Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Chiến lược hội thoại trong một số truyện ngắn tiêu biểu của somerset maugham (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.23 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***********

NGUYỄN HÕA MAI PHƢƠNG

CHIẾN LƢỢC HỘI THOẠI
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN TIÊU BIỂU
CỦA SOMERSET MAUGHAM

Chuyên ngành: Lý Luận Ngôn Ngữ
Mã số: 62220101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2015


Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)

Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Hoàng Tuấn
2. PGS. TS. Đinh Điền

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở
đào tạo họp tại …………………………………………………
………………………………………………………………….


Vào hồi ………giờ…………ngày……tháng……..năm……….

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:


1
MỞ ĐẦU
0.1. Lí do chọn đề tài
Trong những thập niên gần đây, chiến lược hội thoại
(conversation strategies) không chỉ được tiếp cận từ góc độ một
hiện tượng giao tiếp thuần túy mà còn được nghiên cứu như
một thành tố của diễn ngôn văn học, giúp soi sáng nhiều đặc
điểm của tác phẩm văn học và phong cách của nhà văn. Hướng
nghiên cứu này mở ra những triển vọng mới để giải mã văn bản
văn học một cách khoa học hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh ở Việt
Nam, khi tình trạng biệt lập giữa ngôn ngữ học và văn học còn
tiếp diễn thì việc ứng dụng phạm trù chiến lược hội thoại vào
nghiên cứu văn bản văn học càng có ý nghĩa. Điều đó gợi ý
chúng tôi lựa chọn hướng nghiên cứu chiến lược hội thoại trong
sáng tác của Somerset Maugham (1874 – 1965) do ông được
đánh giá là một trong những người viết truyện ngắn bậc thầy
với lối hành văn dung dị, đã đưa nghệ thuật kể chuyện đến một
sự mẫu mực khó ai sánh bằng. Các sáng tác của ông mang
nhiều nét đặc sắc xét về phương diện chiến lược hội thoại. Các
hội thoại trong các truyện ngắn của ông mang nhiều kịch tính,
là ngữ liệu thích hợp cho việc nghiên cứu chiến lược hội thoại
trong các tác phẩm văn học.
0.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
0.2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là áp dụng lí thuyết về hội thoại

để làm rõ chiến lược hội thoại được Somerset Maugham sử
dụng trong truyện ngắn của ông, đồng thời ứng dụng kết quả
nghiên cứu vào lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh và văn học Anh
cũng như lĩnh vực nghiên cứu lí thuyết và thực hành dịch thuật
từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
0.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
– Diễn giải các khái niệm thuộc lĩnh vực ngữ dụng học
và phân tích hội thoại được dùng làm công cụ để xác lập và
phân tích các chiến lược hội thoại trong truyện ngắn của
Somerset Maugham.


2
– Xác lập và phân tích các chiến lược hội thoại trong
truyện ngắn của Somerset Maugham dựa trên sự vận dụng các
nguyên tắc hội thoại trong ngữ dụng học và phân tích hội thoại.
Việc phân tích tập trung vào tác dụng, hiệu quả của các chiến
lược hội thoại đối với cấu trúc, nội dung của hội thoại cũng như
các mối quan hệ liên nhân giữa các nhân vật nhằm giúp người
đọc thấy được các chiến lược hội thoại này có những đóng góp
như thế nào đến diễn tiến của truyện kể, đến việc khắc họa tính
cách nhân vật và không khí của câu chuyện được kể.
– Làm rõ một số nét đặc trưng trong các chiến lược hội
thoại trong truyện ngắn của Somerset Maugham bằng cách so
sánh các chiến lược hội thoại trong truyện ngắn của ông với một
số nhà văn khác. Do những hạn chế về ngữ liệu và cũng không
phải là nhiệm vụ nghiên cứu trọng tâm của luận án, việc so sánh
này chỉ ở mức độ hạn chế.
0.3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
0.3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là chiến lược hội
thoại trong những truyện ngắn tiêu biểu của Somerset
Maugham.
0.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án này chỉ tập trung khảo sát quá trình chọn lựa,
sử dụng các phương tiện ngôn ngữ phù hợp với các mục tiêu
giao tiếp trong những tình huống nhất định và những yếu tố thể
hiện nổi trội nhất chiến lược hội thoại trong các tác phẩm tiêu
biểu của Somerset Maugham.
0.4. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
0.4.1. Phương pháp nghiên cứu
0.4.1.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được áp dụng để miêu tả các cuộc hội
thoại nhằm làm nổi bật vai trò của các phương tiện ngôn ngữ
trong việc kiến tạo nên các chiến lược hội thoại. Nó cũng giúp
làm sáng tỏ một số phương diện ngữ dụng có liên quan đến


3
những phương tiện này như hành động ngôn từ, lượt lời,
phương châm hội thoại, phạm trù thể diện và lịch sự.
Đôi khi để làm rõ những nét đặc trưng của chiến lược
hội thoại trong truyện ngắn của Somerset Maugham, luận án
cũng so sánh với một số nhà văn khác. Tuy nhiên, so sánh
không phải là trọng tâm của công trình này.
0.4.1.2. Phương pháp phân tích hội thoại
Luận án sử dụng phương pháp phân tích hội thoại như
một phần quan trọng trong khung lí thuyết của công trình nhằm
tập trung vào sự tương tác có tính xã hội của giao tiếp ngôn ngữ
trong đời sống hàng ngày. Do hội thoại văn học cũng chịu sự

chi phối của cơ chế lượt lời, nguyên tắc cộng tác, lịch sự và thể
diện, nên các công cụ phân tích như lượt lời và các biến liên
quan đến lượt lời, các khái niệm như cộng tác, lịch sự và thể
diện…được coi là những vấn đề mấu chốt của luận án.
0.4.1.3. Thống kê
Luận án này về căn bản là một công trình nghiên cứu
định tính nên thống kê chỉ được xem là thủ pháp để làm rõ một
số đặc điểm có thể lượng hóa được của chiến lược hội thoại
trong tác phẩm của Somerset Maugham.
0.4.2. Nguồn ngữ liệu
Nguồn ngữ liệu nghiên cứu dựa vào những tác phẩm
tiêu biểu của Somerset Maugham được tuyển chọn bởi các nhà
xuất bản có uy tín. Các ngữ liệu được lựa chọn phải phản ánh rõ
nét các mục tiêu giao tiếp và cách thức đạt đến những mục tiêu
đó của các nhân vật, đồng thời thể hiện những nét đặc trưng
trong phong cách ngôn ngữ của Somerset Maugham.
0.5. Dự kiến những đóng góp của luận án
0.5.1. Về phương diện lí thuyết
Thông qua việc nghiên cứu về chiến lược hội thoại
trong văn học, luận án sẽ góp phần vào việc tìm hiểu cơ chế vận
hành của ngôn ngữ trong hành chức. Ở đây, hội thoại được đặt
trong một kiểu diễn ngôn đặc thù là diễn ngôn văn học. Vì vậy,
luận án cũng sẽ có những đóng góp nhất định vào việc nghiên


