Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ (TTHS) VỀ THẨMQUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.46 KB, 14 trang )

I. CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ (TTHS) VỀ THẨM
QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ:
1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
Theo từ điển tiếng Việt, thẩm quyền được hiểu là “quyền xem xét để kết luận và
định đoạt một vấn đề theo pháp luật”. Từ điển luật học định nghĩa về thẩm quyền là
“sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau”.
Thẩm quyền xét xử là một trong các nội dung của thẩm quyền mà pháp luật quy
định cho Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử của một quốc gia nhất định.
Về khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm: theo từ điển Luật học thì được hiểu là
“sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau”, còn theo Giáo
trình luật tố tụng hình sự Việt Nam thì “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là thẩm quyền
pháp luật quy định, cho phép Tòa án được xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội, nơi thực hiện
tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật”.
2. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành:
Bộ luật TTHS năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26-11-2003 đã đánh
dấu một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và trưởng thành của pháp luật nước
ta. Những quy định của Bộ luật này đã có những đổi mới sâu sắc thể chế hóa được
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới. Một trong
những sửa đổi cơ bản của Bộ luật TTHS năm 2003 chính là sửa đổi về thẩm quyền xét
xử sơ thẩm theo hướng tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án cấp huyện. Đó là một trong
những nội dung quan trọng trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta. Cụ thể: trong
Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật TTHS khác có liên quan, vấn đề thẩm quyền
xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân (TAND) các cấp được quy định như sau:
2.1. Thẩm quyền xét xử theo việc:
a. Thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện:
TAND cấp huyện là cấp xét xử đầu tiên trong trình tự các cấp xét xử theo quy
định của luật TTHS Việt Nam hiện hành. Việc phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa
1



án cấp huyện có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án cấp
tỉnh, TAND tối cao bởi vì các nhà lập pháp bao giờ cũng bắt đầu từ việc xác định thẩm
quyền của cấp xét xử thấp nhất, sau đó mới quyết định thẩm quyền của các cấp xét xử
cao hơn.
Điều 170 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án
các cấp. Theo quy định của điều này, TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử những
vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất quan
trọng, trừ những tội phạm sau đây:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
- Các tội quy định tại các điều 93; 95; 96; 172; 216; 217; 218; 219; 221; 222;
223; 224; 225; 226; 263; 293; 294; 295; 296; 322 và 323 của BLHS.
Như vậy, thẩm quyền xét xử theo vụ việc của TAND cấp huyện theo quy định
của Bộ luật TTHS 2003 bao gồm các loại tội phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy
định của BLHS năm 1999 là 15 năm tù, trừ những tội phạm được quy định tại điểm a,
b, c Điều 170 Bộ luật TTHS.
Theo quy định của Điều 170 Bộ luật TTHS năm 2003 thì thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của TAND cấp huyện đã được mở rộng so với quy định tại Điều 145 Bộ luật
TTHS năm 1988 theo hướng tăng cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện.
Đây là một chủ trương mới và rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta nhằm chuyên môn
hóa hoạt động của các cấp Tòa án và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình cải cách tư
pháp theo Nghị quyết 49 – NQ/TW của Bộ chính trị và đường lối xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở nước ta.
Việc tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện cũng là một biện pháp giúp
giảm lượng án tồn đọng ở Tòa án cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm TAND tối cao. Đây cũng
là một bước cải cách phù hợp với tình hình của ngành Tòa án hiện nay khi trình độ
chuyên môn của Thẩm phán TAND cấp huyện đang từng bước được nâng cao, cơ sở
vật chất của nhiều Tòa án cấp huyện cũng đã đáp ứng được với nhiệm vụ xét xử mới.
2



b. Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh:
Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu được
qui định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật TTHS 2007. Theo quy định của điều luật thì
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự không thuộc thẩm
quyền của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
Như vậy, TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự về những
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức những vụ án về những tội mà mức cao nhất của
khung hình phạt trên 15 năm tù, những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của
TAND cấp huyện được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 Bộ luật TTHS;
những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh thấy cần
thiết phải lấy lên để xét xử do tính chất đặc biệt của vụ án.
Bộ luật TTHS năm 2003 không có điều luật nào quy định cụ thể về các điều
kiện để TAND cấp tỉnh lấy các vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện lên để
xét xử. Do đó Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ
quan điều tra căn cứ vào tình hình thực tế của các vụ án và năng lực của điều tra viên,
kiểm sát viên và thẩm phán cấp huyện để quyết định những vụ án nào cần lấy lên để
điều tra, truy tố, xét xử ở cấp tỉnh.
Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn đang thực hiện theo tinh thần của
thông tư liên ngành số 02/TTLN ngày 12/01/1989 của TAND tối cao, VKSND tối cao,
Bộ tư pháp, Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quyết định của Bộ luật TTHS năm
1988. Theo hướng dẫn của thông tư trên thì thông thường TAND cấp tỉnh lấy lên xét
xử những vụ án sau đây:
- Những vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất
vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành)
- Những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn
giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.

Như vậy, khi có những vụ án thuộc vào các trường hợp này thì cơ quan điều tra
3


cấp huyện trao đổi với VKS cùng cấp và chuyển hồ sơ lên cơ quan điều tra cấp tỉnh để
điều tra. Nếu hồ sơ đã chuyển sang VKS cấp huyện thì VKS cấp huyện chuyển vụ án
cho VKS cấp tỉnh truy tố trước Tòa án cấp tỉnh.
2.2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng:
Đối tượng phạm tội được xem là một trong những dấu hiệu để xác định thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của tòa án. Ở Việt Nam, phân định thẩm quyền theo đối tượng
chính là phân định thẩm quyền xét xử giữa TAND và tòa án quân sự.
Trong Bộ luật TTHS 2003 không có điều luật cụ thể phân định đối tượng nào
thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Tuy nhiên, trong Pháp lệnh tổ chức tòa án quân
sự năm 2002 có quy định về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự. Cụ thể: theo quy
định tại Điều 3 của Pháp lệnh thì tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án
hình sự mà bị cáo là:
- Quân nhân tại ngũ, công nhân, nhân viên quốc phòng, quân nhân dự bị trong
thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự
vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người được trưng tập làm nhiệm vụ
quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý.
- Những người không thuộc các quy định tại khoản 1 điều này mà phạm tội có
liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.
Như vậy, theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam có 2 loại đối tượng xét
xử cho 2 loại hình tòa án (TAND và tòa án quân sự). TAND có thẩm quyền rộng hơn,
xét xử hầu hết các đối tượng phạm tội, trừ những đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử
của tòa án quân sự đã được quy định trong Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002.
Đồng thời, ngay trong thẩm quyền xét xử của các tòa án quân sự cũng có sự phân biệt
thẩm quyền theo đối tượng. Hay nói cách khác: cấp bậc, chức vụ của quân nhân là căn
cứ để xác định thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự các cấp.
Theo quy định tại Điều 26, 29 của Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự thì các vụ

án mà bị can, bị cáo khi phạm tội có cấp bậc từ thượng tá trở lên, có chức vụ từ đoàn
trưởng và tương đương trở lên thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự cấp quân
khu mà không phụ thuộc vào tội phạm được thực hiện thuộc loại nào (ít nghiêm trọng,
4


nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng). Các vụ án còn lại thuộc
thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự khu vực.
Đối với các TAND, Bộ luật TTHS không đặt ra thẩm quyền xét xử theo đặc
điểm nhân thân người phạm tội. Tuy nhiên, trong hướng dẫn về việc tòa án cấp tỉnh
quyết định lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện lên xét xử lại có đề
cập đến vấn đề này. Theo Thông tư liên ngành 02/TTLN ngày 12 – 1 – 1989 của
TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ thì những vụ án mà bị cáo là
thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện,
người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo hoặc người có uy tín cao trong
dân tộc ít người được tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử, tức là thuộc thẩm quyền xét xử
của tòa án cấp tỉnh.
2.3.Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ:
Thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án các cấp được qui định tại Điều 171 Bộ
luật TTHS 2003:
Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là tòa án nơi tội phạm được thực
hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không
xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi
kết thúc việc điều tra.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do TAND cấp tỉnh nơi
cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, chánh án TAND tối cao ra
quyết định giao cho TAND thành phố Hà Nội hoặc TAND thành phố Hồ Chí Minh xét
xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của chánh án Tòa án

quân sự Trung ương.
Như vậy, vụ án về các tội phạm xảy ra ở nước ngoài thuộc thẩm quyền xét xử
của TAND cấp tỉnh mà không phụ thuộc vào loại tội phạm được thực hiện. Bởi vì, chỉ
các cơ quan tiến hành tố tụng ở thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án
quân sự cấp quân khu mới có đủ điều kiện đảm bảo cho các hoạt động tố tụng ở nước
5


ngoài, các quan hệ với các cơ quan tố tụng nước ngoài trong ủy thác hoạt động tư
pháp, trong tương trợ hoạt động tư pháp, trong dẫn độ tội phạm.
Việc quyết định thẩm quyền xét xử thuộc về Tòa án nơi thành phố được thực
hiện nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng. Các cơ quan tố tụng sẽ dễ dàng tiết kiệm được nhiều thời gian hơn trong việc
tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng hoặc
những người liên quan đến vụ án. Mặt khác, việc xử lý vụ án tại nơi tội phạm được
thực hiện cũng đảm bảo tốt hơn sự có mặt của những người tham gia tố tụng trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử.
Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp không thể xác định được nơi thực
hiện tội phạm hoặc tội phạm được thực hiện ở nhiều nơi khác nhau. Trong những
trường hợp đó thì thẩm quyền xét xử thuộc về Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự thì ngoài quy tắc
chung trên, việc xác định thẩm quyền xét xử còn phải căn cứ vào Thông tư liên tịch số
01/TTLT ngày 18/4/2005 của TAND tối cao, VKSND tối cao, Bộ quốc phòng, Bộ
công an “Hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự”. Theo hướng dẫn của
Thông tư thì các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của các tòa án quân sự khu vực thuộc
quân khu được xét xử theo quy định của Điều 171 Bộ luật TTHS về thẩm quyền xét
xử theo lãnh thổ. Còn các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Quân chủng hải
quân và các tòa án quân sự khu vực Quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên
tắc lãnh thổ. Các tòa án này có thẩm quyền xét xử các vụ án xảy ra trong các đơn vị
quân chủng, các vụ án mà bị cáo là người do quân chủng quản lý hoặc người liên quan

đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho các đơn vị thuộc quân chủng hải quân.
Điều 172 Bộ luật TTHS 2003 quy định về thẩm quyền xét xử những tội phạm
xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước CHXHCN Việt Nam đang hoạt động ngoài
không phận hoặc lãnh hải Việt Nam.
Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước CHXHCN Việt Nam
đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử
6


của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi máy bay,
tàu biển đó được đăng ký.
Máy bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam đang hoạt động ở không phận hoặc
lãnh hải nước ngoài vẫn được xem là một bộ phận lãnh thổ của Việt Nam, do vậy
những tội phạm xảy ra trên tàu biển, máy bay của Việt Nam do tòa án Việt Nam xét
xử. Tòa án có thẩm quyền xét xử là tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký. Tùy
vào tội phạm đó là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất
nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng để xác định cấp tòa án xét xử là tòa án cấp
huyện hay cấp tỉnh.
2.4. Thẩm quyền chuyển vụ án:
Toà án có quyền chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền xét xử, nếu nhận thấy
vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử xủa mình.
Việc chuyển vụ án cho Toà án trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc trong phạm vi quân khu do Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự
cấp khu vực quyết định. Việc chuyển vụ án cho Toà án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Toà án nhân dân cấp tỉnh và
toà án quân sự cấp quân khu quyết định.
Toà án chỉ được quyền chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyềnkhi vụ án chưa
được xét xử. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Toà án
phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo co bị cáo và nhưng người có lien quan
trong vụ án.

II. HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ:
1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện:
Việc hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Thứ nhất, đó là yêu cầu xác định lại thẩm quyền xét xử hợp lý cho Tòa án các
cấp;
Thứ hai, yêu cầu đảm bảo quyền con người và hiệu quả của hoạt động tố tụng;
7


Thứ ba, yêu cầu cải cách tổ chức, bộ máy cơ quan tư pháp tương ứng với thẩm
quyền xét xử mới.
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự:
2.1. Sửa đổi một số điều của Hiến pháp:
- Sửa đổi Điều 126:
Điều 126 Hiến pháp 1992 quy định: “TAND tối cao, các TAND địa phương, các
tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
CHXHCN Việt Nam”. Tuy nhiên, theo Nghị quyết 49 – NQ/TW của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các tòa án được tổ chức theo thẩm quyền
xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực, tòa án
phúc thẩm, tòa thượng thẩm và TAND tối cao. Cho nên, để có thể thực hiện được chủ
trương đúng đắn này, việc sửa đổi quy định tại Điều 126 là cần thiết và hoàn toàn phù
hợp với tinh thần của Nghị quyết số 49. Việc sửa đổi nên quy định là: TAND tối cao,
tòa thượng thẩm , tòa án phúc thẩm, tòa án sơ thẩm khu vực, các tòa án quân sự và các
tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam.
- Sửa đổi Điều 135:
Điều 135 Hiến pháp 1992 quy định: “Chánh án TAND địa phương chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND”. Tuy nhiên, việc báo cáo trước HĐND địa

phương chỉ phù hợp với mô hình tòa án được tổ chức theo địa bàn hành chính. Khi hệ
thống tòa án được tổ chức theo thẩm quyền và không phụ thuộc vào địa bàn hành
chính thì việc báo cáo công tác trước HĐND địa phương cần phải được xem xét lại. Vì
vậy, việc sửa đổi Điều 135 Hiến pháp 1992 là cần thiết, và nên sửa đổi theo hướng:
giao cho cấp ủy Đảng cấp tỉnh và HĐND cấp tỉnh thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo và
giám sát đối với hoạt động và tổ chức của tòa án sơ thẩm khu vực và TAND cấp tỉnh
theo cơ chế: hoạt động của tòa án sơ thẩm khu vực và tòa án phúc thẩm chịu sự lãnh
đạo của cấp ủy Đảng và sự giám sát của HĐND cấp tỉnh.
2.2. Hoàn thiện quy định của Bộ luật TTHS về thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
8


a. Cần phải sửa đổi, bổ sung một số điều trong Bộ luật TTHS 2003 để hoàn
thiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp theo tinh thần cải cách tư pháp.
Cụ thể:
- Điều 170 về thẩm quyền xét xử của tòa án các cấp. Điều luật này quy định về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh, tòa án quân sự khu
vực và tòa án quân sự cấp quân khu. Cần phải sửa đổi điều luật này theo hướng: xác
định lại các cấp tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong hệ thống tòa án. Từ đó, quy
định cụ thể thẩm quyền cho từng cấp tòa án theo hướng toàn bộ các vụ án hình sự
thuộc thẩm quyền của TAND đều thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của toà án sơ thẩm
khu vực.
Ở thời điểm hiện tại, có thể thấy năng lực thực tế của cơ quan tiến hành tố tụng
ở cấp huyện đã được nâng cao rất nhiều; cho nên chỉ nên quy định tòa án cấp huyện
không được xét xử một số tội phạm quy định tại 9 điều luật (Điều 172, 216, 217, 218,
219, 221, 222, 223, 263) thay vì 21 điều như khoản 1 Điều 170 Bộ luật TTHS quy
định.
Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân
khu thì quy định: TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu có thể lấy vụ án
thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp dưới lên xét xử còn rất chung chung, dễ dẫn

