những thói quen, tục lệ được
lặp lại nhiều lần và được truyền qua nhiều thế hệ. “Đó là những yếu tố của di
tồn văn hoá, xã hội thể hiện trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục,
tập quán, thói quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đồng người trong
lịch sử và đã trở thành ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và được
lưu giữ lâu dài” [8, tr 9]. Theo quan điểm này, cái được gọi là truyền thống
chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận thiết yếu, bảo tồn và có khả năng phát
triển cuộc sống của chúng ta. Truyền thống có thể được xem xét trên ba khía
cạnh: “truyền thống như là một phần của cuộc sống, truyền thống như là

21


phương tiện để bảo tồn cuộc sống và truyền thống như là sức mạnh định
hướng phát triển cuộc sống” [8, tr 24].
Các nhà nghiên cứu đồng ý với nhau rằng: truyền thống là cái được
hình thành dần dần qua hoạt động lịch sử của con người, sau khi được hình
thành nó có tính ổn định tương đối; truyền thống bắt nguồn từ lịch sử nhưng
không phải mọi cái thuộc lịch sử đều là truyền thống. Do điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động, biến đổi nên những truyền thống được hình thành ở đó
cũng không thể bất biến. Mỗi khi hoàn cảnh lịch sử - xã hội thay đổi thì cũng
có những sự biến đổi của truyền thống, vừa kế thừa và loại bỏ, vừa bổ sung và
phát triển. Quá trình ấy, truyền thống vẫn giữ lại những yếu tố nhân lõi bên
trong của nó. Song phải thừa nhận rằng, tính trội của truyền thống là bền
vững, bảo thủ, chậm thay đổi so với hoàn cảnh lịch sử - xã hội. Vì vậy, trong
mỗi thời điểm nhất định thì truyền thống bao giờ cũng mang tính hai mặt: mặt
tích cực và mặt tiêu cực. Có những truyền thống tích cực tạo ra sức mạnh cho
dân tộc, song lại có những truyền thống tiêu cực cản trở sự phát triển của của

dân tộc. Chính C.Mác trong tác phẩm Ngày mười tám tháng sương mù của
Lui Bônapáctơ đã viết: “Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết đè nặng
như quả núi lên đầu óc những người đang sống. Và ngay khi con người có vẻ
như đang ra sức tự cải tạo mình và cải tạo sự vật, ra sức sáng tạo ra một cái gì
chưa từng có, thì chính trong những thời kỳ khủng hoảng cách mạng như thế,
họ lại sợ sệt cầu viện đến những linh hồn của quá khứ” [9, tr 145].
Sự liên hệ, sự ràng buộc của quá khứ với hiện tại, của thế hệ đi trước
với thế hệ đi sau luôn đòi hỏi mỗi thế hệ trong khi tiếp nhận truyền thống phải
đứng trên quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử - cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trong tác phẩm Đời sống mới cũng đã viết:
“Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, cái gì cũng làm mới

22


Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng,
tham lam.
Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý.
Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi.
Cái gì cũ mà tốt, thì ta phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân
tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước.
Cái gì mới và hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm
việc cho có ngăn nắp” [33, tr 94 - 95].
Như vậy, truyền thống của một dân tộc không phải tự nhiên mà có,
cũng không phải do con người tự lựa chọn cho mình, mà nó được hình thành,
được quy định bởi chính những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội mà dân tộc
đó đã trải qua. Cùng với thời gian, truyền thống của mỗi dân tộc được đổi
mới, bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Giá trị truyền thống là một khái niệm tổng hợp của hai khái niệm giá
trị và truyền thống. Song, truyền thống như đã phân tích có mặt tích cực và

mặt tiêu cực, có thể thúc đẩy và có thể kìm hãm sự phát triển xã hội. Còn giá
trị thì lại bao gồm các giá trị cũ được tạo ra trong lịch sử và các giá trị mới
được tạo ra trong hiện tại. Do vậy, giá trị truyền thống không bao gồm tất cả
mọi truyền thống và mọi giá trị. Nói cách khác, không thể đồng nhất truyền
thống hoặc giá trị với giá trị truyền thống. Khi nói đến giá trị truyền thống là
chỉ nói tới những truyền thống tốt đẹp “tạo nên các giá trị và bản sắc riêng cần
phải được duy trì, bảo tồn và phát triển”, nghĩa là “những truyền thống nào đã
có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt bởi thời gian, đã có sự chọn
lọc, sự phân định và sự khẳng định ý nghĩa tích cực của chúng đối với cộng
đồng trong những giai đoạn lịch sử nhất định” [8, tr 10].
Để thẩm định một giá trị truyền thống nào đó đương nhiên không thể

