Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH DIÊN KHÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.12 KB, 12 trang )

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH
DIÊN KHÁNH
Tác giả:

Ths. Nguyễn Văn Bảy

Bộ môn : Tài chính – Ngân hàng
Nợ xấu đã và đang tác động tiêu cực đến việc lưu thông dòng vốn tín dụng vào nền
kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính an toàn và hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng
thương mại (NHTM)1. Ngoài ra, việc quản lý vốn nhà nước một cách hiệu quả nhằm đảm bảo
việc thực thi các mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế xã hội cũng đang đòi hỏi cần phải
tăng cường công tác quản lý nợ xấu, tránh tình trạng lẵng phí, thất thoát. Tăng cường công tác
quản lý nợ xấu, kiểm soát chất lượng tín dụng cụ thể là hạn chế, kiểm soát đến mức thấp nhất
nợ xấu là mục tiêu hàng đầu trong công tác quản trị tín dụng cũng như điều hành kinh doanh
của các ngân hàng với mục tiêu đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn, hiệu quả. Bài viết này
với mục tiêu là tìm hiểu đâu là đối tượng được tiếp cận vốn tín dụng chủ yếu của chi nhánh ,
thực trạng nợ xấu và những nguyên nhân có thể dẫn đến nợ xấu trên cơ sở đưa ra các biện
pháp, chính sách phù hợp trong việc điều tiết các hoạt động tín dụng nhằm đảm bảo được nợ
xấu ở mức an toàn tại Ngân hàng Nông Nghiệp & Phát triển nông thôn chi nhánh Diên
Khánh.
I. Thực trạng nợ xấu tại ngân hàng NN&PTNN chi nhánh Diên Khánh
Trong quan hệ tín dụng, việc phát sinh nợ xấu là điều không thể tránh khỏi, là hiện
tượng tự nhiên hợp với quy luật phát triển kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu
cung cấp vốn của các NHTM cho hoạt động kinh tế càng cao. Do đó, các nhà quản trị càng
phải đẩy mạnh công tác quản trị rủi ro nhằm hạ thấp tỷ lệ nợ xấu và đạt đến một tỷ lệ lý
tưởng cho hoạt động tín dụng. Trong những năm qua tình hình nợ xấu tại chi nhánh đã xử lý
tốt nhờ vào các chính sách và các biện pháp cứng rắn trong thu hồi và quản lý khoản nợ này.
a) Tình hình dư nợ cho vay tại chi nhánh
1


Kỷ yếu hội thảo khoa học: “ Phát triển hệ thống tài chính Việt Nam góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng
trưởng”Đại Học KTQD, Hà Nội

1


Bảng 1: Thực trạng dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế
Đơn vị tính: triệu đồng
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
Dư nợ theo thành phần kinh tế Số liệu Tỷ trọng Số liệu Tỷ trọng Số liệu Tỷ trọng
DN ngoài quốc doanh
96,726 38,1% 92,620
37,6% 78,427 31,5%
Hợp tác xã
350
0,1%
600
0,2%
890
0,4%
Hộ gia đình và cá thể sản xuất
156,707 61,8% 153,276
62,2% 169,605 68,1%
Tổng
253,783
100% 246,496
100% 248,922
100%

Nợ xấu theo thành phần kinh tế
DN ngoài quốc doanh
3,794 60,3%
1,508
39,8%
1067 33,2%
Hợp tác xã
127
2,2%
156
4,1%
132
4,1%
Hộ gia đình và cá thể sản xuất
2,193 37,5%
2,129
56,1%
2,016 62,7%
Tổng
5,850
100%
3,793
100%
3,215
100%
Tỷ lệ nợ xấu toàn chi nhánh
2,31%
1,71%
1,29%
Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh.


