Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tri thức khoa học trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở việt nam hiện nay (tóm tắt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.57 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

NGUYỄN THỊ NGỌC THÙY

TRI THỨC KHOA HỌC TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC &CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015


Công trình được hoàn thành tại:

Trường Đai hoc Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS.Vũ Văn Gầu
Phản biện độc lập 1:
Phản biện độc lập 2:

Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biên 3:


Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo
tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh
.

Vào hồi…..giờ…..ngày…..tháng…năm…

Có thể tìm luận án tại:
Thư viện trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ
Chí Minh
Thư viện trường Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh
Thư viện Khoa học tổng hợp, số 1 Lý Tự Trọng Q.1. TP HCM.
Thư viện trường Đại học Quy Nhơn


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở tất cả mọi thời đại của lịch sử xã hội, trong một phương thức sản xuất nhất
định, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất - được biểu hiện thông qua trình độ của
người lao động, trình độ công cụ, phương tiện lao động - là yếu tố quyết định trình độ
phát triển của phương thức sản xuất nói riêng, của nền sản xuất xã hội nói chung. Tri
thức khoa học luôn luôn là một trong những yếu tố quyết định trình độ của người lao
động, của công cụ lao động và phương tiện lao động… Nếu như công cụ, phương tiện
lao động được xem là sức mạnh trí tuệ của con người được vật chất hóa trong nền sản
xuất, và người lao động với năng lực trí tuệ của họ là khâu then chốt trong lực lượng sản
xuất, thì tri thức khoa học chính là nền tảng đầu tiên, là đòn bẩy phát triển cho các bộ
phận giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất, khi tri thức khoa học được vật chất
hóa trong nền sản xuất, sẽ tạo thành công nghệ - kỹ thuật, ứng dụng để phát triển công

cụ, phương tiện lao động; còn người lao động, một khi được dẫn dắt bởi tri thức khoa
học thì sẽ tạo nên năng lực trí tuệ, là một sức mạnh to lớn để làm biến đổi thế giới. Cho
nên, có thể nói, sự phát triển của nền sản xuất, của các thời đại kinh tế, của xã hội loài
người…phụ thuộc vào sự phát triển của tri thức khoa học.
Từ thập niên 1990 đến nay, sau khi xóa bỏ cơ chế bao cấp, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về cơ bản,
đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu chiến lược “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại” 1. Bản chất của kinh tế thị trường là hoạt động xã hội hóa lao động ngày càng được
đẩy mạnh, cả chiều rộng và chiều sâu, dưới sự tác động của các cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật. Nền kinh tế thị trường hiện đại phát triển đầy biến động với tốc độ khá
nhanh, luôn tạo ra những lực lượng sản xuất mới để không ngừng phát triển, tiến lên giai
đoạn cao hơn - giai đoạn kinh tế tri thức. Như vậy, tiến lên kinh tế tri thức là xu thế phát
triển tất yếu, khách quan của kinh tế thị trường, do đó để phát triển nhanh và bền vững,
Việt Nam cần nhanh chóng đầu tư cho tri thức khoa học để tạo động lực cho phát triển
nhằm tất yếu hình thành và phát triển kinh tế tri thức.
Trên thực tế, bản đồ kinh tế - chính trị của thế giới đã có sự thay đổi khá phức tạp, thể
hiện ở sự thăng trầm và chuyển đổi thứ bậc xếp hạng của nhiều cường quốc, nhiều khu
vực trên thế giới, và một trong những nguyên nhân sâu xa của tất cả sự thay đổi đó chắc
chắn rằng đều nằm ở vị trí ưu tiên đối với khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong chiến
lược phát triển của các quốc gia. Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, để giành được vị
trí dẫn đầu trong mọi lĩnh vực, các nước phải chú trọng xây dựng, triển khai các chiến
lược và chính sách khoa học công nghệ quốc gia có tính vĩ mô và lâu dài. Ngày nay, việc
hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ nhằm phát triển tri thức khoa học cũng được
đề cập và phân tích như một chiến lược hội nhập rất quan trọng, là một trong những mục
tiêu hàng đầu của các quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
Kinh tế nước ta đang còn ở trình độ lạc hậu, kém phát triển, tuy nhiên nếu biết
phát huy nguồn vốn trí tuệ, dựa vào tri thức khoa học và có những chính sách phát triển
1. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia– Sự thật, Hà Nội, tr.70.



2

nguồn lực này một cách hiệu quả, thì tri thức khoa học sẽ trở thành một lực đẩy vô cùng
to lớn làm chuyển biến xã hội và có thể hỗ trợ Việt Nam rút ngắn con đường đến đích, so
với các nước đi trước trong quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức. Chiến lược phát triển
khoa học công nghệ đã được Đảng ta đề ra và triển khai thực hiện từ khá sớm, ở Đại hội
X, Đảng ta xác định rõ khoa học công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt và những đột phá
mới, đây cũng là lần đầu tiên trong Nghị quyết Đại hội Đảng, đề cập đến vấn đề đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong
thời gian tới. Điều này cho thấy, phát triển tri thức khoa học chính là một trong những
nhiệm vụ đang được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm. Đại hội XI, Đảng ta khẳng
định tiếp tục phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ vẫn là mấu chốt để phát triển quốc gia. Vậy, sự phát triển tri thức khoa
học được coi như là một trong những điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển
nhanh, mạnh và bền vững của một quốc gia ở mọi giai đọan lịch sử, đặc biệt, trong điều
kiện hiện nay phát triển tri thức khoa học còn là một trong những yếu tố mang tính quyết
định để hoàn thành mục đích phát triển kinh tế tri thức, Đại hội XI cũng khẳng định: cần
nỗ lực “phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và
khai thác nhiều nhất tri thức của nhân loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh
tế tri thức đến năm 2020”2. Việc phân tích vị trí, vai trò, những vấn đề đặt ra của tri thức
khoa học, những giải pháp phát triển tri thức khoa học trong quá trình phát triển kinh tế
tri thức tại Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi mô hình phát triển, thực hiện sâu rộng tái
cơ cấu nền kinh tế, chỉ ra những thành quả bước đầu, những hạn chế của sự phát triển tri
thức khoa học, tác động đa chiều của nó đến kinh tế tri thức giữa một thế giới phẳng, thế
giới không biên giới nhưng hết sức phức tạp như hiện nay là điều cần thiết.
Tìm hiểu tri thức khoa học và vai trò to lớn của nó giúp chúng ta nhận thức và xác
định đúng trọng tâm của quá trình phát triển, tiến hành đầu tư, thúc đẩy và triển khai
đúng hướng, đảm bảo rút ngắn quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam trong

thời đại mới, nhằm định hướng và triển khai hiệu quả quá trình xây dựng kinh tế tri thức,
đáp ứng nhu cầu của thời đại đặt ra. Vì vậy nghiên cứu sinh chọn đề tài “Tri thức khoa
học trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể khái quát các công trình nghiên cứu về tri thức khoa học trong quá trình
xây dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay theo ba hướng cơ bản sau:
Hướng thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về tri thức khoa học và vai
trò của tri thức khoa học. Ở nước ngoài, tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các
công trình như công trình của David – Clandes ( 1998), The wealth and Poverty of
nation, USA (Sức mạnh và năng lực quốc gia). Thomas Friedman (2005), The World is
flat (Thế giới phẳng), Farrar, Straus v Giroux, New York, USA. J. D. Bernal, (1944), The
Social Function of Science (Chức năng xã hội của khoa học), George Routledge,
London; Word Bank Report (Asia – Paciffic Economic Cooperation) (2000), Knowledge
for development (tri thức cho sự phát triển). Sách đã dịch sang tiếng Việt có khá nhiều
như công trình của tác giả Ikujiro Nonaka, Ryoko Toyama và Toru Hirata (2010), Quản
trị dựa vào tri thức (Knowledge – based Management), Nhà xuất bản Thời đại, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia– Sự thật, Hà Nội, tr.78.


3

Bộ ba tác phẩm: Alvin Toffler (1992) Cú sốc tương lai; Làn sóng thứ ba; Thăng trầm
quyền lực, Nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội. Steven Benton and Melissa
Giovagnoli (2008), Khám phá nguồn lực tiềm ẩn, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội. Chính
phủ Anh (2000), Sách Trắng về khoa học và đổi mới: Sự vượt trội và cơ hội, Anh Quốc.
Ở trong nước, có nhiều công trình liên quan đến vấn đề này như Bộ khoa học công nghệ
và môi trường, (1996), Chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và cách mạng
công nghệ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Hồng Lưu (2011), Vai trò của
tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực
trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Danh Sơn (2000), Quan hệ giữa phát triển khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế
– xã hội trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội. Mạch Ngọc Thuỷ (2004), Góp phần tìm hiểu vai trò của đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ,
Tp. Hồ Chí Minh. Đặng Mộng Lân – Lê Minh Triết (1999), Công nghệ thế giới đầu thế
kỷ XXI, Nhà xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh. Hoàng Đình Phu (1998), Khoa học và công
nghệ với các giá trị văn hóa, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
Các công trình trên tìm hiểu về tri thức khoa học và tầm quan trọng của nó trong
thời đại mới, là những cơ sở dữ liệu luận án kế thừa và tiếp tục nghiên cứu vấn đề ở góc
độ sâu hơn, gắn nó với bối cảnh thực tế ở Việt Nam, từ đó vận dụng vào giải quyết các
nhiệm vụ của luận án một cách có hiệu quả hơn.
Hướng thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức nói chung
trên thế giới và xu thế phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Ở nước ngoài, liên quan
đến vấn đề này có khá nhiều tác giả với các tác phẩm như: Admade. M(2009),
Knowledge – Based Economy and Local Innovative Network: Recent theoretical and
Methodogical Trend, Glasgow, Scotland; APEC (1999), Toward knowledge – based
economies in APEC, APEC. Đặng Thị Việt Đức(2009), The emergence of knowledge
economy through ICT in developing countries: the case of Vietnam, Luận án tiến sĩ. Sách
dịch thì có Ngô Quý Tùng (2001), Kinh tế tri thức xu thế mới của xã hội thế kỷ XX, Nhà
xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội. Ở trong nước có rất nhiều công trình như công trình
tiêu biểu của Đặng Hữu (2001), Kinh tế tri thức, thời cơ và thách thức đối với Việt Nam,
Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội. GS. TSKH. Vũ Đình Cự – Trần Xuân Sầm (2006), Lực
lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn
Kế Tuấn (2004), Phát triển kinh tế tri thức, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Tùng (2001),
Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Thế giới, Hà
Nội. PGS, TS. Trần Cao Sơn (2004), Môi trường xã hội nền kinh tế tri thức – những
nguyên lý cơ bản, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. TS. Trần Đình Thêm và TS.

