Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nguồn điều ước Quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại Quốc tế ( Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa Quốc tế, Quy định Rome I 2008 về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.15 KB, 23 trang )

Đề bài: Nguồn điều ước Quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại Quốc tế ( Công
ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa Quốc tế, Quy định Rome I 2008 về luật áp
dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng).
Bài làm:
A – LỜI MỞ ĐẦU:
Hiện nay, tự do hóa thương mại trở thành xu thế của thời đại, với mục đích là xóa
bỏ mọi rào cản để hoạt động thương mại giữa các quốc gia được thuận lợi hơn,
phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế toàn cầu nói chung và mỗi quốc gia nói
riêng. Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư… Những hoạt động này đòi
hỏi phải sử dụng các công cụ pháp lý điều chỉnh khác nhau. Đó là những hợp đồng
thương mại quốc tế. Trong bài viết dưới đây, người viết muốn được đi vào phân
tích và làm rõ một trong những nguồn điều chinh hợp đồng thương mại quốc tế, đó
là các điều ước quốc tế.
I, GIỚI THIỆU NGUỒN ĐIỀU ƯỚC QUỐC TÊ ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ:
Nguồn Điều ước Quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại Quốc tế gồm có: Công
ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa Quốc tế; Quy định Rome I 2008 về luật áp
dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng.
1. Khái quát chung về công ước Viên 1980 và Quy định Rome I 2008:
 Công ước Viên 1980

22


Năm 1965, Liên Hiệp Quốc lập ra Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Luật Thương Mại
Quốc tế (“UNCITRAL”) với mục đích lập ra hệ thống luật chung cho các hợp
đồng mua bán quốc tế. Công ước này được đóng góp và bổ sung bởi các học viện,
tổ chức, thương nhân, nhà ngoại giao và luật sư từ hơn 61 quốc gia đại diện những
quy phạm pháp luật khác nhau. UNCITRAL nhất trí phê duyệt dự thảo và trình lên


Hội đồng Liên Hiệp quốc. CISG được phê duyệt chính thức năm 1980 tại Viên và
được dịch sang 6 ngôn ngữ: tiếng Ả Rập, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng
Nga và tiếng Tây Ban Nha. Hiện nay, Công ước Viên là một trong những công ước
quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất, với 74 thành viên
(tính đến ngày 11/4/2010/) ước tính CISG điều chỉnh khoảng 80% giao dịch
thương mại quốc tế.
Công ước Viên 1980 (“CISG”) được đưa ra nhằm mục đích giảm thiểu những
xung đột trong các giao dịch thương mại quốc tế nhờ đưa ra một khung pháp lý
thống nhất, có thể áp dung tại mọi quốc gia không phân biệt trình độ phát triển
kinh tế. Đối tượng áp dụng của Công ước là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các
bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau là thành viên của công ước và
một số trường hợp mua bán hàng hóa quốc tế khác1
 Công ước Rome:
Công ước Rome 1980 quy định về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng. Công
ước được ký kết ngày 19/6/1980 và có hiệu lực ngày 1/4/1991 về luật áp dụng đối
với quan hệ nghĩa vụ hợp đồng. Đây là điều ước quốc tế quan trọng được xây dựng
trên cơ sở thống nhất các nguyên tắc của tư pháp quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng
thương mại quốc tế. Công ước đã được các nước thành viên của Liên minh Châu
1

Việt Nam tham gia công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế (CISG) – Lợi ích và hạn chế:

/>
22


Âu phê duyệt một cách nhanh chóng và trở thành nguồn luật quan trọng điều chỉnh
các vấn đề về luật áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ hợp đồng hiện nay.
2. Vai trò của Điều ước Quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại Quốc tế
( Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế; Quy định

Rome I về luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng).
 Vai trò của Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc
tế:
Thứ nhất, CISG trở thành nguồn luật trong nước của rất nhiều quốc gia.
Thứ hai, CISG được đánh giá là góp phần cho các nguyên tắc UNIDROIT hay các
nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu ( PECL). Trên cơ sở nền tảng của CISG,
Các nguyên tắc này đã trở thành một nguồn luật quốc tế quan trọng, được nhiều
quốc gia và doanh nhân sử dụng trong thương mại giao dịch quốc tế.
Thứ ba, CISG cũng được khuyến khích áp dụng cho các giao dịch không thuộc
khuôn khổ CISG như một Lex Mercatoria. Nhiều doanh nhân các nước đã tự
nguyện áp dụng áp dụng CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình
mặc dù các giao dịch này không thuộc phạm vi áp dụng của Công ước.
 Vai trò của Quy định Rome I 2008 về áp dụng đối với nghĩa vụ hợp đồng:
Thứ nhất, với các bên tham gia giao kết hợp đồng thì những quy định về chọn lựa
luật áp dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ các quyền lợi chính đáng của
họ vì họ thường lựa chọn hệ thống pháp luật gần gũi và họ hiểu rõ nhất về sự lựa
chọn đó. Đối với các cơ quan tài phán thì luật áp dụng đối với hợp đồng còn là cơ
sở pháp lý để xem xét giá trị pháp lý của hợp đồng và giải quyết tranh chấp.
Thứ hai, sự ra đời của công ước này còn nhằm đảm bảo sự ổn định, tính thống nhắt
cho việc thực hiện các hợp đồng quốc tế, tránh sự thiếu hiểu biết lẫn nhau gây bất

