Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Sự tác động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán tới thị trường chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.59 KB, 15 trang )

Bộ môn Luật Chứng khoán

I. Khái quát chung về thị trường chứng khoán và chủ thể kinh doanh
chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán
1.1 Khái niệm thị trường chứng khoán
Đối với Việt Nam, trong những năm gần đây, Nhà nước đã dành nhiều sự
quan tâm đến thị trường chứng khoán thông qua việc đưa ra các biện pháp tác
động tương hỗ để quản lý cũng như vận hành đồng bộ cùng với các thị trường
khác trong thị trường tài chính.
Thị trường chứng khoán, trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại được
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi chứng khoán. Việc
mua bán này được tiến hành trên thị trường sơ cấp khi người mua mua được
chứng khoán lần đầu từ những người phát hành và ở những thị trường thứ cấp
khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ
cấp.Như vậy xét về mặt hình thức thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các
hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán qua đó thay
đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán
1.2. Vai trò của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có vai trò đặc biệt quan trọng tại các quốc gia có
nền kinh tế thị trường, nó phản ánh rõ nét nhất các qui luật của nền kinh tế thị
trường. Các chuyên gia kinh tế đều đưa ra kết luận, thị trường chứng khoán tạo
sức cạnh tranh và thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của các bộ phận thị trường tài
chính; là thước đo về sự phát triển và mức độ nhận diện của nền kinh tế.
Lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường ở các quốc gia phát triển đã
khẳng định thị trường chứng khoán ngày càng có vai trò quan trọng trong quá
trình vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế
toàn cầu. Đối với Việt Nam, để hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính,
tạo các tiền đề kinh tế quan trọng, đưa đất nước ta đến năm 2020 cơ bản là một
nước công nghiệp như Đại hội Đảng VIII đã đề ra thì việc xây dựng, phát triển
và hoàn thiện thị trường tài chính là hết sức cần thiết.




Bộ môn Luật Chứng khoán
-

Thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài hạn hữu hiệu
cho các doanh nghiệp:
Thị trường chứng khoán là nơi thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nhàn rỗi

vào đầu tư sản xuất kinh doanh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo thành nguồn
vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các định chế tài chính khác không làm
được. Thông qua các công cụ cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng khoán khác, thị
trường chứng khoán cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng, kể cả
Chính phủ, chính quyền địa phương huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã
hội, đưa vào đầu tư phát triển.
-

Thị trường chứng khoán khuyến khích người dân tiết kiệm để đầu tư vào
sản xuất kinh doanh:
Với việc mua bán chứng khoán dễ dàng trên thị trường chứng khoán(theo

nguyên tắc ai có tiền đều có thể mua), nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư
được sử dụng một cách linh hoạt, tạo ra lợi nhuận, tránh tình trạng “vốn chết”.
TTCK được coi là chiếc cầu nối vô hình giữa người có vốn và người thiếu vốn,
là kênh điều hoà các nguồn vốn từ nới thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giải quyết
linh hoạt nhu cầu về vốn giữa các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế.
-

Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn có
hiệu quả hơn, đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động theo đúng trật tự

của luật pháp:
Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp làm ăn “đàng hoàng”

hơn, hiệu quả hơn bởi tâm lý chung của các nhà đầu tư là chỉ muốn mua chứng
khoán của các doanh nghiệp làm ăn minh bạch và có lãi do đó thị trường chứng
khoán buộc các doanh nghiệp phải công khai thông tin thường xuyên, tức thời
theo yêu cầu của Uỷ ban chứng khoán nhà nước. Có thể nói, thị trường chứng
khoán là thị trường thông tin, thông qua các thông tin này, nhà đầu tư có thể
đánh giá khả năng tài chính, hoạt động kinh doanh và triển vọng của doanh
nghiệp để lựa chọn đầu tư. Vì vậy, muốn tồn tại được không có cách nào khác là
doanh nghiệp phải làm sao sử dụng đồng vốn cho có hiệu quả nhất. Thêm vào