Trần Đức Ba (2011), Kinh tế tri thức và khoa học, công nghệ cao, Nhà xuất bản Thanh
Niên. Tập thể tác giả GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền, PGS.TS. Đào Duy Huân, TS. Lương
Minh Cừ (2005), Hướng đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, Hà
Nội. Đặng Mộng Lân (2002), Kinh tế tri thức, những khái niệm và vấn đề cơ bản, Nhà
xuất bản Thanh Niên, Hà Nội. Lê Thị Ngân (2005), Nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ; Nguyễn Thị Ngọc Hương


4

(2014), Phát triển Kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế hiện nay, Luận án tiến sĩ.
Trên đây là những công trình tìm hiểu về nền kinh tế tri thức: quá trình hình thành,
phát triển của kinh tế tri thức ở các nước, ở Việt Nam, thực trạng xã hội Việt Nam trên
con đường tiến đến nền kinh tế tri thức và các giải pháp chủ yếu đảm bảo xây dựng thành
công nền kinh tế tri thức ở Việt Nam, là những tài liệu tham khảo hữu ích cho luận án.
Hướng thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp phát
triển tri thức khoa học ở Việt Nam hiện nay. Liên quan đến nội dung này, có nhiều
công trình nghiên cứu như: Ban Tuyên giáo Trung ương (Trung tâm tư liệu quốc gia)
(2000), Nền kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam – Kỷ yếu Hội thảo
(2 tập), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ khoa học công nghệ và môi trường
(1996), Chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ khoa học và công nghệ (2002), Khoa học
và công nghệ Việt Nam 2001, Hà Nội. GS. TSKH. Vũ Đình Cự (2006), Khoa học công
nghệ, lực lượng sản xuất hàng đầu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn
Văn Thuỵ (1994), Một số vấn đề về chính sách phát triển khoa học và công nghệ, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS. Vũ Trọng Lâm (2004), Kinh tế tri thức ở Việt
Nam - quan điểm và giải pháp phát triển, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Trần
Khánh Đức (2009), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI, Nhà xuất
bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.TS. Nguyễn Thanh (2007), Vấn đề con người và giáo

dục con người nhìn từ góc độ triết học xã hội, Nhà xuất bản Tổng hợp, TP. Hồ Chí
Minh. Trần Văn Tùng (2005), Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng –
kinh nghiệm của thế giới, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội. TS. Hồ Đức Việt (2010), Xây
dựng, phát triển thị trường khoa học công nghệ trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện nghiên cứu chiến lược
và chính sách khoa học công nghệ, Nguyễn Thị Anh Thu (chủ biên) (2000), Đổi mới
chính sách sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ trong cơ quan nghiên cứu – phát
triển, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Đó là tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài, nhiều công trình đã tìm hiểu và đưa ra
cái nhìn toàn diện về tri thức khoa học, kinh tế tri thức, nhưng chưa một công trình nào
đi sâu nghiên cứu về những tác động to lớn và vai trò hạt nhân của tri thức khoa học
trong kinh tế tri thức để xây dựng những định hướng và giải pháp phát triển tri thức khoa
học nhằm hướng đến xây dựng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Tiếp biến
một cách nghiêm túc tất cả những kết quả nghiên cứu đã nêu, luận án có điều kiện để tập
trung giải quyết các mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra cho luận án một cách toàn diện, đa
chiều, sâu sắc và có giá trị thiết thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
3.1 Mục đích của luận án
Mục đích của luận án là từ sự nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tri thức
khoa học và kinh tế tri thức, luận án tập trung phân tích làm rõ thực trạng và tính tất yếu
của việc phát triển tri thức khoa học trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay, để từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển tri
thức khoa học.
3.2 Nhiệm vụ của luận án


5

Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như sau:
Thứ nhất: Phân tích làm rõ các vấn đề lý luận chung về tri thức khoa học, và vai

trò của tri thức khoa học trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức trong điều
kiện đặc thù ở Việt Nam hiện nay; khái luận chung về kinh tế tri thức và môi trường phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển tri thức khoa học ở Việt Nam
trong điều kiện hiện nay; tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia đi trước trong việc
phát triển tri thức khoa học để phát triển kinh tế tri thức, rút ra bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong phát triển tri thức khoa học để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ ba: Trình bày và phân tích làm rõ định hướng cơ bản, từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm góp phần phát triển tri thức khoa học để thực hiện quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu của luận án
Luận án được nghiên cứu dựa trên nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
lập trường quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra để giải quyết các mục đích
và nhiệm vụ mang tính đặc thù của luận án, tác giả còn sử dụng tổng hợp những phương
pháp nghiên cứu khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, phương pháp logic – lịch sử,
thống kê xã hội học, phân tích, xử lý số liệu, v. v…
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án
Luận án tập trung nghiên cứu về tri thức khoa học trong quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay dưới góc độ của một luận án tiến sĩ triết
học. Do đó, tri thức khoa học ở đây được xem là một trong những yếu tố tiên quyết của
lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định trong quá trình tri thức hóa nền kinh tế, là một
động lực to lớn thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển kinh tế tri thức song song với
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
6. Cái mới của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án đã có đóng góp mới về mặt học thuật, thể hiện trên
một số điểm sau đây: Thứ nhất, luận án đã góp phần hệ thống hóa và luận chứng vai trò
hạt nhân của tri thức khoa học đối với việc xây dựng và phát triển kinh tế tri thức trong
điều kiện hiện nay tại Việt Nam, nhìn tri thức khoa học không chỉ từ góc độ là yếu tố bên

trong mà còn được “khách quan hóa” thành yếu tố tác động cơ bản đến kinh tế tri thức.
Thứ hai, từ sự đánh giá, phân tích thực trạng, làm rõ mặt mạnh, mặt hạn chế của sự phát
triển tri thức khoa học ở Việt Nam, luận án đã gợi mở những định hướng, nêu rõ mục
tiêu và những giải pháp cơ bản để phát huy vai trò của tri thức khoa học đối với quá trình
xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở nước ta gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay.
7. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận, luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tri thức khoa
học và thực trạng, tính tất yếu phải định hướng xây dựng, phát triển nền kinh tế tri thức ở
Việt Nam hiện nay. Về mặt thực tiễn, những giải pháp cơ bản để xây dựng phát triển
thành công hệ thống tri thức khoa học mà luận án đề xuất sẽ góp phần vào quá trình xây
dựng nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Ngoài ra, luận án có thể được sử dụng làm tài liệu


6

tham khảo cho sinh viên, học viên chuyên ngành triết học và một số ngành khoa học xã
hội nhân văn khác.
8. Kết cấu của luận án
Để thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ đã được xác định trên đây, kết cấu của luận
án gồm có phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của luận án được cấu trúc
thành ba chương, 6 tiết, phần danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
Chương 1
KHÁI QUÁT LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRI THỨC KHOA HỌC VÀ KINH TẾ TRI
THỨC
1.1. KHÁI LUẬN VỀ TRI THỨC KHOA HỌC VÀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1.1. Khái niệm, cấu trúc và phân loại tri thức khoa học
Phần này tập trung trình bày làm rõ những vấn đề lý luận chung về tri thức khoa
học và kinh tế tri thức như là cơ sở lý thuyết cho luận án.
Thứ nhất, về khái niệm tri thức khoa học. Trên cơ sở tổng kết và kế thừa có chọn

lọc tất cả những kết quả nghiên cứu trên, luận án cho rằng: tri thức khoa học là kết quả
của quá trình nhận thức có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp, là hệ thống tri thức
đi sâu phản ánh đúng đắn bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế
giới thông qua hoạt động thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Thứ hai, về cấu trúc và phân loại tri thức khoa học
Về cấu trúc, xét về mặt cấu trúc, tri thức khoa học bao gồm: tri thức kinh nghiệm,
là trình độ thấp, chủ yếu thu nhận được thông qua quan sát và thí nghiệm, phản ánh cái
đơn nhất, cái cụ thể trực tiếp, bề ngoài của sự vật; và tri thức lý luận, là trình độ cao của
tri thức khoa học, về mặt bản chất, tri thức khoa học được phản ánh thành một hệ thống
chỉnh thể các khái niệm, phạm trù, quy luật, có liên hệ nội tại với nhau. Hai trình độ tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có mối liên hệ gắn bó hữu cơ không tách rời nhau
trong hoạt động nhận thức.
Về phân loại, có nhiều cách phân loại, nhưng luận án tán thành với cách phân loại
được dùng phổ biến trong các báo cáo về kinh tế tri thức của OECD, chia tri thức khoa
học thành 4 loại cơ bản: Tri thức về sự vật, tri thức về nguyên nhân, tri thức về cách
thức, tri thức về con người.
Cách mạng tri thức hứa hẹn sẽ phá vỡ nhanh chóng những giới hạn tạm thời trong
trình độ nhận thức của con người đối với thế giới, mở đầu cho một kỷ nguyên mới của
nền văn minh nhân loại – nền văn minh dựa vào tri thức.
1.1.2. Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức
Khái niệm kinh tế tri thức, tham khảo kết quả của nhiều tác giả, luận án thống nhất
kinh tế tri thức là: Nền kinh tế mà trong đó tri thức khoa học thẩm thấu vào tất cả các
quá trình phát triển kinh tế xã hội, và đặc biệt sự sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức
là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các
ngành kinh tế.
Về đặc trưng của kinh tế tri thức luận án đi đến tổng kết thành năm đặc trưng cơ
bản: Thứ nhất, đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa chủ yếu vào
tri thức; thứ hai, kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động và biến đổi nhanh, sáng tạo trở
thành động lực trực tiếp của sự phát triển; thứ ba, mạng thông tin trở thành cơ sở hạ tầng
quan trọng nhất của xã hội và nền kinh tế; thứ tư, tổ chức sản xuất trở nên linh hoạt hơn,



