Tải bản đầy đủ (.doc) (164 trang)

Giáo Trình Dược Liệu Thú Y

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.28 KB, 164 trang )

Giáo trình dợc liệu
I một số khái niệm cơ bản
Dợc liệu: là môn học chuyên nghiên cứu những nguyên liệu đầu dùng làm
thuốc (material medicin) phòng, trị bệnh cho ngời và vật nuôi. Những nguyên liệu
này có nguồn gốc từ cây cỏ, động vật và khoáng vật. Trong đõ có tới trên 80%
nguyên liệu đầu dùng làm thuốc có nguồn gốc từ thực vật nên đã đổi tên thành dợc
liệu (medicin plants).
Đông dợc: là môn học nghiên cứu cách thu hái, bảo quản, sử dụng và bào chế
các nguyên liệu dùng làm thuốc của các nớc phuơng Đông trong phòng trị bệnh.
Dợc liệu thú y: là môn học nghiên cứu các nguyên liệu dầu, dùng làm thuốc
phòng, trị bệnh cho vật nuôi. Đồng thời, còn nghiên cứu thêm các cây có khả năng
gây độc cho gia súc, gia cầm và biện pháp phòng trị. Vậy, muốn hiểu biết sâu và đầy
đủ môn dợc liệu học thú y chúng ta không thể tách rời những kiến thức về dợc lý, độc
chất và dợc liệu học nói chung của nhân loại.
II. Lịch sử và sự phát triển.
A.
Lịch sử và sự phát triển của môn dợc liệu học trên thế giới.
Môn Dợc liệu học cũng nh thế giới. Từ thời xa xa nhất, con ngời đã tìm cho
mình những thức ăn và các vị thuốc trong cỏ cây và tập phân biệt chúng với cây độc.
Đầu tiên các hiểu biết đợc truyền miệng. Sau đợc ghi chép lại.
Trên các bảng đất sét dợc giữ lại tại bảo tàng ở Anh; ngời ta đã tìm đợc các tài
liệu cổ từ thời kỳ Xumêriêng Acadi, Babilon. Một số khác có từ 4000 năm trớc công
nguyên, đợc ghi bằng hình nón theo lệnh của vua Axyri Axuapanipal, trên đó có ghi
các dợc liệu: thuốc phiện, thiên tiên tử, a nguỳv.v...Gần 2000 năm trớc công nguyên,
vua Axyri Hamurabi khuyến khích trồng cây thuốc. Từ khi nền Y học còn có tính
chất kinh nghiệm, còn lẫn nhiều yếu tố thần thoại nhà thờ, thì ngời ả rập cũng biết sử
dụng gôm Acaxia, camphora abissinica, phan tá diệp, da đắng, thuốc phiện, thầu
dầu. Đây là bản viết này nổi tiếng của Ebe (1600 trớc công nguyên) đã bàn đến bệnh
và các vị thuốc thảo mộc.
Việc khảo sát các nền văn minh cũ của Trung Quốc, ấn độ văn minh mới của
các dân tộc Adơtéc, Mêhicô và các dân tộc Inca ở Pêru chứng tỏ đã có sự hiểu biết


sâu sắc về các cây thuốc và cây độc dợc ở đây.
Các thầy thuốc nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại nh : Aristoy, hypocrat, đã biết dùng các
loại thuốc ngủ, thuốc phiện, thiên tiên tử.
Mondragora trong cuốn lịch sử cỏ cây đã mô tả chính xác về đặc điểm thực