4
cứu ngôn ngữ văn học và phong cách của nhà văn. Kết quả
nghiên cứu của luận án sẽ giúp mở rộng và làm sâu sắc hơn
hướng tiếp cận liên ngành trong việc nghiên cứu văn học.
0.5.2. Về phương diện thực tiễn

Việc tiếp cận chiến lược hội thoại trong văn học theo
quan điểm ngôn ngữ học sẽ giúp nâng cao chất giảng dạy và
phê bình nghiên cứu văn học, giúp cho việc phân tích các tác
phẩm văn học có cơ sở khoa học hơn, đồng thời còn có ý nghĩa
tích cực trong thực tiễn giảng dạy và giao lưu văn hóa, ngôn
ngữ giữa Việt Nam với các nước.
0.6. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo,
luận án gồm có ba chương chính: Chương 1 trình bày tổng quan
tình hình nghiên cứu và xác lập khung lí thuyết cho luận án
thông qua việc diễn giải, phân tích các khái niệm hữu quan;
Chương 2 phân tích các chiến lược tác động trực tiếp đến cấu
trúc hội thoại; Chương 3 tập trung phân tích chiến lược chi phối
nội dung hội thoại và mối quan hệ liên nhân giữa các nhân vật.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
Chương này trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu
và lần lượt tìm hiểu những khái niệm liên quan đến đề tài.
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Từ những năm 1970 trở lại đây, nghiên cứu về hội thoại
trong văn học rất được quan tâm. Nhờ những thành tựu ngữ
dụng học và phân tích hội thoại, các nhà nghiên cứu đã vượt
qua khỏi giới hạn của những phát ngôn riêng lẻ để khảo sát hội
thoại trong văn học như một hệ thống qua đó mối quan hệ xã
hội của nhân vật được xác lập trong quá trình tương tác năng
động. Theo hướng này, các nhà nghiên cứu chú trọng xem xét
quá trình vận động hội thoại, đặc biệt là trong kịch bản sân



5
khấu, chẳng hạn như luân phiên lượt lời, những chỗ nói trùng
lắp, cách tổ chức hội thoại theo các biến trong hệ thống luân
phiên lượt lời, những trường hợp vi phạm phương châm hội
thoại để tạo ra hàm ngôn, những trường hợp lệch chuẩn trong
hành vi hội thoại thể hiện qua vi phạm các nguyên tắc cộng tác
và lịch sự, các vấn đề về địa vị xã hội và các mối quan hệ quyền
lực… thông qua các khái niệm như kiểm soát đề tài (topic
control), điều hành lượt lời (turn management), hành động ngôn
từ (speech act), nguyên tắc cộng tác (cooperative principle),
nguyên tắc lịch sự (politeness principle) để tìm hiểu những vấn
đề về địa vị xã hội và các mối quan hệ quyền lực.
Đặc biệt, hướng nghiên cứu hội thoại văn học nhìn từ
cấp độ tác giả – độc giả cũng được đề xướng từ những năm cuối
thập niên 1970. Các lí giải ở cấp độ nhân vật – nhân vật cũng
được đặt trong khuôn khổ tương tác giữa tác giả – độc giả.
Gần đây, tuy các nhà nghiên cứu bắt đầu hướng đến
khoa học tri nhận để tiếp cận văn học, nhưng đường hướng ngữ
dụng học vẫn là công cụ hữu ích cho việc lí giải các vấn đề như
hàm ngôn, chỉ xuất và lịch sự và từ đó đi sâu nghiên cứu cách
thức mà ngôn bản văn học tác động đến đời thực.
Ở Việt Nam, hướng nghiên cứu chiến lược hội thoại
trong tác phẩm văn học chưa được quan tâm đúng mức. Tuy
vậy đã có một số chuyên luận đề cập đến những vấn đề chung
của phân tích hội thoại, phân tích diễn ngôn, phân tích cấu trúc
của truyện kể, cùng với một số giáo trình ngữ dụng học. Những
công trình này đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút sự
quan tâm của giới ngôn ngữ học ở Việt Nam nghiên cứu về hội
thoại nói chung và hội thoại trong văn học nói riêng.
Những nghiên cứu cụ thể về hội thoại trong tác phẩm

văn học từ góc độ của ngôn ngữ học chủ yếu là các luận án tiến
sĩ, luận văn thạc sĩ. Những công trình này tập trung khảo sát
một loại hành động ngôn từ trong tác phẩm văn học nhằm tìm
hiểu đặc điểm ngôn ngữ và văn hóa ứng xử, hoặc nhằm xác
định cấu trúc, ngữ nghĩa của biểu thức ngôn hành thể hiện hành


6
động ngôn từ đó. Việc nghiên cứu vấn đề chiến lược hội thoại
chỉ mới dừng lại ở chiến lược thực hiện một loại hành động
ngôn từ nào đó. Đặc biệt, gần đây, luận án tiến sĩ của Vũ Văn
Lăng (2013) đã tập trung phân tích một số tác phẩm của Nam
Cao dưới ánh sáng của phân tích diễn ngôn và ngữ dụng học.
Do nghiên cứu từ nhiều bình diện của phân tích diễn ngôn và
ngữ dụng học nên tác giả chưa có điều kiện khảo sát kĩ chiến
lược hội thoại trong tác phẩm văn học. Nguyễn Thị Thái (2015)
trong luận án Tiến sĩ Ngữ văn với đề tài “Đặc điểm ngôn ngữ
nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai” cũng đã vận dụng lí thuyết
hội thoại để tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu
thuyết Chu Lai qua từ xưng hô, từ thông tục, quán ngữ và thành
ngữ. Các nghiên cứu được điểm qua trong phần này cho thấy đề
tài luận án của chúng tôi là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
1.2. Cơ sở lí thuyết
1.2.1. Chiến lƣợc hội thoại
“Chiến lược hội thoại” (conversation strategies) là khái
niệm cơ sở của đề tài. Trong lí thuyết dạy tiếng, thuật ngữ này
được dùng để chỉ những phương tiện, biện pháp mà những
người tham gia giao tiếp sử dụng để xử lí các điểm trục trặc
(trouble spots) trong giao tiếp nhằm giữ cho cuộc thoại đi theo
hướng mong muốn. Để có cơ sở lí thuyết thích hợp cho luận án

này, quan niệm này về chiến lược hội thoại cần được bổ sung
theo cách hiểu của Rodney Jones (2012). Jones cho rằng chiến
lược hội thoại là những phương cách tạo lập hình ảnh bản thân
trong mắt những người chung quanh cũng như tạo lập, duy trì
các mối quan hệ xã hội qua quá trình thương lượng với đối
ngôn về những gì ta đang làm và về hình ảnh ta lúc giao tiếp.
Nhìn từ góc độ khoa học tri nhận, chiến lược hội thoại
gắn với khái niệm thông tin tiền giả định về ý định, mục đích,
ước muốn, sở thích, ý kiến, thái độ, ý thức hệ, tình cảm, cá tính
của người nói. Cách hiểu này cho phép ta mở rộng sang mô
hình đối thoại giữa tác giả và độc giả vì nó giúp ta thấy rằng