Bộ môn Luật Chứng khoán

đó, thị trường chứng khoán cũng là công cụ đánh giá doanh nghiệp. Thông qua
diễn biến giá cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp trên thị trường, nhà đầu tư
biết được khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Hay nói cách khác, nhà đầu tư
có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý công ty và
nhận biết được khả năng hoạt động của công ty thông qua thị trường chứng
khoán.
2. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán theo pháp luật Việt Nam
Khoản 19 Điều 6 Luật Chứng khoán 2006 quy định “Kinh doanh chứng
khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký
chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán”
Chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán có nhiều loại như:
Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán; công ty đầu tư
chứng khoán và một số chủ thể khác cung cấp các dịch vụ có liên quan

a. Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán với tư
cách là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Công ty chứng khoán là tổ
chức kinh tế có tư cách pháp nhân, được thành lập theo hình thức mà pháp luật
quy định; đối tượng kinh doanh chủ yếu và mang tính chất nghề nghiệp là chứng
khoán. Dấu hiệu đặc trưng của công ty chứng khoán là tư cách thành viên của Sở
giao dịch chứng khoán, với các hoạt động kinh doanh chủ yếu gồm có: môi giới
chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán…Trên
thực tế, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán có vai trò rất quan trọng
trong việc mua, bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung nên còn
được gọi là công ty môi giới.
Theo nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán được thành lập
dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn theo giấy phép
của ủy ban chứng khoán nhà nước cấp.
b. Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ đầu tư


Bộ môn Luật Chứng khoán

* Quỹ đầu tư:
Quỹ đầu tư là tổ chức hoạt động theo phương thức huy động vốn thông
qua phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ của quỹ, để đầu tư vào chứng khoán và
các loại tài sản tài chính khác với mục đích làm tăng giá trị tài sản của quỹ.
Thông thường các chủ thể tham gia vào hoạt động của quỹ bao gồm:
+ Công ty quản lý quỹ: thực hiện quản lý quỹ đầu tư đảm bảo phù hợp
với điều kiện quỹ và làm tăng tài sản của quỹ.
+ Tổ chức quản lý tài sản của quỹ: thực hiện bảo đảm, lưu ký chứng
khoán, các hợp đồng kinh tế, các chứng từ có liên quan đến tài sản quỹ.
+ Tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ: tuỳ mô hình quỹ mà tổ

chức này thường do ngân hàng hoặc Hội đồng quản trị của quỹ thực hiện với
chức năng chủ yếu là kiểm tra, kiểm soát hoạt động của quỹ và công ty quản lý
quỹ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhà đầu tư.
+ Tổ chức kiểm toán độc lập: thực hiện kiểm soát hàng năm về tài sản và
hoạt động quản lý của công ty quản lý Quỹ để đảm bảo các số liệu báo cáo nhà
đầu tư là chuẩn xác.
+ Tổ tư vấn luật: thực hiện tư vấn về pháp luật cho hoạt động của quỹ
đồng thời giám sát, quản lý chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro và bảo vệ lợi ích
cho nhà đầu tư.
- Người lưu giữ chứng khoán
Đóng vai trò là người bảo quản tài sản của quỹ đồng thời giám sát hoạt
động của công ty quản lý quỹ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. một số
nước người lưu giữ chứng khoán là ngân hàng giám sát, do công ty quản lý quỹ
lựa chọn. ngân hàng giám sát có trách nhiệm:
+ Tách biệt tài sản của quỹ với các tài sản khác
+ Kiểm tra giám sát công ty quản lý quỹ sao cho đảm bảo việc quản lý
quỹ phù hợp với pháp luật nhà nước và điều lệ quỹ, bảo vệ nhà đầu tư.
+ Thực hiện các quyền lợi thu chi của quỹ theo đúng hướng dẫn của
công ty quản lý quỹ.