Là ngân hàng thương mại Nhà nước vừa thực hiện kinh doanh và thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội chính vì vậy đối tượng tiếp cận vốn tín dụng tại chi nhánh chủ
yếu là hộ gia đình sản xuất và cá thể vay, chiếm trên 60% trong tổng dư nợ cho vay. Đây là
đối tượng có những đặc điểm có hoạt động sản xuất và kinh doanh chịu ảnh hưởng rất nhiều
của các yếu tố rủi ro hệ thống, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, thời vận trong kinh
doanh…Ngoài ra, người dân nơi đây có xu hướng hơi thụ động, ít tự tạo ra được cơ hội cho
mình từ đồng vốn vay của ngân hàng cũng như hạn chế trong việc quản lý hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Đối tượng cho vay tiếp theo là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đó là những doanh
nghiệp tự thân họ bỏ vốn và sản xuất kinh doanh như công ty cổ phần, công ty TNHH và
DNTN (chiếm trên 30%), phần còn lại là hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
b) Nợ xấu phân theo nhóm nợ
Bảng 2: Tình hình nợ xấu phân theo nhóm nợ (đơn vị: triệu đồng)
Nhóm nợ
Nợ nhóm 3
Nợ nhóm 4

Năm 2010
Năm 2011
Nợ xấu
Tỷ trọng
Nợ xấu
Tỷ trọng
1515
25,9% 998
26,3%
277
4,7% 837
22,1%


2

Năm 2012
Nợ xấu Tỷ trọng
1008
31,4%
912
28,8%


Nợ nhóm 5
Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu

4058

69,4% 1958
5850
2,31%

51,6%
3793
1,71%

1295

40,3%
3215
1,29%


Nguồn: Báo cáo tài chính của chi nhánh.

Tỷ lệ nợ xấu tại chi nhánh cao nhất là 2,31% năm 2010 và giảm xuống còn 1,54% cho
năm 2011 và năm 2012 chỉ còn 1,29% điều này cho thấy nợ xấu tại chi nhánh là không cao
và là khá thấp so với 6% của toàn hệ thống NHTM 2. Tuy nhiên, nợ xấu của chi nhánh có xu
hướng tăng từ nợ dưới chuẩn qua nhóm nợ nghi ngờ, riêng nhóm 5 nợ có nguy cơ mất vốn
mặc dù đã giảm qua các năm nhưng vẫn còn chiếm tỉ trọng khá cao (trên 40%) trong năm
2012. Điều này gây rất nhiều khó khăn trong công tác quản lý nợ xấu tại chi nhánh, ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh cũng như đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển
kinh tế của địa phương nói riêng và chính phủ nói chung.
Có thể nói so với năm 2010, năm 2011 tình hình kinh tế có nhiều chuyển biến khả quan,
thực hiện chủ trương của chính phủ trong việc tập trung mọi nỗ lực để chủ động ngăn chặn
suy giảm kinh tế, các năm qua, đặc biệt là năm 2010 ngân đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn
của khách hàng, trong đó đối tượng hộ gia đình có mức độ tăng trưởng dư nợ và chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay của chi nhánh. Đặc biệt thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất
theo QĐ 131, 443, 497 của Thủ Tướng Chính Phủ, đã góp phần giúp nhiều hộ sản xuất trên
địa bàn ổn định sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động tại địa phương làm cho tình
hình nợ xấu có xu hướng giảm.
Từ tình hình nợ xấu do vay tín dụng hộ gia đình được trình bày ở phần trên, có thể dự
đoán rằng nợ xấu trong tương lai sẽ được quản lý chặt chẽ hơn, chiếm tỷ lệ thấp hơn nhưng
số tuyệt đối về dư nợ cho vay hộ gia đình có thể sẽ tăng cao rất nhiều. Điều này được lý giải
rằng trong 2 -3 năm tới, khi các ngân hàng tư nhân với vốn mạnh, công nghệ hiện đại mới
xâm nhập thị trường tín dụng này nhất định sẽ đưa ra các điều kiện cho vay tín dụng vô cùng
dễ dàng và nhiều sản phẩm mới lạ để tranh giành thị phần. Lúc đó, nếu chi nhánh vẫn cứ tiếp
tục chú trọng sản phẩm vay hộ gia đình theo truyền thống thì một đều chắc chắn là sẽ mau
chóng bị thu hẹp thị phần và bị các ngân tư nhân cạnh tranh ngay trên địa bàn. Vì vậy, trong
tương lai cũng phải nới lỏng điều kiện vay hơn và ưu ái với khách hàng nhiều hơn các ngân
2