7
trong cách kể chuyện hay trong việc chọn hình thức tự sự, có sự
tính toán các bước đi và có cả những điều chỉnh dựa trên những
tiên liệu của nhà văn trước thái độ tiếp nhận của độc giả. Tác
giả là người khởi xướng và duy trì chiến lược hội thoại dựa vào
khả năng nắm bắt tâm lí, nhu cầu thẩm mỹ của đối tượng độc
giả của mình.
1.2.2. Hội thoại trong đời sống và hội thoại trong văn học
Nói chung, hội thoại trong văn học cũng có những đặc
điểm như hội thoại trong đời sống, song nó là sự tinh tuyển từ
nguồn chất liệu hội thoại trong đời sống, mang dấu ấn hư cấu
theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Những yếu tố thuộc về cấu
trúc tự sự như điểm nhìn, ngôi kể, nhân vật trung tâm do chính
tác giả lựa chọn sẽ có tác dụng điều khiển hệ thống lượt lời
trong truyện kể. Nhà văn cũng thường tạo ra bất ngờ từ cấu trúc
có thứ tự lớp lang của hội thoại. Những chỗ có thể tạo ra bất
ngờ ấy thường rơi vào những điểm kết nối, chuyển tiếp giữa các

lượt lời. Đó có thể là những khoảng lặng, những lượt lời bị cố
tình bỏ qua hay cần phải hiệu chỉnh. Đó cũng có thể là những
bất ngờ từ chỗ liên kết giữa các cặp kế cận hay chính từ những
chọn lựa trong đơn vị kiến tạo nên lượt lời. Những chọn lựa đó
có thể ở cấp độ từ, ngữ đoạn, câu, cấu trúc ngữ pháp… giúp tạo
nên những trục trặc ở lời trao hay lời đáp. Tất cả những bất ngờ
đó tạo ra sự biến động trong vận động hội thoại buộc người đọc
phải chú ý đến cấu trúc hội thoại và những mong đợi về chuỗi
cấu thành hệ thống lượt lời hiện diện trong văn bản. Trong
tương quan với toàn bộ văn bản nghệ thuật, hội thoại trong văn
học còn có chức năng đặc thù là làm nổi bật nhân vật và các
mối quan hệ giữa họ, qua đó giúp độc giả hiểu về xã hội với
những ứng xử, mối quan tâm trong xã hội đó.
1.2.3. Ngữ cảnh
Ngữ cảnh trong tương tác xã hội không phải là một khái
niệm tĩnh tại, mà là một hình thức năng động gắn với thế giới tri
nhận, phản ánh quá trình chuyển biến tâm lí ở người tham gia
hội thoại qua đó ta thấy được những đổi thay trong niềm tin, ý


8
định của họ khi tương tác. Sell (2000) cho rằng giao tiếp là quá
trình qua đó các khác biệt về ngữ cảnh được thương lượng giải
quyết, do đó không thể có ngữ cảnh giống nhau cho tất cả mọi
người tham gia hội thoại.
1.2.4. Hành động ngôn từ
Theo Austin (1962), khi nói một điều gì đó có nghĩa là
thực hiện một hành động, gọi là “hành động ngôn từ” hay “hành
động nói” (speech act). Austin phân chia hành động ngôn từ
thành ba loại: hành động tạo lời (locutionary act), tức là phát

ngôn như nó đã được tạo ra; hành động ở lời (illocutionary act),
tức là những hành động người nói thực hiện ngay khi nói năng;
và hành động mượn lời (perlocutionary act), tức là mượn các
phát ngôn để gây một hiệu quả nào đó ngoài ngôn ngữ. Hành
động mượn lời tạo ra hiệu quả về mặt tâm lí đối với người nghe,
nó tác động đến suy nghĩ, tình cảm, hành động của người nghe
hoặc đối với chính bản thân người nói, và điều này có thể tạo ra
vì cố tình, có tính toán trước với mục tiêu nào đó. Nhận xét này
của Austin (1962) rất hữu ích cho nghiên cứu chiến lược hội
thoại trong văn học, đặc biệt là ở cấp độ tác giả – độc giả. Ở cấp
độ này, tác giả cần nắm bắt tâm lí người đọc để chọn lựa hành
động ngôn từ nào, với đích đến và cường lực nào cho phù hợp
để tạo sức hấp dẫn cho truyện kể. Về phía người đọc cũng cần
nhận dạng loại hành động ngôn từ nào được nhân vật sử dụng
và những yếu tố nào cấu thành nên lực ở lời của hành động
ngôn từ đó để biết được ý định của nhân vật, và qua đó ý định
của tác giả.
1.2.5. Các nguyên tắc hội thoại
1.2.5.1. Nguyên tắc về lượt lời
Nguyên tắc về lượt lời liên quan đến tổ chức hội thoại.
Đó là tổ chức các chuỗi lượt lời (sequences), luân phiên lượt lời
(turn taking), và hiệu chỉnh (repair). Đây là những hệ thống
hoạt động được tổ chức một cách tự nhiên nhờ sự nối kết giữa
những cặp kế cận (adjacency pairs). Thuộc tính của cặp kế cận
là ràng buộc nhau, qui định lẫn nhau theo cơ chế tự động hóa,


9
cái này “gọi” cái kia. Thuộc tính này đảm bảo cho tương tác xã
hội diễn ra theo trình tự nhất định nhờ điều được người này nói

về cơ bản sẽ qui định điều mà người kế tiếp sẽ nói.
Trong quá trình diễn tiến hội thoại chắc chắn sẽ có
những “trục trặc” (troubles) nảy sinh trong khi nói năng, nghe
hiểu. Đây là chỗ mà các nhà văn thường khai thác để tạo ra
những bất ngờ trong dòng hội thoại.
Một điều đáng chú ý khác là tính hệ thống của văn bản
mà từ đó lượt lời xuất hiện. Tính hệ thống này thể hiện qua
phương thức tổ chức các cuộc thoại có nội dung hoàn chỉnh
xoay quanh một chủ đề nhất định. Ở đây, có thể xem cấu trúc
tổng thể của hệ thống hội thoại trong văn bản văn học như một
tập hợp nhiều ô trống được sắp xếp theo trình tự nhất định. Lần
lượt các cuộc thoại sẽ được điền vào ô thích hợp theo cái cách
giống như trong hệ thống điều hành cục bộ ở luân phiên lượt
lời, nghĩa là cuộc thoại này sẽ “gọi” cuộc thoại kia, và chúng
đan kết vào nhau, soi rọi cho nhau trong chuỗi mắc xích hợp lí.
Trên cơ sở này, luận án sẽ khảo sát các cuộc thoại và cách
chúng đan kết lại để từ đó hiểu được quá trình tương tác diễn ra
trong truyện kể và nhận dạng được các chiến lược hội thoại mà
tác giả sử dụng để tác động đến độc giả.
1.2.5.2. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
Grice (1975) giả định rằng khi giao tiếp với nhau người
ta thường cộng tác để làm cho phát ngôn có thể chấp nhận
được. Từ giả định này, Grice đề ra nguyên tắc gọi là nguyên tắc
cộng tác (cooperative principle). Theo nguyên tắc này, người
tham gia giao tiếp có thể đáp ứng được những mong đợi của đối
ngôn về hành vi hội thoại, đó là mong đợi rằng điều nói ra là
đúng sự thật, có liên quan đến đề tài đang trao đổi, được diễn
đạt rõ ràng, không mơ hồ, và vừa đủ, không nhiều hơn điều cần
nói. Tuân thủ nguyên tắc cộng tác và các phương châm hội
thoại là việc làm hợp lí (reasonable/rational) vì nó có lợi cho

người tuân thủ. Người nói có thể cố tình vi phạm nguyên tắc
cộng tác và các phương châm hội thoại (flouting a maxim) để


