Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Giáo Trình Luật Hải Quan Thuế Xuất Nhập Khẩu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.29 KB, 31 trang )

PHẦN 1

LUẬT VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ THUẾ

GIÁO TRÌNH

LUẬT HẢI QUAN THUẾ
XUẤT NHẬP KHẨU
ThS. VŨ THÚY HÒA

1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ
1.1.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA THUẾ

Thuế ra đời tồn tại và phát triển là một tất yếu khách quan, nó gắn liền
với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.
Trong chế độ phong kiến phân quyền ý niệm về thuế rất đơn giản chỉ
mang tính tượng trưng, nhưng trong chế độ phong kiến tập quyền thuế là sự
đóng góp tiền bạc của dân chúng nhằm cung cấp lương bổng cho bộ máy cai
trị.
Khi giai cấp tư sản lên nắm chính quyền và thực hiện mô hình nhà nước
không can thiệp vào kinh tế, thuế chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài
chính tối thiểu để nuôi sống bộ máy nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho
quốc phòng an ninh.
Sau khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 mô hình này không đáp ứng nhu cầu
phát triển của xã hội do đó mô hình kinh tế mới ra đời, đó là nền kinh tế thị
trường có sự can thiệp của nhà nước, thuế được nhà nước tư bản sử dụng như


là công cụ sắc bén để điều tiết nền kinh tế
C. Mác định nghĩa về thuế như sau: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà
nước, là thủ đoạn giản tiện cho kho bạc thu tiền” (22, tr. 493), luận bàn về thuế
Ph. Ăng Ghen viết “đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một trật
tự công cộng… để duy trì quyền lực công cộng đó cần có sự đóng góp của
công dân, của nhà nước, đó là thuế má…” (23, tr.262). Lênin lại cho rằng “thuế
là cái nhà nước thu của dân mà không bù lại…” (21, tr.177).



Ở nước ta có một số khái niệm về thuế như sau:






“Thuế là một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ đóng
góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng yêu cầu chi tiêu theo chức
năng của nhà nước; người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập
còn lại”
“Thuế là khoản nộp mang tính chất bắt buộc, được nhà nước quy định
thành luật để mọi thành viên trong xã hội phải thực hiện trong từng thời
kỳ nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng của ngân sách nhà nước”.
Theo Từ điển Tiếng Việt “Thuế là một khoản tiền hay hiện vật mà
người dân hoặc các tổ chức kinh doanh tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề
nghiệp… buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định”
Từ các khái niệm trên ta thấy thuế có 3 đặc trưng cơ bản sau:




Tính cưỡng chế: người nộp thuế phải nộp một khoản thuế theo quy định
của pháp luật.



Tính không hoàn lại: thuế là một khoản thu của nhà nước không hoàn
lại trực tiếp cho người nộp.



Tính ổn định: số thuế phải nộp được giữ ổn định một thời gian.
1.2.

BẢN CHẤT CỦA THUẾ



Nhìn nhận từ góc độ kinh tế: thuế có tính chất kinh tế bởi vì nó được
xây dựng dựa trên cơ sở giá trị hàng hoá, dịch vụ đã được tiêu thụ, hoặc
tính trên cơ sở doanh thu của các cơ sở sản xuất, kinh doanh hoặc tính trên
cơ sở quy mô và tính chất hoạt động sản xuất kinh doanh.



Nhìn từ góc độ pháp luật: Thuế là một đạo luật do cơ quan quyền lực
cao nhất của nhà nước ban hành. Nó thể hiện quyền lực của nhà nước trong
lĩnh vực tài chính được hiến pháp quy định.




Nhìn trên giác độ chính trị - xã hội: xét về bản chất, thuế ra đời là do sự
đòi hỏi của nhà nước. Nhà nước đại diện cho quyền lợi giai cấp thống trị xã
hội, do đó bản chất của nhà nước quyết định bản chất của thuế. Nhà nước
mang bản chất giai cấp nào thì thuế cũng mang bản chất giai cấp đó.
1.3.

CHỨC NĂNG CỦA THUẾ

Khi nói đến chức năng của thuế là nói đến công dụng vốn có của nó đối với
đời sống kinh tế - xã hội, có nhiều ý kiến bàn về các chức năng của thuế:






Có ý kiến cho rằng thuế có 2 chức năng:
Chức năng phân phối
Chức năng kiểm tra, giám đốc;






Hoặc có ý kiến cho rằng thuế có 4 chức năng, đó là:
Tạo lập nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Điều hoà thu nhập

Hướng dẫn tiêu dùng…

Ở góc độ tổng quát nhất có thể nhận thấy rằng chức năng quan trọng nhất
của thuế là chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập để hình thành quỹ
tập trung của nhà nước và chức năng Điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.3.1 Chức năng phân phối và phân phối lại
Thuế chỉ phát sinh khi có “thu nhập”. Vậy, thu nhập do đâu mà có?
Xét tổng thể trong quy trình sản xuất vật chất (từ sản xuất, phân phối, trao đổi
đến tiêu dùng) thì thuế tác động vào quá trình phân phối. Phân phối ở đây được
hiểu là phân chia thu nhập ra cho các bên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào
quá trình sản xuất đó là nhà nước, tập thể và người lao động.
Đây là chức năng cơ bản, đặc thù nhất của thuế mà tất cả các nước đều
phải sử dụng. Thông qua chức năng này của thuế, các quỹ tiền tệ của nhà nước
được hình thành và trên cơ sở đó tạo nguồn lực cho sự hoạt động và tồn tại của
nhà nước. Chính chức năng phân phối và phân phối lại của thuế đã tạo tiền
đề cho nhà nước thực hiện phân phối lại một bộ phận GDP, GNP nhằm huy
động nguồn thu vào ngân sách nhà nước.
1.3.2 Chức năng Điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Phạm vi ảnh hưởng của thuế liên quan trực tiếp đến tổng thể nền kinh
tế, liên quan trực tiếp đến SX và tiêu dùng, nó luôn có mối quan hệ hữu cơ
với nhau. Sản xuất là tiền đề của tiêu dùng, tiêu dùng là mục tiêu của SX, sản
xuất - tiêu dùng được kết nối với nhau thông qua quan hệ phân phối và trao
đổi. Nếu mục đích bên ngoài của SX là phục vụ tiêu dùng thi mục đích bên
trong của sản xuất là thu lợi nhuận.
Thuế có vị trí quan trọng trong việc hướng dẫn và khuyến khích sản xuất
phát triển, góp phần Điều chỉnh các cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân (giữa
tích lũy và tiêu dùng, giữa tiền và hàng, giữa cung và cầu).


Thông qua việc thu thuế, nhà nước định hướng luồng đầu tư vào những

hoạt
động SX kinh doanh có hiệu quả, có lợi thế cạnh tranh và ngược lại.
Thuế có khả năng làm thay đổi quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị
trường, từ đó làm thay đổi cả sản xuất và tiêu dùng. Thuế góp phần đảm bảo
sự công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, thông qua việc áp dụng
một hệ thống thuế được thống nhất.
1.4.

nhập khẩu là một công cụ trong chính sách thương mại quốc tế của một
quốc gia.
2.2.

Khác với các loại thuế khác và với phí, lệ phí, thuế xuất nhập khẩu có
một
số đặc điểm cơ bản sau:


Thứ nhất: thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu, có nghĩa là người
tiêu dùng hàng hoá xuất nhập khẩu phải gánh chịu loại thuế này. Người
nộp thuế xuất nhập khẩu nếu không đồng thời là người tiêu dùng hàng hoá
xuất nhập khẩu thì không phải gánh chịu mà chỉ nộp thuế thay cho người
tiêu dùng hàng hoá xuất nhập khẩu đó.



Thứ hai: thuế nhập khẩu chỉ thu vào ở khâu nhập khẩu, không thu vào
hàng hoá sản xuất hoặc hàng lưu thông trong nước (thuế giá trị gia tăng
cũng là thuế gián thu, nhưng là một loại thuế đánh vào các loại hàng hoá,
dịch vụ trong quá trình lưu thông cho đến khi tới tay người tiêu dùng cuối
cùng). Thuế xuất khẩu chỉ thu vào hàng hoá xuất khẩu, không thu vào

hàng hoá tiêu dùng trong nước.



Thứ ba: thuế xuất nhập khẩu gắn chặt với hoạt động xuất nhập khẩu, do
đó cũng là bộ phận không thể tách rời đối với hoạt động kinh tế đối ngoại
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.

CÁC SẮC THUẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.4.1 Nhóm thuế gián thu bao gồm



Thuế giá trị gia tăng



Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu



Thuế tài nguyên



Thuế môn bài



Thuế sử dụng đất nông nghiệp

1.4.2 Nhóm thuế trực thu



Thuế thu nhập doanh nghiệp



Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao



Thuế nhà đất



Thuế trước bạ đối với tài sản.

2.

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU
2.1.

KHÁI NIỆM

Thuế xuất nhập khẩu là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành nên
giá cả hàng hoá, áp dụng cho tất cả hàng hoá đươc phép xuất khẩu, nhập khẩu
qua cửa khẩu, biên giới của một quốc gia hoặc từ thị trường nội địa vào khu phi
thuế quan, khu chế xuất hoặc ngược lại.
Những điểm khác biệt của thuế xuất nhập khẩu với các loại thuế khác

“nó” không áp dụng đối với hàng hoá sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ ở thị
trường trong nước mà chỉ đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu và luôn luôn gắn
với hoạt động xuất nhập khẩu, để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, do vậy
thuế xuất

ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC DỤNG CỦA THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU

Thuế xuất nhập khẩu luôn vận động và gắn chặt với hoạt động đối ngoại
và thay đổi theo các mối quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia.


Thứ tư: thuế xuất nhập khẩu chỉ do cơ quan Hải quan thu và quản lý ở
khâu xuất khẩu, nhập khẩu đầu tiên (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt vừa do cơ quan Hải quan thu vừa do cơ quan thuế thu ở khâu lưu
thông.)

Thuế xuất nhập khẩu có tác dụng là một nguồn thu quan trọng cho NSNN
chiếm khoảng từ 13% đến 20% trên tổng số thu ngân sách của nhà nước hàng
năm (năm 1988 chiếm 6,1%; năm 1991 là 12,7%; nắm 1993 lên đến 22,35%
năm 2006 chiếm tỷ trọng khoảng 13%.)
Thuế xuất nhập khẩu còn góp phần quan trọng trong việc quản lý và
hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng có lợi cho sự phát triển kinh
tế đất nước, ngoài ra nó còn góp phần bảo vệ, kích thích nền sản xuất trong
nước phát triển, đồng thời tham gia hướng dẫn SX, hướng dẫn tiêu dùng phù
hợp với Điều kiện kinh tế trong từng thời kỳ.


2.3.

2.3.2 Phân loại thuế xuất nhập khẩu dựa trên mục đích đánh thuế


PHÂN LOẠI THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
2.3.1 Phân loại thuế theo xu hướng vận động của hàng hoá

Hiện nay thường được phổ biến dưới ba hình thức đó là: xuất khẩu, nhập
khẩu, quá cảnh, chuyển khẩu. Gắn liền với 3 hình thức này có 3 loại thuế: thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế quá cảnh, mượn đường, thuế chuyển
khẩu. Trong đó:


Thuế xuất khẩu: là loại thuế đánh vào hàng hoá được phép xuất khẩu từ thị
trường trong nước ra nước ngoài hoặc vào khu chế xuất.



Thuế nhập khẩu: là loại thuế đánh vào hàng hoá được phép nhập khẩu từ
nước ngoài vào thị trường trong nước hoặc từ khu chế xuất vào thị trường
nội địa, khu phi thuế quan.



Thuế quá cảnh, mượn đường, chuyển khẩu: là loại thuế đánh vào hàng hoá
đươc phép đi qua một vùng lãnh thổ, hoặc một khu vực thương mại tự
do
này tới một quốc gia, một vùng lãnh thổ hoặc một khu vực thương mại
tự
do khác (ở nước ta theo quy định tại khoản 1, khoản 3 – Điều 3 – luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu không thuộc đối tượng chịu thuế)

Theo cách phân loại này có thể có các loại thuế XNK sau:



Thuế xuất nhập khẩu để tạo nguồn thu: loại thuế này thường dựa trên nhu
cầu của xã hội và mức cung của sản xuất để đánh thuế. Thông thường
người ta thường đánh với mức thuế suất cao đối với các mặt hàng nhập
khẩu mà trong nước có nhu cầu cao hoặc các mặt hàng xuất khẩu mà thế
cầu
nhưng lượng cung còn thấp để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
giới cao
có nhu
nước.