22


đồng tranh chấp. Đặc biệt có thể coi đây là một hành lang pháp lý an toàn, đảm bảo
được khả năng dự liệu trước được mọi tình huống có thể phát sinh trong tương lai,
tránh rủi ro, thiệt hại đáng tiếc có thể xảy ra.
II, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế:
1, Phạm vi áp dụng:
Theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa thì phạm vi áp

dụng đối với công ước quy định rõ tại Điều 1 như sau:
"1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có
trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước
thành viên Công ước này.
2. Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến
nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành
hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin
giữa các bên.
3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân
sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng
của Công ước này."
Theo đó thì nếu các bên có trụ sở kinh doanh tại các nước tham gia Công ước
Viên, khi hợp đồng rơi vào phạm vi điều chỉnh của Công ước, hợp đồng được tự
động điều chỉnh bởi Công ước, trừ khi các bên trong hợp đồng qui định khác và
thỏa thuận khác đối với hợp đồng, Nếu là thành viên công ước Viên chịu sự điều
chỉnh của công ước này thì khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa thì phải tuân thủ

22


theo Công ước Viên . Có 2 trường hợp: một là, các bên tham gia hợp đồng đến từ
các nước thành viên Công ước khác nhau; hai là, hợp đồng giữa một bên là nước
thành viên và một bên là nước không tham gia công ước. ví dụ công ty A quốc
tịch Canada ký hợp đồng mua bán hàng hóa với công ty B quốc tịch Trung Quốc
thì hợp đồng giũa hai nước này chịu sự điều chỉnh của công ước Viên, bởi hai nước
đều là thành viên của Công ước Viên.

Tại Ðiều 4 công ước viên cũng quy định phạm vi điều chỉnh của công ước này như

sau: “ Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán và các quyền và
nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó”. Theo đó thì công
ước chỉ điều chỉnh việc điều chỉnh ký kết của hợp đồng cũng như quyền và nghĩa
vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng thuộc sự điều chỉnh của
công ước còn các vấn đề khác thì công ước không diều chỉnh.
Công ước quy định rất rõ về phạm vi điều chỉnh bên cạnh đó công ước cũng quy
định về phạm vi không áp dụng công ước đó là:
Ðiều 2: Công ước này không áp dụng vào việc mua bán:
a. Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán,
vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng,
không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như
thế.
b. Bán đấu giá.
c. Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật.
d. Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền
tệ.

22


e. Tàu thủy, máy bay và các chạy trên đệm không khí.
f. Ðiện năng.
Theo đó thì công ước không áp dụng đối với việc mua bán được liệt kê tại Điều 2
của công ước, Việc mua bán tại khoản 2 liêt kê như ở trên mang tính chất của cá
nhân, hay các mặt hàng hóa sự điều chỉnh phức tạp, nếu xảy ra tranh chấp thì công
ước Viên không điều chỉnh các tranh chấp đó. Bên cạnh đó thì công ước cũng
không được áp dụng tại Ðiều 5: “Công ước này không áp dụng cho trách nhiệm
của người bán trong trường hợp hàng của người bán gây thiệt hại về thân thể hoặc
làm chết một người nào đó”.
2, Nguyên tắc chọn luật điều chỉnh hợp đồng:

Nguyên tắc chọn luật điều chỉnh hợp đồng của công ước viên đã được quy định
trong khoản 1 điều 1 tại Phần I của công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế. Nó đã được quy định như sau:
“ 1. Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có
trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau.
a. Khi các quốc gia này là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc,
b, Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước
thành viên công ước này ”.
Ở đây, Công ước Viên 1980 đã quy định một nguyên tắc chung mang tính chất bắt
buộc cho việc chọn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng cách
đưa ra quy định về việc công ước chỉ có thể áp dụng cho các bên tham gia kí kết
hợp đồng mua bán hàng hóa phải có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau
với điều kiện kèm theo là khi các quốc gia đó của các bên kí kết hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế đều là các quốc gia thành viên của Công ước Viên 1980 hoặc là

22


khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế đó là luật của thành viên công ước này.
-Nêu ví dụ cho nguyên tắc?
Công ty A có trụ sở thương mại tại Mỹ và công ty B có trụ sở thương mại tại Việt
Nam đã kí kết hợp đồng mua bán chip điện tử và thỏa thuận sẽ dùng công ước
Viên 1980 về mua bán hàng hóa thương mại quốc tế để áp dụng cho hợp đồng mua
bán chip điện tử này. Như vậy, xét theo nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế của công ước Viên 1980 thì 2 Công ty A và B này
đều có trụ sở thương mại ở hai nước khác nhau.
-Nếu 2 quốc gia của 2 công ty A và B đặt trụ sở tại đó đều tham gia công ước thì
hợp đồng dĩ nhiên sẽ được áp dụng công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc
tế để giải quyết tranh chấp .