Báo cáo tổng kết hoạt động NHNN Việt Nam 2005-2012

3


hàng tư nhân thì mới có khả năng tồn tại cạnh tranh. Làm tiền đề cho điều này, sản phẩm cho
vay hộ gia đình chính là một trong những hoạt động mang rủi ro cao nhất nhưng sẽ là sản
phẩm tín dụng chiến lược nhất để NHNo& PTNT huyện Diên Khánh cạnh tranh với các ngân
hàng khác.
II. Các hạn chế trong công tác quản lý nợ xấu tại chi nhánh
Tuy các năm qua chi nhánh đã có nhiều nổ lực trong công tác khắc phục các rủi ro làm
ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của mình. Tuy nhiên kết quả thu được chưa cao, rủi ro
vẫn lớn, nhất là rủi ro tín dụng mà biểu hiện qua tỷ lệ nợ xấu có giảm nhưng không đáng kể.
Vấn đề này làm cho ngân hàng mất một khoản tương đối lớn để trích lập dự phòng, đồng thời
cũng mất nhiều chi phí và thời gian để khắc phụccác năm qua tình hình cho vay của ngân
hàng liên tục tăng nhưng lợi nhuận thu về lại có khuynh hướng giảm. Vì vậy ngân hàng cần
nổ lực hơn nữa và có nhiều biện pháp tích cực, khả thi hơn nhằm hạn chế rủi ro đến mức thấp
nhất. Các hạn chế về quản lý nợ xấu:
- Áp dụng máy móc quy định tín dụng: Với những món vay chưa đến hạn trả nợ (chưa
hết kỳ hạn nợ) cũng đã tiềm ẩn những yếu tố rủi ro mà trong quá trình kiểm tra, giám sát món
vay đáng ra chi nhánh phải yêu cầu các cán bộ tín dụng phân hạng các khoản dư nợ này để có
biện pháp theo dõi, giám sát với mức độ khác nhau cho từng khoản vay, nhưng thực tế cán bộ
tín dụng chỉ quan tâm phân loại nợ theo những tiêu chí quy định cứng nhắc.
- Chi nhánh không áp dụng triệt để các biện pháp ngăn ngừa các khoản tín dụng có vấn
đề. Chi nhánh cũng tiến hành lập kế hoạch để gặp gỡ với khách hàng, song các kế hoạch chỉ
được lập ra khi nợ đã phát sinh vấn đề. Ngay trong quá trình xuất hiện các dấu hiệu nợ có vấn
đề chi nhánh đôi khi không nắm bắt được nên cũng không có biện pháp ngăn ngừa, khắc phục
cùng với KH nhằm cải thiện tình hình.
- Xử lý nợ xấu còn rất nhiều hạn chế. Xuất phát từ việc phân tích nguyên nhân của nợ có
vấn đề không đầy đủ dẫn đến việc xử lý còn rất nhiều hạn chế, chi nhánh hầu như không có

khả năng tư vấn cho khách hàng nên làm gì trong lúc tình hình kinh doanh của khách hàng bế
tắc, không có hướng giải quyết khắc phục.
- Cơ chế chính sách của Nhà nước còn mang nặng cơ chế xin cho. Khi các khoản nợ vay
đến hạn, quá hạn nhưng không trả được thường sẽ được xóa nợ, giảm nợ theo quy định hỗ trợ
4