7

sản phẩm có xu hướng phi trọng lượng và doanh nghiệp là nhân vật trung tâm của toàn
bộ hệ thống; thứ năm, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hóa. Là nền kinh tế học
hỏi, chủ trương xây dựng xã hội học tập.
Kinh tế tri thức đã làm xuất hiện định hướng, mục tiêu mới của kinh tế thị trường
là phát triển bền vững. Ngày nay, trong cục diện mới, tri thức phát triển vượt bậc, kinh tế
thị trường phải có sự thay đổi định hướng bảo đảm sự phát triển đồng thuận giữa kinh tế
với xã hội và môi trường.
1.1.3. Những điều kiện để tri thức khoa học trở thành yếu tố cơ bản của kinh
tế tri thức
Từ thực tiễn đời sống và từ sự phân tích, lý giải của khoa học đều khẳng định tri
thức khoa học là động lực giữ vai trò quyết định, là đầu tàu kéo theo sự phát triển kinh tế
tri thức, tuy nhiên, để tri thức khoa học thực sự thẩm thấu vào nền kinh tế và trực tiếp
chuyển thành hàng hóa, thành sản phẩm thì theo nghiên cứu và đánh giá của các chuyên
gia kinh tế học, sẽ cần có sáu điều kiện cụ thể, đó là sự phát triển vượt bậc của: Cơ học
lượng tử, cách mạng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ Nano, thị
trường khoa học công nghệ và khoa học xã hội và nhân văn. Toàn bộ các yếu tố trên liên
kết với nhau một cách chặt chẽ và phát triển lớn mạnh sẽ tạo nên nền tảng, giúp tri thức
khoa học thực sự chuyển hóa vào nền kinh tế, từng bước làm lộ diện nền kinh tế tri thức.
1.2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC ĐỐI VỚI KINH TẾ TRI THỨC
1.2.1. Tri thức khoa học là cơ sở, phương tiện để phát triển kinh tế tri thức
Tri thức khoa học là cơ sở để phát triển kinh tế tri thức vì thực chất từ việc hình
thành cho đến sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của kinh tế tri thức đều bắt nguồn từ sự
phát triển của tri thức khoa học, có thể nói tri thức khoa học là nền tảng cho sự phát triển
toàn diện của nền kinh tế tri thức. Vì thế Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng ta đã viết: “ Phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển giáo dục, đào tạo,
khoa học, công nghệ” 3. Tri thức khoa học còn là phương tiện để hoàn thành mục đích

phát triển kinh tế tri thức. Nền kinh tế thế giới đang chuyển đổi sang kinh tế thông tin,
cuộc cạnh tranh sắp tới không phải là chiếm hữu đất đai, tài nguyên, chiếm hữu người
lao động và công cụ sản xuất như trước, mà quan trọng hơn là sở hữu tri thức. Trình độ
phát triển của tri thức khoa học cũng như năng lực đổi mới, sáng tạo của khoa học và khả
năng biến tri thức khoa học thành kỹ thuật – công nghệ được xem như là những phương
tiện hỗ trợ hữu hiệu nhất để nền kinh tế nhanh chóng được tri thức hóa, thực hiện thành
công mục tiêu xây dựng và phát triển kinh tế tri thức trong thời đại mới.
1.2.2. Tri thức khoa học là động lực cơ bản để phát triển kinh tế tri thức
Tri thức khoa học là động lực của kinh tế tri thức bởi chính tri thức khoa học là
yếu tố thúc đẩy, làm cho kinh tế tri thức biến chuyển, phát triển lên trình độ mới. Tri thức
khoa học cùng với những tiện ích nó mang lại, đặc biệt là sau khi đã được vật chất hóa
trong nền kinh tế, những phát minh, sáng chế thành kỹ thuật, công nghệ, thì nó sẽ trở
thành nhân tố trực tiếp làm cho nền kinh tế nhanh chóng chuyển lên trình độ kinh tế tri
thức. Vai trò động lực của tri thức khoa học đối với kinh tế tri thức thể hiện trước hết ở
chỗ, nó là đòn bẩy thúc đẩy tạo nên sự biến đổi mạnh mẽ các trụ cột của kinh tế tri thức,
tri thức khoa học còn trực tiếp, hoặc gián tiếp tác động vào các thành tựu kinh tế - xã hội
và tri thức khoa học được xem là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế tri thức. Tri
3 . Đảng Cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện Đại hội Đảng lần XI, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia– Sự thật, Hà Nội, tr.220.


8

thức khoa học thấm vào tất cả các lĩnh vực của nền sản xuất xã hội, nó còn giải phóng
con người ra khỏi quá trình sản xuất trực tiếp, nó làm thay đổi tận gốc rễ những yếu tố
của lực lượng sản xuất.
Ngày nay với trình độ phát triển cao, tri thức khoa học đi trước kỹ thuật và hướng
dẫn cho kỹ thuật phát triển làm biến đổi toàn bộ các lĩnh vực của kinh tế - xã hội.
Kết luận chương 1
Qua tìm hiểu những vấn đề lý luận chung về tri thức khoa học và kinh tế tri thức,
tác giả đi đến một số kết luận sau: Thứ nhất, luận án đã nỗ lực góp phần đưa ra một bức

tranh toàn cảnh về tri thức khoa học và kinh tế tri thức thông qua việc phân tích làm rõ
khái niệm, cấu trúc và phân loại của tri thức khoa học; tìm hiểu những vấn đề lý luận
chung về kinh tế tri thức, về khái niệm, những đặc trưng cơ bản và tính chất đặc thù của
quá trình tiến lên kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, luận án cũng đã phân
tích sáu điều kiện để tri thức khoa học chuyển hóa và trở thành kinh tế tri thức là: sự phát
triển của cơ học lượng tử, cách mạng thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano, thị
trường khoa học công nghệ sôi động và sự bùng nổ của khoa học xã hội và nhân văn.
Thứ ba, tri thức khoa học luôn có những tác động tích cực đến xã hội trên bình diện rộng,
đặc biệt là đến tiến trình phát triển kinh tế tri thức, ở đây, luận án khẳng định tri thức
khoa học vừa là cơ sở, vừa là phương tiện, lại vừa là động lực cơ bản, tác động đến sự
hình thành và phát triển của kinh tế tri thức.
Những cơ sở lý luận trên là nền tảng nhận thức để luận án tiếp tục đi vào khảo sát
thực trạng phát triển tri thức khoa học ở Việt Nam trong chương tiếp theo.
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG YÊU CẦU KHÁCH QUAN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
TRI THỨC KHOA HỌC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN TRI THỨC KHOA HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.1. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng nghiên cứu khoa học, hoạt động trí tuệ của đội ngũ những nhà
nghiên cứu để tạo ra thành quả là tri thức khoa học.
Trước hết, luận án tập trung khái quát hoạt động nghiên cứu khoa học trên hai
lĩnh vực cơ bản nhất là khoa học xã hội - nhân văn và khoa học tự nhiên. Khoa học xã
hội và nhân văn đã có những đóng góp quan trọng về lý luận và thực tiễn, những nghiên
cứu của khoa học xã hội và nhân văn đã đưa lại một hệ thống tri thức khoa học đồ sộ,
cung cấp cơ sở lý luận cho sự chuyển biến quá trình công nghiệp hóa kiểu cũ, sang công
nghiệp hóa gắn liền hiện đại hóa, và đặc biệt là gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.
Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có những bước phát triển mạnh, tạo tiền đề
hình thành và phát triển một số lĩnh vực khoa học và công nghệ như nano, vũ trụ, y

sinh...Trên nhiều lĩnh vực từ nông - lâm - ngư - nghiệp cho đến cơ khí, máy móc, y
học…kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học ở nước ta đã có nhiều tiến bộ, cụ thể ngày
18/12/2012 tại Hà Nội Bộ Khoa học công nghệ và Hội đồng giải thưởng cấp nhà nước đã
trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho 32 công trình thuộc 5 lĩnh vực khoa học, trong đó có 3
cụm công trình và 9 cụm công trình đặc biệt xuất sắc có giá trị ứng dụng cao cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước.
Năng lực và chất lượng nghiên cứu khoa học của Việt Nam bị xếp vào khu vực


9

chậm phát triển. Theo công bố mới nhất của viện SCImago, xếp hạng năng lực và chất
lượng nghiên cứu khoa học của các viện, trường đại học của Việt Nam giảm mạnh. Đáng
chú ý là đại học Quốc gia Hà Nội bị tụt gần 200 bậc ở mức thế giới, xếp hạng khu vực
cũng bị tụt đáng kể. Bảng xếp hạng năm 2012 cho thấy, có bốn đơn vị của Việt Nam lọt
vào bảng xếp hạng của SCImago. Nếu tính theo quốc gia, viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam đứng đầu, kế đến là Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà
Nội và trường Đại học Bách khoa Hà Nội (xếp thứ 4 quốc gia, 857 khu vực và 3.160 thế
giới). Hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra nghiêm trọng.
BẢNG XẾP HẠNG CÁC TỔ CHỨC KHCN VIỆT NAM 2011 - 2012
Nguồn: SCImago xếp hạng các tổ chức KHCN 2012
NĂM 2011
TỔ CHỨC
KHCN
KHU VỰC THẾ GIỚI

NĂM 2012
KHU
VỰC


THẾ GIỚI

Viện KH& CN
VN

519

1.967

561

2.058

ÐH QG
TP.HCM

720

2.765

744

2.774

775

2.965

854


3.155

857

3.160

ÐH QG HN
ĐH BK HN

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, năng suất nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
có được cải thiện và tương đối nhanh so với khu vực, tốc độ tăng trưởng của năng lực
nghiên cứu khoa học hàng năm đạt khoảng 15 – 16 % (tương đương với Thái Lan và
Malaysia), trong khi các nước có nền kinh tế tiên tiến thì có xu hướng chững lại trong
thời gian gần đây như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore khoảng 9 -11%/năm, Hồng Kông
5%/năm, Nhật Bản 1%/năm, cho thấy Việt Nam cao hơn so với Philippines, ở mức
5,7%, chỉ có Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, khoảng
20%/năm. Như vậy, so sánh về năng suất nghiên cứu khoa học thì hiện nay Việt Nam
không còn thua kém các nước, thậm chí còn vượt qua một số nước phát triển, tuy nhiên
hiệu quả ứng dụng thì chưa tương xứng với năng suất nghiên cứu khoa học khá cao đó.
Số lượng sáng chế công bố quốc tế và trong nước (thành quả của hoạt động
nghiên cứu khoa học) của Việt Nam trong những năm gần đây có tăng đáng kể nhưng
vẫn còn kém xa khu vực và thế giới. Năm 2012, số lượng sáng chế công bố quốc tế của
Việt Nam là 1761, tăng 7% so với năm 2011 (1556). Số lượng đơn đăng ký sáng chế
năm 2012 là 4257 và văn bằng bảo hộ độc quyền được cấp là là 1112 (số liệu tương ứng
năm 2011 là 3995 và 1054). Qua đó cho thấy trong những năm gần đây, hoạt động
nghiên cứu khoa học của Việt Nam có chiều hướng tăng nhanh. Số lượng bài báo và
công trình khoa học được công bố quốc tế giai đoạn 2006 – 2010 tăng gấp 2 lần so với
giai đoạn 2001 – 2005, gấp 4 lần so với giai đoạn 1996 – 2000 và gấp 6 lần so với giai



10

đoạn 1991 – 1995 (Cụ thể giai đoạn 1991 – 1995 là 837; 2001 – 2005 là 2517; 2006 –
2010 là 5286; riêng năm 2011 là 1044, gấp 2 lần giai đoạn 1991 – 1995, và cao hơn giai
đoạn 1996 – 2000 (1420).