10
tạo ra hàm ngôn hội thoại (conversational implicature), và
đây cũng là trường hợp cần đặc biệt chú ý khi tìm hiểu về
chiến lược hội thoại trong văn học vì nhân vật có thể cố tình
vi phạm một hay nhiều phương châm hội thoại để đạt mục
tiêu nào đó. Ở cấp độ tác giả – độc giả, phương châm hội
thoại cũng có thể bị tác giả cố tình vi phạm để tạo nên yếu tố
hài hước, mỉa mai trong truyện kể.
1.2.5.3. Nguyên tắc lịch sự
Cơ sở của lí thuyết về lịch sự được xây dựng trên khái
niệm “thể diện” của Goffman (1967). Theo Goffman, thể diện
không nằm trong bản thân một cá nhân nào, mà nó chỉ xuất hiện
trong quá trình tương tác xã hội. Điều này đòi hỏi những người
tham gia giao tiếp, bên cạnh việc bảo vệ thể diện của mình, còn
cần phải chú ý ứng xử sao cho không làm tổn hại đến thể diện
của người khác.
Brown & Levinson (1987) xem thể diện như là hình
ảnh bản thân trong mắt công chúng mà người tham gia giao tiếp
muốn duy trì trong sự kiện giao tiếp. Thể diện là điều được chú
tâm về phương diện tình cảm, có thể mất đi hay được duy trì,
hoặc tôn lên, và phải luôn được lưu ý trong quá trình giao tiếp.
Khi giao tiếp, mọi cá nhân đều cần giữ thể diện hoặc tránh
không làm phương hại đến thể diện của người khác, và điều này
được thực hiện thông qua các chiến lược lịch sự. Eelen (2001)
nhận xét rằng cốt lõi của lí thuyết lịch sự của Brown &
Levinson nằm ở chỗ họ xem lịch sự là nền tảng của mọi cấu

trúc xã hội, là thể hiện của những mối quan hệ xã hội và là
phương thức giải quyết các xung đột trong giao tiếp liên nhân.
Theo đường hướng hậu hiện đại (post-modern
approach), lịch sự được xem xét như một quá trình năng động,
thương thảo, ở cấp độ diễn ngôn và không đồng nhất vì còn tùy
thuộc vào tình huống giao tiếp hay người nói. Theo đường
hướng này thì người ta cần đến một khái niệm bao quát hơn
khái niệm “lịch sự” để có thể đánh giá đúng đắn thế nào là hành
vi lịch sự vốn bị chi phối bởi nhiều yếu tố văn hóa xã hội trong


11
các cộng đồng khác nhau. Những tiến bộ trong nghiên cứu về
lĩnh vực này sẽ giúp cho việc khảo sát chiến lược hội thoại
trong tác phẩm văn học thuận lợi hơn vì chúng cung cấp những
góc nhìn và công cụ khác nhau để đánh giá một cách toàn diện
hiệu quả của chiến lược lịch sự trong giao tiếp.
1.3. Tiểu kết
Những khái niệm trình bày trong chương này chính là
công cụ để nghiên cứu hội thoại theo hai cách tiếp cận: phân
tích hội thoại và ngữ dụng học. Hai cách tiếp cận này không
loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau và cho ta những “ô cửa”
khác nhau để nhìn rõ hơn các hiện tượng hội thoại. Theo đó,
luận án sẽ khảo sát các chiến lược hội thoại trong các truyện
ngắn tiêu biểu của Somerset Maugham trong hai chương:
chương 2 tập trung vào các chiến lược vận dụng nguyên tắc về
lượt lời; còn chương 3 tập trung vào các chiến lược vận dụng
nguyên tắc cộng tác hội thoại và nguyên tắc lịch sự. Tên gọi cho
hai chương này là xuất phát từ góc độ người đọc vận dụng lí
thuyết về hội thoại để nhận diện, phân tích các chiến lược hội

thoại mà Somerset Maugham đã xây dựng trong truyện ngắn
của ông.

CHƢƠNG II
CÁC CHIẾN LƢỢC HỘI THOẠI VẬN DỤNG
NGUYÊN TẮC VỀ LƢỢT LỜI
Chương này khảo sát các chiến lược hội thoại vận dụng
nguyên tắc về lượt lời được Somerset Maugham sử dụng trong
50 truyện ngắn tiêu biểu.
2.1. Nhận xét chung về các chiến lƣợc vận dụng nguyên tắc
về lƣợt lời
Như truyện ngắn của nhiều tác giả khác, truyện của
Somerset Maugham là một chỉnh thể có bắt đầu, có diễn tiến, có
đột biến và có kết thúc. Hội thoại trong truyện cũng đảm bảo


12
tính hoàn chỉnh đó trong thế liên kết giữa các đơn vị hội thoại.
Về mặt hình thức, sự liên kết này được thể hiện qua cách tác giả
phân bố lượt lời dành cho nhân vật. Nhân vật nào nói trước, nói
sau, bỏ qua lượt lời hay ngập ngừng… tất cả đều chịu sự chi
phối bởi cách phân bố lượt lời chung cho cuộc thoại và làm nên
cái mà ta gọi là “chiến lược hội thoại”. Chiến lược này được
xây dựng trên nguyên tắc tâm lí chủ yếu của chiến lược giao
tiếp, đó là “tác động mạnh đến người đọc”. Trong các truyện
ngắn của Somerset Maugham, bước đầu, chúng tôi nhận dạng
được hai nhóm chiến lược: (1) Tổ chức các cuộc thoại và lượt
lời từ điểm nhìn trần thuật; và (2) Tạo ra những biến động trong
dòng hội thoại (ở lời trao và ở lời đáp).
2.2. Tổ chức các cuộc thoại và lƣợt lời từ điểm nhìn trần

thuật
Là nhà văn trung thành với cách kể chuyện truyền
thống, Somerset Maugham luôn bảo đảm sao cho mọi truyện
đều có bắt đầu và có kết thúc theo một cốt truyện chặt chẽ. Tính
chặt chẽ này được phản ảnh qua cách Somerset Maugham tổ
chức hội thoại từ điểm nhìn trần thuật để từng bước hé lộ chủ đề
tư tưởng của tác phẩm.
2.2.1. Tổ chức các cuộc thoại và lượt lời từ điểm nhìn trung
tâm (đối với các truyện theo phương thức trần thuật từ ngôi
thứ ba số ít)
Ở cấp độ vĩ mô, các chiến lược hội thoại hướng đến
việc tổ chức các cuộc thoại thành hệ thống theo diễn tiến cốt
truyện và nhất quán với chủ đề chung của truyện kể. Xuất phát
điểm của các chiến lược này là dựa vào một điểm nhìn trần
thuật để từ đó xác định vai giao tiếp của nhân vật cùng với số
lượng cuộc thoại, số lượng lượt lời cũng như loại hành động
ngôn từ phù hợp với vai giao tiếp đó. Với cách tổ chức như vậy,
Somerset Maugham đảm bảo được tính chặt chẽ, nhất quán
trong hệ thống lời thoại, khác với cách Ernest Hemingway tổ
chức lời thoại, như nhận xét của Lê Huy Bắc (2014: 334),
“thường rõ về chủ thể, về cấu trúc nhưng lại mơ hồ trong logic