Thuế xuất nhập khẩu để bảo hộ: loại này thường được quy định có lựa
chọn theo khả năng, định hướng phát triển sản xuất theo hướng có lợi cho
mỗi quốc gia. Bảo hộ tạm thời bằng thuế quan để cho các “ngành sản xuất
non trẻ” có đủ Điều kiện và tiềm năng để phát triển, đủ sức cạnh tranh với
hàng hoá nhập khẩu.



Thuế xuất nhập khẩu để tự vệ: biện pháp này được áp dụng đối với một
loại hàng hoá nhất định được nhập khẩu quá mức vào thị trường nội địa
nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất
trong nước
2.3.3 Phân loại dựa trên cách thức đánh thuế

Để đánh thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu, chúng ta có thể căn cứ
vào trị giá hoặc dựa vào đơn vị tính của hàng hoá. Trên cơ sở này có các loại

thuế xuất nhập khẩu sau:


Thuế xuất nhập khẩu tuyệt đối: loại thuế này ghi rõ một số tiền thuế
nhất định cho mỗi đơn vị tính của hàng hoá xuất nhập khẩu, không phân
biệt chủng loại, giá trị của hàng hoá.



Thuế xuất nhập khẩu theo tỷ lệ %: đây là loại thuế tính theo tỷ lệ % trên
trị giá hàng hoá xuất nhập khẩu thực tế của mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập
khẩu.

Ví dụ: quy định thuế nhập khẩu cho mặt hàng lúa mì là 10%, ngược lại
với thuế tuyệt đối, số thuế nhập khẩu theo tỷ lệ % sẽ thay đổi tuỳ theo giá trị
của hàng hoá thực tế nhập khẩu.


Thuế xuất nhập khẩu hỗn hợp: là trường hợp áp dụng kết hợp đồng thời cả
hai loaị thuế xuất nhập khẩu tuyệt đối và thuế xuất nhập khẩu theo tỷ lệ %
đối với cùng một chủng loại hàng hoá.


Ví dụ: quy định thuế nhập khẩu lúa mì là 10%; thuế tuyệt đối là
50USD/tấn. Giả sử 1 tấn lúa mì có gía nhập khẩu là 300USD, thì người
nhập khẩu 1 tấn
lúa mì phải nộp: 300USD x 10% + 50USD = 80USD


Thuế xuất nhập khẩu theo lượng thay thế: là trường hợp một mặt hàng

được quy định đồng thời theo tỷ lệ % và thuế theo một số tiền tuyệt đối,
nhưng khi tính và nộp thuế phải tính và nộp theo số thuế nào cao hơn.

Ví dụ: quy định thuế nhập khẩu ngô (bắp) là 20% hoặc 30 USD/tấn. Giả sử
1 tấn ngô hạt (bắp hạt) có giá 100 USD, thì người nhập khẩu một tấn ngô sẽ
phải nộp 30 USD (vì 20% x 100 USD thấp hơn 30 USD/tấn).


3.

Thuế xuất nhập khẩu biến thiên: sắc thuế này thường được ấn định ở một
mức, nhằm triệt tiêu ưu thế về giá cả của nước xuất khẩu đối với hàng
hoá sản xuất trong nước. Loại thuế nhập khẩu kiểu này được các nước
trong nội bộ liên minh Châu Âu (EU) áp dụng đối với các sản phẩm nông
nghiệp
VAI TRÒ CỦA THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
3.1.

KIỂM SOÁT HÀNG HOÁ NHẬP KHẨU

Thông qua việc kiểm tra, thu thuế xuất nhập khẩu để nhà nước có
chính sách phù hợp trong việc hoạch định cơ chế Điều hành hàng hoá xuất
nhập khẩu trong từng giai đoạn nhằm kiểm soát lượng hàng hoá nhập khẩu vào
thị trường nội địa.
3.2.

KIỂM SOÁT HÀNG XUẤT KHẨU

Cũng như đối với hàng nhập khẩu, trong một số trường hợp nhất định các
nước có thể sử dụng thuế như một biện pháp kiểm soát xuất khẩu, nhằm bảo

hộ sản xuất trong nước, như việc áp dụng chính sách giá cả đối với hàng xuất
khẩu.
3.3.

BẢO HỘ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC

Thuế nhập khẩu tác động trực tiếp vào "đầu vào" của quá trình SX
thông qua việc đánh thuế trên hàng hoá nhập khẩu là máy móc, thiết bị, tư liệu
sản xuất
Cụ thể:


Máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nếu thuế nhập
khẩu thấp sẽ giảm chi phí đầu vào



Đối với những loại hàng hoá khác, tuỳ vào nhu cầu, đối tượng sử dụng, thuế
nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hay hạn chế tiêu dùng vì:
 Khi đánh thuế hàng nhập khẩu cao thì giá cả hàng nhập khẩu cao, sẽ hạn
chế tiêu dùng hàng nhập khẩu và khuyến khích tiêu dùng sản phẩm
trong nước

Khi đánh thuế hàng nhập khẩu thấp, tức là khuyến khích nhập
khẩu những mặt hàng đó, Điều này trực tiếp thúc đẩy các doanh
nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành, để nâng
cao năng lực cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

Tuy nhiên, trong Điều kiện hội nhập KTQT và khu vực, vai trò bảo hộ của
thuế nhập khẩu sẽ bị hạn chế, do việc phải thực hiện các cam kết quốc tế và

khu vực.
Hơn nữa, trong thực tế, nếu quá nhấn mạnh đến vai trò bảo hộ của
thuế nhập khẩu đối với các ngành sản xuất trong nước, không những không
thực hiện được chính sách đối ngoại trong bối cảnh mới, mà còn làm cho sản
xuất trong nước trở nên trì trệ, kém phát triển.
3.4.

TẠO NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH CHO NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Khi thực hiện chức năng quản lý, Điều tiết vĩ mô nền kinh tế và bảo hộ
nền
sản xuất trong nước, thuế xuất nhập khẩu góp phần quan trọng trong việc
hình thành nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Khi thu thuế nhập khẩu ở mức cao vừa bảo hộ sản xuất trong nước, vừa
đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, mức thuế suất
thuế nhập khẩu thấp, sẽ khuyến khích nhập khẩu, song nguồn thu có thể bị giảm
đi do giảm mức thuế suất.
Nhưng xét trong tổng thể, thì thu ngân sách sẽ tăng lên ở khâu tiêu thụ sản
phẩm thông qua các loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt.


CHƯƠNG 2

LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ HOÀN THIỆN LUẬT THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1.

Ngày 31 tháng 3 năm 1992 hội đồng Bộ Trưởng đã ban hành nghị định

110/HĐBT qui định chi tiết thi hành luật thuế xuất nhập khẩu để áp dụng từ
ngày 01/4/1992. Lần sửa đổi này đã thay đổi nhiều nội dung quan trọng như:


Thống nhất giữa thuế xuất nhập khẩu hàng mậu dịch và hàng phi mậu dịch.



Danh mục biểu thuế xuất nhập khẩu dựa trên danh mục HS, không áp
dụng cho danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu của hội đồng tương trợ kinh
tế như trước đây.

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH

Thuế xuất nhập khẩu đã hình thành rất lâu ở Việt Nam từ Thế kỷ Thứ XI
Triều đại Nhà Lý đến thời vua Gia Long việc thu thuế xuất nhập khẩu đã được
quy định tại Bộ Luật ”Hoàng triều Luật lệ” nhưng Bộ luật này đơn giản, sơ
sài và chưa phải là chế định pháp luật độc lập.
Quá trình phát triển của đất nước trải qua nhiều giai đoạn việc hình thành
và phát triển của chính sách thuế xuất nhập khẩu có thể chia thành 6 giai đoạn
sau:


Giai đoạn cách mạng tháng 8 đến 1954



Giai đoạn 1954 đến 1975




Giai đoạn từ 1975 đến 1987 (thực hiện luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu hàng mậu dịch)



Giai đoạn từ đổi mới đến 1992



Giai đoạn 1992 đến năm 1996;



Giai đoạn từ năm 1996 đến nay.

Trình bày khái quát hai giai đoạn từ khi có luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu


Giai đoạn 1992 đến năm 1996;



Giai đoạn từ năm 1996 đến nay.
1.1.1 Giai đoạn từ 1992 đến năm 1996

Để phù hợp với đường lối đổi mới trong quan hệ kinh tế đối ngoại về
việc đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế và để khắc
phục những bất cập trong chính sách thuế xuất nhập khẩu, ngày 26 tháng

12 năm
1991 Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ X đã thông qua luật thuế xuất nhập khẩu
hàng mậu dịch và chính sách thu thuế đối với hàng nhập khẩu phi mậu dịch.

Ngày 15/7/1993 Quốc hội đã ban hành luật sửa đổi bổ sung một số Điều
của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày 20/5/1998 Quốc hội đã thông
qua luật sửa đổi bổ sung một số Điều của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.


Luật thuế xuất nhập khẩu được xây dựng theo các nguyên tắc chủ đạo sau:
Bảo vệ nguồn tài nguyên khan hiếm, hạn chế xuất khẩu những mặt
hàng chiến lược
 Bảo hộ thích đáng các ngành sản xuất trong nước
 Bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước
 Điều tiết tiêu dùng đối với các mặt hàng xa xỉ hoặc có ảnh hưởng đến
các khía cạnh xã hội, văn hoá, an ninh quốc gia.





Về thuế suất hàng hoá xuất khẩu:

Chỉ có một cột thuế chung cho các đối tượng xuất khẩu (có 58 nhóm mặt
hàng). Đại đa số các mặt hàng xuất khẩu chịu mức thuế suất từ 0% - 5%. Mức
thuế xuất khẩu bình quân là 14% và chỉ có mặt hàng phế liệu kim loại chịu
mức thuế suất là 45%.


Về thuế suất hàng hoá nhập khẩu:


Thuế nhập khẩu có 28 mức từ 0% đến 100% áp dụng cho gần 3500 nhóm
hàng (phân loại ở cấp độ 4 chữ số và 6 chữ số).
Chỉ trong vòng 4 năm khi luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ra đời thuế
xuất nhập khẩu đã thu vào ngân sách nhà nước từ chỗ chiếm tỷ trọng 6,1%
năm
1988 lên 12,7% năm 1991 trong tổng thu ngân sách nhà nước (tăng bình quân
1,65%/năm)


Chính sách thuế xuất nhập khẩu giai đoạn này chủ yếu là:
Thống nhất chính sách thuế nhập khẩu đối với hàng mậu dịch và phi
mậu dịch bằng việc ban hành luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm
1991;
 Biểu thuế xây dựng trên nguyên tắc nặng về bảo hộ sản xuất trong
nước, tăng thu ngân sách, ổn định giá cả, khuyến khích đầu tư nước
ngoài.
 Thuế suất rất cao và thường xuyên thay đổi theo sự biến động của
thị
trường;
 Thuế nhập khẩu bao gồm cả thuế tiêu thụ đặc biệt một số nhóm mặt
hàng
khẩu
cho nên thuế suất rất cao, có những mặt hàng thuế suất
1993 nhập
lên đến
22,35%).
lên đến
200%
ô tô,đoạn

rượu...).
1.1.2(xeGiai
từ năm 1996 đến nay
 Thuế nhập khẩu thu được so với tổng thu ngân sách từ thuế rất cao (năm
Từ ngày 01/01/1996, thực hiện chương trình cải cách chính sách thuế giai
đoạn hai, cũng như cam kết với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (International


một số mặt hàng có mức thuế suất trên 60%.
Trong giai đoạn này, mục tiêu của thuế nhập khẩu cần đạt được là:


Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực hoạt động xuất nhập



Thông qua thuế nhập khẩu, tạo Điều kiện để các doanh nghiệp sản
xuất trong nước đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản
phẩm.