Nguồn: Số liệu thu thập từ cơ sở dữ liệu ISI Web of Science của Thomson Reuters, tra
cứu ngày 1/03/2013
Biểu đồ 1: Tổng số bài báo trên mọi lĩnh vực của Việt Nam và một số nước
trong 5 năm gần đây (2008-2012)
Nguyên nhân của những yếu kém trong hoạt động nghiên cứu khoa học: thứ nhất,
do nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể vì cơ chế quản lý, chính sách đãi ngộ nhân tài
khoa học, do hoạt động, tổ chức nghiên cứu thiếu hiệu quả cho nên hầu hết thành tựu của
Việt Nam trên các mặt còn yếu. Thứ hai, do Việt Nam mạnh về nghiên cứu cơ bản, nên
những ứng dụng và giá trị thực tiễn không nhìn thấy rõ rệt. Thứ ba, do khâu đầu tư cho
khoa học công nghệ còn yếu. Thứ tư có thể là do chính sách giữ chân thu hút nhân tài
kém hiệ quả nên có hiện tượng chảy máu chất xám ra nước ngoài và sang khu vực tư
nhân. Thứ năm là sự tách biệt giữa đào tạo - nghiên cứu - ứng dụng đã không tạo nên
động lực đủ mạnh để phát triển tri thức khoa học.
2.1.2. Thực trạng nguồn nhân lực khoa học công nghệ và cơ sở giáo dục –
đào tạo ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng về nguồn nhân lực khoa học công nghệ và cơ sở giáo dục – đào tạo
- những điều kiện về nguồn lực con người và tình hình giáo dục, đào tạo nguồn lực con
người – chủ thể của hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm sáng tạo ra tri thức khoa học.
Thứ nhất, nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong nước dồi dào, nhưng chất
lượng còn kém. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, năm 2012, cả nước có
24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ, so với năm 1996, đội ngũ này tăng trung bình 11,6 % /
năm, trong đó tiến sĩ tăng 7% năm, thạc sĩ tăng 14% năm. Độ tuổi bình quân là 38.5, đây
là lực lượng nhân lực chất lượng cao giữ vai trị chủ chốt trong các hoạt động nghiên cứu
khoa học, sáng tạo hệ thống tri thức khoa học của đất nước. Riêng nhân lực cho khoa học

công nghệ tính đến thời điểm năm 2012 Việt Nam có hơn 62 nghìn người làm việc trong
các tổ chức nghiên cứu và phát triển, trong đó nhân lực có trình độ từ cao đẳng, đại học
trở lên khoảng 50 nghìn người (gần 5000 tiến sỹ và trên 11000 thạc sỹ), số cán bộ nghiên


11

cứu và phát triển đạt 7 người/ 1 vạn dân, so với năm 1996, con số này tăng gần gấp 3 lần,
tỉ lệ phân bổ số lượng cán bộ nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam hiện tại là: khoa học
xã hội và nhân văn chiếm 10.6 %; khoa học tự nhiên chiếm 7,3 %; khoa học nông nghiệp
chiếm 23.5 %; khoa y học – dược chiếm 10.8 %; khoa học kỹ thuật và công nghệ chiếm
tỉ lệ rất cao 45.9%. Điều đó cho thấy, nhìn trên phương diện tổng thể, nguồn nhân lực
cho khoa học và công nghệ của Việt Nam gia tăng đáng kể và có xu hướng phát triển
trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, cơ cấu nhân lực của Việt Nam còn rất nhiều bất ổn,
có tình trạng phân bố không đồng đều về nguồn nhân lực có trình độ cao giữa các vùng
miền và các lĩnh vực kinh tế, sản xuất. Điểm đáng lưu ý là dù số lượng nguồn nhân lực
Việt Nam khá dồi dào, nhưng chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam là còn tương đối
thấp. Nước ta vẫn thiếu các chuyên gia có kinh nghiệm chuyên sâu, thiếu các nhà khoa
học có kinh nghiệm làm nghiên cứu tầm cỡ quốc tế.
Nguyên nhân của thực trạng: Việc bồi dưỡng, đào tạo, chế độ trọng dụng và đãi
ngộ nhân tài còn nhiều bất cập; dù đã có nhiều nỗ lực nhưng đầu tư cho khoa học công
nghệ nhìn chung còn thấp và hiệu quả chưa cao so với các quốc gia khác trong khu vực
và trên thế giới; cơ chế quản lý hoạt động khoa học công nghệ còn chưa đáp ứng yêu
cầu; thị trường khoa học công nghệ phát triển còn chậm…
Thứ hai, về giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho khoa học – công nghệ có phát
triển tích cực, nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu và yếu.
Những năm gần đây, giáo dục đào tạo đã có những chuyển biến tích cực, nhưng
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực và nhân lực chất lượng cao cho
đất nước trong giai đoạn mới. Tính đến cuối năm 2012, cả nước có 215 trường đại học,
trong đó 187 trường công lập; 204 trường cao đẳng, trong đó 150 trường công lập; 295

trường trung cấp chuyên nghiệp. Tổng số sinh viên đại học, cao đẳng của cả nước là xấp
xỉ 2,2 triệu sinh viên; đạt tỉ lệ 270 sinh viên trên 1 vạn dân (tỉ lệ này năm 2002 là 118
sinh viên) số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 623 nghìn học sinh. Cả nước có 142
trường cao đẳng nghề, 316 trường trung cấp nghề, 850 trung tâm dạy nghề. Số học sinh
học nghề được tuyển mới trong năm nay là 1,9 triệu lượt người, trong đó cao đẳng nghề
và trung cấp nghề là 0,4 triệu lượt người; sơ cấp nghề 1,5 triệu lượt người. Nhưng có thể
thấy so với Trung Quốc có hơn 4.000 trường Đại học, cao đẳng trên 1,3 tỉ dân, so với
Singapore có khoảng 68 trường Đại học, cao đẳng trên 3 triệu dân, so với Hoa Kỳ 4.495
trường Đại học, cao đẳng trên 314 triệu dân thì số lượng trường Đại học, cao đẳng mà
Việt Nam đang có không phải là nhiều.
Qua từng năm, quy mô giáo dục tăng lên thường xuyên, cố gắng từng bước đáp
ứng nhu cầu học tập, nâng cao trình độ trong nhân dân. Giai đoạn 2001 -2010 tất cả các
bậc học đều gia tăng, mẫu giáo tăng 25%, tiểu học tăng 3%, trung học cơ sở tăng 13%,
trung học phổ thông tăng 17%, quy mô đào tạo nghề tăng 3,08 lần, trung cấp chuyên
nghiệp tăng 2,69 lần, giáo dục đại học tăng 2,35 lần. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục cũng liên tục tăng, năm 2010 so với năm, 2001 tỉ lệ giáo viên các cấp đều tăng,
giáo viên mầm non tăng lên 1.5 lần, giáo viên tiểu học khá ổn định, trung học cơ sở tăng
0.5 lần, giáo viên trung học phổ thông tăng 1.9 lần, giáo viên dạy nghề tăng nhiều nhất
3,6 lần, trung học chuyên nghiệp tăng 1,7 lần, cao đẳng 3,1 và giảng viên đại học tăng
1,9 lần; đến năm 2010, 100% giảng viên các trường cao đẳng nghề đều có trình độ từ đại
học trở lên, trong đó 12% thạc sỹ, 16,8% tiến sỹ, giảng viên trường trung học chuyên


12

nghiệp có trình độ sau đại học là 23,9%, giảng viên đại học có trình độ thạc sỹ là 44,9%,
tiến sỹ là 14,4 %. Chất lượng giáo dục các ngành mũi nhọn được nâng cao, tỉ lệ thuận với
việc nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực tiềm năng và nguồn nhân lực chất lượng
cao cho sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ; chất lượng giáo dục nghề nghiệp cơ
bản đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường lao động và các ngành nghề, phát triển giáo dục

ngày càng gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ. Trong giai
đoạn 2000 – 2010, tổng số nhân lực qua đào tạo ở các trình độ đã tăng gấp 3,4 lần, từ 5,9
triệu người năm 2000 lên 20,1 triệu người năm 2010, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo năm
2010 đạt 40%. Đội ngũ nhân lực này đóng vai trò chủ yếu trong việc thực hiện thành
công chiến lược công nghiệp hóa hiện đại hóa, từng bước hướng tới kinh tế tri thức.
Việt Nam hiện nay đang rất lãng phí nghiên cứu, lãng phí nguồn lực chất xám
ở các trường đại học, nơi tập trung rất đông nguồn nhân lực chất lượng cao như đội ngũ
các giáo sư, tiến sĩ khoa học, các chuyên gia đầu ngành…(theo số liệu thống kê năm
2012 của Bộ Giáo dục – Đào tạo, Việt Nam có tất cả 9152 tiến sĩ và 36360 thạc sĩ trong
hệ thống các trường đại học và cao đẳng).
Nguyên nhân những yếu kém của nguồn nhân lực và cơ sở giáo dục, đào tạo là:
Ở Việt Nam, nhận thức và hành động không đi đối với nhau đối với việc xem trọng vai
trò của tri thức khoa học. Các nước trong khu vực và trên thế giới có được những thành
tựu ấn tượng như vậy là nhờ các nước trên đều coi giáo dục, khoa học công nghệ là bộ
phận không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế, hiện đại hóa quốc gia. Đầu tư
ngân sách một cách thỏa đáng, quốc tế hóa nhân sự khoa học, quốc tế hóa tiêu chuẩn
đánh giá khoa học, tập san khoa học đồng thời chú trọng cải thiện cơ cấu tổ chức… Việt
Nam cũng nhận thức điều đó, nhưng biến những nhận thức này thành hành động thì
chúng ta chưa thành công, do đó những thành tựu đạt được là chưa tương xứng với chủ
trương của Đảng và cũng chưa tương xứng với tiềm lực sẵn có của quốc gia bởi theo
đánh giá của một số chuyên gia có uy tín thì hoạt động nghiên cứu, thành quả và khả
năng sáng tạo của khoa học Việt Nam thực ra không thua kém các quốc gia khác. Một
trong những nguyên nhân chính, gây nên sự thiếu hụt nhân tài khoa học là do chính sách
đãi ngộ chưa thỏa đáng. Điều này, dẫn đến kết quả là học sinh, sinh viên giỏi ít chọn con
đường nghiên cứu khoa học. Số ít người giỏi đam mê khoa học đều đi du học và ít người
chọn con đường trở về nước.
2.1.3. Thực trạng cơ sở vật chất - kỹ thuật và cơ - chế chính sách của khoa
học công nghệ ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng nguồn lực về cơ sở vật chất – kỹ thuật của khoa học công nghệ phương tiện hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tạo nên tri thức khoa
học. Luận án đã phân tích, chỉ ra thực trạng, những thành tựu đạt được và những hạn

chế của tri thức khoa học trên từng lĩnh vực cụ thể: thực trạng về đầu tư cơ sở vật chất –
kỹ thuật cho khoa học; nguồn lực về hệ thống tổ chức khoa học công nghệ trong nước.
Thứ nhất, về thực trạng đầu tư cơ sở vật chất – kỹ thuật cho khoa học, đã có 20
tỉnh, thành phố và hàng trăm doanh nghiệp thành lập quỹ phát triển khoa học công nghệ
tạo nguồn vốn khá lớn cho hoạt động nghiên cứu, sản sinh tri thức khoa học, đã xuất hiện
các doanh nghiệp đầu tư thành lập các viện nghiên cứu, trường đại học của doanh
nghiệp, có doanh nghiệp dành đến 5% thu nhập đầu tư cho hoạt động nghiên cứu sáng
tạo và ứng dụng tri thức khoa học. Tổng đầu tư của toàn xã hội cho khoa học công nghệ