đến sự tùy tiện trong áp dụng và trong thực tế sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết vụ
án. Chính vì vậy, có thể sửa đổi Điều 170 quy định về “Thẩm quyền xét xử của tòa án
các cấp” như sau:
“1. TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án
hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
a. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b. Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c. Các tội quy định tại các Điều 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223 và 263
của Bộ luật hình sự;
9


d. Các tội mà người thực hiện tội phạm là: Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra
viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao
trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong các dân tộc ít người.
2. TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không
thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện, tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm
những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự
khu vực.”
- Điều 171 quy định “Về thẩm quyền theo lãnh thổ”, trong khoản 2 Điều 171 có
quy định: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do TAND cấp tỉnh
nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử”. Tuy nhiên, khi thực hiện thẩm
quyền xét xử mới với mô hình tổ chức tòa án mới thì sẽ không còn TAND cấp tỉnh. Do
vậy, điều luật này cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với mô hình tổ chức đó.
Hơn nữa, tại khoản 2 có quy định: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc
thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự thì do tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét
xử theo quyết định của Chánh án tòa án quân sự trung ương”, thì nên bỏ 2 từ “trở lên”
bởi lẽ, hiện nay theo quy định của Bộ luật TTHS thì không có một cấp tòa án quân sự
nào cao hơn tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử cả. Và nội dung mới

của quy định này sẽ là: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử
của tòa án quân sự thì do tòa án quân sự cấp quân khu xét xử theo quyết định của
Chánh án tòa án quân sự trung ương”.
- Đối với Điều 172 về “Thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên tàu bay
hoặc tàu biển của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận
hoặc lãnh hải của Việt Nam” thì không nên quy định cho tòa án nơi tàu bay, tàu biển
đăng ký có thẩm quyền xét xử các tội phạm xảy ra trên tàu bay, tàu biển khi tàu bay,
tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam. Nếu quy định như vậy thì sẽ gây khó
khăn cho việc điều tra, thu thập chứng cứ, bởi vì trong thực tế: nếu có tội phạm xảy ra
trên tàu bay, tàu biển mà người phạm tội bị bắt quả tang hay bị bắt khẩn cấp thì khi tàu
bay, tàu biển trở về sân bay, bến cảng đầu tiên ở trong nước, do không có thẩm quyền
điều tra vụ án nên người chỉ huy tàu bay, tàu biển phải bàn giao ngay người bị bắt cho
10


cơ quan điều tra có thẩm quyền - chính là cơ quan điều tra sở tại. Cho nên, thực chất
hoạt động điều tra ban đầu (lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản nhận người bị
bắt, nhận bàn giao vật chứng(nếu có)…) đã được thực hiện ngay khi Cơ quan điều tra
nhận người bị bắt.
- Điều 173 quy định về “Việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền
của tòa án khác cấp”. Với mô hình tổ chức tòa án theo thẩm quyền thì tương lai chỉ còn
một cấp duy nhất xét xử sơ thẩm. Do vậy, điều luật này cũng cần được sửa đổi.
b. Hoàn thiện quy định về chuyển vụ án (Điều 174 Bộ luật TTHS) và tranh chấp
thẩm quyền xét xử (Điều 175 Bộ luật TTHS):
Khi thay đổi mô hình tổ chức tòa án thì cả hai điều luật này sẽ không còn phù
hợp. Bởi vì các cấp tòa án sẽ là tòa án sơ thẩm khu vực, tòa án phúc thẩm thay vì
TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh như hiện nay. Do vậy, việc chuyển vụ án và việc
giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử cũng sẽ thay đổi theo.
Để tránh trường hợp tòa án sau khi thụ lý thấy vụ án không thuộc thẩm quyền
xét xử của tòa án mình nhưng ngại phức tạp nên không chuyển vụ án cho tòa án cùng