Hạn chế nhu cầu tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu, đặc biệt đối với
những hàng hoá mà trong nước đã sản xuất được.



Tạo Điều kiện thuận lợi để hội nhập nền kinh tế nước ta vào kinh tế khu
vực và thế giới. Thực hiện các cam kết song phương và đa phương.




Cùng với việc ban hành luật sửa đổi bổ sung một số Điều và biểu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, được thực hiện từ ngày 01/01/1999 gồm 97
chương và 3280 nhóm mặt hàng. Mức thuế nhập khẩu cao nhất là 60% và
thấp nhất là 0%.

Biểu thuế đã được xây dựng lại theo hướng đơn giản mức thuế suất, chi
tiết hơn dịng hàng, thực hiện chế độ hồi tố năm năm đối với thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu... Hướng đến chính sách thuế nhập khẩu dần dần thích ứng với
Điều kiện hội nhập.
Biểu thuế nhập khẩu từ chỗ bao gồm 29 mức thuế suất, với mức thuế suất
danh nghĩa bình quân là 40,66% trước năm 1998 xuống còn 18% mức thuế
suất danh nghĩa là 16,20%, nhưng trên thực tế, thuế suất bình quân thực tế
giảm từ
16,11% xuống còn 5,74% vào năm 2000 và mức thuế bình quân được duy
trì cho đến nay.
1.2.

MỤC TIÊU HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ XUẤT NHẬP
KHẨU



Vừa bảo hộ, vừa khuyến khích phát triển sản xuất



Xây dựng trên cơ sở danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu năm 1996




Thể hiện rõ quan điểm hội nhập bằng các mức thuế suất (thông thường,
đãi
ưu và ưu đãi đặc biệt).

 Tách biệt thuế tiêu thụ đặc biệt ra khỏi thuế nhập khẩu
Monetary Fund), Việt Nam đã tiến hành cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu của
 Chú trọng đến khuyến khích đầu tư cho giáo dục, đào tạo khoa học công
nghệ, đầu tư trong và ngoài nước.


Chính sách thuế nhập khẩu thể hiện rõ trách nhiệm pháp lý trong việc khai
báo, tính thuế và nộp thuế nhập khẩu.
k
h

u
,
b

o
đ



m

n
h


Đ
i

u

h
o

t
,

h
à
n
h
t
o
à
n
b

h
o

t
đ

n
g

n
h

p
k
h

u
m

t
c
á
c
h
l
i

c
ó
h
i

u
q
u

.



CHƯƠNG 3

LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU (tt)
1. LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
1.1.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU,
THUẾ NHẬP KHẨU HIỆN HÀNH

Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ban hành ngày 26/12/1991, có hiệu
lực thi hành từ tháng 01/3/1992 thay thế luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
hàng mậu dịch. luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được sửa đổi bổ sung
hai lần vào năm 1993 và năm 1998. Mục đích của các lần sửa đổi nhằm đáp
ứng các yêu cầu đặt ra trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đảm bảo
chủ động thực hiện các cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
bộ với quá trình cải cách hệ thống pháp luật về thuế.
Qua 13 năm thực hiện, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã phát huy
mặt tích cực, góp phần bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước, bảo đảm
nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện có kết
quả đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có lợi cho sự phát triển kinh tế
đất nước.
Tuy nhiên trước yêu cầu hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, nâng
cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy mạnh cải cách hành chính,
khuyến khích tối đa xuất khẩu, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã bộc
lộ một số điểm còn hạn chế cần phải được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với
tình hình mới:


Thứ nhất: luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành chưa phù hợp
với những nội dung đã cam kết trong đàm phán quốc tế cụ thể;

 Quy định về giá tính thuế nhập khẩu
 Quy định về thuế suất và thẩm quyền ban hành biểu thuế
 Quy định về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống
phân biệt đối xử.
 Quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
 Quy định về ưu đãi thuế nhập khẩu.



Thứ hai: một số quy định trong luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa
đáp ứng được yêu cầu về quản lý nhà nước trong chống gian lận
thương mại, chống thất thu cho ngân sách như:
 Quy định về thông báo thuế
 Quy định về truy thu, truy hoàn thuế
 Quy định về thẩm quyền ban hành biểu thuế và thuế suất


1.2.






Th ứ nhất: những vấn đề sửa đổi đ ể đ ảm bảo tính minh bạch, phù hợp với
nguyên tắc WTO và các cam kết quốc tế để tạo Điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện các cam kết này bao gồm:
 Giá tính thuế
 Thuế tự vệ
 Thẩm quyền ban hành biểu thuế, thuế suất

 Thẩm quyền ban hành mức thuế suất
 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại
 Mức thuế và soát mức thuế
Thứ hai: những vấn đề sửa đổi để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế gian
lận thương mại
 Thời hạn nộp thuế
 Giảm thuế
Thứ ba: những vấn đề cần sửa đổi để phù hợp với cải cách hành chính cụ
thể:
 Trách nhiệm của đối tượng nộp thuế
 Hoàn thuế và trách nhiệm hoàn thuế
 Công tác xử lý vi phạm
 Tổ chức thực hiện
 Hiệu lực thi hành

2. THUẾ NHẬP KHẨU VÀ NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI CƠ BẢN CỦA
LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
2.1.

2.1.2 Chương 2 - Căn cứ tính thuế và Biểu thuế (có 5 Điều từ Điều 8
đến Điều 12)

MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN SỬA ĐỔI

BỐ CỤC CỦA LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP

KHẨU Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có 7 chương và 29 Điều:

Quy định căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế và đồng tiền nộp thuế;
giá tính thuế và tỷ giá tính thuế; thuế suất, biện pháp về thuế để tự vệ, chống

bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hoá,
thẩm quyền ban hành biểu thuế, thuế suất.
2.1.3 Chương 3 - Kê khai nộp thuế (có 3 Điều từ Điều 13 đến Điều
15)
Quy định trách nhiệm của đối tượng nộp thuế, thời điểm tính thuế và thời
hạn nộp thuế.
2.1.4 Chương 4 - Miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và truy thu thuế (có
6 Điều từ Điều 16 đến Điều 21)
Quy định về miễn thuế, xét miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và trách
nhiệm và thời hạn hoàn thuế, truy thu thuế.
2.1.5 Chương 5 - Khiếu nại và xử lý vi phạm (có 3 Điều từ Điều 22
đến Điều 24)
Quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại, xử lý vi phạm về thuế đối với
đối tượng nộp thuế.
2.1.6 Chương 6 - Tổ chức thực hiện (có 3 Điều từ Điều 25 đến Điều
27)
Quy định về thẩm quyền của chính phủ, trách nhiệm của Bộ Trưởng Bộ
Tài Chính và Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương,
trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong quản lý nhà nước về công tác thu thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

2.1.1 Chương 1 - Những quy định chung (có 7 Điều từ Điều 1 đến
Điều 7)

2.1.7 Chương 7 - Điều khoản thi hành (có 2 Điều, đó là Điều 28 và
Điều 29)

Quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng chịu thuế; đối tượng không
chịu thuế; đối tượng nộp thuế; thuế đối với việc mua bán, trao đổi của cư dân
biên giới; việc áp dụng các Điều ước quốc tế, giải thích từ ngữ để thống nhất

cách hiểu khi áp dụng Luật.

Quy định về hiệu lực thi hành luật thuế, thuế nhập khẩu, quy định chi tiết
hướng dẫn thi hành luật này.
2.2.

NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ
NHẬP KHẨU
2.2.1 Phạm vi điều chỉnh


Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt
Nam; hàng hoá mua bán, trao đổi của cư dân biên giới và hàng hoá mua bán
trao đổi khác được coi là hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.
2.2.2 Đối tượng áp dụng
Tổ chức cá nhân có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thuộc đối tượng chịu
thuế xuất khẩu, nhập khẩu được quy định tại Điều 2 của luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu là đối tượng nộp thuế xuất nhập khẩu.
2.3. NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI CƠ BẢN CỦA LUẬT THUẾ
XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU
2.3.1 Những nội dung sửa đổi để đảm bảo tính minh bạch, phù
hợp với các nguyên tắc của WTO và các các cam kết quốc tế
nhằm tạo Điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán gia nhập WTO
(Điều
8, Điều 9, Điều 11 và Điều 22)
a.

Bổ sung phương pháp tính thuế tuyệt đối (Điều 8)


Ngoài việc áp dụng tính thuế theo tỷ lệ % theo quy định hiện hành thì,
khoản 2 Điều 8 của luật thuế xuất nhập khẩu bổ sung phương pháp tính
thuế theo hình thức thuế tuyệt đối.
Theo hình thức tính thuế này thì căn cứ tính thuế là: số lượng từng đơn vị
mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai Hải quan (x) với mức
thuế tuyệt đối quy định cho từng loại hàng hoá tại thời điểm tính thuế.
Ví dụ: quy định tiền thuế phải nộp cho một chiếc xe ôtô đã qua sử dụng
loại
5 chỗ ngồi kể cả người lái xe có dung tích xi lanh dưới 1000 CC có mức
thuế
tuyệt đối là 3000 USD/cái

c.

Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành quy định thu thuế bổ sung đối với các
trường hợp hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam mà có bán phá giá, có sự trợ
cấp của nước xuất khẩu, có xuất xứ từ nước mà ở nước đó có sự phân biệt đối
xử đối với hàng hoá của Việt Nam. Đây là các công cụ cần thiết để tự vệ, nhằm
hạn chế các tiêu cực từ bên ngoài đối với sản xuất trong nước. Nhưng do trong
luật ghi là “thuế bổ sung” nên dễ bị các đối tác nước ngoài cho rằng đây là
khoản thu thêm, không phải là một loại thuế theo đúng quy định của hiệp định
về thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử.
Để đảm bảo phù hợp với các quy định của WTO và phù hợp với các hệ
thống pháp luật hiện hành, sửa đổi cụm từ “thuế bổ sung” thành biện pháp về
thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử trong
nhập khẩu hàng hoá.
Ngoài việc chịu thuế theo quy định tại khoản 2 – Điều 10 của luật này,
hàng hoá nhập khẩu còn phải áp dụng một trong các biện pháp sau đây:



Tăng mức thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu quá mức vào
Việt Nam theo quy định của pháp luật về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá
nước ngoài vào Việt Nam.



Thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá bán phá giá nhập khẩu vào
Việt Nam theo quy định của pháp luật về chống bán phá giá hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam;



Thuế chống trợ cấp đối với hàng hoá được trợ cấp nhập khẩu vào Việt
Nam theo quy định của pháp luật về chống trợ cấp hàng hoá nhập khẩu
vào Việt Nam;



Thuế chống phân biệt đối xử đối với hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam
có xuất xứ từ nước hoặc nhóm nước hoặc vùng, lãnh thổ mà ở đó có sự
phân biệt đối xử về thuế nhập khẩu hoặc có biện pháp phân biệt đối xử
khác theo quy định của pháp luật về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc
gia trong thương mại quốc tế.”

d.

Về khiếu nại và giải quyết khiếu nại (Điều 22)

Hình thức tính thuế này được áp dụng đối với các loại hàng hoá có khả
năng gian lận cao về giá tính thuế.

b.

Về giá tính thuế (Điều 9)

Để thực hiện cam kết quốc tế và đảm bảo tính công bằng, minh bạch về
giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu, khoản 2 – Điều 9 của luật quy định về giá
tính thuế như sau: “giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu là giá thực tế phải trả tính
đến cửa khẩu nhập đầu tiên theo hợp đồng phù hợp với các cam kết quốc tế”.