13

hiện nay đạt gần 1% GDP, cơ cấu đầu tư cho khoa học đã dịch chuyển dần theo hướng
tích cực (theo tỉ lệ 70/30), không còn là lĩnh vực “riêng” của nhà nước như trước đây.
Nhà nước đã đầu tư xây dựng 17 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia thuộc các lĩnh
vực công nghệ ưu tiên. Tính đến nay, cả nước đã có 8 Công viên phần mềm đi vào hoạt
động, tập trung ở các thành phố lớn. Nhìn chung, năng lực tài chính cho KHCN có được
chú trọng nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu, hạ tầng kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, ứng
dụng khoa học và công nghệ đã được nâng cấp cơ bản, nhiều phòng thí nghiệm trọng
điểm quốc gia với các trang thiết bị tương đối hiện đại, đồng bộ, các khu công nghệ cao
các công viên phần mềm, vườn ươm tạo công nghệ tiếp tục được đầu tư và bước đầu
khai thác có hiệu quả.
Thứ hai, nguồn lực về hệ thống tổ chức khoa học công nghệ trong nước có được
nâng cấp và gia tăng về số lượng, có cải thiện về chất lượng hoạt động nhưng chưa cao.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ trong 16 năm từ 1996 đến 2012, tổng số lượng các tổ
chức khoa học công nghệ tăng lên 8 lần, tính đến tháng 9-2012, cả nước có hơn 1.600 tổ
chức KHCN, trong đó gồm hơn 600 tổ chức công lập. Đặc biệt, các tổ chức ngoài công
lập có xu hướng ngày càng tăng và hiện nay có khoảng 900 đơn vị. Riêng các tổ chức
KHCN đăng ký tại Bộ KHCN là 1.160 đơn vị, trong đó có hai viện quốc gia (Viện
KHCN Việt Nam và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) gồm nhiều viện trực thuộc; 433 tổ

chức thuộc bộ, ngành; 340 tổ chức KHCN thuộc các hội và Liên hiệp Các hội khoa học,
kỹ thuật Việt Nam. Các tổ chức KHCN tham gia hơn 60 lĩnh vực với khoảng 140 ngành
nghề, gần 1.000 chuyên ngành khác nhau. Đặc biệt, thời gian qua, nước ta đã hình thành
loại hình tổ chức KHCN mới là doanh nghiệp KHCN, có triển vọng trở thành lực lượng
sản xuất đi đầu trong ứng dụng kết quả nghiên cứu KHCN ở các ngành, lĩnh vực. Mạng
lưới các tổ chức thông tin khoa học và công nghệ đã được triển khai rộng khắp với hơn
500 cơ quan thông tin khoa học từ trung ương đến địa phương. Mạng nghiên cứu và đào
tạo Việt Nam (VinaREN) đã được đầu tư, triển khai hoạt động trên quy mô quốc gia, đạt
chuẩn tiên tiến của thế giới, mạng này đã kết nối được hàng triệu cán bộ và trên 100 viện
nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức khác. Nghĩa là hoạt động nghiên cứu khoa học
tăng lên một cách đáng kể và nhanh chóng, đặc biệt là những năm gần đây tốc độ gia
tăng rất nhanh, sự chênh lệch giữa các con số phát triển trong lĩnh vực khoa học công
nghệ qua các năm là khá lớn, cho phép chúng ta lạc quan, tin tưởng vào tình hình phát
triển khoa học công nghệ của đất nước.
Nguyên nhân những yếu kém của cơ sở vật chất, kỹ thuật cho khoa học công
nghệ là: thứ nhất, dù Nhà nước đã nỗ lực gia tăng và duy trì mức đầu tư hàng năm cho
khoa học - công nghệ lên đến 2% tổng chi ngân sách, như năm 2011 là tương đương
khoảng gần 700.000.000 USD. Con số này vẫn là quá khiêm tốn nếu nhìn ra các nước
trong khu vực và thế giới. Thứ hai, mặt dù tỉ lệ đầu tư so với các nước là ít, nhưng Việt
Nam sử dụng nguồn vốn đó cũng không hiệu quả, cách phân phối nguồn tài chính cho
khoa học không hợp lý. Thứ ba, số lượng các tổ chức nghiên cứu khoa học nhiều nhưng
do tổ chức, tiêu chí, mục tiêu hoạt động….thiếu hợp lý nên hoạt động lại kém hiệu quả.
Các trang thiết bị có được đầu tư nhưng do cơ chế rào cản và hoạt động thực nghiệm
khoa học còn yếu nên khả năng và hiệu quả khai thác các trang thiết bị chưa cao.
Nhìn chung khoa học kỹ thuật và công nghệ tuy đã có những thành tựu bước đầu
nhưng vẫn chưa cao. Hệ thống các tổ chức khoa học công nghệ gia tăng nhanh chóng về


14


số lượng và quy mô nhưng hoạt động thiếu hiệu quả, cơ sở vật chất kỹ thuật dù đã quan
tâm đầu tư hơn trước, nhưng vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, năng suất thấp; nhân
lực cho khoa học dồi dào, nhưng do nhiều điều kiện chủ quan, khách quan, chưa phát
huy được hết khả năng sáng tạo, tình trạng hẫng hụt đội ngũ còn chưa được khắc phục;
cơ chế quản lý đối với khoa học – công nghệ và chính sách đãi ngộ chưa khích lệ được
sức sáng tạo của các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học, qua thực trạng đó, luận án cố
gắng đưa ra những nguyên nhân của những yếu kém và hạn chế của quá trình phát triển
tri thức khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay.
Thực trạng cơ chế chính sách cho khoa học công nghệ
Cơ chế quản lý khoa học công nghệ từng bước được đổi mới tuy nhiên còn chậm.
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học công nghệ được tổ chức từ trung ương đến địa
phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, góp phần thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế,
rào cản nhất định trong cơ chế chính sách cần sớm khắc phục.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa học
công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội được quan tâm. Cơ chế
tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học công nghệ đã bước đầu được thực
hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai trong hành lang pháp lý của luật khoa học công
nghệ. Một số ngành khoa học xã hội và nhân văn, đã tập trung giải quyết các vấn đề cụ
thể và khá bức xúc của đất nước trong đường lối phát triển chung, góp phần đáng kể vào
việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ chính trị của thời đại, tạo cơ sở ban hành và sửa
đổi nhiều văn bản pháp luật, pháp lệnh, quyết định, nghị quyết, góp phần xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật
Với định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, Chính phủ đã phê duyệt chương trình
quốc gia phát triển khoa học công nghệ đến năm 2020, đồng thời đưa ra những định
hướng về chuyển dịch cơ cấu lao động và công nghệ….đã làm cho hoạt động của các tổ
chức khoa học công nghệ được mở rộng từ nghiên cứu - phát triển đến sản xuất và dịch
vụ khoa học công nghệ.
Nguyên nhân của những yếu kém trong cơ chế, chính sách. Nhìn chung công tác

quản lý và điều hành các hoạt động trong lĩnh vực khoa học – công nghệ chậm đổi mới,
hoặc đổi mới không kịp với sự thay đổi của thực tiễn. Cơ chế quản lý khoa học, công
nghệ không phù hợp với điều kiện làm việc sáng tạo đặc thù của lĩnh vực hoạt động này,
cũng không phù hợp với sự năng động và cơ chế cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Việc
quản lý cán bộ và cơ chế tài chính theo chế độ công chức làm cản trở, không tạo điều
kiện để cán bộ khoa học công nghệ phát huy tối đa khả năng sáng tạo của mình.
Quan điểm xem khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu đã được khẳng định
liên tục trong các kỳ Đại hội Đảng, tuy nhiên các cơ quan, ban ngành từ nhận thức cho
đến hành động và sự quyết tâm triển khai là chưa quyết liệt và hiệu quả, nhiều chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chậm thể chế hóa bằng văn bản quy phạm
pháp luật. Điều này kìm hãm sự phát triển của thực tiễn xã hội mà cụ thể là quan hệ sản
xuất chậm đổi mới, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hiệu quả, xu hướng, quy mô phát triển của hoạt động nghiên cứu khoa học, dẫn đến
tình trạng yếu kém, lạc hậu của khoa học và tri thức khoa học, mà thực chất chính là sự


15

yếu kém và lạc hậu của lực lượng sản xuất, khi yếu tố đóng vai trò động lực để giúp
LLSX phát triển bị kìm hãm, tất yếu Việt Nam sẽ rất khó khăn trong quá trình phát triển
để tiếp cận với nền kinh tế tri thức trong điều kiện tri thức khoa học còn nhiều yếu kém.