Bộ môn Luật Chứng khoán

+ Xác định các báo cáo do công ty quản lý quỹ tiến hành các hoạt động vị
phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
+ Báo cáo Ủy ban chứng khoán Nhà nước khi phát hiện công ty quản lý
quỹ tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc trái với điều lệ quỹ.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trên, đòi hỏi ngân hàng giám sát phải
quản lý tài sản của Quỹ tách biệt với các tài sản khác của ngân hàng, ngân hàng
giám sát được hưởng phí theo quy định của tiền lệ quỹ.

- Nhà đầu tư: là người trực tiếp góp vốn vào quỹ thông qua mua chứng
chỉ quỹ đầu tư. Họ có quyền hưởng lợi từ các hoạt động đầu tư của quỹ và yêu
cầu công ty quản lý quỹ thực hiện việc đầu tư theo đúng điều lệ quỹ. Tuy nhiên,
nhà đầu tư không được phép trực tiếp thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với tài sản
của quỹ.
* Công ty quản lý quỹ
Công ty quản lý quỹ là công ty thực hiện việc điêu hành, quản lý các quỹ
đầu tư phù hợp với điều lệ quỹ và làm tăng giá trị tài sản quỹ.
Khách hàng của công ty quản lý quỹ thường là các nhà đầu tư có tổ chức:
các quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính…chức năng của công ty
quản lý Quỹ là thực hiện việc đầu tư theo sự uỷ thác của khách hàng sao cho
phù hợp với mục tiêu đầu tư của quỹ mà khách hàng đã lựac chọn.
c. Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể trên, tham gia kinh doanh chứng khoán còn có các chủ
thể sau:
- Công ty lưu ký và thanh toán bù trừ: là công ty thực hiện cung cấp dịch
vụ lưu ký và thanh toán bù trừ cho các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
- Ngân hàng thương mại: tham gia kinh doanh chứng khoán thông qua
thực hiện các nhiệm vụ: đầu tư chứng khoán, lưu ký, thanh toán trên thị trường
khoán.
- Các tổ chức trung gian tài chính khác: công ty bảo hiểm, các quỹ lương
hưu…các công ty này huy động vốn thông qua các nghiệp vụ kinh doanh đặc
thù của nó (ví dụ: công ty bảo hiểm huy động thông qua bán hợp đồng bảo


Bộ môn Luật Chứng khoán

hiểm, các quỹ hưu trí vốn do các thành viên đóng góp theo định kỳ…) với số
vốn huy động được các công ty này sẽ thực hiện đầu tư vào tài sản tài chính,
chủ yếu là các chứng khoán. Vì vậy, trên thị trường chứng khoán các công ty

này là các nhà đầu tư có tổ chức.
II. Sự tác động của các chủ thể kinh doanh chứng khoán tới thị
trường chứng khoán
1. Sự tác động của Công ty chứng khoán tới thị trường chứng khoán
Vai trò của công ty chứng khoán (CTCK) trên thị trường chứng khoán
(TTCK) rất quan trọng, có thể ví như chiếc cầu nối liền giữa người bán và người
mua trên thị trường đấu giá kép (double auction), một đặc trưng của TTCK khi
mà người bán và người mua đều thông qua CTCK của mình đề tiến hành giao
dịch.
Theo Luật Chứng khoán năm 2006 thì một CTCK có thể hoạt động trong
5 lĩnh vực sau: Môi giới chứng khoán, Tự doanh chứng khoán, Tư vấn đầu tư
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài
chính khác như lưu ký chứng khoán và dịch vụ tư vấn tài chính theo quy định
của pháp luật. Trong đó hoạt động môi giới chứng khoán là đặc trưng tiêu biểu
nhất của một CTCK.
Tác động của CTCK tới thì trường chứng khoán ở Việt Nam được thể hiện
qua các nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Thông qua các hoạt động này, công
ty chứng khoán đã thực sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của
TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Công ty chứng khoán đã trở
thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của TTCK.
Thứ nhất, công ti chứng khoán đóng vai trò làm cầu nối giữa cung – cầu
chứng khoán. Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian tham gia
hầu hết vào quá trình luân chuyển của chứng khoán: từ khâu phát hành trên thị
trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp.
Trên thị trường sơ cấp: Công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát
hành và nhà đầu tư, giúp các tổ chức phát hành huy động vốn một cách nhanh
chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Một doanh nghiệp khi thực hiện
huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, thường họ không tự bán chứng