Về thuế để tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống phân biệt đối xử
trong nhập khẩu hàng hoá (Điều 11)

Để phù hợp với quy định của WTO, quyền của đối tượng nộp thuế được
lựa chọn quyền khiếu nại với cơ quan Hải quan hoặc toà hành chính luật thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
như sau:


“trong trường hợp đối tượng nộp thuế không đồng ý với quyết định của cơ
quan Hải quan về số tiền thuế, tiền phạt, hình thức xử phạt thì vẫn phải nộp đủ
tiền thuế, tiền phạt chấp hành hình thức xử phạt đồng thời có quyền khiếu nại
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về khiếu nại,
tố cáo”.
2.3.2 Những nội dung sửa đổi nhằm khuyến khích tối đa xuất khẩu,
đồng thời hạn chế những sơ hở dễ bị lợi dụng để trốn thuế, nợ
thuế (Điều 15, Điều 16, Điều 17 và Điều 18)
a.
15)

Về thời hạn nộp thuế (Điều


Về thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá nhập khẩu cơ bản tiếp tục giữ như
hiện hành; đối với hàng hoá xuất khẩu nâng thời hạn từ 15 ngày lên thành 30
ngày để khuyến khích xuất khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy
định cụ thể thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là hàng tiêu dùng
phải nộp thuế ngay trước khi nhận hàng; trường hợp có bảo lãnh về số tiền thuế
phải nộp, thì thời hạn nộp thuế là thời hạn bảo lãnh nhưng không quá 3 ngày
kể từ ngày đối tượng nộp thuế đăng ký tờ khai Hải quan.
Đối với hàng hoá là vật tư nguyên liệu để SX hàng xuất khẩu thì thời hạn
nộp thuế là 275 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai Hải quan; trường hợp đặc
biệt có thể kéo dài hơn cho phù hợp với chu kỳ SX (chính phủ quy định).

học công nghệ và môi trường, luật dầu khí và một số nghị định của chính
phủ, quyết định của thủ tướng.
Do đó để đảm bảo sự công bằng và minh bạch về chính sách, không phân
biệt đối xử theo đúng quy định của WTO. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu quy định cụ thể tại Điều 16 và Điều 17 về miễn thuế, xét miễn thuế trên
cơ sở thống nhất giữa ưu đãi khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài; tập hợp, hệ thống hoá các quy định hiện hành về miễn thuế, xét miễn
thuế đang quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác vào luật này. Về
nguyên tắc, tập hợp lại các quy định về miễn thuế nhập khẩu là: chọn những
quy định miễn thuế ở mức cao nhất cho từng đối tượng đầu tư nước ngoài và
đầu tư trong nước, để áp dụng chung cho các dự án đầu tư, đồng thời bác bỏ
các quy định không khả thi, khó có căn cứ để thực hiện.
c.

Để đảm bảo việc xét giảm thuế được chính xác, phù hợp với quy trình thủ
tục Hải quan, sửa đổi Điều kiện để được xét giảm thuế đó là:
“Hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đang trong quá trình giám sát của cơ
quan Hải quan, nếu bị hư hỏng hoặc mất mát được cơ quan, tổ chức có thẩm

quyền giám định chứng nhận thì được xét giảm thuế.
Mức giảm thuế tương ứng với tỷ lệ tổn thất thực tế của hàng hoá”.
2.3.3 Những nội dung sửa đổi nhằm đảm bảo tính thống nhất và
phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính về thuế và Hải quan
(Điều
2, Điều 3, Điều 7, Điều 12, Điều 13, Điều 19, Điều 20 Điều
23 và từ Điều 25 đến Điều 28)

Hàng hoá kinh doanh theo phương thức tạm nhập, tái xuất hoặc tạm
xuất, tái nhập thời hạn nộp thuế là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập,
tái xuất hoặc tạm xuất, tái nhập.
Để được hưởng thời hạn nộp thuế nêu trên luật quy định đối tượng nộp
thuế phải có quá trình chấp hành tốt pháp luật về thuế và pháp luật về Hải
quan, quy định này khắc phục tình trạng nợ đọng thuế, trốn thuế.
b. Về miễn thuế, xét miễn thuế (Điều 16 và Điều
17)
Quy định hiện hành của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có sự phân
biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, việc xét miễn thuế miễn
thuế đối với đầu tư trong nước kém ưu đãi hơn so với đầu tư nước ngoài.
Ngoài các quy định của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì việc
xét miễn thuế, miễn thuế còn bị Điều chỉnh bởi các luật và các văn bản pháp
quy khác như luật đầu tư nước ngoài, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật
khoa

Về giảm thuế (Điều 18)

a.

Về đối tượng chịu thuế (Điều 2)


Để bao quát hết các đối tượng chịu thuế, bổ sung trường hợp “hàng
hoá được đưa từ thị trường trong nước vào khu phi thuế quan và từ khu phi
thuế quan vào thị trường trong nước” vào đối tượng chịu thuế.
b.

Về đối tượng không chịu thuế (Điều 3)
Ngoài các đối tượng theo quy định hiện hành bổ sung trường hợp:




Hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan và chỉ sử
dụng trong khu phi thuế quan, hàng hoá đưa từ khu phi thuế quan này
sang khu phí thuế quan khác vào đối tượng không chịu thuế.



Hàng viện trợ không hoàn lại



Hàng hoá là phần tài nguyên của dầu khí thuộc thuế tài nguyên của
nhà nước khi xuất khẩu.

c.

Về thuế xuất, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá mua bán trao đổi của cư
dân biên giới (Điều 7)

Xuất phát từ quan hệ mua bán, trao đổi của cư dân biên giới là quan hệ có

tính đặc thù, do đó để góp phần phát triển sản xuất, giao lưu kinh tế, thương
mại của cư dân biên giới có chung đường biên giới với Việt Nam, Điều 7
của luật quy định “chính phủ quy định việc áp dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu đối với hàng hoá mua bán, trao đổi của cư dân biên giới phù hợp với từng
thời kỳ”.
d.

thuế xuất khẩu, nhập khẩu có trách nhiệm kê khai thuế đầy đủ, chính xác, minh
bạch và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai; nộp tờ khai Hải
quan cho cơ quan Hải quan, tính thuế và nộp vào ngân sách nhà nước”.
f.
Về hoàn thuế, trách nhiệm và thời hạn hoàn thuế (Điều 19 và Điều
20)
Để bảo đảm công bằng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế của
đối tượng nộp thuế, đồng thời đảm bảo quản lý chặt chẽ các trường hợp hoàn
thuế, luật bổ sung thêm các trường hợp hoàn thuế đó là:

Hàng hoá xuất khẩu đã nộp thuế xuất khẩu nhưng phải tái
nhập;

Hàng hoá nhập khẩu đã nộp thuế nhưng phải tái
xuất;


Hàng hoá nhập khẩu là máy móc thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận
chuyển của tổ chức, cá nhân được phép tạm nhập, tái xuất để thực hiện
dự án đầu tư, thi công xây dựng, lắp đặt công trình, phục vụ sản xuất hoặc
mục đích khác đã nộp thuế nhập khẩu;




Trường hợp có nhầm lẫn trong kê khai tính thuế thì được hoàn trả số
tiền nộp thừa nếu sự nhầm lẫn đó xảy ra trong thời hạn 365 ngày trở về
trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện có sự nhầm lẫn.



Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu quy định rõ thời hạn hoàn thuế.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ yêu cầu hoàn thuế, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xét hoàn thuế có trách nhiệm hoàn thuế cho
đối tượng được hoàn thuế; trường hợp hồ sơ không đầy đủ, hoặc hồ sơ
không đúng quy định của pháp luật để được hoàn thuế, trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu của đối tượng được
hoàn thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét hoàn thuế phải có văn bản
yêu cầu bổ sung hồ sơ;



Đồng thời luật cũng quy định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xét hoàn thuế và đối tượng được hoàn thuế: “... Nếu việc
chậm hoàn thuế do lỗi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét hoàn thuế
thì ngoài số tiền thuế phải hoàn còn phải trả tiền lãi kể từ ngày chậm hoàn
thuế cho đến ngày được hoàn thuế theo mức lãi suất vay ngân hàng thương
mại tại thời điểm phải hoàn thuế”

Về thẩm quyền ban hành mức thuế suất (Điều 12)

Trong hội nhập kinh tế quốc tế, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có vị
trí quan trọng được các đối tác tham gia đàm phán quan tâm hàng đầu và là
một trong những nội dung đàm phán hội nhập. Đối với sản xuất trong nước

phụ thuộc nhiều vào nguồn vật tư, nguyên liệu nhập khẩu nên chịu tác động
lớn của sự biến động giá cả thị trường thế giới. Để chủ động trong việc Điều
hành và thực hiện cam kết quốc tế, luật giao thẩm quyền cho Bộ Trưởng Bộ
Tài Chính quy định áp dụng mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
đối với từng mặt hàng theo thủ tục do chính phủ quy định, đảm bảo các nguyên
tắc sau:


“Phù hợp với danh mục nhóm hàng chịu thuế do trong phạm vi khung thuế
suất do ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành.



Góp phần bảo đảm nguồn thu ngân sách nhà nước và bình ổn thị trường



Bảo hộ sản xuất trong nước có chọn lọc, có Điều kiện, có thời hạn phù
hợp với Điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên”.

e.

Về trách nhiệm của đối tượng nộp thuế (Điều 13).

Để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tiết kiệm thời gian và chi
phí, đồng thời nâng cao trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong việc chấp
hành pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Điều 13 của luật quy định
trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong việc kê khai thuế, nộp thuế: “Đối
tượng nộp


g.
23)

Về xử lý vi phạm 9 Điều

Để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu, luật thuế xuất nhập khẩu quy định cụ thể việc xử lý các đối tượng nộp
thuế có hành vi vi phạm như:




Nộp chậm tiền thuế, tiền phạt so với ngày cuối cùng trong thời hạn quy
định phải nộp hoặc ngày cuối cùng trong thời hạn được ghi trong quyết
định xử lý về thuế thì ngoài việc phải nộp đủ tiền thuế, tiền phạt, mỗi
ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0,1% số tiền chậm nộp; nếu thời
hạn chậm nộp là quá 90 ngày thì bị cưỡng chế thi hành.



Không thực hiện kê khai thuế, nộp thuế theo đúng quy định của luật này
thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính vế
thuế.



Khai man thuế, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp đủ tiền thuế theo quy
định của luật này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt tiền
từ một đến 5 lần số tiền thuế gian lận




Không nộp thuế, nộp phạt theo quyết định xử lý về thuế thì bị cưỡng chế
thi hành bằng các biện pháp sau:
 Trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, tổ chức tín dụng
khác, kho bạc nhà nước để nộp thuế, nộp phạt
 Cơ quan Hải quan nơi đăng ký tờ khai Hải quan được quyền tạm
giữ hàng hoá hoặc kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để bảo
đảm thu đủ thuế, đủ tiền phạt còn thiếu. Sau thời hạn 30 ngày kể từ
ngày cơ quan Hải quan có quyết định tạm giữ hàng hoá hoặc quyết định
kê biên tài sản mà đối tượng nộp thuế vẫn chưa nộp đủ tiền thuế, tiền
phạt thì cơ quan Hải quan được bán đấu giá hàng hoá, tài sản theo quy
định của pháp luật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt;
 Cơ quan Hải quan không làm thủ tục nhập khẩu cho chuyến hàng
tiếp theo cho đến khi đối tượng đó nộp đủ tiền thuế, tiền phạt.



Người có hành vi trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi trốn thuế mà còn vi phạm thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

h.

Về thẩm quyền và trách nhiệm của chính phủ và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu (Điều 25, Điều 26 và Điều 27)

Để đảm bảo quản lý tập trung thống nhất, phân công, phân cấp trách

nhiệm cụ thể rõ ràng trong việc tổ chức thực hiện luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu Điều 25 của luật quy định thẩm quyền và trách nhiệm của chính
phủ; Điều 26 quy định về trách nhiệm của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính và chủ
tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Điều 27 quy định
về trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu.

Những nội dung sửa đổi cơ bản của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
trên đây đã thể hiện đầy đủ mục tiêu, yêu cầu cải cách hệ thống chính sách thuế
theo chương trình cải cách thuế từ nay đến năm 2010 và đáp ứng kịp thời yêu
cầu cải cách thể chế gia nhập WTO của Việt Nam.
2.4.

TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP
KHẨU ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG KINH TẾ XÃ HỘI

Những nội dung sửa đổi cơ bản của luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
như đã trình bày trên đã được Quốc hội thông qua để thay thế luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành, luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi
đã thể hiện đầy đủ mục tiêu, yêu cầu cải cách hệ thống chính sách thuế theo
chương trình cải cách thuế đến năm 2010, đáp ứng yêu cầu của tổ chức thương
mại thế giới.