-Nếu chỉ có một quốc gia của 1 trong 2 công ty A và B tham gia Công ước Viên
1980 thì luật được lựa chọn áp dụng cho hợp đồng mua bán trên sẽ là luật của quốc
gia thành viên tham gia Công ước Viên 1980 mà 1 trong 2 công ty A hoặc công ty
B đã đặt trụ sở tại quốc gia thành viên này.
3) phạm vi lựa chọn luật áp dụng
Lựa chọn luật áp dụng là việc các bên khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa đã
thỏa thuận với nhau về việc lựa chọn luật áp dụng khi xảy ra tranh chấp. phạm vi
lựa chọn luật áp dụng cũng được áp dụng theo việc ký kết của các bên.
Tại Ðiều 6 công ước viên quy định
“ Các bên có thể loại bỏ việc áp dụng Công ước này hoặc với điều kiện tuân thủ
điều 12, có thể làm trái với bất cứ điều khoản nào của Công ước hay sửa đổi hiệu
lực của các điều khoản đó”

22


Nói cách khác, khi không muốn áp dụng Công ước Viên, các bên phải nêu rõ trong
hợp đồng rằng hợp đồng được điều chỉnh bởi luật quốc gia (ví dụ, các bên trong
hợp đồng là các công ty của Hoa Kỳ và Đức qui định “Hợp đồng này được điều
chỉnh bởi luật bang New York”) hoặc khi không sử dụng nguồn luật điều chỉnh
khác, Công ước Viên sẽ được ưu tiên lựa chọn luật áp dụng. Tóm lại, nếu các bên
không muốn áp dụng công ước Viên thì nên nêu rõ trong hợp đồng mua bán.
Công ước Viên cũng có thể được áp dụng đối với các giao dịch giữa các bên
không tham gia Công ước nếu các bên chỉ định trong hợp đồng.Ví dụ, giao dịch
giữa công ty của Đài Loan và Brazil (cả 2 nước này đều chưa tham gia công ước
Viên), Công ước Viên có thể được áp dụng nếu hai bên lựa chọn luật áp dụng, với
lưu ý là nếu Công ước Viên được áp dụng như một nguồn luật, nó sẽ được ưu tiên
áp dụng trong trường hợp có xung đột với luật nội địa nhưng nếu Công ước Viên
chỉ được áp dụng trong hợp đồng đơn lẻ, Công ước sẽ chỉ là một điều khoản của
hợp đồng, không thay thế các điều khỏan bắt buộc khác của luật quốc gia.

Ngoài ra, có những trường hợp mà Công ước Viên vẫn có thể được áp dung mặc
dù cả hai bên tham gia hợp đồng đều không phải là nước thành viên Công ước và
hợp đồng không dẫn chiếu tới Công ước. Đó là những trường hợp do tòa án sử
dụng
4) Nhận xét
Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, cho đến nay, Công ước Viên 1980 đã trở thành
một trong các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi
nhất. So với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa (như các công
ước Hague 1964), CISG có quy mô lớn hơn hẳn về số quốc gia tham gia và mức
độ được áp dụng. Hiện nay, có 74 quốc gia đã là thành viên công ước thuộc các hệ
thống pháp luật khác nhau từ các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia đang
phát triển, các quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như các quốc gia theo đường lối xã
22


hội chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục. Hầu hết các cường quốc về kinh tế trên thế
giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản…) đều đã tham gia CISG.
Uớc tính, Công ước này điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tư thương mại
hàng hóa thế giới. Trong thực tiễn, đã có hơn 2500 vụ tranh chấp được Tòa án và
trọng tài các nước, trọng tài quốc tế giải quyết có liên quan đến việc áp dụng và
diễn giải Công ước Viên 1980 phát sinh không chỉ tại các quốc gia thành viên mà
tại các quốc gia chưa phải là thành viên, Công ước vẫn được áp dụng, hoặc do các
bên trong hợp đồng lựa chọn như là luật áp dụng cho hợp đồng, hoặc do các tòa
án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp.
Trong bối cảnh giao dịch thương mại quốc tế đóng vai trò trụ cột với nền kinh tế
(gồm cả xuất, nhập khẩu hàng hóa), CISG đã góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy
sự phát triển của quan hệ thương mại về hàng hoá giữa các quốc gia,. mang lại lợi
ích đáng kể, không chỉ lợi ích kinh tế (đứng từ góc độ doanh nghiệp) mà lợi ích về
pháp lý (đứng từ góc độ của hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật); giúp thống
nhất hệ thống pháp luật về mua bán hàng hóa quốc tế giữa các quốc gia trên thế

giới với nhau, tăng cường mức độ hội nhập thế giới. Đồng thời giúp cho việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được nhanh
chóng và thuận lợi hơn.
Theo các chuyên gia và các doanh nghiệp, sở dĩ CISG được sử dụng một cách rộng
rãi, trở thành một trong những Công ước thống nhất về luật tư thành công nhất là
bởi:
Thứ nhất, CISG được soạn thảo và thực thi dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc - tổ
chức quốc tế liên chính phủ lớn nhất hành tinh một mặt tạo được sự tin cậy từ phía
các quốc gia (trong quá trình soạn thảo), mặt khác cũng nhận được sự tin tưởng của
đông đảo doanh nghiệp (trong quá trình thực thi).