cấp có thẩm quyền mà giữ lại để xét xử. Đồng thời, để tạo ra sự thống nhất về nhận
thức trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án các cấp. Cho nên, cần
phải sửa đổi Điều 174 Bộ luật TTHS theo hướng: sau khi thụ lý, nếu xét thấy vụ án
không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tòa án phải chuyển cho tòa án có thẩm
quyền xét xử.
Hiện nay, tranh chấp về thẩm quyền xét xử chủ yếu xảy ra giữa TAND cấp
huyện và tòa án quân sự khu vực. Việc giải quyết tranh chấp này thuộc thẩm quyền của
Chánh án TAND tối cao. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp về thẩm quyền trong
bất kỳ giai đoạn tố tụng nào cũng có thể được báo cáo Chánh án TAND tối cao và
được giải quyết kịp thời. Do vậy, cần quy định một cơ chế đơn giản, mềm dẻo trong
phát hiện và giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử; đồng thời Chánh án TAND tối
cao cũng cần có cơ chế hợp lý để phát hiện các vụ án được điều tra, truy tố, xét xử sai
thẩm quyền để có quyết định kịp thời.
11


c. Sửa đổi Luật tổ chức tòa án nhân dân:
Cần sửa đổi Điều 1 và Điều 2 về các tòa án ở Việt Nam cho phù hợp với cơ cấu
tổ chức mới của hệ thống tòa án theo thẩm quyền.
Cần sửa đổi các quy định tại Điều 18 về cơ cấu tổ chức của TAND tối cao, Điều
19 về nhiệm vụ, quyền hạn của TAND tối cao, Điều 20 đến Điều 24 về thẩm quyền xét
xử của TAND tối cao và các bộ phận trực thuộc TAND tối cao. Bởi vì khi tổ chức lại
hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử thì TAND tối cao sẽ không còn là cơ quan có
thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm như quy định của Điều 20
của Luật tổ chức tòa án hiện nay mà sẽ chủ yếu làm nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét
xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trình các dự án luật, giám đốc việc xét xử
của các tòa án.
Đối với TAND địa phương thì cũng cần có sự sửa đổi toàn diện về cơ cấu tổ
chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn và thẩm quyền xét xử. Bởi vì, trong tương lai thì
TAND cấp huyện, TAND cấp tỉnh sẽ được thay thế bởi tòa án sơ thẩm khu vực và tòa

phúc thẩm.
d. Sửa đổi Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND:
Khi có sự thay đổi về mặt thẩm quyền xét xử cũng cần sửa đổi toàn diện các
quy định của Pháp lệnh này để xây dựng lại hệ thống các chức danh Thẩm phán cho
phù hợp với mô hình tổ chức mới của tòa án các cấp, xác định tiêu chuẩn Thẩm phán,
thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán, nhiệm kỳ Thẩm phán, sửa đổi cơ chế bầu,
miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm tòa án.
e. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan:
- Sửa đổi Luật tổ chức HĐND: cần sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến
việc bầu Hội thẩm nhân dân và chức năng giám sát của HĐND đối với hoạt động của
tòa án cho phù hợp với tính chất hoạt động và mô hình tổ chức tòa án sơ thẩm khu vực
và tòa án phúc thẩm.
- Sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Pháp lệnh điều tra hình sự:
phải xây dựng các cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đồng bộ về tổ chức và hoạt động
tương ứng với hệ thống các tòa án sơ thẩm khu vực.
12


13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Thị Lê Na, Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của
TAND các cấp”, Luận văn thạc sỹ luật học – 2009.
2. Nhâm Thị Minh Thúy, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo quy định
của Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp – 2010.

14




×