Đảm bảo tính minh bạch, thống nhất chính sách ưu đãi đầu tư, góp
phần phát huy nội lực để phát triển sản xuất ; các quy định của luật phù
hợp với các cam kết quốc tế, đặc biệt là các nội dung có liên quan đến quy
định của WTO.




Thông qua việc quy định Điều kiện để áp dụng thời hạn nộp thuế sẽ góp
phần khắc phục tình trạng nợ đọng thuế, trốn thuế.



Nâng cao tính chủ động của đối tượng nộp thuế trong việc tự kê khai, tự
nộp thuế; tăng cường vai trò quản lý của cơ quan Hải quan; đảm bảo bình
đẳng giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan Hải quan.



Các quy định của luật đảm bảo tính thống nhất giữa các luật có liên
quan….luật Hải quan, luật đầu tư… góp phần thúc đẩy cải cách thủ tục
hành chính và hiện đại hoá thủ tục Hải quan. Việc sửa đổi và ban hành luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã góp phần vào thành công trong đàm
phán gia nhập WTO của Việt Nam.


PHẦN 2

LUẬT HẢI QUAN VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ HẢI QUAN VIỆT NAM
1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HẢI QUAN
VIỆT NAM
1.1.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH


Hoạt động thuế quan ở nước ta xuất hiện từ thời Nhà Lý (thế kỷ thứ XI)
và trở thành bộ phận hữu cơ của nền ngoại thươmg.
Năm 1858 Thực dân Pháp xâm lược nước ta và năm 1884 bằng hiệp ước
Patơnốt, Thực dân Pháp đã đặt ách cai trị lên toàn đất nước ta. Song song
với việc lập nên bộ máy cai trị các cấp, để đảm bảo quyền lợi kinh tế trong lĩnh
vực ngoại thương, Thực dân Pháp đã thiết lập bộ máy thuế quan khá hoàn
chỉnh từ Trung ương xuống đến các địa phương, hệ thống này được duy trì cho
đến cách mạng 8/1945.
Ngay sau khi giành được chính quyền, nhằm phục vụ tốt chính sách
thu thuế và kiểm soát việc thu thuế có hiệu quả, ngày 10/9/1945 theo đề nghị
của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính, thay mặt chính phủ lâm thời Việt Nam, Bộ
Trưởng Bộ nội vụ Võ Nguyên Giáp ký sắc lệnh số 27/SL thành lập sở thuế
quan và thuế gián thu “để đảm nhiệm công việc của sở tổng thanh tra độc
quyền muối và thuốc phiện và các sở thương chính bắc, Trung và Nam Bộ”.
Đây là tổ chức tiền thân của ngành Hải quan Việt Nam ngày nay. Trụ sở của sở
thuế quan và thuế gián thu (1945 – 1946) nay là bảo tàng cách mạng Việt Nam.
1.2.

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM VÀ SỰ
RA ĐỜI CỦA LUẬT HẢI QUAN

Quá trình hình thành và phát triển của Hải quan Việt Nam có thể chia làm
05 giai đoạn sau:
1.2.1 Giai đoạn 1: từ tháng 5/1945 – tháng 7/1954
Nhiệm vụ của sở thuế quan và thuế gián thu được quy định tại Điều 2 của
sắc lệnh số 27/SL là:




“Thu các quan thuế nhập cảng và xuất cảng;



Thu các thuế gián thu có biên vào số tổng dự toán;



Thu các món tiền do sự kinh doanh các độc quyền mà có;



Thu hộ các thuế lặt vặt cho quỹ địa phương, quỹ Thành phố hay quỹ các
phòng thương mại”.

Theo đề nghị của Bộ Trưởng Bộ Tài Chính, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ thay
mặt Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ký sắc lệnh số 28/SL, bổ
nhiệm Ông Trịnh Văn Bính làm Tổng giám đốc Sở thuế quan và thuế gián thu.
Các sắc lệnh trên là cơ sở pháp lý ban đầu cho các hoạt động của Sở thuế quan
và thuế gián thu trong những ngày đầu thành lập. Trong thời kỳ này mô hình tổ
chức của sở theo mô hình bộ máy thương chính (thuộc Bộ Tài Chính).
Để giúp cho việc quản lý và kiểm soát việc thu thuế có hiệu quả trong tình
hình mới, hệ thống tổ chức của Sở thuế quan và thuế gián thu thường xuyên
có sự Điều chỉnh, nhất là các cơ sở thuế quan ở các địa phương.
Tổ chức của các ty chính thuế quan ở các địa phương ngoài bộ phận hành
chính văn phòng, còn có ban kiểm nã lưu động và các trạm kiểm soát thuế
quan. Tại các thương cảng lớn như Hải Phòng, Đà Nẵng còn có thêm bộ phận
thanh tra thường trú để quản lý và thu thuế xuất nhập cảng. Riêng ở Sài Gòn
không triển khai được do tình hình chiến tranh.
Để phù hợp với sự quản lý theo từng bộ ngày 20/02/1946 Bộ Trưởng Bộ

Tài Chính Phạm Văn Đồng ký nghị định chuyển ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Thanh Hoá thuộc quyền quản lý của nha thuế quan Trung Bộ. Cùng với việc tổ
chức lại một số cơ sở thuế quan, Bộ Tài Chính căn cứ tình hình thực tế trên
từng địa bàn để thành lập các cơ sở thuế quan mới.
Đến giữa năm 1946 hệ thống các tổ chức các cơ sở thuế quan và thuế gián
thu ở khu vực Bắc Bộ có 01 tổng thu sở, 28 chánh thu sở và 29 phụ thu sở; còn
ở khu vực Trung Bộ có 01 tổng thu sở, 15 chánh thu sở, 54 phụ thu sở, ở Nam
Bộ không triển khai được do chiến tranh.
Nhiệm vụ chủ yếu của các cơ sở thuế quan lúc này là quản lý việc
xuất cảng, nhập cảng liên quan đến thuế quan, cùng với các bộ ngành khác, sự
phối hợp giữa các địa phương, các lực lượng hữu quan, đấu tranh với Thực dân
Pháp để bảo vệ chủ quyền về ngoại thương và thuế quan.


1.2.2 Giai đoạn 2: từ 1954 –1960
Khán g chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi
lên chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tạm thời bị Đế Quốc Mỹ và lực lượng tay
sai thống trị. Mặc dù nền kinh tế của ta bị chiến tranh tàn phá nặng nề, các
ngành tiểu thủ công nghiệp chưa được hồi phục, nhưng chính phủ đã có chủ
trương mở rộng buôn bán với các nước, do đó cần phải có lực lượng chức năng
có khả năng hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo chính sách độc quyền ngoại thương
của nhà nước, trong tình hình mới này Sở Hải quan trung ương ra đời trực
thuộc Bộ Công Thương (Bộ Ngoại Thương).
Nhiệm vụ trong giai đoạn này là: giám sát, quản lý, đôn đốc việc thi hành
chính sách, thể lệ thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá, tích cực xây dựng ngành
Hải quan XHCN, để bảo vệ kinh tế quốc gia, bảo vệ chính trị, bảo vệ thực hiện
kế hoạch ngoại thương và tăng thêm tích lũy vốn cho ngân sách nhà nước.
Một đặc điểm nổi bật của công tác Hải quan trong thời kỳ này là: vận
động đồng bào ở vùng biên giới xoá bỏ tập quán trồng và tiêu thụ cây thuốc
phiện, đồng thời phối hợp với các lực lượng khác tham gia công tác cải cách

dân chủ ở miền núi.
1.2.3 Giai đoạn 3: từ 1960 – 1975
Ngày 27/02/1960 Chính Phủ ban hành Điều lệ Hải quan kèm theo nghị
định số 03/CP:
Đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển mới của Hải quan Việt Nam. Tại
chương II của Điều lệ Hải quan quy định nhiệm vụ của cơ quan Hải quan
được quy định như sau:


“ Giám sát quản lý hàng hoá, hành lý, tiền tệ, kim khí quý, đá quý, ngọc
trai, bưu phẩm, bưu kiện, công cụ vận tải xuất hay nhập;



Thi hành chính sách thuế xuất nhập khẩu và thu các loại thuế khác đối
với hàng hoá xuất nhập khẩu;



Ngăn ngừa và chống những hành vi vi phạm luật lệ Hải quan;



Phát hiện và ngăn ngừa các thiếu sót trong xếp dỡ, vận chuyển, sắp xếp,
bảo quản hàng hoá xuất nhập khẩu...”

Trong đó công tác giám sát chống buôn lậu được coi là nhiệm vụ then
chốt. Điều lệ Hải quan đã hoàn chỉnh thêm một bước chuyển biến quan trọng
của hoạt động Hải quan, từ hoạt động phân tán, thiếu sự chỉ đạo thống nhất
sang hoạt động chính quy.

Để phù hợp cơ cấu tổ chức chung của bộ, ngày 17/06/1962 Bộ Ngoại
Thương ban hành quyết định số 490/BNT - QĐ đổi tên Sở Hải quan thành Cục
Hải quan Trung Ương. Trên danh nghĩa là một đơn vị hành chính sự nghiệp
nhưng trên thực tế thời kỳ này Hải quan đã được xác định là công cụ chuyên
chính có nhiệm vụ bảo vệ chính sách nhà nước độc quyền về ngoại thương.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà nước thực hiện chế độ “thu bù chênh
lệch ngoại thương”, do đó Hải quan chỉ tập trung vào một số công việc như:
làm thủ tục và phát hiện sai sót, tổn thất hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, thu
thuế hàng xuất nhập khẩu phi mậu dịch và đấu tranh chống buôn lậu qua biên
giới.
1.2.4 Giai đoạn 4: từ 1975 – 1987
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975 Tổ Quốc Việt Nam đã được
thống nhất về mặt lãnh thổ. Song trên phương diện thể chế chính trị, đất nước
lúc này vẫn còn chưa có một nhà nước thống nhất với Quốc hội chung do nhân
dân bầu ra qua phổ thông đầu phiếu. Trước yêu cầu cấp thiết đó vào ngày
22/04/1975, hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là tập trung mọi nỗ lực
của toàn Đảng, toàn dân tộc để hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà
nước.
Để đáp ứng với đòi hỏi khách quan của thực tiễn ngày 12/08/1976 Bộ
Ngoại Thương đã tổ chức hội nghị Hải quan toàn quốc lần thứ nhất tại Thành
Phố Hồ Chí Minh. Hội nghị đã chú trọng đến mục tiêu thống nhất tổ chức
ngành Hải quan trên phạm vi cả nước và đưa ra những nguyên tắc cơ bản
cho hoạt động của ngành. Như vậy có thể nói rằng từ thời điểm này tổ chức
và hoạt động của Hải quan trên cả nước được thống nhất vào một đầu mối,
đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Ngoại Thương và Cục Hải quan Trung
Ương.
Để tăng cường hiệu quả quản lý, giúp chính phủ quản lý công tác Hải quan
đạt hiệu quả nhất, ngày 30/08/1984 hội đồng nhà nước ra nghị quyết số
547/HĐNN phê chuẩn việc thành lập tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội

Đồng Bộ Trưởng, ngày 20/10/1984 hội đồng Bộ Trưởng ban hành nghị định
139/HĐBT quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của TCHQ (gồm 11
Điều)


Nghị định nêu rõ: “Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội Đồng
Bộ Trưởng, là công cụ chuyên chính nửa vũ trang của Đảng và nhà nước có
chức năng:


Kiểm tra và quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các loại công cụ vận
tải xuất nhập qua biên giới nước cộng hoà XHCN Việt Nam;


Thi hành chính sách thuế xuất, thuế nhập
khẩu;


Ngăn ngừa và chống các vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác
liên quan đến việc xuất nhập khẩu;



Chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới”

Việc ban hành nghị định đã có những ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn,
đánh dấu một bước phát triển mới của HQ Việt Nam trong thời kỳ chuyển
đổi của đất nước, tạo ra một bước ngoặt mới và những Điều kiện thuận lợi cho
lực lượng HQ phát huy nội lực nhằm thực hiện đúng đắn chính sách của nhà

nước về độc quyền ngọai thương, góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống
buôn lậu và lập lại trật tự kỷ cương trong quản lý xuất nhập khẩu.
1.2.5 Giai đoạn 5: từ 1987 đến nay và sự ra đời của Luật Hải
quan
Đường lối đổi mới kinh tế được khởi xướng từ Đại hội Đảng VI đã tiếp
tục được khẳng định và hoàn thiện qua các kỳ đại hội Đảng tiếp theo, chủ
trương phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, trên cơ sở nền
kinh tế nhiều thành phần. Vì vậy tư duy chỉ đạo nghiệp vụ HQ cũng phải được
chuyển đổi theo hướng cân bằng, giữa nhiệm vụ quản lý nhà nước về Hải
quan theo đúng pháp luật và nhiệm vụ phục vụ, tạo Điều kiện thuận lợi cho
hoạt động xuất nhập khẩu.
Sự ra đời của pháp lệnh Hải quan được hội đồng nhà nước thông qua ngày
20/02/1990 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/5/1990 gồm 51 Điều chia làm 8
chương, pháp lệnh HQ thể hiện quan điểm đổi mới của Đảng và sự kế thừa
kinh nghiệm hoạt động, xây dựng HQ Việt Nam gần nửa thế kỷ qua, pháp
lệnh quy
định chế độ quản lý nhà nước về HQ nhằm “đảm bảo thực hiện chính sách của
nhà nước về phát triển quan hệ kinh tế, văn hoá với nước ngoài, góp phần tăng
cường sự giao lưu và hợp tác quốc tế, bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh
quốc gia”.