22


Thứ hai, CISG là kết quả của quá trình thảo luận chi tiết với việc xem xét
đầy đủ và hợp lý các yêu cầu, tập quán thương mại của các quốc gia. Do sự khác
biệt về pháp luật của các quốc gia cũng như lợi ích mà các quốc gia hướng tới khi
tham gia vào Công ước mà quá trình soạn thảo CISG đã gặp rất nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, các điều khoản của CISG vẫn thể hiện được sự thống nhất, hài hòa các
quy phạm khác nhau trong pháp luật của các quốc gia tham gia soạn thảo, phản ánh
được mối quan tâm chung của các quốc gia này. Để đảm bảo cho tính chất quốc tế,
Công ước đã được soạn thảo bằng ngôn ngữ trung tính, đơn giản, tránh sử dụng các
khái niệm riêng của từng hệ thoongd luật của các quốc gia.
Thứ ba, các điều khoản của CISG được xây dựng một cách hiện đại, linh
hoạt, phù hợp với thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế. CISG được soạn thảo dựa
trên một nguồn luật quan trọng là các tập quán thương mại quốc tế, trong đó có cả
INCOTERMS của ICC. Nhiều điều khoản cụ thể của Công ước cũng có cách tiếp
cận rất linh hoạt (như sử dụng các điều khoản tùy nghi) để phù hợp với thực tiễn
rất phong phú về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đảm bảo được sự bình đẳng
giữa bên mua và bên bán trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế.

Trong khi CISG ngày càng được áp dụng rộng rãi, khẳng định vai trò quan
trọng của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hợp đồng thương
mại quốc tế thì trên thực tế vẫn còn tồn tại khuynh hướng loại trừ không áp dụng
Công ước này. Điều này được lý giải bởi: một là, mặc dù CISG được biết đến khá
rộng rãi nhưng mức độ am hiểu về việc áp dụng và chức năng của Công ước trên
thực tế vẫn rất thấp, do vậy mà vẫn áp dụng pháp luật trong nước. Hai là, khi một
bên trong hợp đồng có ưu thế thì bên đó thường thích sử dụng luật của nước mình
hơn để áp dụng cho hợp đồng. Ba là, các bên vẫn chưa bị thuyết phục về lợi ích
của CISG so với các luật trong nước về hợp đồng. Tuy nhiên, những lập luận này
đều không có tính thuyết phục bởi những lý do sau:

22


Thứ nhất, hiện nay tại các nước phương tây và các nước công nghiệp hóa, các bên
được tự do để chọn luật áp dụng cho hợp đồng của họ. Nhưng tại nhiều nước đang
phát triển và các nước chuyển đổi lại e ngại dành cho các thương nhân phương tây
quá nhiều lợi thế dẫn đến việc từ chối công nhận các điều khoản chọn luật. Ví dụ ở
Brazil, giá trị pháp lý của các điều khoản chọn luật được bàn cãi nhiều hơn hết. Do
đó, người mua từ Hoa Kỳ nhận hàng hóa từ người bán Brazil và tự tin giao kết trên
cơ sở Luật Thương mại mẫu của Hoa Kỳ có thể bị rơi vào tình trạng rất rủi ro khi
cố gắng kiện người bán ở các tòa án Brazil nơi áp dụng luật Brazil đối với hợp
đồng mua bán. Điều này dễ dẫn tới tình trạng một bên phải đương đầu với một luật
khó có khả năng dự đoán và thậm chí khó hiểu hoặc tiếp cận (Theo Tạp chí Luật
So sánh Hoa Kỳ).
Thứ hai, nếu điều khoản chọn luật được thừa nhận thì việc một bên yêu cầu áp
dụng luật của nước mình có thể vẫn gặp phải những trở ngại đáng kể khi kiện ra
tòa án của một nước khác, yêu cầu đặt ra là phải chứng minh luật được chọn tại
Tòa. Việc chứng minh được không phải dễ dàng, tốn kém trong khi vẫn phải đối
mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc giải thích và áp dụng luật này bởi sự

khác biệt về ngôn ngữ, trình độ…Do vậy, các trọng tài – những người đến từ các
hệ thống pháp luật khác nhau khó có thể thể áp dụng luật của một nước khác để
điều chỉnh.
Thứ ba, trong nhiều trường hợp, các bên viễn dẫn pháp luật nước thứ ba để
giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, nếu các bên chọn một luật (trung lập) của nước
thứ ba, họ thậm chí có thể rơi vào hoàn cảnh xấu hơn là chọn luật của chính một
trong các bên. Đầu tiên, họ phải tìm hiểu về luật nước ngoài này. Hơn nữa, khó
khăn và chi phí trong việc chứng minh nó thậm chí còn nặng nề hơn.
Tất cả những thiếu sót của luật trong nước nói trên có thể tránh được bằng
việc áp dụng CISG. Văn bản của CISG không chỉ có sẵn bằng 6 ngôn ngữ chính

22


thức mà còn được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác. Các quyết định của tòa, phán quyết
trọng tài cũng như các bài nghiên cứu cũng được viết hoặc dịch ra tiếng Anh.
Chúng có thể được tiếp cận dễ dàng không chỉ qua sách báo mà còn trên các trang
web. Một số lượng lớn các tài liệu pháp lý sẵn có là cơ sở để chúng ta tin rằng các
thẩm phán và trọng tài có thể tiếp cận được thông tin cần thiết và áp dụng CISG
dưới hình thức có thể dự đoán được. Việc tiếp cận CISG tốt hơn sẽ tiết kiệm thời
gian và chi phí, và kết quả của các vụ kiện cũng dễ dự đoán hơn. Điều này là lợi
thế cơ bản của CISG khi so sánh với việc áp dụng luật trong nước.
III, QUY TẮC ROME I (RIR) VỀ LUẬT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGHĨA VỤ
HỢP ĐỒNG
1.