của Nhà nước làm cho khách hàng có xu hướng ỷ lại, không chịu trả nợ cho ngân hàng,
2.3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Phần này sẽ nêu ra những nguyên nhân của tình hình nợ xấu NH và phân tích rõ nó trên
cơ sở phần đánh giá ở trên và mục 1.3.1.2. Các dấu hiệu và Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu đã
trình bày sơ lược ở chương 1.
Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Ngân hàng sẽ giảm thiếu được những món nợ xấu, nếu ngân hàng luôn phòng ngừa khả
năng xuất hiện nợ xấu xảy ra không chỉ đơn thuần là do khách hàng mà còn do:
- Tổ chức ngân hàng.
+ Chưa phối hợp chặt chẻ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong chi nhánh, trong
toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng như các cơ quan khác dẫn đến việc quản lý chưa hiệu quả,
các khoản tín dụng ngay từ khi phát ra đã luôn ẩn chưa những rủi ro lớn.
+ Trong ngân hàng mặc dù có bộ phận kiểm tra - kiểm soát nội bộ, song do còn nể nang,
hoặc chỉ kiểm soát được các hồ sơ thẩm định hiện tại với một trình độ còn nhiều hạn chế mà
không kiểm soát được hoạt động của khách hàng khi sử dụng vốn vay ngân hàng.
+ Trong cơ cấu tổ chức ngân hàng thiếu đi mộ bộ phận chuyên đánh giá tài sản đảm bảo
(TSĐB) mà CBTD tự đánh giá TSĐB cho nên: thiếu đi sự tham gia của quy luật cung cầu
trên thị trường để xác định giá cả; có thể dẫn đến làm giảm mức cho vay làm cho việc sử
dụng vốn kém hiệu quả và làm giảm vị thế cạnh tranh do khách hàng sẽ tìm đến ngân hàng
khác để được vay với số tiền lớn hơn mới đáp ứng được nhu cầu vay vốn của họ.
- Ngân hàng còn thiếu thông tin về khách hàng vay vốn. Thông tin từ bản thân khách hàng
luôn chứa đựng yếu tố rủi ro vì khách hàng luôn cung cấp thông tin tốt để được vay vốn ngân
hàng.

- Trình độ CBTD còn hạn chế.
Tại chi nhánh là doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện từng bước chuyển đổi với cơ cấu
nhân còn hạn chế: Khả năng thẩm định về khách hàng còn thiếu sót, chủ yếu đề cập đến: yếu
tố pháp lý, chất lượng phương án vay, tài sản đảm bảo… mà chưa thật sự quan tâm đến tình
hình tài chính của khách hàng, chưa thật sự quan tâm đến các thông tin từ bên ngoài như bạn

5


hàng của khách hàng vay vốn để tìm hiểu mức độ uy tín trong quan hệ kinh tế của khách
hàng.
- Nguyên nhân từ phía khách hàng. Những người làm công tác tín dụng thường đùa với
nhau rằng “cho vay là quyền của ngân hàng, nhưng trả nợ là quyền của khách hàng”. Quả
thật, với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động của ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ gặp
nợ xấu mà nguyên nhân một phần là do KH khi mà khả năng quản lý sản xuất kinh doanh của
họ còn nhiều hạn chế. Ngoài ra, nguyên nhân khác là khách hàng thường vay theo các quy
định, chính sách hỗ trợ của Nhà nước nên họ có tâm lý “ không muốn trả nợ cho NH”, bởi vì
nếu không trả hết thì cũng được Nhà nước hỗ trợ một phần, từ suy nghĩ đó gây ra tình trạng
nợ xấu có xu hướng gia tăng với khách hàng vay theo diện chính sách.
- Nguyên nhân khác như chưa có sự phối hơp đồng bộ của các cơ quan chức năng khi
mà NH đưa đơn khởi kiện KH khi xảy ra nợ xấu thì gặp phải bất cập về vấn đề thủ tục, thời
gian làm tình trạng nợ ngày càng xấu đi, phải trích lập quỹ DPRR rất nhiều.
II. Các giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại chi nhánh
Nhằm quản lý nợ xấu có hiệu quả, ngăn ngừa và hạn chế nợ xấu cũng như chủ động
kiểm soát rủi ro có hiệu quả trong công tác quản lý nợ thì cần có những giải pháp mang tính
tổng thể và lâu dài. Các hướng giải pháp đưa ra đối với chi nhánh nói chung và hệ thống ngân
hành NN&PTNN nói chung đó là:
1. Hoàn thiện mô hình quản lý rủi ro tín dụng.
Việc xây dựng và hoàn thiện mô hình quản lý rủi ro tín dụng nhằm kịp đáp ứng với xu
thế phát triển nển kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng trong bối cảnh mở cửa

thị trường tài chính và sức ép cạnh tranh toàn cầu ngày một gia tăng cần thực hiện đồng bộ
trên các phương diện sau:
a) Về phương pháp đo lường rủi ro
Hiện nay các NHTM Việt Nam sử dụng một trong hai phương pháp đo lường rủi ro
định tính và phương pháp đo lường rủi ro định lượng. Trong đó:
- Phương pháp đo lường rủi ro định tính: Chủ yếu dựa vào phân tích tín dụng cổ điển
truyền thống, tận dụng được kinh nghiệm các chuyên gia trong lĩnh vực cần đánh giá. Tuy
6