Sự phát triển và hiệu quả hoạt động của Hải quan Việt Nam từ ngày thành
lập nước đến nay, được gắn liền với sự phát triển của hệ thống pháp luật về
Hải quan mà nòng cốt là pháp lệnh Hải quan (1990). Với tư cách là văn bản
quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất Điều chỉnh các hoạt động trong
lĩnh vực HQ từ những năm 1990, tuy nhiên để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất nhập khẩu, tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố tổ chức và hoạt động
của Hải quan theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, hoạt động có thực quyền,
phù hợp với tính chất và đặc điểm hoạt động của HQ, cần thiết phải xây dựng
luật Hải quan nhằm công khai hoá, minh bạch hoá các văn bản trong hệ thống

pháp luật HQ, đáp ứng yêu cầu Điều chỉnh các mối quan hệ pháp luật ngày
càng phong phú, đa dạng, chuyên sâu trong lĩnh vực Hải quan.

CHƯƠNG 2

LUẬT HẢI QUAN VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT HẢI
QUAN
1. LUẬT HẢI QUAN VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI
1.1.

NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA LUẬT HẢI QUAN

Trong thập niên 80 cho tới Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam, nền
kinh tế Việt Nam giai đoạn này là nền kinh tế tập trung, bao cấp mà một trong
những đặc trưng của nó là chế độ nhà nước độc quyền về ngoại thương do đó
Điều lệ Hải quan chỉ phù hợp với hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn
này.
Sau Đại hội VI của Đảng, đường lối đổi mới của Đảng được tiếp tục phát
triển qua các kỳ đại hội tiếp theo với chủ trương phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN trên cơ sở kinh tế nhiều thành phần, công tác
Hải quan liên quan đến nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, an ninh, ngoại
giao... do vậy đòi hỏi phải có văn bản pháp lý mang tính chuyên ngành.
Sự ra đời của pháp lệnh Hải quan ngày 20/02/1990 (có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/05/1990) đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng về chất
của ngành HQVN cả về quy mô, phương thức và hiệu quả hoạt động.
Những tư


tưởng cơ bản của ph áp lệnh là sự thể hiện các quan điểm đổi mới của Đảng

và nhà nước về quan hệ kinh tế đối ngoại, hợp tác giao lưu quốc tế.
Tuy nhiên, pháp lệnh Hải quan được xây dựng và ban hành theo hiến
pháp
1980, do đó phải xây dựng luật cho phù hợp với hiến pháp 1992.
Nhiều nội dung của pháp lệnh không thống nhất và không còn phù hợp
với các đạo luật được ban hành sau năm 1990 và không đáp ứng các đòi hỏi của
các cam kết quốc tế liên quan đến hoạt động HQ mà Việt Nam tham gia hoặc
có nghĩa vụ phải thực hiện.
Xuất phát từ thực tế đó, ngày 04/02/1993 Quốc hội ban hành nghị quyết số
18/NQ-UBTVQH về công tác xây dựng pháp luật, giữa năm 1993 thủ
tướng chính phủ đã giao cho TCHQ chịu trách nhiệm soạn thảo dự án luật Hải
quan.
Dưới sự chỉ đạo của ủy ban thường vụ Quốc hội và chính phủ, TCHQ
đã phối hợp xin ý kiến tham gia của các bộ, ngành, một số doanh nghiệp và
tham khảo kinh nghiệm xây dựng luật HQ của một số nước, cũng như tổ chức
các hội thảo. sau 16 lần dự thảo ngày 03/01/2001 TCHQ đã chuyển bộ tư
pháp dự án luật Hải quan để thẩm định.
Dự án luật dự thảo gồm lời nói đầu, 9 chương với 92 Điều. Trên cơ sở
thẩm định của bộ tư pháp và ý kiến tham gia của các bộ, ngành cùng hai lần
hội thảo tiếp theo, dự án luật Hải quan được trình lên ủy ban thường vụ Quốc
hội. Sau khi chỉnh lý dự án luật Hải quan còn 8 chương 82 Điều và ngày
29/06/2001, tại kỳ họp thứ 9 – Quốc hội khoá X toàn văn luật Hải quan đã
được Quốc hội thông qua, với 83,8% đại biểu Quốc hội tán thành (gồm 364
đại biểu có 8 đại biểu không tán thành và 6 đại biểu không biểu quyết).
Luật HQ ra đời trên nguyên tắc kế thừa và phát triển các quy định tại
pháp lệnh HQ và một số văn bản pháp luật liên quan khác. sự ra đời của luật
HQ là một bước hoàn thiện hệ thống pháp luật HQ với mục tiêu thể chế hoá
đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và nhà nước, cụ thể hoá các quy định của
hiến pháp
1992 về xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong lĩnh vực công tác HQ.

Tạo
Điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu góp phần tăng cường hợp tác
giao lưu quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần thúc đẩy sản
xuất trong nước.
Nội luật hoá các quy định của các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết hoặc tham gia, nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ để
Điều

chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội liên quan đến hoạt động HQ, phù hợp với cơ
chế quản lý kinh tế thời kỳ đổi mới, thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính,
tạo thuận lợi cho hội nhập quốc tế, đồng thời tham gia bảo vệ lợi ích và chủ
quyền an ninh quốc gia, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
1.2.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA
LUẬT HẢI QUAN

Sau 4 năm triển khai thực hiện luật Hải quan đã thể hiện rõ những mặt
tích cực

Tạo thuận lợi cho quy trình thủ tục Hải
quan

Tạo được môi trường pháp lý kinh doanh bình
đẳng

Nâng cao được hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực Hải
quan


tế

Phù hợp với các chuẩn mực và cam kết quốc

Tuy nhiên trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có một
số quy định trong luật HQ hiện hành chưa đáp ứng yêu cầu quản lý Hải quan
hiện đại, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, lãnh thổ Hải quan
chưa được cụ thể hoá vào luật, vì lãnh thổ Hải quan không chỉ nhằm khảng
định lãnh thổ quốc gia, mà còn khẳng định quyền chủ quyền của nhà nước về
Hải quan tại các khu vực thuộc quyền tài phán nằm ngoài lãnh thổ quốc gia
như vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa....
Sự cần thiết phải bổ sung sửa đổi luật cho phù hợp với các thông lệ quốc
tế, cũng như đảm bảo công khai, minh bạch hoá đơn giản hoá thủ tục Hải
quan, đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp, nâng cao trách nhiệm và phẩm
chất của công chức Hải quan.
Sự cần thiết phải bổ sung, sửa đổi một số Điều của luật Hải quan cho
tương thích với các đạo luật khác như: luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu,
luật đầu tư nước ngoài, luật khiếu nại, tố cáo, luật sở hữu trí tuệ,....và các Điều
ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
2. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ HƯỚNG BỔ SUNG SỬA ĐỔI MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA LUẬT HẢI QUAN
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 về chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2005, chính phủ đã giao
Bộ Tài


Chính nghiên cứu xây dựng dự án luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của luật
Hải quan (dự án luật).

Ngày 25/05/2005, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá XI, dự án luật

đã
được Quốc hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam biểu
quyết
thông qua với: 364 đại biểu có mặt tán thành đạt 74,49%, chỉ có 02 đại
biểu không biểu quyết, không có đại biểu nào không tán thành.

Từ tháng 09/2004, dự án luật đã được Bộ Tài Chính chỉ đạo chuẩn bị xây
dựng đề cương soạn thảo các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung với quan điểm
chỉ đạo là:


Sửa đổi, bổ sung những quy định của luật nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung và yêu cầu hội nhập của Hải quan nói riêng;



Nội luật hoá những chuẩn mực, cam kết quốc tế trong lĩnh vực Hải
quan bảo đảm tính công khai, minh bạch trong luật;



Đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá ngành Hải quan;



Khắc phục những hạn chế trong quá trình thực hiện luật hiện hành
nhằm đẩy mạnh hơn nữa yêu cầu cải cách hành chính về thủ tục Hải quan,
tạo thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh;

Có thể khẳng định, dự án luật được thông qua là một bước phát triển

mới về cơ sở pháp lý để ngành Hải quan thực hiện nhiệm vụ của mình
trong
giai đoạn cải cách, phát triển và hiện đại hoá Hải
quan.
3. CÁC NỘI DUNG CƠ BẢN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU
TRONG LUẬT HẢI QUAN
Luật được sửa đổi, bổ sung gồm 24 Điều có thể chia làm 3 nhóm
sau:

Quá trình triển khai


Tổng cục HQ đã tổ chức tổng kết 03 năm thực hiện luật Hải quan
trong phạm vi toàn ngành, đánh giá những mặt tích cực, những hạn chế
của luật hiện hành để rút ra những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung;



Rà soát tổng thể luật Hải quan hiện hành, đối chiếu với các Điều ước
quốc tế mà chủ yếu tập trung vào: công ước Kyoto, hiệp định Trips, hiệp
định trị giá GATT, công ước HS... Nội luật hoá.



Tổ chức hội thảo lấy ý kiến các cục trưởng Hải quan toàn ngành, lấy ý
kiến cộng đồng doanh nghiệp 2 khu vực phía Bắc và phía Nam, ý kiến
chuyên gia của ngân hàng thế giới về các nội dung sửa đổi, bổ sung...

 Dự thảo luật được uỷ ban thường vụ Quốc hội 03 lần cho ý kiến, được
uỷ

ban kinh tế ngân sách của Quốc hội thẩm tra 03 lần;



Nhóm 1: bao gồm các Điều (Điều 2; Điều 4; Điều 5; từ Điều 11 đến Điều
23; Điều 25; Điều 57; Điều 69; Điều 71; Điều 74) nhóm này bao gồm các
Điều cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định khác
liên quan.



Nhóm 2: bao gồm các Điều (Điều 8; Điều 16; Điều 17; Điều 18; Điều
20; Điều 22; Điều 23; Điều 27) mà trọng tâm là Điều 8 hiện đại hoá Hải
quan – thực hiện thủ tục Hải quan điện tử.