13
hội thoại”, mục đích của đối thoại (về cái gì) lại bị xóa mờ để
buộc độc giả phải tham gia đồng sáng tạo. Trong khi đó, đối
thoại trong truyện ngắn của Somerset Maugham luôn liền mạch,
chặt chẽ, rõ ràng, không khuất lấp như tảng băng trôi.
2.2.2. Tổ chức các cuộc thoại và lượt lời theo phương thức
trần thuật ngôi thứ nhất với nhân vật xưng “tôi”

2.2.2.1. Tổ chức các cuộc thoại và lượt lời từ điểm nhìn của
người được trao quyền kể chuyện
Chiến lược này được xây dựng trên nguyên tắc chọn
điểm nhìn trần thuật từ nhân vật được giao quyền kể chuyện.
Đây không phải là người thuật chuyện (tức tác giả), mà là nhân
vật vốn đã quen biết, hay mới gặp gỡ tác giả, đảm nhận phần kể
chuyện. Bằng cách phân vai như vậy, Somerset Maugham có
thể phân bố lượt lời hợp lí giữa người nghe và người kể chuyện.
Nhân vật tôi (hay tác giả) đóng vai trò người lắng nghe, do vậy
các lượt lời thường ngắn, dưới hình thức câu hỏi hoặc câu thừa
nhận, và nội dung mang tính đánh giá, gợi mở hoặc biểu hiện sự
chú ý. Độ dài lượt lời ở đây thể hiện sự dẫn dắt, đưa đẩy giúp
quá trình vận động hội thoại diễn ra đúng hướng của một người
biết lắng nghe trên tinh thần cộng tác: chỉ đóng góp phần mình
vào cuộc thoại theo như yêu cầu ở vào một thời điểm cụ thể.
2.2.2.2. Tổ chức các cuộc thoại và lượt lời theo điểm nhìn của
người thuật chuyện là nhân vật tham gia vào câu chuyện do
mình kể
Người thuật chuyện có thể tham gia vào câu chuyện do
mình kể với vai giao tiếp thụ động hay chủ động. Khi ở vai giao
tiếp thụ động thì phần lớn số lượng lượt lời dành cho người
thuật truyện thường rơi vào các ô trống dành cho hồi đáp và các
lượt lời này cũng hạn chế cả về số lượng lẫn độ dài. Với cách
chọn nhân vật nào sẽ đóng vai chủ động trong giao tiếp,
Somerset Maugham có thể tổ chức lượt lời để làm nổi bật vai
chủ động của họ. Ở một số truyện, Somerset Maugham tổ chức
cuộc thoại và lượt lời từ điểm nhìn của người thuật chuyện với
vai trò trung gian cho hai tuyến nhân vật đối lập. Anh ta đi lại



14
tiếp xúc với các nhân vật, kết nối họ lại với nhau. Do vậy ta có
lần lượt những cuộc thoại giữa người thuật chuyện với từng
nhân vật. Cách tổ chức cuộc thoại và lượt lời tùy theo vai giao
tiếp là để đảm bảo tính hợp lí về mặt cấu trúc truyện kể.
Westbrook (2002) nhận thấy lời thoại ở các tác phẩm
của Somerset Maugham là phiên bản của lời thoại trong kịch
bản sân khấu vì Somerset Maugham đã lăn lộn trong lĩnh vực
sân khấu nhiều năm trước khi viết truyện ngắn. Điều này làm
nên khác biệt trong phong cách sáng tác của Somerset
Maugham với Anton Chekhov và với các nhà văn cùng thời
theo hướng cách tân. Khác với lời thoại trong tác phẩm của
Anton Chekhov vốn thiên về miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật,
ít dựa vào cốt truyện, lời thoại trong truyện ngắn của Somerset
Maugham gắn liền với cốt truyện, được tổ chức theo trình tự
các cuộc thoại nối tiếp nhau trong mối quan hệ thời gian hay
nhân quả phản ánh kết cấu cốt truyện truyền thống theo tuyến
tính.
Tuy tổ chức hội thoại theo cách truyền thống, nhưng
điều đó không có nghĩa là thiếu tính bất ngờ để lôi cuốn độc
giả. Điều này có thể lí giải qua các chiến lược tạo biến động
trong dòng hội thoại của Somerset Maugham.
2.3. Tạo ra những biến động trong dòng hội thoại
Ở cấp độ vi mô, Somerset Maugham sử dụng các chiến
lược hội thoại để tạo ra những biến động trong dòng hội thoại.
Những biến động này có được không phải do ngẫu nhiên mà
dựa vào khả năng có thể phát sinh trục trặc trong cơ chế luân
phiên lượt lời. Những trục trặc đó gây ra một sự hụt hẫng trong
mong đợi của người tham gia giao tiếp. Để làm cho sự hụt hẫng
ấy giàu kịch tính, Somerset Maugham tạo ra sự dồn nén, bức

bối trong lòng nhân vật đến mức cần được giải tỏa, đồng thời,
ông sử dụng cặp kế cận không được chuộng, im lặng và hiệu
chỉnh ở lời đáp để tạo ra một độ vênh cần thiết trong việc đáp
ứng mong đợi đó. Độ vênh đó tạo ra những biến động trong
dòng hội thoại, làm người đọc phải dừng lại, ngẫm nghĩ để giải