nhiên, một trong những hạn chế của phương pháp này là có thể sẽ mang tính chủ quan, các
yếu tố và xác suất rủi ro không được lượng hóa cụ thể. Khi có một món cho vay, chỉ có thể
nhận định khoản vay đó có nguy cơ rủi ro hay không mà không tính toán được xác suất cũng
như mức độ tổn thất của món vay. Ngoài ra, theo phương pháp này đòi hỏi rất cao trình độ và
kinh nghiệm của cán bộ tín dụng. Chính vì vậy, cách đánh giá này thường ít chính xác, không
năng động và không mang tính phát triển.
- Phương pháp đo lường rủi ro định lượng: Dựa trên các phần mềm và xử lý dự liệu
một cách hệ thống thông qua các kỹ thuật đo lường rủi ro theo thông lệ quốc tế quy định. Một
trong những mô hình đo lường rủi ro định lượng sử dụng trong hoạt động tín dụng ngân hàng
là mô hình VaR.
Phương pháp định lượng dựa trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (IRB) theo khuyến
nghị của Basel II đã thể hiện được ưu thế vượt trội nhờ vào tính linh hoạt và phù hợp với thực
tiễn. Ưu điểm này được thể hiện qua việc xác định một cách chính xác xác suất rủi ro của
từng loại tài sản ngân hàng trong từng thời kỳ, cúng như từng loại tín dụng và từng loại hình
đầu tư. Ngoài ra IRB còn cho phép các ngân hàng đo lường các cấu phần rủi ro (PD,LGD,
EAD…) dựa trên thực trạng hoạt động của khách hàng vay, qua đó tính toán chuẩn xác hơn
khối lượng vốn tối thiểu mà họ vần nắm giữ. Như vậy, hai yếu tố có tầm quan trọng hàng
đầu, tưởng chứng như rất định tính mà các ngân hàng thường nhắc đến trong quyết định cấp
tín dụng là khả năng trả nợ và mong muốn trả nợ của khách hàng đã được lượng hóa cụ thể.
Quan trọng hơn, dựa vào kết quả tính toán PD, LGD và EAD ngân hàng sẽ phát triển

các ứng dụng trong quản lý rủi ro tín dụng cho mình trên nhiều phương diện như tính toán đo
lường rủi ro tín dụng bao gồm: EL- Tổn thất dự kiến và UL- Tổn thất ngoài dự kiến. Như
vậy, việc đo lường rủi ro tín dụng đã được lượng hóa thành hai thước đo rất cụ thể là EL và
UL. Ở đây cần lưu ý rằng trái với quan điểm sai lầm xảy ra khá phổ biến cho rằng chỉ EL mới
phản ánh rủi ro tín dụng thì trong tư duy quản trị rủi ro hiện đại chỉ ra rằng chính ULmới thực
sự là thước đo rủi ro tín dụng. Điều này có thể được lý giải như sau: Kinh doanh tín dụng
không bao giờ có thể tránh khỏi bị tổn thất, EL là thước đo phản ánh chi kinh doanh trung
bình mà mọi ngân hàng đều phải trả trong hoạt động của mình, nếu chi phí đó (tổn thất) là có
thể dự đoán được và được bù đắp bởi dự phòng rủi ro thì không còn gây rủi ro cho ngân hàng
7