Phạm vi áp dụng của RIR

a.


Phạm vi áp dụng của RIR

RIR được áp dụng đối với các quan hệ có xung đột pháp luật về nghĩa vụ hợp đồng
trong lĩnh vực dân sự, thương mại.
Ví dụ: Hai pháp nhân của hai quốc gia A và B đều là thành viên EU giao kết một
hợp đồng mua bán hàng hoá. Đây là lĩnh vực được luật quốc gia điều chỉnh. Luật
quốc gia A quy định trong hợp đồng mua bán hàng hoá, các bên có nghĩa vụ A.
Luật quốc gia B lại quy định cũng trong một hợp đồng mua bán hàng hoá như vậy,
các bên có nghĩa vụ B. Giữa nghĩa vụ A và nghĩa vụ B có sự khác biệt. Do đó, để
đi đến các nghĩa vụ thống nhất trong hợp đồng mua bán giữa hai pháp nhân của hai
quốc gia trên, các bên phải tuân thủ các quy tắc về chọn luật áp dụng của RIR. Nhờ
đó sẽ tránh được tình trạng vô hiệu hợp đồng theo luật quốc gia nếu các bên không
thoả thuận được luật áp dụng.
b.

Phạm vi không áp dụng của RIR

22


RIR không áp dụng đối với các khoản thu nhập. dịch vụ khách hàng, lĩnh vực hành
chính.
Ngành luật hành chính là ngành luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nguyên tắc lãnh
thổ, tức là nó chỉ có tác động đối với những hành vi xảy ra trong phạm vi lãnh thổ,
chứ không vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ, trừ một số trường hợp nhất định. Do đó
trong ngành luật này không xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật giữa các quốc gia
thành viên. Bởi vậy, lĩnh vực hành chính không nằm trong phạm vi áp dụng của
RIR.
Bên cạnh đó, việc các khoản thu nhập và dịch vụ khách hàng cũng không thuộc
phạm vi điều chỉnh của RIR, theo nhóm tác giả, điều này được giải thích như sau:

các khoản thu nhập và dịch vụ khách hàng thông thường đạt được là do sự thoả
thuận giữa các bên. Do vậy, không xảy ra xung đột pháp luật giữa các quan hệ này.
Bởi đó, RIR cũng không điều chỉnh các quan hệ về các khoản thu nhập và dịch vụ
khách hàng.
Tương tự như vậy, khoản 2 Điều 1 RIR ghi nhận các lĩnh vực sau cũng không áp
dụng giải quyết theo RIR:
- Quy chế nhân thân, năng lực cá nhân;
- Nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ nhân thân, quan hệ cấp dưỡng;
- Nghĩa vụ phát sinh từ tài sản chung của vợ chồng, từ quan hệ thừa kế;
- Nghĩa vụ phát sinh từ việc thanh toán bằng hối phiếu, séc, giấy hẹn trả nợ, hay
các hình thức khác…
- Thỏa thuận chọn trọng tài và thỏa thuận chọn Tòa án.
- Quy chế pháp lý, pháp nhân: thành lập, đăng kí, mua bán, sáp nhập công ty.

22


- Hợp đồng bảo hiểm phát sinh từ hoạt động của các tổ chức mà chưa được quy
định ở Điều 2 Chỉ thị 2002/83/EC (Directive 2002/83/EC) ngày 5/11/2002.
Các lĩnh vực trên đây cũng là các lĩnh vực chịu sự chi phối mạnh mẽ của luật quốc
gia hoặc sự thoả thuận giữa các bên tham gia. Do đó, với mục đích tôn trọng chủ
quyền quốc gia và quyền được thoả thuận giữa các bên, RIR không điều chỉnh
những quan hệ thuộc các lĩnh vực này.
2, Nguyên tắc chọn luật điều chỉnh hợp đồng
Quy tắc Rome I quy định nguyên tắc cơ bản chọn luật điều chỉnh hợp đồng là
nguyên tắc tự do chọn luật áp dụng. Điều này được thể hiện rõ tại Khoản 1 Điều 3
của quy tắc : “hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn”. Do vậy,
có thể khẳng định rằng các bên có quyền chọn luật áp dụng. Lựa chọn này phải
được tôn trọng.
Sự chọn luật sẽ phải được thể hiện rõ ràng thông qua các điều khoản hợp đồng.

Khi các bên lựa chọn luật áp dụng thì lựa chọn đó trở thành một bộ phận của hợp
đồng. Các hành vi vi phạm luật điều chỉnh tức là vi phạm hợp đồng. Thẩm phán và
các bên liên quan đều chịu sự ràng buộc của luật điều chỉnh hợp đồng.
Khoản 1 Điều 3 của Quy tắc Rome I cũng thừa nhận các bên có quyền lựa chọn
luật điều chỉnh cho toàn bộ hoặc một phần hợp đồng. Khi cho phép các bên lựa
chọn luật áp dụng cho một phần của hợp đồng có thể xảy ra trường hợp các phần
hợp đồng khác nhau được các bên lựa chọn áp dụng nhiều hệ thống luật khác nhau.
Ngay cả khi chọn luật áp dụng cho toàn bộ hợp đồng, vẫn có trường hợp các bên
lựa chọn nhiều luật áp dụng cho hợp đồng của họ để phòng ngừa những tình huống
mà một hệ thống không quy định hết. Bởi ngay cả những hệ thống pháp luật được
cho là lớn trên thế giới cũng có những khe hở hoặc những quy định không rõ ràng.