Bộ môn Luật Chứng khoán

khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên nghiệp tư vấn và giúp họ phát
hành chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính như ngân hàng, công ty
chứng khoán…Công ty chứng khoán với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm
nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi
giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ
khác cho cả người đầu tư và người phát hành. Với nghiệp vụ này, công ty chứng
khoán thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu
Trên thị trường thứ cấp: Công ty chứng khoán là cầu nối giữa các nhà đầu
tư, là trung gian chuyển các khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi
trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn chuộng những chứng khoán có tính
thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi
thành các khoản đầu tư và ngược lại. Công ty chứng khoán với nghiệp vụ môi
giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho cácnhà đầu tư
giảm thiều thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình.
Thứ hai, các công ty chứng khoán đóng vai trò góp phần điều tiết và bình
ổn giá trên thị trường. Từ sau cuộc khủng hoảng của TTCK thế giới ngày
28/10/1929, chính phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt
động của TTCK, trong đó đòi hỏi một sự phối hợp giữa Nhà nước với các thành
viên tham gia Sở giao dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn những cơn khủng
hoảng giá chứng khoán có thể xảy ra trên thị trường, vì nếu TTCN bị khủng
hoảng thì không những nền kinh tế bị ảnh hưởng mà ngay cả quyền lợi nhà đầu
tư, các công ty chứng khoán cùng bị ảnh hưởng. Theo quy định của các nước,
các công ty chứng khoán có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ nhất định
giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán
dự trữ ra khi giá lên quá cao nhàm góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị
trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có quy định này. Dĩ nhiên, sự can thiệp
của các công ty chứng khoán chỉ có hạn, phụ thuộc vào nguồn vốn tự doanh và
quỹ dự trữ chứng khoán. Tuy vậy, nó vẫn có ý nghĩa nhất định, có tác động đến



Bộ môn Luật Chứng khoán

tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường. Với vai trò này, các công ty chứng
khoán góp phần tích cực vào sự tồn tại và phát triển bền vững của TTCK.
Thứ ba, các công ty chứng khoán đóng vai trò cung cấp các dịch vụ cho
TTCK. Công ty chứng khoán với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp
các dịch vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định, cụ thể:
- Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư:
TTCK cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để tiến hành giao dịch,
người mua, người bán phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa
và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với những đặc trưng riêng của nó như
người mua người bán có thể ở rất xa nhau, hàng hóa là “vô hình”, vì vậy để cung
cầu gặp nhau, thẩm định chất lượng, xác định giá cả thì phải mẩt rất nhiều thời
gian, công sức, tiền bạc cho một giao dịch dể phục vụ cho việc thu thập, phân
tích, xử lý thông tin… Công ty chứng khoán với lợi thế chuyên môn hóa, trình
độ kinh nghiệp nghề nghiệp sẽ thưc hiện tốt vai trò trung gian mua bán chứng
khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch.
- Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư: công ty chứng
khoán thông qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định
giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản đầu
tư của mình.
Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, các công ty chứng khoán thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán
thông qua việc xác định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành
hợp lý.
Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các công ty
chứng khoán được tập trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng
khoán được xác định theo quy luật cung cầu.