Nhóm 3: bao gồm các Điều (Điều 15; Điều 28; Điều 29; Điều 30; Điều 32).
Trọng tâm sửa đổi là Điều 15, thay đổi phương thức quản lý thủ công sang
phương pháp quản lý Hải quan hiện đại. (Phương pháp quản lý rủi ro. Mở
rộng phạm vi cho việc thực hiện kiểm tra sau thông quan).
3.1.
MỘT SỐ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHI TIẾT CỦA
NHÓM
1
3.1.1 Bổ sung phạm vi Điều chỉnh (Điều 2)

Quá trình xây dựng luật Hải quan trước đây, ban soạn thảo đã nhiều lần đề
nghị đưa khái niệm lãnh thổ Hải quan vào luật; tuy nhiên, đều không được
chấp nhận vì có nhiều ý kiến khác nhau và phần lớn đều cho rằng:

Chỉ có khái niệm lãnh thổ quốc gia, không thể có khái niệm lãnh thổ Hải
quan; đồng thời có ý kiến cho rằng nếu đưa khái niệm này vào quyền hạn của
cơ quan Hải quan sẽ bao trùm rộng khắp như vậy sẽ chồng chéo.


Lu ật sửa đổi lần này đã bổ sung khái niệm lãnh thổ Hải quan vào Điều 2
và giải thích thuật ngữ này tại Điều 4;
Quy định này có ý nghĩa khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của
nhà nước về Hải quan, còn địa bàn hoạt động của Hải quan đã được quy định
cụ thể trong luật hiện hành.
Với quy định mới này khẳng định: luật Hải quan có phạm vi Điều chỉnh
những vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về Hải quan, không chỉ
trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam, mà còn “trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm
lục địa của Việt Nam nơi luật Hải quan được áp dụng”. Quy định này tạo cơ sở
pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền thực hiện
quản lý
nhà nước về Hải quan;
Điều luật này được biểu quyết với 360/363 đại biểu có mặt, đạt: 72,87%,
chỉ
có: 02 đại biểu không tán thành và 01 đại biểu không biểu quyết.
3.1.2 Bổ sung Điều 5a sau Điều 5 về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
Hải quan
Điều này được hình thành trên cơ sở ý kiến đề nghị của hội nghị đại biểu
Quốc hội chuyên trách và ý kiến tham gia của cơ quan thẩm tra dự án luật.
Vì cho rằng: Hải quan là lực lượng đặc thù, mặc dù trong tổ chức bộ máy nhà
nước, tổng cục Hải quan không phải là cơ quan quản lý nhà nước, nhưng
Hải quan Việt Nam là thành viên của tổ chức Hải quan thế giới, trực tiếp thực
hiện quyền và nghĩa vụ với tư cách là thành viên của tổ chức này;

Tài Chính, vì vậy, luật cũng đã sửa đổi điểm A khoản 1 Điều này cho phù

hợp với thực tế.
3.1.5 Công chức Hải quan (Điều 14)
Khi đề cập đến vấn đề nghiệp vụ có liên quan đến quyền hạn và trách
nhiệm của công chức Hải quan, các đại biểu Quốc hội luôn đặt ra vấn đề về
tiêu chuẩn đặc thù của công chức Hải quan là gì? phải có Điều luật cấm
công chức Hải quan không được thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật gắn
liền với môi trường hoạt động đặc thù này.
Dự án luật đã bổ sung khoản 3 – Điều 14 về những việc cấm công chức
Hải quan không được thực hiện. Trong quy định này vừa thể hiện những yêu
cầu chung theo pháp lệnh công chức, nhưng cũng có những nội dung mang
tính riêng cho phù hợp với môi trường hoạt động đặc thù của công chức Hải
quan.
Quy định như vậy thể hiện rõ thái độ của nhà nước đối với những hành vi
vi phạm pháp luật của công chức Hải quan, thể hiện tính răn đe, phòng ngừa
của pháp luật, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm, tính tuân thủ pháp luật
của công chức Hải quan.
3.1.6 Thông quan hàng hoá, phương tiện vận tải (Điều
25) Khoản 4 Điều 25 được sửa đổi, bổ sung thành 2 trường
hợp:


Đối với hàng hoá phải chờ giám định để xác định có đủ Điều kiện
nhập khẩu hay không thì cơ quan Hải quan có thể chấp nhận cho chủ hàng
đưa hàng về bảo quản trong trường hợp có yêu cầu và phải bảo đảm
yêu cầu giám sát của Hải quan.



Trường hợp cơ quan Hải quan đã có cơ sở xác định hàng hoá đủ Điều
kiện để được xuất khẩu, hoặc nhập khẩu, nhưng còn phải chờ kết quả giám

định, kết quả phân tích phân loại hoặc chờ xác định giá để xác định số
thuế phải nộp. Thì căn cứ kết quả tự kê khai, tự tính thuế của chủ hàng,
đáp ứng các Điều kiện khác quy định tại điểm b - Khoản 2, khoản 3 Điều
này thì cơ quan Hải quan cho thông quan trước khi có kết quả giám định,
kết quả phân tích, phân loại, kết quả xác định giá.

Do vậy, cần ghi nhận tính đặc thù này trong luật, nhưng phải bảo đảm
đúng quy định về chức năng và phân cấp theo quy định của pháp luật. Vì vậy,
dự án luật đã bổ sung thêm Điều 5a và được Quốc hội thông qua.
3.1.3 Nhiệm vụ của Hải quan (Điều 11)
Bổ sung thêm nhiệm vụ thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu vào
Điều
11. Như vậy, đây sẽ là một trong năm nhiệm vụ chủ yếu của Hải quan.
Bổ sung nhiệm vụ này nhằm khẳng định giá trị pháp lý và tầm quan trọng
của số liệu thống kê hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của Hải quan.
3.1.4 Hệ thống tổ chức Hải quan (Điều 13)
Căn cứ quy định của luật tổ chức chính phủ và chương trình tổng thể cải
cách hành chính, chính phủ đã thực hiện việc sát nhập tổng cục Hải quan vào
Bộ

Quy định này xuất phát từ thực tiễn quá trình thực hiện luật hiện hành, đòi
hỏi phải có sự phân tách các trường hợp giám định để tạo thuận lợi hơn cho
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng như giảm ách tắc hàng hoá tại cửa khẩu;
đồng thời nội luật hoá chuẩn mực 3.42 của công ước Kyoto.


Nội dung này, quá trình thảo luận được sự đồng tình rất cao của cộng
đồng doanh nghiệp (thông qua hội thảo do Phòng Thương Mại Việt Nam tổ
chức) và của các vị đại biểu Quốc hội.
3.1.7 Sửa đổi bổ sung Đ57 về “tạm dừng thủ tục Hải quan:

Luật Hải quan hiện hành quy định nguyên tắc tạm dừng thủ tục Hải quan
gồm hai khoản, khoản 1 quy định quyền bảo hộ của “tài sản trí tuệ”; khoản
2 quy định thủ tục tạm dừng làm thủ tục Hải quan.
Tuy nhiên việc tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu có yêu cầu được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, là một quy định
hoàn toàn mới trong hệ thống pháp luật HQ.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được quy định tại bộ luật dân sự, nhưng việc
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới thì lần đầu tiên được quy định tại
luật
này. Hải quan chỉ ra quyết định tạm dừng làm thủ tục Hải quan trong Điều
kiện:


Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ phải có đơn đề nghị với Hải quan, phải
cung cấp những bằng chứng quyền sở hữu hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ.



Phải có những bằng chứng người nhập khẩu, người xuất khẩu vi
phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình.



Phải nộp một khoản tiền tạm ứng hoặc chứng từ bảo lãnh theo quy định
của pháp luật thì Hải quan mới dừng làm thủ tục Hải quan.

Những quy định của luật hiện hành đã tạo Điều kiện thuận lợi cho việc
bảo hộ tài sản trí tuệ, tuy nhiên để phù hợp với Hiệp định Trip mà Việt Nam
tham gia, cũng như tăng cường tính hiệu quả cho người được bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ, luật sửa đổi, bổ sung một số Điều bổ sung thêm cụm từ “chủ sở

hữu quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam
có quyền đề nghị dài hạn hoặc trong từng trường hợp cụ thể để cơ quan Hải
quan tạm dừng làm thủ tục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu vi phạm quyền sở trí
tuệ”.
Điều này tạo Điều kiện cho chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ không phải
mất thời gian đi lại khi có yêu cầu được bảo hộ.
3.1.8 Bổ sung quy định về tổ chức thu thuế và các khoản thu khác
(Điều 69)

Cho phù hợp với luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và phân cấp của
Bộ Tài Chính trong việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan Hải quan trong lĩnh
vực này.
Ngoài ra trong nhóm này luật sửa đổi, bổ sung Điều 71 về trị giá Hải quan
nhằm phục vụ cho công tác tính thuế và thống kê hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu.
Sửa đổi về cơ quan quản lý nhà nước về Hải quan cho phù hợp với việc
Tổng Cục Hải quan là cơ quan thuộc Bộ Tài Chính (Điều 74).
3.2.

MỘT SỐ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHI TIẾT CỦA NHÓM
2

Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số Điều cho phù hợp với phương thức
quản lý Hải quan hiện đại
3.2.1 Về hiện đại hoá quản lý Hải quan (Điều 8)
Đây là một trong những vấn đề trọng tâm trong sửa đổi, bổ sung luật
lần này. Quá trình thảo luận tại nhiều hội nghị đều có ý kiến khác nhau, đặc
biệt trong Điều kiện Quốc hội chưa thông qua luật giao dịch điện tử tạo cơ sở
pháp lý chung cho các lĩnh vực thực hiện.
Tuy nhiên, nghiên cứu một cách tổng thể thấy rằng: Điều 8 luật hiện hành

chưa quy định việc khuyến khích tổ chức, cá nhân có đủ Điều kiện được
quyền tham gia phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến để bảo
đảm áp dụng phương pháp quản lý Hải quan hiện đại và đặc biệt là chưa ghi
nhận chế định pháp lý về thủ tục Hải quan điện tử. Đây chính là điểm thiếu
của luật hiện hành trong Điều kiện hiện tại Hải quan Việt Nam đang nỗ lực
hiện đại hoá quản lý Hải quan theo phương pháp này.
Do vậy, Điều 8 đó được bổ sung thêm 2 nội dung cơ bản nêu trên và luật
cũng quy định giao chính phủ quy định cụ thể để phù hợp với lộ trình thực hiện
trong Điều kiện thực tế của Việt Nam. Để khẳng định vai trò của con người và
tổ chức đối với sự phát triển ngành Hải quan nói chung và hiện đại hoá quan lý
Hải quan nói riêng. Điều 8 của luật hiện hành đã quy định những nội dung cơ
bản về hiện đại hoá quản lý Hải quan, Điều này được coi là bước đột phá của
cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động Hải quan. luật sửa đổi bổ sung
một số Điều đã bổ sung “thực hiện giao dịch điện tử và thủ tục Hải quan điện
tử”, công nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử cho phù hợp với quy định
của pháp luật về giao dịch điện tử.