nữa. Khi đó, UL-những tổn thất ngoài dự kiến mới là mối tiềm ẩn cần phải tính toán. Chính vì
xuất phát từ quan điểm trên mà hiệp ước Basel II đã yêu cầu các ngân hàng phải duy trì một
mức vốn tối thiểu cần thiết để phòng vệ các tình huống tổn thất dự kiến quá lớn và không thể
bù đắp bằng nguồn vốn dự phòng hiện thời.
Như vậy, phương pháp đo lường rủi ro định lượng sẽ góp phần đảm bảo an toàn cho
hoạt động ngân hàng cũng như mang lại sự tiến bộ vượt bậc về phương thức quản lý rủi ro tín
dụng hơn so với phương pháp đo lường rủi ro định tính.
Hiện nay có trên 75%3 các NHTM Việt Nam áp dụng phương pháp đo lường rủi ro định
tính truyền thống, các ngân hàng này hầu hết chưa hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ theo tiêu chuẩn Basel II. Chỉ có một số ít, chưa tới 25% các NHTM đang trong quá trình
triển khai bổ sung phương pháp đo lường rủi ro định lượng vào việc đo lường và ước lượng
rủi ro.
b) Về mô hình quản lý rủi ro
Các NHTM Việt Nam hiện nay đang áp dụng hai mô hình quản lý rủi ro theo phương
thức sau:
- Mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung: Dựa trên nguyên tắc tập trung tại một
bộ phận trong đó quyền quyết định tập trung tại trung ương, hội sở. Mô hình này ra đời dựa
trên nguyên tắc chính là tách biệt giữa ba chức năng: Chức năng kinh doanh,chức năng quản

lý rủi ro và chức năng tác nghiệp.
- Mô hình quản lý rủi ro phân tán: Quản lý rủi ro phân tán ở nhiều bộ phận khác
nhau, quyền quyết định không tập trung tại trung ương hay hội sở mà dàn đều ở các cấp cơ
sở. Khác với mô hình trên, mô hình này chưa có sự tách biệt giữa chức năng quản lý rủi ro,
kinh doanh và tác nghiệp trong hoạt động tín dụng. Trong đó phòng tín dụng của ngân hang
thực hiện đầy đủ ba chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản
vay.
Hiện nay có trên 80% các NHTM Việt Nam áp dụng mô hình quản lý rủi ro tín dụng
phân tán, cỉ có khoảng 20% các NHTM áp dụng theo mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập
trung. Trong khi nếu có một hệ thống thông tin quản lý toàn diện, trên nền tảng công nghệ
3

Nợ xấu tại các NHTM Việt Nam & Biện pháp tháo gỡ. Nguyễn Thị Hoài Phương ĐHKT Quốc dân. 04/2013

8


hiện đại thì mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung có nhiều ưu điểm hơn so với mô hình
phân tán.
c) Về mô hình kiểm soát
Các NHTM Việt Nam đang áp dụng một trong hai mô hình kiểm soát đó là: Mô hình
kiểm soát đơn và mô hình kiểm soát kép.
- Mô hình kiểm soát đơn: Cơ chế kiểm soát thông qua kiểm soát nội bộ của các ngân
hang và cơ quan giám sát thanh tra của NHTW, theo mô hình này không có sự tham gia của
cơ quan kiểm toán bên ngoài hay giám sát của thị trường. Rõ ràng tính khách quan, minh
bạch sẽ không đảm bảo, khó kiểm soát.
- Mô hình kiểm soát kép: Ngoài sự kiểm soát của các cơ quan kiểm soát nội bộ và
NHTW, còn có sự giám sát của các cơ quan kiểm toán bên ngoài và sự kiểm soát của thị
trường. Theo mô hình này thì tính khách quan, công khai và minh bạch hơn do có sự giám sát
quả của thị trường. Hiện nay có khoảng 23% các ngân hang áp dụng theo mô hình kiểm soát

kép. Còn lại 77% vẫn áp dụng theo mô hình kiểm soát đơn, chủ yếu dựa vào hệ thống kiểm
tra kiểm soát nội bộ của chính ngân hang mà ít có sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan kiểm
toán hay các cổ động.
Vì vậy, với những yêu cầu của mô hình hình quản lý rủi ro tín dụng trong bối cảnh mới
thì việc xây dựng một mô hình quản lý rủi ro tín dụng dạng tổng thể kết hợp giữa ba cách
thức: Sử dụng phương pháp rủi ro định lượng kết hợp định tính vào trong đánh giá rủi ro và
tổn thất rủi ro, tổ chức quản lý rủi ro tập trung với hệ thống kiểm soát kép. Tuy nhiên để vận
hành mô hình tổng thể này cần thực hiện các điều kiện áp dụng như sau:
+ Điều kiện về năng lực tài chính: Mô hình đòi hỏi tiềm lực tài chính đủ mạnh để đầu
tư vào hệ thống công nghệ, kiện toàn bộ phận kiểm soát nội bộ của ngân hàng, đồng thời
thuê kiểm toán bên ngoài và thực hiện niêm yết công khai trên thị trường.
+ Điều kiện công nghệ và hệ thống thông tin quản lý: Cần có nền tảng công nghệ vững
chắc, hệ thống lưu trữ dữ liệu hoàn chỉnh và hệ thống thông tin quản lý tập trung để có thể
tính toán được rủi ro. Nhoài ra cũng cần có hệ thống thông tin nội bộ cũng như hệ thống báo
cáo chính xác, kịp thời nhằm phục vụ cho công tác quản trị rủi ro và phân loại nợ đối với
khách hàng.
9