- Ngoài ra, công ty chứng khoán còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ
giao dịch chứng khoán.
Như vậy, với các nghiệp vụ đa dạng của mình, công ty chứng khoán giữ
vai trò quan trọng trong việc phát triển của TTCK, là chất “xúc tác”, không thể
thiếu cho hoat động của TTCK. Ở các nước có TTCK phát triển, CTCK hoạt


Bộ môn Luật Chứng khoán

động rất tấp nập và là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà cổ phiếu, trái phiếu của công
ty, doanh nghiệp được lưu thông buôn bán trên TTCK. Một trong những nguyên
tắc quan trọng của TTCK là mua bán qua trung gian. Nghĩa là các chứng khoán
được phát hành không được bán trực tiếp cho nhà đầu tư mà phải qua trung gian.
Bên cạnh đó, không phải bất kì chủ thể đầu tư nào cũng có trình độ chuyên môn
và khả năng phân tích sâu sắc về chứng khoán. Do vậy, với kiến thức chuyên
môn đặc thù của mình, các CTCK sẽ phân tích, lựa chọn giúp cho các nhà đầu tư
trước khi có quyết định đầu tư. Có thể thấy rằng, các CTCK là chiếc cầu nối giữa
nhà đầu tư và nhà phát hành, là nhà tạo lập thị trường hay nhà đầu tư tham gia
vào thị trường khi mua bán chứng khoán cho mình và là người cung cấp dịch vụ
cần thiết cho TTCK.
Thông qua sự tác động của pháp luật thúc đẩy sự hình thành các CTCK,
một mặt đảm bảo cơ sở cho sự ra đời của TTCK trên TTCK, sẽ giúp cho TTCK
huy động vố hiệu quả hơn, bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư, đồng thời góp
phần hoàn thiện TTCK
Các công ty trên TTCK với kết quả kinh doanh khả quan cùng với những
đợt tăng vốn lớn kết hợp với quản lý số vốn tăng thêm một cách hiệu quả sẽ giúp
các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng cường năng lực tài chính,… tạo tiền đề
cho việc giữ vững và mở rộng thị trường khi Việt Nam thực hiện cam kết mở
cửa nền kinh tế sau khi gia nhập WTO.

2. Sự tác động của Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán tới thị trường chứng khoán
Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững, nhất thiết phải có nhiều
vốn đầu tư. Nhưng làm thế nào để các tổ chức hay cá nhân đang nắm giữ những
nguồn vốn nhàn rỗi và các doanh nghiệp đang có ý tưởng kinh doanh khả thi có
thể gặp và hợp tác với nhau, cùng tìm cơ hội kinh doanh có lợi nhất. Các định
chế tài chính trung gian ra đời chính là đáp ứng nhu cầu cần những chiếc “cầu
nối” giữa người có vốn và người cần vốn.


Bộ môn Luật Chứng khoán

Quỹ đầu tư là một định chế tài chính phi ngân hàng huy động vốn bằng
hình thức chung vốn đầu tư (investment pool) hay nói cách khác là một tập hợp
vốn đa sở hữu từ đóng góp của những cá nhân hay tổ chức có tiền muốn cùng
nhau đầu tư nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp của việc đầu tư. Quỹ sẽ do các
chuyên gia đầu tư, đại diện cho các nhà đầu tư, thực hiện đầu tư vào một danh
mục tài sản (gọi là danh mục đầu tư) được thiết kế theo chính sách của Quỹ.
Hoạt động của Quỹ đầu tư rất đặc biệt, nó không dùng vốn của mình để
mua máy móc, thiết bị, các yếu tố sản xuất khác để tiến hành các hoạt động sản
xuất kinh doanh mà thực hiện kinh doanh đầu tư vốn dưới hai hình thức:
- Đầu tư trực tiếp: các Quỹ đầu tư dùng vốn của mình để thâm nhập trực
tiếp vào các công ty, các dự án bằng cách góp vốn cổ phần, mua cổ phiếu phát
hành lần đầu với tư cách là cổ đông sáng lập như các sáng lập viên khác.
- Đầu tư gián tiếp: Quỹ đầu tư dùng vốn của mình tham gia vào thị trường
chứng khoán với tư cách của một nhà kinh doanh chứng khoán thông qua các
công ty chứng khoán (thành viên của sở giao dịch chứng khoán). Ngoài ra, các
Quỹ đầu tư còn dùng tiền vốn của mình cho vay đối với các dự án theo những
thoả thuận nhất định, thường là các khoản cho vay có thể chuyển đổi thành vốn
cổ phần..Có thể kết luận đặc trưng cơ bản nhất của Quỹ đầu tư là ở chỗ nó vừa là