15
mã các dấu hiệu ngôn ngữ xuất hiện một cách bất thường trên
văn bản.
2.3.1. Chiến lược tạo ra những biến động ở lời trao
Ở lời trao, Somerset Maugham tạo ra sự dồn nén, bức
bối trong lòng nhân vật đến mức cần được giải tỏa qua giao
tiếp, thông qua những công thức ngữ dụng thường dùng như
“Anh có biết X không?”, “Bà có nghe gì về Y chưa?”…. Đây là
cách Somerset Maugham để cho nhân vật tự tạo ra lượt lời để
có được quyền kể ra những nỗi niềm chất chứa trong lòng.
Dường như nhà văn không bận tâm lắm với chuyện tìm tòi cách
tân. Ông cứ đơn thuần dùng một từ cốt lõi là “suddenly” (“thình
lình, đột nhiên”) mà trong giao tiếp hàng ngày vốn vẫn thường
được dùng để chỉ một điều gì đấy bất ngờ, đột biến, hoặc các từ
đồng nghĩa trong lời dẫn thoại hoặc trần thuật, và đôi khi dùng
động từ chỉ hành động đột ngột đi kèm, để lưu ý độc giả về
những bất thường trong luân phiên lượt lời.
2.3.2. Chiến lược hội thoại tạo ra những biến động ở lời đáp
2.3.2.1. Sử dụng cặp kế cận không được chuộng
Với chiến lược này, Somerset Maugham buộc độc giả
phải dừng lại đặt dấu hỏi vì sao nhân vật không dùng cặp kế cận
được chuộng. Và khi tìm kiếm câu trả lời, độc giả buộc phải
chú ý đến đường dây liên kết giữa các lượt lời. Đường dây liên

kết này luôn chặt chẽ mang tính nhân quả, lượt lời này soi rọi
cho lượt lời kia, chúng mang trong đó những dấu hiệu ngôn ngữ
giúp lí giải cho những bất ngờ mà chúng tạo ra. Nó không giống
như hình thức luân phiên lượt lời của kiểu đối thoại rời rạc như
từng mảnh vụn (fragmentary dialogue) ở đó các cặp kế cận
dường như hoạt động tách biệt, không quan tâm gì đến môi
trường chung quanh chúng, như có thể thấy trong hội thoại của
các nhà văn theo hướng cách tân khác. Các cặp kế cận theo cấu
trúc không được chuộng dù có tạo bất ngờ nhưng vẫn phản ánh
một cấu trúc hội thoại được tổ chức theo kiểu truyền thống, lượt
lời này nối lượt lời kia trong một chuỗi móc xích tự động thành
một hệ thống nhất quán từ đầu đến cuối.


16
2.3.2.2. Sử dụng sự im lặng
Chiến lược này nhằm tạo ra sự bất thường trong kênh
phản hồi. Nhân vật có khi im lặng, bỏ qua lượt lời của mình, và
sự bỏ qua ấy tạo ra một sự khác biệt mang ý nghĩa chiến lược
trong luân phiên lượt lời. Hiệu quả đạt được qua chiến lược này
là: (i) tạo ra những gián đoạn trong mạch hội thoại nhằm khắc
họa một cách sinh động tâm trạng của nhân vật; (ii) tạo sự căng
thẳng, đồng thời thu hút sự chú ý của độc giả về phía nhân vật.
Somerset Maugham có cách lưu ý riêng dành cho độc
giả như sau: khi nhân vật chưa xuất hiện thì các cuộc thoại
trước đó diễn ra rất trơn tru, thông suốt. Nhưng từ khi có nhân
vật đó tham gia giao tiếp thì bắt đầu có nhiều trục trặc. Độc giả
liên tục nhận được tín hiệu của người thuật chuyện cho biết
nhân vật đang sử dụng triệt để chiến lược giữ im lặng qua các
cách biểu đạt trong lời thuật như “Once more Millicent said

nothing.” (Lại một lần nữa Millicent chẳng nói gì.), “Millicent
shrugged her shoulders.” (Millicent nhún vai.)… Đây là những
dấu hiệu mà các nhà văn thường dùng để cho biết nhân vật im
lặng. Somerset Maugham cũng theo thông lệ đó, nhưng ông đưa
những hành động im lặng riêng lẻ vào trong hệ thống lượt lời để
chúng đan kết với nhau thành chiến lược hội thoại.
2.3.2.3. Hiệu chỉnh
Theo cơ chế hiệu chỉnh thì người đang nói có cơ hội
trước tiên để nêu ra và hiệu chỉnh bất cứ trục trặc nào ở lượt lời
của mình khi đang nói giữa chừng hoặc ngay khi hoàn tất lượt
lời. Nhưng trong văn học thì để tác động mạnh đến tâm lí đối
ngôn, người đó có thể bỏ qua cơ hội hiệu chỉnh dành cho mình,
hoặc có thể dùng hiệu chỉnh khi muốn làm cho đối ngôn phải
chú ý đến điều họ nói.
Somerset Maugham dùng hiệu chỉnh để tạo ra những
biến đổi trong cấu trúc hội thoại từ đó đạt tới những hiệu quả
sau: (i) tạo ra những đoạn đứt khúc ở lời thoại buộc người nghe
lẫn độc giả phải dừng lại đặt dấu hỏi về mối quan hệ gia đình,
xã hội gia đình của nhân vật được đề cập; (ii) làm cho dòng hội


17
thoại bị thay đổi đột ngột thu hút sự chú ý của độc giả vào tâm
trạng của nhân vật đang kể chuyện; (iii) điều khiển dòng hội
thoại đi về hướng mục tiêu giao tiếp mà nhân vật cần đạt tới;
(iv) làm tăng mức độ căng thẳng, hồi hộp, đồng thời cho thấy
tính chất nghiêm trọng của vấn đề liên quan đến nhân vật; (v)
tạo tiếng cười.
Nhìn chung, việc dùng các chiến lược hội thoại nhiều
hay ít không quan trọng bằng việc dùng chúng như thế nào và

vào lúc nào. Có chiến lược chỉ được sử dụng có một lần trong
truyện kể, nhưng đó là lần quan trọng, không có nó sẽ không
thành truyện. Có những chiến lược được sử dụng nhiều lần theo
chiều tăng cấp để tác động mạnh đến đối thể giao tiếp và quan
trọng hơn là để tác động mạnh đến người đọc. Thời điểm thực
hiện chiến lược hội thoại có thể rơi vào những tình huống căng
thẳng, kịch tính trong diễn tiến cốt truyện, hoặc có thể rơi vào
lượt lời kết của nhân vật (thường là nhân vật chính) khi truyện
khép lại để tạo dư âm trong lòng độc giả. Tùy theo mục tiêu
giao tiếp mà Somerset Maugham sử dụng chiến lược hội thoại
theo một mức độ phù hợp để tạo ra hiệu quả cần thiết.
2.4. Tiểu kết
Các chiến lược hội thoại nêu trên đều có những mục
tiêu cụ thể, song chúng không đứng tách biệt, riêng lẻ mà phối
hợp với nhau để tạo ra một hiệu quả chung về mặt tâm lí, đó là
lôi cuốn độc giả vào những tình tiết bất ngờ, thú vị trong quá
trình tương tác giữa các nhân vật.
CHƢƠNG III
CÁC CHIẾN LƢỢC HỘI THOẠI VẬN DỤNG
NGUYÊN TẮC CỘNG TÁC VÀ LỊCH SỰ
Chương này nhận diện và phân tích các chiến lược chi
phối nội dung hội thoại và mối quan hệ liên nhân giữa các nhân
vật trong truyện ngắn của Somerset Maugham. Tổng cộng có
sáu chiến lược hội thoại được gọi tên theo tác dụng, hiệu quả
của chúng.