Điều luật này được thông qua với: 364/366 đại biểu có mặt đạt:
73,68%, không có ý kiến nào phản đối chỉ có 02 ý kiến không biểu quyết.
3.2.2 Bổ sung thêm các nội dung vào Điều 16, 17, 18, 20, 22, 23, 27
của luật hiện hành để bảo đảm thực hiện thủ tục Hải quan điện
tử
Cụ thể: Điều 8 luật sửa đổi đã bổ sung chế định pháp lý về thủ tục Hải
quan điện tử và giao chính phủ quy định cụ thể; Tuy nhiên, luật Hải quan vừa
là luật nội dung vừa là luật thủ tục. Những quy định về hồ sơ Hải quan, địa
điểm làm thủ tục Hải quan, quyền, nghĩa vụ của người khai Hải quan cũng
như của công chức Hải quan đã được quy định cụ thể trong luật hiện hành. Do
vậy có một số nội dung trong các quy định này sẽ không thể thực hiện được
khi thực hiện thủ tục Hải quan điện tử; Vì vậy phải bổ sung để làm cơ sở pháp

lý cho việc thực hiện.
3.3. MỘT SỐ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CHI TIẾT CỦA
NHÓM
3
3.3.1 Nguyên tắc tiến hành thủ tục Hải quan, chế độ kiểm tra giám
sát
Hải quan (Điều 15)
Tiêu đề của Điều 15 luật hiện hành là nguyên tắc tiến hành thủ tục
Hải quan, nhưng trong nội dung của Điều luật này lại chưa thể hiện rõ và đầy
đủ nguyên tắc kiểm tra Hải quan.
Luật sửa đổi đã bổ sung quy định về nguyên tắc kiểm tra Hải quan theo
phương pháp quản lý rủi ro, chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích thông tin đánh
giá mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật Hải quan.
Đây là nội dung mới của kiểm tra Hải quan và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng: Nguyên tắc này làm cơ sở cho việc quy định kiểm tra hồ sơ, kiểm tra
thực tế hàng hoá và kiểm tra sau thông quan tại các Điều 28, 30, 32 của luật.
Nguyên tắc này được hầu hết Hải quan các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng.
Nguyên tắc này là vấn đề mấu chốt của phương pháp quản lý Hải quan
hiện đại. Với nguyên tắc này, mục tiêu đặt ra là: việc kiểm tra Hải quan phải
được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm, dựa trên cơ sở phân tích và xử lý
thông tin, để công chức Hải quan có thẩm quyền quyết định mức độ kiểm tra,
nguyên tắc

này vừa tạo thuận lợi cho thương mại, vừa bảo đảm quản lý nhà nước về
Hải quan trong tình hình mới.
Khi thực hiện nguyên tắc này, sẽ làm thay đổi phương pháp quản lý hiện
tại. Việc thiết lập hệ thống thông tin từ nhiều nguồn khác nhau làm cơ sở cho
việc phân tích, đánh giá mức độ rủi ro trong quản lý Hải quan. Đây là vấn đề
quan trọng và phải được thực hiện ngay từ khi triển khai thực hiện luật sửa đổi.
3.3.2 Sửa đổi, bổ sung quy định về kiểm tra, đăng ký hồ sơ Hải

quan, (Điều 28), căn cứ và thẩm quyền quyết định kiểm tra
thực tế hàng hoá (Điều 29) và các hình thức kiểm tra thực tế
hàng hoá (Điều 30).
Đây là những Điều sửa đổi, bổ sung cốt lõi nhất của lần sửa đổi này.
Xuất phát từ nguyên tắc kiểm tra Hải quan được bổ sung tại khoản 1a - Điều

15.

Theo quy định của luật hiện hành, việc kiểm tra hồ sơ phải được thực
hiện chi tiết trước khi đăng ký tờ khai; Nay theo quy định mới của luật sửa đổi
thì:





Việc kiểm tra, đăng ký hồ sơ Hải quan (Điều 28) được chia làm 2 loại:
Một là: kiểm tra, đăng ký đối với hồ sơ Hải quan giấy;
Hai là: kiểm tra, đăng ký hồ sơ Hải quan điện tử;

Trong việc kiểm tra, đăng ký hồ sơ giấy bao gồm:


Thứ nhất: - Đối với hồ sơ Hải quan của chủ hàng có quá trình chấp
hành tốt pháp luật Hải quan theo quy định của chính phủ, căn cứ tờ khai
và nội dung khai của chủ hàng, cơ quan Hải quan chấp nhận đăng ký tờ
khai.




Thứ hai: - Khi thực hiện Hải quan điện tử, hồ sơ Hải quan được đăng
ký bằng phương tiện điện tử. Trường hợp có nghi vấn thì kiểm tra nội
dung khai báo với chứng từ thuộc hồ sơ.

Như vậy, vấn đề cơ bản là phải xây dựng tiêu chí chủ hàng có quá
trình chấp hành tốt pháp luật Hải quan gồm những tiêu chí nào; Việc tổ chức
thu thập thông tin để xác định và phân loại chủ hàng làm cơ sở cho việc xác
định hình thức kiểm tra hồ sơ như luật định là các nội dung cơ bản để thực
hiện Điều luật này.




Điều 29 được sửa đổi, bổ sung nội dung về cấp có thẩm quyền ra quyết
định kiểm tra thực tế và thay đổi hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá.
Thay cụm từ “cấp Chi Cục trưởng” theo quy định của luật hiện hành nay
sửa lại là: thủ trưởng cơ quan Hải quan nơi tiếp nhận và xử lý hồ sơ Hải
quan có thẩm quyền. Quy định này phù hợp với mọi trường hợp có địa
điểm được làm thủ tục Hải quan, cũng như tại Cục khi thực hiện thông
quan điện tử.



Điều 30. Các hình thức kiểm tra thực tế hàng hoá

Tuân thủ nguyên tắc được bổ sung nêu tại khoản 1a - Điều 15 là việc
kiểm tra Hải quan phải dựa trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá mức độ rủi
ro về vi phạm pháp luật, để vừa bảo đảm quản lý lại vừa hạn chế việc kiểm tra;
Quy định tỷ lệ kiểm tra cứng như luật hiện hành vừa không giảm thiểu
được kiểm tra thực tế hàng hoá trong quá trình thông quan, vừa không bảo

đảm được tính linh hoạt trong kiểm tra, đồng thời không phù hợp với luật
pháp quốc tế, chuyên gia nước ngoài khuyến nghị phải sửa nội dung này.
Điều luật này được sửa một cách căn bản, thay đổi hẳn phương pháp kiểm
tra theo luật hiện hành, cụ thể:


Khoản 1 Và 2: quy định các loại hàng hoá và loại đối tượng được miễn
kiểm tra thực tế (hay nói cách khác là quy định các trường hợp đương
nhiên thuộc diện miễn kiểm tra)

Quy định này mở rộng diện hàng hoá được miễn kiểm tra và tiêu chí chủ
hàng có quá trình chấp hành tốt pháp luật Hải quan là tiêu chí bao trùm.
Theo quy định của luật hiện hành: hàng hoá thuộc diện miễn kiểm tra phải đáp
ứng 2 tiêu chí là chủ hàng gắn với mặt hàng nhất định. Nay, luật sửa đổi quy
định tách
2 tiêu chí này thành từng trường hợp miễn kiểm tra cụ thể.




Khoản 3: quy định các trường hợp đương nhiên phải kiểm tra,
nhưng mức độ kiểm tra là bao nhiêu sẽ được hướng dẫn trong văn bản
dưới luật, thay vì quy định phải kiểm tra toàn bộ hàng hoá như quy định
của luật hiện hành.
Khoản 4: quy định những trường hợp việc kiểm tra thực tế được thực
hiện dựa trên cơ sở kết quả phân tích thông tin để đánh giá mức độ rủi
ro. Mức độ kiểm tra cụ thể sẽ được quy định trong văn bản dưới luật.

Quốc hội biểu quyết thông qua Điều luật này với: 352 đại biểu có mặt
đồng ý, chiếm 72,06%, có 02 đại biểu không tán thành, 06 đại biểu không biểu

quyết.
Với những quy định mới này sẽ không còn tỷ lệ “cứng” kiểm tra thực tế
trong luật; để thực hiện được quy định này, yêu cầu đặt ra là:


Phải nhanh chóng xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin trong toàn
ngành HQ, trang bị phương tiện hiện đại để đáp ứng được công tác kiểm
tra thực tế hàng hoá.




Yêu cầu đặt ra đối với ngành Hải quan là: phải xây dựng được đội ngũ
công chức Hải quan có phẩm chất chính trị đạo đức trong sáng, có bản lĩnh
chính trị vững vàng.



Có trình độ nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp chuyên sâu, có khả năng
tiếp cận, làm chủ và sử dụng các kỹ thuật Hải quan hiện đại, tự chịu trách
nhiệm để đáp ứng được yêu cầu chuẩn hoá công tác cán bộ.



Giảm tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hoá, thông quan nhanh chóng nhưng bảo
đảm kiểm soát và quản lý chặt
chẽ.
3.3.3 Quy định về kiểm tra sau thông quan (Điều 32)

Điều này được sửa đổi, bổ sung vẫn trên cơ sở nguyên tắc kiểm tra Hải

quan
đã được bổ sung tại khoản 1a - Điều 15.


Mở rộng phạm vi kiểm tra sau thông quan đối với các trường hợp không
chỉ có dấu hiệu vi phạm, mà kiểm tra sau thông quan còn được thực hiện
dựa trên cơ sở phân tích thông tin, để cơ quan Hải quan quyết định việc
kiểm tra.



Bổ sung trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc
cung cấp các chứng từ, tài liệu để cơ quan Hải quan thực hiện việc kiểm
tra sau thông quan.



Sửa thời điểm tính thời hạn kiểm tra sau thông quan cho phù hợp với Điều
23 của luật. Cụ thể: thời điểm kiểm tra sau thông quan là 5 năm "kể từ
ngày đăng ký tờ khai Hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu"
thay cụm từ "kể từ ngày hàng hoá được thông qua" của luật hiện hành.


CHƯƠNG 3



THỦ TỤC HẢI QUAN
1. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ



Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu

 Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của luật thuế tiêu thụ đặc biệt và luật
thuế
giá trị gia tăng số 57/2005/QH11
 Nghị định 149/NĐ-CP ngày 08/12/2005 quyu định chi tiết thi hành luật
thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu


Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của chính phủ qui định về
việc xác định trị giá Hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu



Nghị định 156/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 về việc sửa đổi bổ sung
các nghị định qui định chi tiết thi hành luật thuế tiêu thụ đặc biệt và luật
thuế giá trị gia tăng



Thông tư 113/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn thi hành luật thuế
xuất nhập khẩu

2. CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN


Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số Điều




Nghị định 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 qui định chi tiết một số
Điều của luật HQ về thủ tục HQ, kiểm tra giám sát HQ



Nghị định 79/2005/NĐ-CP ngày 16/6/2005 qui định về Điều kiện đăng
ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục HQ



Quyết định 149/2005/QĐ-TTG ngày 20/6/2005 về việc thực hiện thí
điểm thủ tục Hải quan điện tử



thông tư 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn về thủ tục
HQ, kiểm tra giám sát HQ



Thông tư 114/2005/QĐ-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn về kiểm tra
sau thông quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu



Quyết định 1951/QĐ-TCHQ ngày 19/12/2005 về qui trình thủ tục HQ đối
với hàng hoá xuất nhập khẩu


Quyết định 1952/QĐ-TCHQ ngày 19/12/2005 về ban hành qui chế tạm
thời cấp thẻ ưu tiên thủ tục HQ.
Ưu tiên làm thủ tục Hải quan đ/v chủ hàng chấp hành tốt pháp luật Hải quan

Thủ tục Hải quan, kiểm tra Hải quan, giám sát Hải quan được thực hiện
trên cơ sở đánh giá quá trình chấp hành pháp luật của người khai Hải quan,
có ưu tiên và tạo thuận lợi đối với chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về Hải
quan; hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu của chủ hàng đã nhiều lần vi phạm pháp
luật về Hải quan không được ưu tiên khi làm thủ tục Hải quan.
2.1.

CHỦ HÀNG CHẤP HÀNH TỐT PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN

Là người có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian 365 ngày
tính đến ngày làm thủ tục Hải quan cho lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu được cơ
quan Hải quan xác định là:


Không bị pháp luật xử lý về hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép
hàng hoá qua biên giới;



Không quá 02 lần bị xử lý vi phạm hành chính về Hải quan với mức
phạt vượt thẩm quyền của Chi cục trưởng Hải quan;



Không trốn thuế: không bị truy tố hoặc bị phạt ở mức một lần số thuế
phải nộp trở lên;




Không nợ thuế quá 90 ngày;



Thực hiện nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ.
2.2. CHỦ HÀNG NHIỀU LẦN VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ HẢI QUAN

Là người xuất khẩu, nhập khẩu có 365 ngày tính đến ngày làm thủ tục Hải
quan cho lô hàng xuất khẩu, nhập khẩu đã 03 (ba) lần bị xử lý vi phạm hành
chính về Hải quan, với mức phạt mỗi lần vượt thẩm quyền xử phạt của chi cục
trưởng Hải quan hoặc đã 01 (một) lần bị xử phạt vi phạm hành chính về
Hải quan với mức phạt vượt quá thẩm quyền xử phạt của Cục trưởng Hải quan.
2.3.

NỘI DUNG ƯU TIÊN



Hồ sơ Hải quan của chủ hàng chấp hành tốt PLHQ được đăng ký sau khi
cơ quan Hải quan kiểm tra việc ghi đủ nội dung yêu cầu trên TKHQ, số
lượng các chứng từ kèm theo TKHQ;



Được miễn kiểm tra thực tế hàng hoá.



×