tổ chức phát hành chứng khoán vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Quỹ đầu tư được quản lý bởi Công ty quản lý Quỹ, một tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao trong đầu tư chứng khoán. Một công
ty quản lý Quỹ có thể quản lý một hay nhiều Quỹ đầu tư. Ngoài ra tài sản của
Quỹ đầu tư được một tổ chức chịu trách nhiệm bảo quản, thường là một ngân
hàng. Ngân hàng bảo quản còn có thể làm nhiệm vụ giám sát các hoạt động quản
lý Quỹ của công ty quản lý nhằm bảo đảm quyền lợi của các nhà đầu tư.
Đối với thị trường chứng khoán, Quỹ đầu tư góp phần vào sự phát triển
của thị trường sơ cấp và ổn định thị trường thứ cấp. Các quỹ tham gia bảo lãnh
phát hành trái phếi chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, phát hành chứng chỉ
quỹ đầu tư làm tăng lượng cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán, tạo
sự đa dạng về hàng hóa cho thị trường. Nó góp phần bình ổn giá cả giao dịch


Bộ môn Luật Chứng khoán

trên thị trường thứ cấp giúp cho sự phát triển của thị trường này thông qua
các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với các phương pháp đầu tư khoa học
Quỹ đầu tư góp phần làm xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán. Các
quỹ tạo một phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít có sự hiểu biết về
chứng khoán yêu thích. Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng đầu tư
bằng việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ
* Nhà đầu tư:
Trong hoạt động chứng khoán, nếu việc phát hành chứng khoán là khâu
đầu tiên và có vai trò quan trọng (vì nó tạo ra hàng hoá cho TTCK) thì nhà đầu
tư cũng đóng vai trò rất quan trọng vì nó là mặt thứ hai của một vấn đề cung và
cầu
Hoạt động của TTCK có sôi động, linh hoạt hay không phụ thuộc phần lớn
vào sự tham gia của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư tham gia vào TTCK rất đa dạng
gồm doanh nghiệp, công ty tài chính, ngân hàng, công ty bảo hiểm và các cá

nhân. Trong kinh doanh bất kì nhà đầu nào cũng chú ý đến vấn đề lợi nhuận thu
được và các rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, trước khi quyết định đầu tư họ thường
lựa chọn các công ty phát hành có uy tín, làm ăn có lãi, tình hình tài chính lành
mạnh.
Pháp luật Việt Nam quy định cá nhân, tổ chức có nhu cầu mua hoặc bán
chứng khoán phải mở tài khoản tiền gửi (đối với người có nhu cầu mua) hoặc tài
khoản lưu kí chứng khoán (đối với người có nhu cầu bán) tại một công ty chứng
khoán. Khi muốn tham gia giao dịch chứng khoán nhà đầu tư tới CTCK viết lệnh
yêu cầu, CTCK sẽ nhập lệnh này vào hệ thống chuyển lệnh cho đại diện chờ
khớp lệnh. Khi trung tâm giao dịch chứng khoán tiến hành khớp lệnh, các lệnh
mua bán chứng khoán được khớp sẽ được CTCK thông báo cho nhà đầu tư và
thực hiện thanh toán ngay trên tài khoản đã mở tại CTCK. Như vậy, các nhà đầu
tư không được phép trực tiếp thương lượng, thoả thuận giao dịch với nhau mà
cần phải giao dịch qua các CTCK
Ở Việt Nam quy định các cá nhân được miễn thuế thu nhập từ các nguồn
thu cổ tức, lãi trái phiếu và chênh lệch mua bán chứng khoán. Tuy nhiên, pháp