+ Điều kiện nhân sự: Cần đào tạo đội ngũ chuyên gia về quản lý rủi ro một cách bài
bản, đội ngũ kiểm soát nội bộ có bề dày knh nghiệm. Nhân viên tham gia đo lượng rủi ro tín
dụng cần am hiểu về hệ thống tài chính, có kiến thực cơ bản và nâng cao về quản ttrị rủi ro,
am hiểu các nguyên tắc của Basel II và III, có kiến thức kinh tế lượng. Thêm vào đó cần tham
khảo và tìm hiểu sự hỗ trợ của các chuyên gia kiểm toán và các cơ quan tư vấn bên ngoài,
+ Điều kiện về thị trường: Đòi hỏi thị trường tài chính phát triển, tiếp cận được các
chuẩn mực quốc tế như Basel II và III. Các chủ thể tham gia thị trường một cách bình đẳng,
cạnh tranh lành mạnh.
2. Tạo cơ chế phối hợp giữa các chủ thể trong việc cấp tín dụng cho các hộ gia đình.
Qua phân tích cho thấy đối tượng tiếp cận vốn tín dụng tại chi nhánh chủ yếu là hộ gia
đình và cá thể sản xuất. Rõ ràng sản phẩm cho vay hộ gia đình và cá thể sản xuất nhằm phát

triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn là hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà
nước, giúp cho các hộ gia đình làm kinh tế, thoát nghèo và vươn lên làm giầu chính đáng.
Song có thể thấy đầu tư cho nông nghiệp thì hiệu quả thấp, chi phí lớn và rủ ro cao nhất là khi
bị thiên tai bão lụt, hạn hán, dịch bệnh hoặc ngay cả trong trường hợp người nông dân vượt
qua được cửa ải thiên nhiên, thời tiết thì đầu ra sản phẩm lại ế ẩm. Làm ăn thua lỗ, người
nông dân không có khả năng trả nợ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Chính
vì vậy cần có những giải pháp liên kết, phối hợp hiệu quả và đồng bộ giữa ngân hàng, chính
quyền địa phương, các tổ chức xã hội và chủ thể sử dụng vốn là người nông dân. Các hướng
giải pháp đưa ra nhằm tạo cơ chế phối hợp giữa các bên tham gia đó là:
- Tăng cường hợp tác giữa chính quyền địa phương với ngân hàng thông qua các
chương trình, mục tiêu phát triển tín dụng nông thôn:
Mặc dù nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông
thôn và nâng cao đời sống của nông dân và cư dân khu vực nông thôn quy định rõ về sự phối
hợp giữa các bộ, nghành và quy định trách nhiệm của từng bộ, nghành có liên quan trong việc
triển khai chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn cũng như hỗ trợ các tổ chức tín
dụng đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, thực tế triển khai vẫn còn nhiều bất cập
và chưa hiệu quả như các tổ chức tín dụng vẫn còn là chủ thể độc lập đứng vòng ngoài cả
chính sách, chưa có rang buộc nhất định giữa việc triển khai các chương trình mục tiêu gắn
10


chặt cơ quan quản lý địa phương và tổ chức tín dụng. Chính vì vậy, cần có những chương
trình hợp tác, ký kết hợp tác giữa các cơ quan ban nghành với ngân hàng nhằm thực hiện triển
khai các chương trình này một cách đồng bộ, gắn chặt trách nhiệm và lợi ích của các bên
tham gia. Có như vậy các chính sách cử chính chính phủ mới tới được người nông dân, hiệu
quả thực hiện sẽ cao hơn trên cơ sở đó sẽ hạn chế được rủi ro trong việc cấp tín dụng. Ngoài
ra, được sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng sẽ giúp ngân hàng xử lý rủi ro một cách tốt hơn,
nhất là đối với những trường hợp phát sinh rủi ro vượt quá khẳ năng xử lý của ngân hàng.
- Nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội:
Các tôt chức đoàn thể địa phương: Các tổ chức như Hội nông dân, hội phụ nữ, Hội cựu