23


dựa vào ý muốn chủ quan, duy ý chí của một ai đó. Sự thẩm định đó trước hết
phải dựa trên cơ sở khách quan, tức là phải xuất phát từ cội nguồn lịch sử đã
qua, từ những đòi hỏi của thực tiễn, trên nền tảng kinh tế, xã hội, khoa học,
công nghệ và đời sống tinh thần của con người tại thời điểm thẩm định. Bên
cạnh sự thẩm định khách quan thì vai trò tích cực của nhân tố chủ quan nhằm
bảo vệ các chân giá trị và ngăn chặn các phản giá trị của truyền thống cũng
hết sức quan trọng. Chỉ những truyền thống nào được thẩm định như vậy mới
trở thành giá trị truyền thống, nó sẽ tồn tại và phát huy tác dụng lâu dài. Cũng
cần phải phân biệt những giá trị truyền thống với những giá trị nhất thời, có
tác dụng trong phạm vi hẹp; với các giá trị đang phai nhạt dần hoặc đã lỗi thời
và với cả những cái đang hình thành. Phân biệt được điều này mới thấy rõ to
lớn của những giá trị truyền thống.
Giá trị truyền thống của một cộng đồng, dân tộc không phải tự nhiên
sẵn có, mà đó là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa được chắt lọc, cô đúc nên từ tất
cả các di sản truyền thống trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc. “Toàn bộ

giá trị truyền thống của dân tộc là cái thể hiện cô đọng nhất, độc đáo nhất, rõ
nét nhất bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, không thể đồng nhất cũng như không
thể tách rời giá trị truyền thống với văn hoá dân tộc mà giá trị truyền thống là
một bộ phận của văn hoá, hơn thế là bộ phận cốt lõi nhất làm nên sức mạnh
nội sinh của một nền văn hoá” [38, tr 85 - 86].
Cũng như văn hóa, giá trị truyền thống của dân tộc sẽ thay đổi, biến đổi
theo sự vận động của lịch sử, của đời sống xã hội. Trong quá trình biến đổi,
giá trị truyền thống vẫn giữ được cái cốt lõi của nó và được bổ sung hay thay
đổi hình thức cho phù hợp với yêu cầu mới của thực tiễn. Tính chất mềm dẻo,
linh hoạt của giá trị truyền thống làm cho nó có sức mạnh và khả năng huy
động sức mạnh của các thế hệ trước giúp thế hệ sau vượt qua khó khăn, thách
thức. Giá trị truyền thống có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử hình

24


thành và phát triển của mỗi dân tộc, nên trong mọi thời đại các dân tộc cần
phải biết khai thác và phát huy những giá trị truyền thống của chính mình.
Đề cập đến giá trị văn hoá truyền thống, trước hết về mặt khái niệm
cần phân biệt văn hoá truyền thống với truyền thống văn hóa, vì đây là hai
khái niệm không đồng nhất. Đã có một số cách phân biệt hai khái niệm này:
“Văn hoá truyền thống chỉ chung toàn bộ hệ thống văn hóa tồn tại trong lịch
sử, còn truyền thống văn hoá là chỉ cái nội dung tương đối ổn định và liên tục
trong sự phát triển của hệ thống văn hóa, là tinh thần cơ bản của văn hóa” [51,
tr 58]. Trong bài viết Văn hoá cổ truyền, văn hoá truyền thống và truyền
thống văn hoá (Tạp chí Văn hoá dân gian, số 4 năm 2006), tác giả Nguyễn
Xuân Kính đã phân tích quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu và đi đến nhận
định: Nếu văn hoá truyền thống là khái niệm dùng để chỉ một cấu trúc văn
hóa, chỉ văn hoá của các xã hội nông nghiệp truyền thống, thì truyền thống
văn hóa là khái niệm dùng để chỉ sự tồn tại của những yếu tố không thay đổi

của văn hoá. Qua hai quan điểm này, chúng ta thấy có điểm tương đồng trong
sự phân biệt giữa văn hoá truyền thống và truyền thống văn hoá đó là văn hoá
truyền thống là chỉ cái toàn bộ, cái chứa đựng còn truyền thống văn hoá là cái
bộ phận, cái được chứa đựng.
Ngoài ra, mỗi khái niệm văn hoá truyền thống và truyền thống văn hoá
cũng được các nhà nghiên cứu sử dụng nhằm phản ánh những nội dung lý
luận và thực tiễn khác nhau:
- Văn hoá truyền thống là khái niệm được dùng trước hêt để phân biệt
với cái được gọi là văn hoá mới, văn hoá hiện đại và thường để chỉ toàn bộ hệ
thống, cấu trúc văn hóa của những xã hội nông nghiệp hoặc tiền công nghiệp.
Văn hoá truyền thống với tính cách là danh từ, mang tính chất định danh
nhằm xác định về một nền văn hóa, một cấu trúc văn hoá được hình thành

25


×