Bộ môn Luật Chứng khoán

luật cũng quy định các hành vi bị cấm nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật vè chứng khoán và TTCK
Như vậy, các quy định của pháp luật đã tác động tích cực nhằm bảo vệ
quyền lợi nhà đầu tư, tạo cho TTCk công bằng, minh bạch, an toàn, ổn định và
từng bước phát triển.
3. Sự tác động của các chủ thể khác tới thị trường chứng khoán
Để tồn tại, điều kiện tiên quyết là phải có đối tượng - hay hàng hoá lưu
thong trên thị trường đó. Chứng khoán chính là hàng hoá cơ bản nhất trong giao
dịch trên TTCK. Chứng khoán bên cạnh những đặc tính ưu việt cũng tồn tại
không ít yếu tố rủi ro có thể gây thiệt hại cho quyền và lợi ích của nhà đầu tư. Do

vậy, để chứng khoán đảm bảo độ an toàn cao thì bản thân các chủ thể phát hành
ra các loại chứng khoán phải đáp ứng được các yêu cầu nhất định.
Vai trò quan trọng của tổ chức phát hành thể hiện qua hoạt động phát hành
chứng khoán ra công chúng nhằm thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn, mở
rộng sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Trước khi các văn bản
pháp luật trực tiếp điều chỉnh về chứng khoán và TTCK được ban hành, pháp
luật Việt Nam đã quy định một số chủ thể được quyền phát hành chứng khoán
như: Chính phủ; CTCK; doanh nghiệp Nhà nước; ngân hàng thương mại; ngân
hàng đầu tư phát triển. Tuy nhiên, các hoạt động này chỉ là phát hành riêng lẻ mà
không phải phát hành ra công chúng qua TTCK. Chính sự gia tăng ngày càng
nhiều các loại chứng khoán và nhu cầu trao đổi, giao dịch các loại chứng khoán
đó đã tạo ra tiền đề kích thích sự ra đời của TTCK ở Việt Nam, sự tồn tại của các
loại chứng khoán đó về cơ bản đảm bảo cho hàng hoá giao dịch cho hoạt động
của TTCK.
Có thể nhận thấy rằng pháp luật tác động chặt chẽ nhằm ràng buộc trách
nhiệm của ông ty đối với nhà đầu tư, công ty phải có đủ điều kiện về tài chính,
về trình độ chuyên môn pháp lý mới được phép hoạt động. Quy định này một
mặt bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, mặt khác củng cố uy tín của công ty nhằm mục
đích chung là cung cấp các hàng hoá có chất lượng tốt cho hoạt động của TTCK,
tạo lập cơ sở vững chắc cho sự vận hành và phát triển của TTCK


Bộ môn Luật Chứng khoán

III. Sự tác đông của thị trường chứng khoán tới hoạt động của các
chủ thể kinh doanh chứng khoán
Hoạt động của các chủ thể KDCK có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển của TTCK, tuy nhiên đây cũng là mối quan hệ hai chiều, do vậy,
những biến động của TTCK cũng có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới các chủ thể
KDCK

Sự tăng trưởng của toàn thị trường về quy mô và giá trị đã tạo điều kiện
thuận lợi cho các công ty chứng khoán gia tăng số lượng khách hàng, giá trị giao
dịch cũng như doanh thu các dịch vụ khác. Do vậy, dù mới trải qua thời gian
hoạt động chưa lâu nhưng các công ty chứng khoán đa số đều đã phát triển vượt
bậc cùng với sự phát triển nhanh chóng của TTCK, thể hiện rõ ở kết quả hoạt
động kinh doanh trong mấy năm vừa qua của nhiều công ty chứng khoán
Sự phát triển quá nóng của TTCK đã làm nảy sinh nhiều tác động tới thị
trường tài chính tiền tệ, kéo theo ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh, các hoạt động xuất nhập khẩu và nền kinh tế nói chung
trong đó nó cũng tác động mạnh mẽ tới các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Cụ
thể là:
- Cùng với quá trình tự do hóa tài chính, sự gia tăng mạnh của đầu tư gián
tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo sức ép tăng giá đồng Việt Nam (do
cung ngoại tệ tăng lên); điều này làm giảm sút xuất khẩu, làm yếu đi tính cạnh
tranh của nền kinh tế. Mặt khác, dòng vốn nước ngoài chảy vào quá lớn đã gây
thách thức, khó khăn đối với hoạt động can thiệp bình ổn tỷ giá và việc thực hiện
các chính sách ngoại hối của Nhà nước. Đồng thời, đi kèm với nó là tăng áp lực
đối với lạm phát tiền tệ. Điều này có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các
chủ thể kinh doanh chứng khoán
- Việc tăng giá cổ phiếu đã khiến cho một số bộ phận dân cư, doanh
nghiệp tăng thu nhập một cách đột biến, thúc đẩy và tăng trưởng tiêu dùng, tăng
nhập khẩu, gây sức ép thâm hụt cán cân thương mại
- Do cổ phiếu tăng giá mạnh nên hoạt động trên TTCK chủ yếu là hoạt
động đầu cơ chứ không phải đầu tư thuần túy; điều này càng góp phần làm tăng
"tình trạng bong bóng” của TTCK và đương nhiên dẫn đến rủi ro tiềm ẩn ngày