2.2. PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VÀ NHỮNG YÊU CẦU KHÁCH QUAN
ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TRI THỨC KHOA HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Tính tất yếu của quá trình xây dựng, phát triển kinh tế tri thức và
những thời cơ, thách thức đối với phát triển tri thức khoa học ở Việt Nam hiện nay
(1) Môi trường phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Việt Nam đang bước vào kinh tế tri thức ở điểm xuất phát thấp, chúng ta xây dựng
kinh tế tri thức từ nền kinh tế nông nghiệp chứ không phải từ kinh tế công nghiệp như

các nước phát triển, vì vậy môi trường cho phát triển kinh tế tri thức còn chưa thực sự
thuận lợi, luận án tập trung khảo sát thực trạng môi trường phát triển kinh tế tri thức trên
các lĩnh vực: Thứ nhất, cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm
gần đây. Thứ hai, môi trường kinh tế ở lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ cao có
những chuyển biến tích cực. Thứ ba, công nghệ thông tin truyền thông – ICT phát triển
tương đối tốt; thứ tư, hệ thống chính sách cho CNTT nói chung, CNTTTT nói riêng đến
nay đã từng bước được cải thiện thiện nhưng vẫn còn chưa thực sự đi được vào thực tiễn.
Nhìn chung, môi trường xã hội và mặt bằng tri thức chung của xã hội Việt Nam
chưa đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế tri thức. Ở Việt Nam không có
sự đối lập nào giữa quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa với quá trình xây dựng nền
kinh tế tri thức đi lên từ kinh tế nông nghiệp, tuy có xuất phát điểm thấp, nhưng nếu
hoạch định những biện pháp đúng đắn, chúng ta có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung
gian, đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, sáng tạo ra công nghệ nội sinh, tăng tốc độ
tăng trưởng kinh tế, sớm bắt kịp xu thế chung của thế giới, và có thể rút ngắn quá trình
phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa để tiến đến đỉnh cao của nó là kinh tế tri thức.
(2) Tính tất yếu phải phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Kinh tế tri thức được quan niệm là nền kinh tế có hiệu suất phát triển vượt bậc, nó
không chỉ đơn thuần là kinh tế phát triển dựa vào tri thức mà là một nền kinh tế phát triển
toàn diện trên cả ba lĩnh vực tri thức, công nghệ, thói quen và năng lực kinh doanh cũng
như sự điều tiết và tổ chức quản lý hợp lý của Nhà nước. Sự ra đời của kinh tế tri thức là
mang tính tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là
nền kinh tế này xuất hiện tất yếu dựa trên những điều kiện, môi trường và hoàn cảnh mới
trong tiến trình phát triển chung của nhân loại, đó là con đường duy nhất cho tất cả các
nền kinh tế trong thời đại bùng nổ thông tin, tri thức hiện nay. Việt Nam tiến lên kinh tế
tri thức là tất yếu vì: Một là, kinh tế tri thức là nấc thang kế tiếp trong quá trình phát triển
lịch sử tự nhiên của phương thức sản xuất, của các thời đại kinh tế nối tiếp nhau trong
lịch sử nhân loại. Hai là, sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức là xu thế khách quan của
kinh tế thị trường. Ba là, tri thức khoa học đang từng bước phát triển và thâm nhập vào
mọi mặt của đời sống xã hội, tri thức hóa, toàn cầu hóa đang đưa loài người thực hiện
bước chuyển biến sang thời đại của kinh tế tri thức.

Xu thế phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là tất yếu khách quan, điều này đặt ra
nhiều vấn đề đối với nền khoa học Việt Nam. Với lợi thế là nước đi sau, Việt Nam có cơ
hội học hỏi các quốc gia đi trước trên con đường tiến vào kinh tế tri thức, kết hợp cùng
với năng lực nội sinh, kinh nghiệm và những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học hiện đại, công nghệ Nano… có thể


16

khẳng định Việt Nam có đủ năng lực và điều kiện để tiến vào kinh tế tri thức.
(3) Những vấn đề đặt ra đối với quá trình phát triển tri thức khoa học trong
điều kiện kinh tế tri thức
Về những thời cơ
Thuận lợi đầu tiên mà chúng ta có là, với lợi thế là nước đi sau, Việt Nam có cơ
hội thực hiện bước phát triển rút ngắn lên kinh tế tri thức so với các nước, vì vậy nắm bắt
cơ hội, vượt qua thách thức là mấu chốt cho những thành công của Việt Nam. Hai là, xu
thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế buộc chúng ta phải đương đầu với nhiều
nguy cơ và thách thức mới, mặt khác, chính sách mở cửa và sự hội nhập quốc tế đã đưa
đến sự phát triển mạnh mẽ cho tri thức khoa học, từ đó đẩy mạnh khoa học công nghệ
quốc gia. Ba là, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cuối thế kỷ XX đầu thế
kỷ XXI là thời kỳ khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ nhất từ trước đến nay, cuộc
cách mạng này cùng với sự phát triển như vũ bão của tri thức khoa học đã đem lại nhiều
thành quả tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội và làm biến đổi bộ mặt của các nền
kinh tế xã hội toàn cầu. Bốn là, về đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, Việt Nam có
nguồn lực con người khá dồi dào và hứa hẹn sẽ có chất lượng tốt nếu được đào tạo một
cách cơ bản và hệ thống. Việt Nam có nhiều thế hệ nhân tài, người Việt Nam thông
minh, tuy nhiên do điều kiện vật chất còn quá kém nên tình trạng chảy máu chất xám vẫn
diễn ra khá nghiêm trọng. Bối cảnh ngày nay, với việc đẩy mạnh và quyết tâm thực hiện
chiến lược giáo dục là quốc sách hàng đầu, là thời cơ thuận lợi để Việt Nam đào tạo, sử
dụng và phát huy tiềm năng về con người để phát triển đất nước.

Ngoài ra, sự quan tâm của Đảng ta và Nhà nước cũng là một trong những động lực
cơ bản cho sự phát triển của tri thức khoa học. Với quan điểm cho rằng khoa học công
nghệ là sức mạnh quốc gia, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu Đảng ta đã cố gắng
trong khả năng có thể đã liên tục mở rộng ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ và
giáo dục đào tạo. Song song với việc nâng cao ngân sách nhà nước Đảng còn luôn chú
trọng xây dựng cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý an toàn và rộng mở cho khoa
học phát triển.
Về một số thách thức
Những kết quả nghiên cứu sau đây về những hạn chế và khó khăn, thách thức cho
Việt Nam trong quá trình phát triển tri thức khoa học sẽ là một trong những đóng góp để
có thể nâng cao nhận thức của chúng ta về những thách thức của thời đại đối với quốc
gia dân tộc và sẵn sàng chủ động vượt qua nó để tiến đến sự phát triển bền vững. Luận
án chỉ ra bốn thách thức cơ bản: Một là, sử dụng công nghệ cũ từ các nước làm nảy sinh
nguy cơ mất khả năng sáng tạo và năng lực nội sinh, khoa học lại nặng về lý thuyết, nhẹ
thực hành. Hai là, mặc dù đất nước có nhiều tiềm năng nhưng chúng ta chưa khai thác
triệt để và hiệu quả các tiềm năng ấy. Ba là, các điều kiện vật chất – kỹ thuật để phát
triển hoạt động nghiên cứu nhằm tạo ra hệ thống tri thức ở trình độ khoa học cao còn
thiếu. Bốn là, những rào cản trong cơ chế, chính sách.
Tóm lại, tìm hiểu những thời cơ, những thách thức trong quá trình phát triển tri
thức khoa học ở Việt Nam và phân tích nó như là những vấn đề đặt ra cho quá trình phát
triển tri thức khoa học ở Việt Nam trong điều kiện đang xây dựng và phát triển kinh tế tri
thức là một vấn đề cấp thiết, cần nghiên cứu một cách nghiêm túc để có thể giúp Việt
Nam phát huy những lợi thế, khắc phục những hạn chế, khó khăn để tiếp tục phát triển,


17

nâng nền khoa học nước nhà lên tầm cao chiến lược mới, thực hiện thành công chiến
lược Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mà Đảng ta đã
sớm đề ra.

2.2.2 Kinh nghiệm phát triển tri thức khoa học để thực hiện mục tiêu xây dựng kinh
tế tri thức ở một số nước phát triển và bài học kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam

Luận án tìm hiểu kinh nghiệm phát triển tri thức khoa học để phát triển kinh tế tri
thức của một số quốc gia phát triển trên thế giới như Thụy Điển, Phần Lan, Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Trung Hoa, Singapore, Đại Hàn Dân Quốc…
Tìm hiểu kinh nghiệm các nước cho thấy để có những thành tựu nổi bật về tri thức
khoa học, hầu hết các nước phát triển nêu trên đều có những đặc điểm chung cơ bản như
sau: một là, tất cả các nước đều chú trọng đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực tài năng, tập trung mạnh cho
chiến lược giáo dục, đào tạo, thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn tài năng trí tuệ. Hai là,
các nước này còn luôn chủ trương lấy cơ chế, chính sách quốc gia làm then chốt, đầu tư
xây dựng cơ sở pháp lý cho phát triển tri thức khoa học, có chính sách ưu tiên cho hoạt
động khoa học công nghệ, thường xuyên cải cách, đổi mới, điều chỉnh chiến lược khoa
học công nghệ cho phù hợp với tình hình thay đổi của thực tiễn. Thứ ba, các nước
phương tây và phương đông có xu hướng tương đối khác biệt trong điểm nhấn về chiến
lược phát triển khoa học, công nghệ, nếu các nước phương tây kể trên như Thụy Điển,
Phần Lan, Hoa Kỳ đều rất quan tâm đến chính sách xã hội hóa, luật hóa các hoạt động
khoa học công nghệ để huy động mọi nguồn lực của xã hội cho mục đích phát triển khoa
học công nghệ, làm giàu tri thức khoa học, tạo nên những cú nhảy đột phá, những bước
ngoặt cách mạng trong tiến trình lịch sử, thì các nước phương đông như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc… lại quan tâm nhiều hơn đến triết lý vay mượn tri thức và chuyển
giao khoa học - công nghệ. Thứ tư, các nước này là chú trọng đến việc đầu tư và thu hút
nguồn đầu tư mạnh cho hoạt động R&D, nhà nước đầu tư và khuyến khích các tổ chức tư
nhân và các nguồn vốn nước ngoài tập trung cho đầu tư mạo hiểm, phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật, hội nhập quốc tế…
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam vận dụng trong quá trình phát triển tri thức
khoa học để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức. Qua tìm hiểu mô hình một số nước,
luận án rút ra ba bài học kinh nghiệm cơ bản cho Việt Nam như sau:Thứ nhất, đầu tư lớn
cho giáo dục, đào tạo nhằm tạo nguồn nhân lực chất lượng cao;Thứ hai, tập trung đầu

tư cho nghiên cứu và phát triển, xã hội hóa hoạt động nghiên cứu khoa học;Thứ ba, cần
đẩy mạnh việc xây dựng, kiện toàn cơ chế, chính sách.
Ngoài ra, kinh nghiệm các nước cũng chỉ ra cần tập trung gắn kết giữa nghiên cứu
với thị trường, thương mại hóa các sản phẩm tri thức, xây dựng lộ trình phát triển thị
trường khoa học công nghệ gắn liền với thị trường lao động, xây dựng cơ chế chính sách
thật sự thông thoáng để huy động được tốt nhất sức mạnh của đội ngũ trí thức và những
nhà khoa học trong và ngoài nước, kêu gọi, thu hút nhà khoa học Việt Nam đang sinh
sống ở nước ngoài, các chuyên gia quốc tế …để tạo nên tổng lực sức mạnh khoa học
công nghệ của nước nhà, tạo mũi nhọn cho sức mạnh nền kinh tế Việt Nam tiến sâu vào
kinh tế tri thức với tốc độ nhanh và bền vững nhất.
Kết luận chương 2
Qua nghiên cứu, khảo sát và phân tích số liệu về thực trạng phát triển tri thức khoa