18
3.1. Chiến lƣợc thiết lập và duy trì mối quan hệ hài hòa
trong giao tiếp liên nhân

Chiến lược này đáp ứng được chức năng cơ bản nhất
của các nguyên tắc hội thoại, nhất là nguyên tắc lịch sự, đó là
thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp trong giao tiếp. Tùy theo
những mối quan hệ xã hội khác nhau và mức độ tham gia của
các biến độc lập như mục tiêu giao tiếp, thiện cảm, các dạng
quyền lực khác nhau trong từng tình huống cụ thể mà nhân vật
chọn lựa hành động ngôn từ phù hợp với hành vi lịch sự cần thể
hiện.
3.2. Chiến lƣợc tạo hiệu quả trong thuyết phục, thƣơng
lƣợng
Chiến lược này có mục tiêu, ý đồ giao tiếp rõ nét là
nhằm thuyết phục đối ngôn suy nghĩ và hành động theo cách
như mình mong muốn. Việc vi phạm phương châm hội thoại
hay bỏ qua nguyên tắc lịch sự suy cho cùng chẳng qua là nhằm
làm cho đối ngôn dễ dàng chấp nhận thay đổi quan điểm, nhận
thức, niềm tin…của mình.
3.3. Chiến lƣợc giải quyết những rào cản, xung đột văn hóa
Chiến lược này được sử dụng cho những truyện có tình
huống giao tiếp liên văn hóa, và đặc biệt là chùm truyện viết về
những người ở phương Tây sang các hòn đảo thuộc địa sinh
sống, làm việc. Mặc dù số phận của mỗi người mỗi khác, nhưng
trong đời sống giao tiếp, họ cùng chịu những thách thức của
một nền văn hóa với những hệ thống giá trị khác biệt. Trước
những thách thức đó, dù muốn hay không họ buộc phải chọn
lựa và hành động. Điều mà Somerset Maugham quan tâm đó là
hiểu và đánh giá đúng những giá trị văn hóa để từ đó có thể
chọn lựa chiến lược giao tiếp phù hợp trong môi trường đa văn
hóa, đa ngôn ngữ. Hơn thế nữa, khả năng thích nghi cũng như
một thái độ rộng mở trước những khác biệt văn hóa cũng là
những nhân tố đảm bảo thực hiện thành công chiến lược hội

thoại này.
3.4. Chiến lƣợc tạo ra hàm ngôn


19
Chiến lược này được xây dựng dựa trên những nguyên
tắc hội thoại làm xuất hiện những hàm ngôn phi qui ước.
Somerset Maugham không tạo hàm ngôn theo hướng cách tân
để lôi cuốn độc giả vào cuộc chơi đồng sáng tạo, mà để cho độc
giả ở vai truyền thống của người nghe kể chuyện, vừa lắng nghe
vừa quan sát, đánh giá để cảm thụ hết những ẩn ý trong lời thoại
nhân vật. Với vai giao tiếp này, độc giả có lợi thế nhìn thấy rõ
mục tiêu, ý đồ sử dụng chiến lược hội thoại của nhân vật. Còn
nếu như theo hướng cách tân, thì có thể độc giả cần phải tham
gia vào quá trình tạo nghĩa, sắp xếp lại những mảnh hội thoại có
vẻ không đầu không đuôi để biết được nhân vật muốn gì qua
những hành động ngôn từ nhất định. Theo hướng truyền thống,
độc giả có thể vận dụng nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc lịch
sự để hiểu được vì sao lại có những trường hợp vi phạm phương
châm hội thoại tạo ra hàm ngôn. Tác giả và độc giả cộng tác
theo nguyên tắc tác giả là người lập mã, độc giả là người giải
mã dựa theo những tín hiệu ngôn ngữ mà tác giả đã cố tình tạo
ra để lưu ý độc giả.
3.5. Chiến lƣợc lƣợc tạo yếu tố hài hƣớc, mỉa mai
Somerset Maugham tạo ra một độ chênh giữa lời nói
của nhân vật và bản chất con người của họ, từ đó vẽ nên những
bức tranh biếm họa đầy nét hóm hỉnh, mỉa mai về một thế giới
nghịch lí do con người tự tạo ra. Để xác định được hiệu quả của
chiến lược này, người đọc cần chọn một vị trí khác với vị trí của
nhân vật, một vị trí mà người đọc có thể nhìn thấy và hiểu được

điều mà nhân vật không thể nhìn thấy và thông hiểu.
3.6. Chiến lƣợc tạo kịch tính cho truyện kể
Chiến lược này nhằm tạo ra những thay đổi bất ngờ,
nhưng hợp lí, cả trong cốt truyện lẫn trong phương thức xây
dựng tính cách nhân vật. Với chiến lược này, Somerset
Maugham có thể dịch chuyển nhân vật hay tình huống từ trạng
thái này sang trạng thái khác, theo hướng tích cực hoặc tiêu cực,
tốt hơn hay xấu đi từ đó tạo ra kịch tính. Không như Anton
Chekhov, ông không để nhân vật thoát vai hoàn toàn để nhập


20
vào vai trái ngược hẳn nhằm tạo ra kịch tính. Ông chỉ tạo ra sự
thay đổi trong trạng thái như cách các nhà văn thường làm trong
quá trình xây dựng tính cách nhân vật hay diễn tiến cốt truyện.
3.7. Tiểu kết
Các chiến lược trình bày ở chương này được nhận dạng
và phân tích dựa trên nguyên tắc cộng tác và lịch sự. Ranh giới
giữa các chiến lược hội thoại đôi khi không thể phân định rõ
ràng vì chúng có thể được sử dụng nhằm đến nhiều tác dụng
giao tiếp cùng một lúc.
KẾT LUẬN
Vận dụng lí thuyết về hội thoại và ngữ dụng học giúp ta
xác lập được các chiến lược hội thoại trong truyện ngắn tiêu
biểu của Somerset Maugham. Các chiến lược đó tác động đến
cấu trúc, nội dung hội thoại và mối quan hệ liên nhân của các
nhân vật.
Về mặt cấu trúc hội thoại, tổ chức các cuộc thoại và
lượt lời theo điểm nhìn trần thuật là chiến lược lấp các ô trống
phù hợp trong hệ thống văn bản hội thoại văn học, đảm bảo tính

chặt chẽ và nhất quán trong sự phân bố các cuộc thoại và lượt
lời cũng như trong việc chọn lựa thực hiện hành động ngôn từ
và sử dụng phương tiện ngôn ngữ phù hợp với vai giao tiếp của
nhân vật. Nhìn ở phương diện tổ chức cục bộ, chiến lược hội
thoại khai thác những chỗ có khả năng dẫn đến trục trặc trong
hệ thống điều hành lượt lời để tạo ra biến động trong dòng hội
thoại. Chiến lược tạo lượt lời một cách đột ngột ở lời trao tạo sự
chú ý cho độc giả, buộc họ phải dừng lại, ngẫm nghĩ để giải mã
các dấu hiệu ngôn ngữ xuất hiện một cách bất thường trên văn
bản. Tương tự, ba chiến lược chính làm nên biến động ở lời đáp
là cặp kế cận không được chuộng, im lặng và hiệu chỉnh cũng
mang lại bất ngờ cho cả nhân vật lẫn độc giả vì chúng tạo ra
một sự hụt hẫng trong mong đợi của các bên tham gia giao tiếp