22


Về thời điểm chọn luật áp dụng và thay đổi luật được lựa chọn Khoản 2, Điều 3
của Quy tắc Rome I ghi nhận : Tại bất kỳ thời điểm nào, các bên có thể thỏa thuận
chọn một luật khác với luật đã điều chỉnh hợp đồng trước đây, ngay cả khi hợp
đồng này trước đó đã được thỏa thuận áp dụng điều khoản này hoặc điều khoản
khoản khác của quy tắc Rome I. Mọi sự thay đổi về luật áp dụng sau thời điểm hợp
đồng được ký kết không được làm ảnh hưởng đến tính hợp pháp về hình thức của
hợp đồng hoặc ảnh hưởng bất lợi đến quyền của bên thứ ba.
Ngoài ra, Quy tắc Rome I cũng ghi nhận quyền của các bên được tự do lựa chọn
luật áp dụng cho hợp đồng dù đó là luật của các nước thành viên EU hay không.
Như vậy, luật được lựa chọn không giới hạn trong luật của các nước thành viên. Ví
dụ như một công ty của Anh kí kết hợp đồng với một công ty của Pháp. Hai bên
thỏa thuận sẽ lựa chọn luật của Liên Bang Nga để áp dụng. Điều này hoàn toàn
hợp pháp. Tuy nhiên, việc lựa chọn luật của một nước khác trong thực tế rất khó có
khả năng xảy ra vì không am hiểu hệ thống luật nước khác sẽ dẫn tới sự khó khăn
khi áp dụng pháp luật.

Tuy được tự do lựa chọn luật điều chỉnh hợp đồng nhưng trong thực tế quyền này
vẫn bị hạn chế ở một số điều. Cụ thể như: Quy tắc Rome I không cho phép các bên
ký kết hợp đồng chọn những nguồn luật không phải là luật của một quốc gia; Quy
tắc cũng hạn chế quyền chọn luật áp dụng đối với một số hợp đồng nhất định. Đó
là hợp đồng tiêu dùng, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bảo hiểm và hợp đồng lao
động nhằm bảo vệ lợi ích của bên “yếu hơn”, ít có cơ hội “mặc cả” hơn trong quan
hệ hợp đồng; Trong trường hợp hợp đồng được thỏa thuận sẽ được áp dụng bởi
pháp luật của một quốc gia mà hai bên đã nhất trí thì sự thỏa thuận của các bên
không được làm phương hại đến luật của quốc gia đó. Theo điều khoản này, việc
áp dụng những quy phạm của luật xác định theo Quy tắc Rome I sẽ bị từ chối nếu
việc áp dụng đó biểu hiện mâu thuẫn với chính sách công của nước có tòa án giải

22


quyết vụ việc. Trong trường hợp hợp đồng được áp dụng ở một nước hay nhiều
nước thành viên Liên minh thì sự thỏa thuận của các bên cũng không được làm
phương hại tới luật chung của Cộng đồng (Law Community).
Ngoài ra, trong trường hợp các bên không chọn luật áp dụng, luật điều chỉnh sẽ
được xác định như sau:Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa áp dụng luật nơi cư trú
của người bán.Đối với hợp đồng dịch vụ sẽ áp dụng luật nơi cư trú của bên cung
cấp dịch vụ.Đối với hợp đồng liên quan đến mua bán bất động sản hay thuê bất
động sản áp dụng luật nơi có bất động sản.
3. Phạm vi chọn luật áp dụng cho hợp đồng
Về nguyên tắc, luật được chọn có thể là luật của bất cứ hệ thống pháp luật nước
ngoài nào mà các bên thỏa thuận.
Luật được chọn theo Rome I sẽ được áp dụng bất kể đó có phải là luật của nước
thành viên hay không. Như vậy luật được chọn không giới hạn trong luật của nước
thành viên liên minh châu Âu.
Quy định này cho phép các bên chọn luật áp dụng cho toàn bộ hay một phần hợp

đồng. Điều 3 quy định “bằng thỏa thuận của mình, các bên có thể chọn luật áp
dụng cho một phần hay toàn bộ hợp đồng.” Khi cho phép các bên lựa chọn luật áp
dụng cho một phần của hợp đồng có thể xảy ra trường hợp các phần hợp đồng khác
nhau được các bên lựa chọn áp dụng nhiều hệ thống khác nhau. Ngay cả khi luật
áp dụng cho toàn bộ hợp đồng, vẫn có trường hợp các bên chọn nhiều luật áp dụng
cho hợp đồng của họ để phòng ngừa những tình huống mà một hệ thống luật không
quy định hết. Bởi ngay cả những hệ thống pháp luật được cho là lớn trên thế giới
cũng có những khe hở hoặc những quy định không rõ ràng. Rome I không nói rõ
về vấn đề này, tuy nhiên nhiều chuyên gia Tư pháp quốc tế ở châu Âu cho rằng nên