Bộ môn Luật Chứng khoán

càng cao đối với thị trường tài chính và ngay cả đối với các chủ thể tham gia

hoạt động này.
NHTM cũng là một chủ thể tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng
khoán và sự phát triển quá nóng của TTCK đã có nhiều tác động tới hoạt động
kinh doanh của các NHTM: Sự tăng giá cổ phiếu làm giảm sức ép về cung ứng
tín dụng trung và dài hạn đối với NHTM, nhưng đã làm các NHTM rất khó huy
động vốn; hầu hết vốn nhàn rỗi (đặc biệt là vốn dài hạn) được rút khỏi ngân hàng
để kinh doanh cổ phiếu. Mặt khác, các NHTM chỉ tập trung kinh doanh vào cho
vay ngắn hạn hoặc phát triển các dịch vụ phi tín dụng khác. Thực tế cho thấy cho
vay trung và dài hạn của các NHTM giảm đi từ 43% năm 2002 xuống còn 23%
năm 2006.
Sự bùng nổ của TTCK là động lực quan trọng, là điều kiện thuận lợi đối
với quá trình cổ phần hóa các NHTM nhà nước, đặc biệt là đối với việc tăng vốn,
mở rộng mạng lưới, quảng bá hình ảnh của các NHTM cổ phần. Tuy nhiên, cũng
chính sự tăng giá cổ phiếu, đặc biệt là cổ phiếu ngân hàng đã làm cho nhiều ngân
hàng xoáy vào vòng quay tăng vốn để hưởng lợi nhuận chênh lệnh mà không
quan tâm nhiều đến hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đã làm giảm tính
hiệu quả của đồng vốn. Chính vì vậy, nhiều NHTM cổ phần đã bị rơi vào sức ép
phải làm tăng hiệu quả sử dụng đồng vốn (do sức ép của cổ đông), dẫn đến giảm
thận trọng trong công tác kinh doanh, gây nhiều rủi ro tiềm ẩn....
Cũng do sự phát triển “nóng” của TTCK mà nhiều khách hàng đã vay vốn
từ NHTM để kinh doanh chứng khoán (thế chấp bất động sản). Bên cạnh đó, số
khách hàng cầm cố chứng khoán để vay tiền và tiếp tục kinh doanh chứng khoán
cũng không phải là ít. Điều này đã làm tăng những lo ngại về mức độ an toàn
vốn của các NHTM, gây nhiều rủi ro tiềm ẩn và tác động dây chuyền trong nền
kinh tế.


Bộ môn Luật Chứng khoán

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Giáo trình Luật Chứng khoán – Trường Đại học Luật Hà Nội

2.

Một số vấn đề về công ty chứng khoán theo Luật Chứng khoán
2006 – www.luattaichinh.wordpress.com

3.

Giải pháp nào cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển
bền vững – PGS.,TS. Nguyễn Thị Mùi – Trường Đào tạo và
PTNL ViettinBank



×