21
(ở đây, độc giả cũng là đối thể giao tiếp) và chúng tuân theo qui
luật tương tác, chứ không phải ngẫu nhiên tùy tiện.
Khi khảo sát các chiến lược chi phối cấu trúc hội thoại,
chúng tôi không thể đi sâu tìm hiểu khả năng tham gia tạo nghĩa
của chúng do chú trọng nhiều hơn đến những biến động trong
mạch hội thoại. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu do
những trục trặc trong mạch hội thoại không chỉ dừng lại ở hình
thức bề mặt của hội thoại mà còn có thể báo hiệu một sự thay
đổi trong quan hệ giao tiếp liên nhân.
Về mặt nội dung hội thoại và tương tác liên nhân, có
sáu chiến lược hội thoại được được gọi tên theo tác dụng, hiệu
quả của chúng:
1. Chiến lược thiết lập và duy trì mối quan hệ hài hòa
trong giao tiếp liên nhân. Chiến lược này được sử dụng linh

hoạt tùy theo mức độ quan hệ xã hội, mục tiêu giao tiếp, và sự
hiện diện của các yếu tố tâm lí, cá nhân người tham gia hội
thoại. Tùy vào văn hóa ứng xử của mỗi quốc gia, người tham
gia giao tiếp có cách nhìn nhận về mức độ và kiểu loại bù đắp
thể diện khác nhau. Do vậy, cần tìm hiểu cách thức một loại
hành động ngôn từ được nhìn nhận như thế nào từ phía người
nói lẫn người nghe, cũng như cách thức mà họ thương thảo khi
thực hiện hành động ngôn từ này.
2. Chiến lược tạo hiệu quả trong thuyết phục, thương
lượng. Mục đích của chiến lược này là nhằm thuyết phục đối
ngôn suy nghĩ và hành động theo cách như mình mong muốn
trên cơ sở tạo ra “tính có lợi” của phát ngôn làm cho người nghe
dễ dàng chấp nhận. Vận dụng phương châm hội thoại và
nguyên tắc lịch sự người đọc có thể nhận dạng chiến lược này
qua cách thức người nói sử dụng phương tiện ngôn ngữ (thức
giả định, từ tình thái, từ ngữ xưng hô, biểu thức rào đón…) để


22
giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện cho cả người nói lẫn người
nghe.
3. Chiến lược giải quyết những rào cản, xung đột văn
hóa. Chiến lược này được thực hiện thông qua khả năng vận
dụng nguyên tắc cộng tác và nguyên tắc lịch sự trên cơ sở hiểu
và đánh giá đúng những giá trị văn hóa khác biệt. Thực hiện
chiến lược này, người tham gia giao tiếp cần có khả năng thích
nghi với tập quán ứng xử đặc thù của từng cộng đồng văn hóa xã
hội nhất định.
4. Chiến lược tạo ra hàm ngôn. Dựa trên lí thuyết về hội
thoại và lịch sự, độc giả có thể nhận ra hàm ngôn hội thoại phi

qui ước mà Somerset Maugham tạo ra. Bằng cách vi phạm
nguyên tắc cộng tác hay nguyên tắc lịch sự, nhân vật có thể
ngầm bảo với đối ngôn nhiều điều hơn những gì họ nói ra. Với
vai truyền thống của người nghe kể chuyện, độc giả có thể vừa
lắng nghe vừa quan sát để cảm thụ hết những ẩn ý trong lời
thoại nhân vật. Họ có cái lợi thế nhìn thấy rõ mục tiêu, ý đồ sử
dụng chiến lược lịch sự của nhân vật, một điều mà người tham
gia hội thoại không phải lúc nào cũng cảm nhận được, nếu
không chú ý đến thái độ, cách thức, phương tiện ngôn ngữ mà
người nói sử dụng trong một tình huống giao tiếp cụ thể.
5. Chiến lược tạo yếu tố hài hước, mỉa mai. Đường
hướng mà Somerset Maugham chọn lựa trong việc triển khai
chiến lược hội thoại này là tạo ra sự bất tương thích giữa tính
cách nhân vật và lời nói của họ. Sự bất tương thích này thể hiện
qua việc nhân vật vi phạm nguyên tắc cộng tác khi dùng ngôn
ngữ cường điệu hóa cảnh ngộ của mình, hay cho thấy ảo tưởng
về quyền lực bản thân, hoặc sử dụng chiến lược lịch sự một
cách bất thường trong ứng xử với người thân thuộc. Chiến lược
hội thoại này cần được xem xét trong quan hệ giữa nội dung lời
thoại với cách thức thực hiện lời thoại gắn với ngữ cảnh cụ thể.


23
6. Chiến lược tạo kịch tính cho truyện kể. Kịch tính
được tạo ra không chỉ đơn thuần là nhân vật nói điều trái với
mong đợi của mọi người mà còn ở cách thức nhân vật nói ra
điều không mong đợi ấy, vì nó bao hàm thái độ tiếp cận sự việc
theo một hướng mà không ai dự liệu tới nhưng nhất quán với
tính cách nhân vật. Nhận diện chiến lược này từ góc độ cộng tác
hội thoại và lịch sự sẽ giúp độc giả nhìn thấy sự đa dạng trong

cách tạo ra những thay đổi bất ngờ, nhưng hợp lí, cả trong cốt
truyện lẫn trong phương thức xây dựng tính cách nhân vật của
Somerset Maugham.
Có thể nói, vận dụng các nguyên tắc cộng tác và lịch sự
là một trong những phương thức giúp độc giả giải mã được các
tín hiệu ngôn ngữ nghệ thuật hàm chứa nhiều tầng nghĩa khác
nhau cũng như những nét tinh tế, ý nhị trong hệ thống hội thoại
ở truyện ngắn của Somerset Maugham. Hiệu quả nghệ thuật
được tạo ra từ các chiến lược hội thoại cũng có thể được nhận
biết qua các nguyên tắc ngữ dụng trên. Điều cần chú ý là việc
nghiêng về nguyên tắc nào là còn tùy theo mục tiêu của mỗi
truyện kể và tùy theo mức độ hợp lí mà nguyên tắc đó được vận
dụng cho từng tình huống giao tiếp cụ thể. Ranh giới giữa các
chiến lược hội thoại đôi khi cũng không thể phân định rõ ràng
vì chúng có thể được sử dụng nhằm đến nhiều tác dụng giao
tiếp cùng một lúc. Ngay trong cùng một phát ngôn cũng có thể
chứa những biểu thức ngôn ngữ phục vụ cho cả chiến lược tác
động đến cấu trúc hội thoại lẫn mối quan hệ tương tác giữa các
nhân vật. Đây cũng là một trở ngại khiến chúng tôi không thể
lấy tần suất xuất hiện của các chiến lược hội thoại để làm rõ
chiến lược nào là nổi trội trong cách hành văn của Somerset
Maugham. Vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu dưới ánh
sáng của khoa học liên ngành.


×