22


cho phép các bên lựa chọn hai hay nhiều hệ thống pháp luật để chi phối hợp đồng
của họ.
Luật lựa chọn theo Rome I thì không đòi hỏi luật lựa chọn phải có mối quan hệ
thực chất với hợp đồng như pháp luật một số nước (Mỹ).
Tuy nhiên, không phải lúc nào các bên chọn luật áp dụng cho hợp đồng thì luật đó
cũng đương nhiên được áp dụng, mà có những hạn chế:
Thứ nhất, đối với hợp đồng nội địa: Đây là hợp đồng không có các yếu tố
như: một trong các bên thường trú tại nước ngoài hoặc thành lập tại nước ngoài
hoặc có nơi kinh doanh tại nước ngoài; hợp đồng được ký ở nước ngoài và hợp
đồng được thực hiện ở nước ngoài. Trong đó, các bên không bị cấm thỏa thuận
chọn luật nước ngoài áp dụng nhưng sự thỏa thuận đó không có hiệu lực hoàn toàn,
nó bị hạn chế bởi các quy định bắt buộc của nước có mối quan hệ độc nhất với hợp
đồng.
Thứ hai, Quy định này không cho phép các bên ký kết chọn nguồn luật không phải
là luật của một quốc gia. Vì vậy tập quán quốc tế cũng như những nguyên tắc châu
Âu về hợp đồng hay Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương maị quốc tế
không được chọn làm luật áp dụng cho hợp đồng.

Thứ ba, Quy định này hạn chế khả năng chọn luật của 4 loại hợp đồng : hợp đồng
tiêu dùng, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng bào hiểm, hợp đồng lao động nhằm bảo
vệ lợi ích của bên yếu hơn, hoặc ít có cơ hội mặc cả hơn trong quan hệ hợp đồng.
Thứ tư, Rome I có 2 điều khoản hạn chế áp dụng luật được lựa chọn là Điều 9
“Quy phạm bắt buộc ưu tiên” và Điều 21 “ Chính sách công của Tòa án”. Theo
Điều 9 thì quy phạm bắt buộc ưu tiên là quy phạm then chốt của một quốc gia để
đảm bảo lợi ích công như là các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế. Còn Điều 21
thường được các nước châu Âu áp dụng với tiêu chuẩn quốc tế, tức là chính sách

22


công quốc tế. Theo điều khoản này, việc áp dụng nhưng quy phạm luật xác định
theo Rome I sẽ bị từ chối nếu việc áp dụng đó mâu thuẫn với chính sách công của
nước có tòa án giải quyết vụ việc.
Phạm vi điều chỉnh của luật áp dụng
Theo điều 12 của Quy định thì luật áp dụng đối với hợp đồng sẽ điều chỉnh các nội
dung sau: Giải thích hợp đồng, thực hiện hợp đồng, hệ quả của vi phạm một phần
hoặc toàn bộ hợp đồng, hệ quả của hợp đồng vô hiệu, các trường hợp chấm dứt
nghĩa vụ hợp đồng, thời hiệu.
3. Hướng gia nhập công ước Viên 1980 của Việt Nam
Công ước Viên năm 1980 của Liên hiệp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế (CISG) là một trong các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp
dụng rộng rãi nhất, điều chỉnh các giao dịch chiếm đến 2/3 thương mại hàng hóa
thế giới. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa gia nhập Công ước Viên. Vậy hướng gia
nhập Công ước này của Việt Nam như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, trước tiên
cần phải xem xét tính lợi, hại của việc gia nhập Công ước này.
a.

Gia nhập công ước này mang lại khá nhiều lợi ích:


1 . Lợi ích đối với hệ thống pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, việc gia nhập CISG sẽ giúp thống nhất pháp luật về mua bán hàng hóa
quốc tế của Việt Nam với nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, khi Việt Nam gia
nhập CISG, sẽ giảm bớt xung đột pháp luật trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc
tế, tạo khung pháp luật thống nhất, hiện đại trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, một
lĩnh vực vẫn luôn chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại quốc tế của Việt Nam.
Thứ hai, việc gia nhập CISG sẽ đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham gia
vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng cường mức độ hội nhập
của Việt Nam. Mặt khác, các quốc gia ASEAN, tại Diễn đàn Pháp luật ASEAN lần
22


III đã khuyến nghị các quốc gia gia nhập Công ước Viên 1980 nhằm hài hòa hóa
pháp luật về mua bán hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN. Việc Việt Nam và các
thành viên ASEAN khác gia nhập CISG sẽ giúp hài hòa hóa pháp luật về mua bán
hàng hóa trong khuôn khổ ASEAN.
Thứ ba, việc gia nhập CISG giúp hoàn thiện pháp luật về mua bán hàng hóa quốc
tế nói riêng và pháp luật về mua bán hàng hóa nói chung của Việt Nam. Khi Việt
Nam gia nhập CISG thì các điều khoản của Công ước này sẽ trở thành các quy
phạm của pháp luật Việt Nam áp dụng cho các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế
có liên quan.
Thứ tư, gia nhập CISG cũng sẽ là điều kiện để việc giải quyết tranh chấp, nếu có,
từ các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thuận lợi hơn. Với phạm vi áp dụng
rộng của CISG, các chủ thể có thể không cần xem xét, nghiên cứu nguồn luật nước
nào khác CISG. Việc giải thích và áp dụng CISG dễ dàng hơn việc viện dẫn một hệ
thống luật quốc gia.
2. Lợi ích đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Thứ nhất, khi Việt Nam gia nhập CISG, các doanh nghiệp Việt Nam có thể giảm
bớt chi phí và thời gian đàm phán lựa chọn luật áp dụng; giảm bớt khó khăn và chi

phí phát sinh chọn luật nước ngoài; tránh được việc phải sử dụng đến quy phạm
xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho hợp đồng.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có được một khung pháp lý hiện đại, công
bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ hợp
lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh. CISG đã đưa ra những giải pháp nhằm
giải quyết hầu hết mọi vấn đề pháp lý có thể phát sinh trong quá trình giao kết,
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nên nếu các bên làm hợp đồng trên
một cơ sở luật chung thì sẽ dễ dàng cho thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.