vật của nhiều cây thuốc.
Diotcorit sinh tại tiểu á (ngời Hy Lạp) đã đi chu du Ai cập, châu Phi, Tây Ban
Nha, ý...Tập khảo sát luận của ông (77 năm sau công nguyên) đã đợc dịch ra tiếng la
tinh ở thế kỷ 15 với tên là Dợc liệu. Tập này đã thống kê 500 vị thuốc láy từ thực
vật, động vật và khoáng vật. Công trình của ông đợc truyền bá trong thế giới La mã,
Ai cập và có ảnh hởng tới cuối thời trung cổ.
ở La Mã (thế kỷ thứ 1 sau công nguyên) Xensut đã mô tả 250 dợc liệu. Plin ở
Langxiêng đã ghi lại các đặc tính Y học của cây cỏ trong nhiều tập của quyển lịch
sử thiên nhiên.
Galiên (thế kỷ thứ 2 sau công nguyên) đợc coi là ngời thầy của ngành bào chế
học, đã cung cấp các đơn chế thuốc. Ông đã có ảnh hởng đến nền Y học phơng Tây
trong nhiều thế kỷ.
ở thế kỷ 13, bên châu Âu những tiến bộ khoa học không đáng kể, thì ở thế giới A
rập đã qua một thời kỳ thịnh vợng. Thế giới A rập đã truyền bá các kiến thức Hy
Lạp, La mã và ấn Độ và có thêm những tìm tòi mớiBên cạnh các nhà khoa học vĩ
đại của A rập nh Ghenbe Rhadet, Medue còn có các thầy thuốc vĩ đại Avixen,
Avendoa, Averoet và một nhà dợc liệu thực sự Inbayta. Ông đã mô tả hơn 2000 dợc
liệu (có 1700 thuốc nguồn gốc thực vật) trong cuốn Dợc chất đơn giản.
Ngoài trờng phái A rập, trờng phái của Salecnơ do Xacdơ Magnơ thành lập, đã
có tiếng tăn đến thế kỷ 14. ở đây ngời ta viết các cuốn sách về cỏ cây làm thuốc, về
thuốc chống độc. Tập đơn thuốc của thế kỷ 11 và một bài thơ có tiếng Tinh hoa của
Y học đã ghi 100 vị dợc liệu quan trọng đợc các thầy thuốc Pháp Nicola privot xem
lại và trở thành cuốn sách thuốc chống độc có giá trị.
Tại Pháp ở thế kỷ 12 việc chế thuốc và bán thuốc là đặc hữu của các nhà tế bào

chế ; mà Xanh lu-i đã ban hành điều lệ năm 1258. Sau thời kỳ thập tự chinh, các tủ
dợc liệu đã chứa đầy các gia vị và các cỏ cây có nguồn gốc phơng Đông. Việc tìm ra
đờng bể đi ấn Độ của Vascogama (1498), đi châu Mỹ của Colong 1492 đã giúp cho
việc nhận biết thêm về dợc liệu mới (Cacao, Chè, Càphê).
Ngành Y học và Dợc học bắt đầu thoát khỏi kinh nghiệm chủ nghĩa và đi sâu
vào thực nghiệm. Paraxen là một trong những ngời đầu tiên đã muốn chết linh
hồn của cây cối dới dạng Nguyên tố thứ 5, là khái niệm đầu tiên của hoạt chất.
Trong khi các ngời xa đi tìm vị thuốc đa năng thì đối với Paraxen trong thiên nhiên tơng ứng với mỗi bệnh là một vị thuốc có đặc diểm riêng để con ngời có thể nhận ra đợc, đó là Thuyết về các chữ ký. Dựa vào tín ngỡng cho rằng hình dạng và màu sắc
của mỗi cây có thể biểu hiện các tính chất y học của nó nh vị: Checdilonium majors