chiến binh, hội làm vườn chính là cầu nối, là kênh dẫn tín dụng đến với từng hộ gia đình. Đây
cũng là những chủ thể hàng ngày hàng giờ theo sát các hoạt động sản xuất của nông dân, biết
được hoàn cảnh kinh tế, nhu cầu vay vốn và khả năng trả nợ của từng hộ gia đình, đôn đốc tốt
nhất các hộ gia đình trả nợ đúng hạn giúp cho chính sách tín dụng đến các hộ nhanh hơn, thiết
thực hơn qua đó ngân hàng thu hồi vốn tốt hơn. Đặc biệt, một thông tin đáng tin cậy nhất về
khách hàng là từ kết quả kiểm toán, nhưng đối với khách hàng nhỏ lẻ như hộ sản xuất thì hoạt
động của kiểm toán không phát huy tác dụng. Chính vì vây, việc thiết lập cơ chế kinh tế, hành
chính phù hợp để khuyến khích tổ chức này hoạt động hiệu quả cần có cơ chế, chính sách
khuyến khích gắn liền với lợi ích kinh tế và vật chất. Gắn chặt lợi ích của người nông dân, lợi
ích của ngân hàng và lợi ích của các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Vai trò tiên phong đối với khách hàng:
Thực tế cho thấy hộ gia đình là một trong những đối tượng chính và chủ yếu trong
tổng dư nợ cho vay của chi nhánh. Tuy nhiên, việc chăm sóc khách hàng vẫn chưa được ngân
hàng coi trọng. Cần có những chương trình hành động cụ thể để thông qua đó ngân hàng cùng
đồng hành với người nông dân trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, cùng thấu hiểu tính
chất, đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Biết được người nông dân họ cần gì, thiếu gì để
ngân hàng có thể hỗ trợ kịp thời, tránh những chuyện đã rồi, khiến người nông dân rơi vào
tình cảnh khốn khó.
III. Kết luận

11


Lành mạnh hóa tài chính các NHTM là một trong những trọng tâm lớn trong tiến trình
tái cơ cấu hệ thống NHTM. Điều này không những nhằm vợt qua khủng hoảng mà còn là một
xu thế tất yếu của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung phát triển
một cách bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tê. Hoạt đọng kinh doanh ngân hàng gắn
liền với rủi ro, bởi vậy nợ xấu là một thực tế khách quan trong hoạt động tín dung của các
NHTM. Với những ý nghĩa như vậy, bài viết này nhằm đưa ra một số gợi ý nhằm tăng cường
công tác quản lý nợ xấu trên quan điểm phát triển bền vững, phù hợp với yêu cầu quốc tế và

xu hướng hội nhập phát triển.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Th.S Đào Thị Hồ Hương: “Bàn về hướng xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM Việt
Nam”, Tạp chí Ngân hàng số 4/2013.

2.

TS. Hoàng Xuân Hòa &Th.S Trần Kim Anh: “Vấn đề nợ xấu và một số giải pháp cấp
thiết”, Tạp chí Ngân hàng số 4/2013.

3.

Nguyễn Thị Hoài Phương, LATS “ Quản lý nợ xấu tại NHTM Việt Nam”, 2012. ĐH
Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.

4.

PGS.TS. Phan Thị Thu Hà & cộng sự: “ Nợ xấu tại các NHTM Việt Nam và giải pháp
tháo gỡ”, Viện NH-TC Đại Học KTQD, Hà Nội.

5.

Phương pháp ước tính tổn thất tín dụng dựa trên hệ thống cơ sở dữ liệu đánh giá nội bộ
- IRB và những ứng dụng trong quản trị rủi ro: />id=10257

6.


.

7.

Tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn với sự ổn định kinh tế vĩ mô.
ThS. Nguyễn Thị Minh Quế. ĐHKT Quốc Dân.

12



×