22


Thứ ba, việc áp dụng Công ước Viên 1980 sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tránh
được những tranh chấp phát sinh trong kinh doanh quốc tế nhất là khi Việt Nam
đang trên con đường hội nhập nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh các hoạt động thương
mại quốc tế, trong đó chủ yếu là thương mại hàng hóa.
Tồn tại một số điểm bất cập:
Thứ nhất, các quy định của CISG không bao trùm mọi vấn đề pháp lý có liên quan
đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì vậy, các bên ký kết hợp đồng vẫn
đồng thời phải quan tâm đến các nguồn luật khác. Điều này nếu không làm rõ có
thể dẫn doanh nghiệp, người làm luật lơ là trong việc tìm hiểu và áp dụng các văn
bản pháp luật khác, có thể bị động khi xảy ra tranh chấp ngay cả khi đã có CISG.
Ngoài ra, trong giao dịch buôn bán quốc tế, có những điều khoản hợp đồng chuẩn
cho mua bán một số loại hàng hóa như dầu, gạo, hoa quả tươi, cà phê… và thường,
các bên không muốn từ bỏ những điều khoản đã được sử dụng rộng rãi và quen
thuộc này. Do đó cho dù Việt Nam có gia nhập CISG thì rất có thể CISG vẫn sẽ
không điều chỉnh những hợp đồng mua bán quốc tế loại này.
Thứ hai, CISG chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới phát sinh
trong thương mại quốc tế. Vì vậy các doanh nghiệp vẫn cần những hệ thống pháp
luật khác để xử lý các vấn đề mới dù đã chọn CISG cho hợp đồng của mình.

Thứ ba, dù thành công ở hầu hết các nước thành viên, ở một vài nước khác, CISG
không thành công như mong đợi. Điển hình nhất là tại Hoa Kỳ. Lưu ý về trường
hợp của Hoa Kỳ sẽ đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp ký kết hợp đồng
mua bán hàng hóa với đối tác Hoa Kỳ, đặc biệt khi tranh chấp được xét xử tại Hoa
Kỳ.
Thứ tư, vẫn còn một số nước khác chưa gia nhập Công ước này, đáng kể nhất là
Vương quốc Anh và các nước khu vực ASEAN. Vì vậy CISG sẽ không phát huy

22


hiệu quả trong những trường hợp hợp đồng mua bán được ký kết giữa doanh
nghiệp Việt Nam với doanh nghiệp đối tác thuộc nước chưa gia nhập CISG.
Thứ năm, CISG còn khá mới mẻ với Việt Nam. Vì vậy các doanh nghiệp, tòa án,
trọng tài ở Việt Nam cần có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu, hiểu rõ khi áp dụng
CISG trong các quan hệ giao dịch thương mại quốc tế.
Ngoài ra, Công ước 1980 hiện được lưu hành theo 6 thứ tiếng (không phải tiếng
Việt), và điều này có thể gây khó khăn khi áp dụng Công ước (đặc biệt khi chúng
ta hiểu không đúng hoặc không đủ ý nghĩa hàm chứa trong các quy định cụ thể).
Mặc dù có tồn tại một vài điểm bất cập, nhưng xét về lâu dài, việc gia nhập CISG
đối với Việt Nam sẽ lợi nhiều hơn, những bất cập đó có thể được khắc phục. Bởi
vậy Việt Nam cần sớm gia nhập công ước này.
3. Một số kiến nghị
Chính phủ cần nghiên cứu và có kế hoạch thực hiện các thủ tục cần thiết để Việt
Nam có thể gia nhập Công ước Viên trong thời gian sớm nhất. Khi gia nhập Công
ước Viên, cần chú ý một số vấn đề mà Công ước cho phép các quốc gia thành viên
bảo lưu như Điều 96, Điều 12 liên quan đến hình thức của hợp đồng, theo đó, các
quốc gia mà pháp luật đòi hỏi các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được
lập thành văn bản có thể bảo lưu không áp dụng nguyên tắc tự do về hình thức.
Hiện tại, các Tòa án, trọng tài khi xem xét các tranh chấp có liên quan đến hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể dẫn chiếu đến các điều khoản của Công ước
này, còn các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu và hiểu được những lợi ích
mà Công ước đem lại cho mình, có thể lựa chọn Công ước này là luật áp dụng cho
hợp đồng.
Ngoài ra, cũng cần phải chú ý đến các trường hợp CISG được áp dụng tại các
quốc gia chưa phải là thành viên theo quy định tại điều 1.1.b. CISG, các tranh chấp

22


về mua bán hàng hoá quốc tế giữa doanh nghiệp Việt Nam và các đối tác nước
ngoài có thể sẽ được giải quyết bằng CISG bởi các tòa án hay trọng tài Việt Nam
và quốc tế.

22


MỤC LỤC

22



×