18

học ở Việt Nam hiện nay, trước hết, luận án làm rõ Việt Nam đang bước vào nền kinh tế
tri thức ở điểm xuất phát thấp, chúng ta tiến thẳng vào kinh tế tri thức từ nền kinh tế
nông nghiệp chứ không phải từ kinh tế công nghiệp như các nước phát triển, vì vậy môi
trường cho phát triển kinh tế tri thức còn chưa thực sự thuận lợi và phát triển đủ cả về
chất và về lượng. Hơn nữa, ở chương hai, luận án còn phân tích để chứng minh rằng tiến
lên kinh tế tri thức là xu thế tất yếu của nền kinh tế Việt Nam trong thời đại ngày nay vì
kinh tế tri thức thực chất là nấc thang kế tiếp của phương thức sản xuất, là giai đoạn phát
triển cao của kinh tế thị trường. Ngoài ra, luận án đã lần lượt phân tích, chỉ ra thực trạng,
những thành tựu đạt được và những hạn chế của tri thức khoa học trên từng lĩnh vực cụ
thể. Kinh nghiệm phát triển tri thức khoa học của một số quốc gia đi trước và bài học
vận dụng cho Việt Nam cũng là một nội dung quan trọng trong chương hai, đây sẽ là
những cơ sở xác thực và hết sức sinh động, có giá trị định hướng để luận án tiếp tục
hoàn thành chương ba của luận án là dựa trên thực trạng phát triển tri thức khoa học,
đánh giá những mặt tích cực, yếu kém, tìm kiếm bài học kinh nghiệm từ các nước để trên

cơ sở đó đề ra những giải pháp thiết thực và khả thi nhằm phát triển hiệu quả tri thức
khoa học để tiến lên kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3
PHƯỚNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TRI THỨC KHOA HỌC ĐỂ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 . PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRI THỨC KHOA HỌC ĐỂ XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển tri thức khoa
học để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức
Nhìn chung, về quan điểm, dựa trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã hình thành chủ trương, quan điểm, chính sách phát triển
đất nước dựa vào khoa học, coi khoa học là động lực của sự phát triển.
Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi trọng tri thức khoa học và sự phát triển của
khoa học công nghệ. Qua các phân tích trên cho thấy, liên tục qua các kỳ đại hội, Đảng
luôn xác định vị trí và vai trò rất quan trọng của khoa học, tri thức khoa học và kỹ thuật,
công nghệ trong sự nghiệp phát triển chung của quốc gia dân tộc. Từ Đại hội VI, Đảng ta
đã coi khoa học và công nghệ là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VII, Đại hội VIII và Đại hội IX khẳng định khoa học công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và là động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội X
nhấn mạnh vai trò động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế tri thức.
Đại hội XI tiếp tục đề ra đường lối đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, khoa học và
công nghệ giữ vai trò then chốt trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, động lực
then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
3.1.2. Phương hướng phát triển tri thức khoa học để xây dựng và phát triển
kinh tế tri thức hiện nay ở Việt Nam
Trên cơ sở những định hướng chiến lược lâu dài của Đảng, luận án cho rằng, Đảng
ta xác định đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý hoạt động khoa học, công nghệ được xem là



19

khâu đột phá, nhưng thực tế cho thấy những rào cản về cơ chế vẫn đang kìm hãm sự phát
triển mạnh mẽ tri thức khoa học, do đó luận án cho rằng, định hướng mang tính thiết
thực nhất trong thời gian tới phải là những sách lược tháo dỡ những rào cản về cơ chế,
chính sách, cởi trói cho khoa học, công nghệ, cho nhà khoa học tự do sáng tạo tri thức,
cụ thể là :
(1) Dân chủ hóa để kích thích các hoạt động khoa học - công nghệ nhằm tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi nhất để các hoạt động khoa học công nghệ có thể diễn ra một
cách hiệu quả, đặc biệt là các hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm sáng tạo ra hệ
thống tri thức khoa học.
(2) Xã hội hóa để huy động các nguồn lực nhằm phát triển hiệu quả tri thức khoa
học, huy động sức mạnh của toàn xã hội vào mục tiêu phát triển khoa học công nghệ,
trong đó có hoạt động nghiên cứu làm giàu tri thức khoa học.
(3) Đẩy mạnh luật hóa quyền sở hữu trí tuệ để tạo hành lang pháp lý bảo hộ cho
hoạt động khoa học.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN TRI THỨC KHOA HỌC
NHẰM THỰC HIỆN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1. Nhóm giải pháp về giáo dục – đào tạo
Xã hội tri thức yêu cầu con người phải có năng lực nhận thức và một trình độ
nhất định. Đặc biệt hơn nữa, sự chuyển giao cho nhau loại tài sản này, lại phải được thực
hiện thông qua một phương thức đặc biệt, đó là quá trình giáo dục và đào tạo. Do đó,
trong thời đại mà tri thức khoa học phát triển nhanh như vũ bão hiện nay, thì tỉ lệ thuận
với nó, giáo dục và đào tạo cũng phát triển trở thành một ngành sản xuất đặc biệt, ngành
sản xuất và phát triển vốn tri thức.
Những sự phát triển to lớn, mạnh mẽ và quá trình cải cách giáo dục đại học toàn
diện, là những đòn bẩy giúp các con rồng của thế giới có những bước bay lên thần kỳ.
Nó cho thấy một chính sách phát triển giáo dục và khoa học kỹ thuật có định hướng rạch
ròi và tầm nhìn chiến lược của bậc lãnh đạo là nhân tố quyết định cho sự phát triển.

Đầu tiên, phải tập trung mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục,
đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
Tiếp theo, cần đào tạo theo yêu cầu của xã hội và hoạt động khoa học công nghệ, gắn đào
tạo với nghiên cứu, gắn đào tạo với thị trường, tạo sự liên kết chặt chẽ giữa nhà giáo dục,
nhà khoa học, nhà kinh tế, nhà sản xuất, nhà hoạch định chiến lược và thậm chí là với cả
người tiêu dùng. Đồng thời, nâng cao đầu tư cho giáo dục, chuẩn hóa giáo dục theo các
tiêu chuẩn quốc tế và xây dựng chiến lược giáo dục hợp tác quốc tế là cần thiết, xây dựng
xã hội học tập, học tập suốt đời…
Những kinh nghiệm lịch sử cho thấy, việc tăng trưởng kinh tế dựa trên việc khai
thác tài nguyên sẽ kéo dài không lâu, còn tăng trưởng kinh tế dựa trên sự kết hợp của tài
năng và kinh nghiệm quản lý, trọng dụng nhân tài và gắn với môi trường, gắn với thương
mại quốc tế thì nó luôn phát triển bền vững. Do đó Chính phủ đóng vai trò then chốt và
phải tiến hành chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động giáo dục và đào tạo cho phù hợp, tạo mọi
con đường thuận lợi cho người tài tiến thân bằng chính khả năng và thực lực của mình.
3.2.2. Nhóm giải pháp về phát triển thị trường khoa học công nghệ


20

Thị trường khoa học công nghệ là phương tiện, là môi trường thúc đẩy sự phát
triển sôi động, nhanh chóng và hiệu quả của tri thức khoa học và quá trình chuyển giao
công nghệ, vì vậy phát triển tốt thị trường khoa học công nghệ cũng là một giải pháp
quan trọng.
Một là, kiện toàn mọi điều kiện, từ đội ngũ con người đến năng lực khoa học công
nghệ đến cơ chế chính sách… đảm bảo hình thành và phát triển thị trường khoa học lành
mạnh, sôi động, có sức cạnh tranh cao, đảm bảo năng lực gia nhập sâu vào thị trường
quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa. Hai là, nắm rõ cơ sở khoa học và các nhân tố thúc
đẩy sẽ rút ngắn quá trình hình thành, phát triển thị trường khoa học công nghệ, thúc đẩy
phát triển nhanh thị trường khoa học công nghệ là đòi hỏi bức xúc đối với Việt Nam hiện
nay. Ba là, liên tục xây dựng đề án, ban hành quyết định, chỉ thị, triển khai các chương

trình cụ thể trên quy mô quốc gia để thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ hoạt động,
qua đó rút kinh nghiệm và đổi mới chương trình, phương pháp, cách thức triển khai để
phát huy tối đa sức mạnh và hiệu quả của thị trường khoa học công nghệ.
Tầm quan trọng của thị trường KHCN trong công cuộc CNH, HĐH của nước ta là
điều không thể phủ nhận, trong tương lai không xa, thị trường KHCN sẽ hoạt động mạnh
mẽ, góp phần quan trọng đưa nước ta tiến nhanh đến mục tiêu phát triển kinh tế tri thức.
3.2.3. Nhóm giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin truyền
thông – ICT
Tiến hành đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng thông tin truyền thông, tạo nên sự
kết nối toàn cầu, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ tri thức khoa học trên quy mô toàn thế giới, là
cơ sở để phát triển công nghệ cao và đi vào kinh tế tri thức.
Tập trung xây dựng xa lộ thông tin tốc độ cao, đẩy mạnh công tác số hóa, phát
triển thương mại điện tử, chính phủ điện tử, giáo dục trực tuyến… tập trung mục tiêu làm
cho mọi tầng lớp nhân dân nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt và sử dụng hiệu quả lợi ích
của công nghệ thông tin, truyền thông
Khẩn trương xây dựng chương trình ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin,
kết hợp công nghệ thông tin với công nghệ sinh học để phát triển công nghiệp hóa hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, đầu tư phát triển các dự án nhằm phổ biến và
triển khai mạng thông tin về vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, truyền bá tri thức cho
nông dân giúp họ hiểu biết tác dụng của công nghệ thông tin truyền thông và sử dụng nó
vào sản xuất, trao đổi, mua bán … nâng cao chất lượng cuộc sống.
Thực hiện thành công các giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ ICT chính
là một trong những mục tiêu chiến lược trong phát triển tri thức khoa học hiện nay, đồng
thời cũng là cho mục tiêu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tuy nhiên tất cả các giải
pháp ở các lĩnh vực từ hoạt động giáo dục đào tạo cho đến thị trường khoa học, công
nghệ, phát triển ICT… đều sẽ trở nên hiệu quả hơn nếu các giải pháp về cơ chế chính
sách được thực hiện một các hoàn thiện.
3.2.4. Nhóm giải pháp về cơ chế - chính sách phát triển tri thức khoa học
Kết quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, ít nhất một nữa mức tăng
trưởng kinh tế của quốc gia là nhờ những tiến bộ khoa học công nghệ đem lại, chúng đã

góp phần làm tăng thêm hiệu quả các nguồn vốn và tăng năng suất lao động xã hội, tạo
ra những sản phẩm và dịch vụ mới. Vì vậy, các chính sách thúc đẩy tiến bộ khoa học
công nghệ đang đóng một vai trò đáng kể trong các chiến lược tăng trưởng kinh tế của


21

các nước phát triển và đang phát triển. Các chính sách, cơ chế bồi dưỡng, đào tạo, chế độ
trọng dụng và đãi ngộ nhân tài còn nhiều bất cập, cơ chế quản lý hoạt động khoa học
công nghệ còn chưa đáp ứng yêu cầu… do đó, cải thiện và liên tục đổi mới cơ chế, chính
sách cho khoa học công nghệ cũng là một giải pháp mang tính thiết yếu.
Công tác quản lý khoa học công nghệ cần được quan tâm trên tất cả các phương
diện, từ việc quản lý các nhiệm vụ khoa học công nghệ, cho đến quản lý tài chính, quản
lý hoạt động của các tổ chức khoa học công nghệ, chú trọng việc đổi mới, cải tạo công
tác quản lý sao cho hiệu quả và tích cực nhất, quyết tâm đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về
tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát
triển khoa học và công nghệ; đồng thời ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho
phát triển khoa học và công nghệ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tư, khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao đồng bộ tiềm lực khoa học xã
hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ. Chú trọng nghiên cứu ứng
dụng và triển khai; coi doanh nghiệp và các đơn vị dịch vụ công là trung tâm của đổi mới
ứng dụng và chuyển giao công nghệ, là cầu nối quan trọng nhất của thị trường khoa học
và công nghệ. Quan tâm đúng mức đến nghiên cứu cơ bản, tiếp thu, làm chủ công nghệ
tiên tiến của thế giới, phù hợp với điều kiện Việt Nam; Chủ động, tích cực hội nhập quốc
tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.
Đặc biệt, đổi mới cơ chế quản lý tài chính được xem là đòn bẩy quan trọng cho
sự phát triển đột phá của tri thức khoa học. Quan điểm chung là cần phải thực hiện hiệu
quả hơn nữa cơ chế khoán trong khoa học công nghệ. Mặt khác, Việt Nam cần tích cực
tăng cường ngân sách và cả huy động nguồn vốn tư nhân cho khoa học công nghệ.
Cơ chế tuyển dụng, đãi ngô nhân tài phải được chú trọng. Các viện nghiên cứu

cần phải tuyển dụng các chuyên gia, giáo sư, hay giảng viên trẻ có tài năng thật sự, và
tạo điều kiện cho họ (như thời gian và phương tiện nghiên cứu) và trao cho họ quyền tự
do theo đuổi những ý tưởng nghiên cứu mà họ thích và có khả năng thực hiện. Cần phải
có những hình thức khuyến khích tài chính cho các nhà khoa học có công trình trên các
tập san quốc tế.
Thực hiện các biện pháp và tạo lập những cơ sở pháp lý nâng cao hiệu lực thực
thi pháp luật về sở hữu trí tuệ trong thị trường khoa học và công nghệ. Tạo môi trường
pháp luật thông thóang, thuận lợi, đảm bảo nhà khoa học, cho người lao động Việt Nam
tiếp cận các tri thức mới nhất, và thu hút được đầu tư quốc tế vào Việt Nam. Đảng và
Nhà nước phải mạnh dạn hơn nữa và kiên quyết đi đầu trong công tác trẻ hóa đội ngũ cán
bộ. Bổ sung và hoàn thiện hơn nữa chính sách tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
nguồn nhân lực trí thức, đặc biệt là đội ngũ nhân lực tài năng, nhân lực chất lượng cao.
Về phương diện quản lý: Cần đổi mới quản lý và tổ chức nâng cao hiệu quả hoạt
động khoa học công nghệ ; xây dựng chính sách đầu tư xứng đáng cho hoạt động khoa
học và công nghệ; thiết lập các chế độ khen thưởng và kỷ luật cụ thể nhằm khích lệ kịp
thời cho các phát minh, sáng kiến khoa học mới, đảm bảo sự gắn kết lợi ích của người
sáng tạo và lợi ích của các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình hoạt động và phát
triển tri thức khoa học. Kiên quyết xử lý thích đáng những vi phạm làm kìm hãm sự phát
triển của khoa học và công nghệ. Tích cực hơn nữa trong quá trình biến tri thức khoa học
thành những thành tựu công nghệ trong thực tiễn lao động sản xuất.
Kết luận chương 3


22

Kết quả nghiên cứu của chương ba tập trung ở một số vấn đề sau:
Việt Nam hình thành quan điểm xem giáo dục, khoa học công nghệ là quốc sách
hàng đầu từ rất sớm, từ đó hoạch định được một chiến lược phát triển tri thức khoa học
cụ thể cho quốc gia trong thời kỳ mới là đường lối chỉ đạo đúng đắn và phù hợp với tình
hình và bối cảnh quốc tế cũng như mang tính thời đại sâu sắc. Nhiều quốc gia phát triển

khác cũng đã có điểm xuất phát tương tự Việt Nam, bằng chiến lược phát triển phù hợp,
chính sách khoa học và cơ chế hợp lý, họ đã rất thành công trong việc nâng vị thế quốc
gia trên bản đồ khoa học công nghệ thế giới và đang từng bước tiến thẳng vào kinh tế tri
thức. Đó là những bài học, và cũng là những mô hình kiểu mẫu, tham khảo và vận dụng
tốt trong điều kiện lịch sử, cụ thể, Việt Nam hoàn toàn có thể đi tắt, đón đầu trong cách
mạng thông tin tri thức và trong tiến trình tiến đến kinh tế tri thức.
Dựa trên sự nghiên cứu về chiến lược phát triển tổng thể và mục tiêu của quốc gia
về khoa học, công nghệ; trên cơ sở tìm hiểu kinh nghiệm một số nước và khảo sát thực
trạng phát triển tri thức khoa học công nghệ Việt Nam, luận án gợi mở một số định
hướng chiến lược trong quá trình phát triển tri thức khoa học, đồng thời luận án cho rằng,
các định hướng cụ thể, thiết thực nhất cần quán triệt trong thời gian tới là cần dân chủ
hóa, xã hội hóa và luật hóa các hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình sáng tạo ra tri thức khoa học.
Luận án kiến nghị một số giải pháp mang tính khả thi về giáo dục đào tạo, về thị
trường khoa học công nghệ, về phát triển ICT nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học công
nghệ, tiến tới phát triển hệ thống tri thức khoa học quốc gia, ứng dụng vào nền kinh tế,
từng bước thiết lập kinh tế tri thức.
PHẦN KẾT LUẬN
Trong quá trình nghiên cứu, phân tích, làm rõ vấn đề “Tri thức khoa học đối với
quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay”, luận án đã rút ra
được một số kết luận sau:
(1)Tri thức bao giờ cũng là một trong những yếu tố quan trọng, và là phương tiện
vĩ đại nhất để thúc đẩy xã hội phát triển. Phát triển tri thức khoa học hiện nay không chỉ
là nâng cao hiểu biết của con người về thế giới, mà còn là vấn đề trọng đại của từng quốc
gia, dân tộc trong tiến trình phát triển nhân loại.(2) Xây dựng và phát triển nền kinh tế tri
thức, là xu thế tất yếu của thời đại, đó không chỉ là vấn đề quan tâm của riêng lĩnh vực
kinh tế, mà còn là mối quan tâm của rất nhiều các lĩnh vực khác nhau trong xã hội. Việt
Nam chưa có kinh tế tri thức theo đúng nghĩa của nó, do đó, để hội nhập vào nền kinh tế
tri thức, các quốc gia đang phát triển như Việt Nam phải có sự nổ lực rất cao. (3) Luận
án cũng đã bước đầu cố gắng nghiên cứu, phân tích làm rõ vai trò thực sự của tri thức

khoa học trong nền kinh tế mới. Trên thực tế, vị trí ưu tiên đối với khoa học và công
nghệ trong chiến lược phát triển của các quốc gia đã làm nên sự thăng trầm và biến đổi
rất khác nhau của nhiều cường quốc, từ đó làm thay đổi bản đồ kinh tế – chính trị của thế
giới về căn bản; có thể nói năng lực cạnh tranh mạnh mẽ và cần thiết cho tương lai của
mỗi quốc gia là khả năng đổi mới, và tri thức khoa học chính là yếu tố cầm lái của lộ
trình đổi mới đó.(4) Qua khảo sát, phân tích thực trạng phát triển của tri thức khoa học ở
Việt Nam hiện nay, luận án cho rằng nhìn chung, thực trạng phát triển tri thức khoa học


23

hiện nay ở Việt Nam chưa tương xứng với những tiềm lực vốn có và sự quan tâm, đầu tư
của Đảng, Nhà nước trong thời gian qua. Vì vậy cần nghiêm túc đánh giá lại thực trạng,
nguyên nhân của những thành tựu, nguyên nhân của những hạn chế để tiếp tục điều
chỉnh, đề ra các biện pháp và mục tiêu phát triển mang tính khả thi, hiệu quả, tương xứng
với tầm vóc mới của nền khoa học – công nghệ nước nhà, từng bước tiến tới xây dựng và
phát triển thành công nền kinh tế tri thức.(5) Để vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội mà
Đảng ta đã lựa chọn, Việt Nam phải luôn nắm bắt những thời cơ và vận hội mới để tiến
kịp trình độ tri thức của nhân loại. Đất nước còn nhiều khó khăn, nên chiến lược phát
triển tri thức khoa học không phải là ngày một ngày hai, mà là một quá trình dài hạn,
phải thực hiện bằng nhiều con đường, nhiều phương pháp khác nhau, quan trọng nhất là
phải thực hiện bằng ý chí của cả dân tộc Việt Nam. Ở đây, tác giả mạnh dạn đề xuất bốn
giải pháp chủ yếu góp phần phát triển tri thức khoa học nhằm xây dựng nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam hiện nay: giáo dục đào tạo; về thị trường khoa học công nghệ, về cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin ICT và về cơ chế - chính sách.
Nhận thức không phải chỉ để nhận thức, nghiên cứu không phải để nghiên cứu mà
quan trọng hơn là để ứng dụng vào thực tiễn và khai thác hiệu quả nhằm phục vụ con
người, phục vụ mục tiêu phát triển và an sinh xã hội. Vì thế, ngoài việc tìm hiểu những
vấn đề lý luận, tìm kiếm các giải pháp để phát triển tri thức khoa học, Việt Nam còn cần
tích cực hơn nữa trong quá trình vật chất hóa tri thức khoa học trong đời sống thực tế.

Tích cực vận dụng những hiểu biết và trình độ khoa học trên thế giới, ứng dụng vào hoàn
cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra những chính sách phù hợp và
thích ứng nhất với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam.


×