có nhựa vàng, giống nh mật của gan dùng để chữa bệnh cho ngời mắc bệnh gan. Vị
Pulmonaria officinale có lỗ lốm đốm trắng gần nhu mô ở phổi dùng trị bệnh về phổi.
Vị Eyrthracea cenfansium có thân vuông đợc dùng trị bệnh sốt rét... Học thuyết này
đã đợc J.B Pocta bảo vệ, năm 1558 ông đã xuất bản tập Phitognomica. Trong tập
sách này còn mắc nhiều lầm lẫn nhng thời kỳ đó đã có ảnh hởng lành mạnh, làm cho
kiến thức dợc liệu tiến bộ và có điều đáng khen là đã làm xuất hiện khái niệm đặc
hiệu.
Các kiến thức đợc truyền bá nhờ các nhà in Machiolơ (1000-1577) xuất bản ở ý
tập bình luận của Điôtcorit. Nhiều vờn thực vật đã xây dựng ở Pháp. ở Pari có vờn
của Nicola Hen, ngời chế thuốc chuyên bán gia vị (1580). Năm 1626 tập đoàn các nhà
bào chế mua một miếng đất ở phố Acbalit để đạt vờn ơm cây làm thuốc.
Tới lúc này, ngành Dợc (với nhiệm vụ xác định, kiểm nghiệm dợc liệu và chế
thuốc) đợc tách ra khỏi ngành Y. Ngời ta bớc vào giai đoạn khoa học dựa trên quan
sát và thực nghiệm. Các nhà khoa học đều xác định rằng điểm xuất phát cơ bản của
môn học này là xác định dợc liệu về mặt thực vật một cách chính xác. Sau đó một
thời gian ngời ta đã khảo sát chiết xuất và phân lập đợc các hoạt chất. Đó mới là cơ
sở khoa học vững chắc cho việc sử dụng các sản phẩm thiên nhiên.
Đầu thế kỷ 19 Secrtuener tách đợc morphin từ thuốc phiện. Năm 1818
Penlơchie Cavăngtu chiết đợc Strichnin, 1820 tìm đợc quinin. Ngời ta đã tìm ra đợc

con đờng hoá học của các ancaloit.
Trong thời gian này, ngời ta cũng tách đợc các Heterozit: Salixin của liễu (1830
lơru) Amydalin (1830 Robike) Digitalis kết tinh của dơng địa hoàng tía (Nativen
1868).
Các tiến bộ về khoa học kỹ thuật cho phép nhận biết các thành phần của cây
cối và dần gỡ ra khái niệm về các hoạt chất. Năm 1813-1878 Clode Berna đã thử tác
dụng dợc lý của thuốc trên động vật thí nghiệm, từ đó tìm ra bộ phận nào cần sử
dụng của dợc liệu và tìm đợc sự tơng quan giữa cấu trúc hoá học của các thành phần
với tác dụng của nó trên động vật thí nghiệm.
Nh thế dợc liệu học đã xuất hiện ba mặt hoạt động:
1- Khảo sát các thành phần hoá học tìm các hoạt chất có trong cây.
2- Kiểm nghiệm dợc liệu bằng các phơng pháp thực vật học.
3- Khảo sát tác dụng dơc lý và kiểm tra việc sử dụng thuốc trong điều trị.
Việc khai thác các nguyên liệu trong thiên nhiên dùng làm thuốc ngày càng
phát triển. Các dợc liệu dùng trong một nớc có tình trạng không đủ dùng hoặc dùng
thừa. Đó là nguyên nhân làm nẩy sinh việc buôn bán thuốc và dợc liệu giữa các nớc


đợc phát triển mạnh mẽ. Một kỹ nghệ mới đã xuất hiện - kỹ nghệ chế biến sơ bộ các
nguyên liệu làm thuốc. Dợc liệu đợc buôn bán trao đổi giữa các nớc ở trạng thái nhỏ,
hay tán bột; nhng cũng từ đó phát sinh ra những khó khăn trong việc nhận thức
phân biệt các vị thuốc đã tán nhỏ, băm vụn phải tìm đợc trong các vị thuốc đắt tiền
sự giả tạo, pha trộn cố tình của kẻ buôn bán thuốc thiếu lơng tâm hoặc sự pha trộn
vô tình thất thờng trong việc buôn bán thuốc, giữa các nớc, ngày càng phát triển.
Đồng thời nhờ những tiến bộ của ngành hoá phân tích mà việc tiêu chuẩn hoá các dợc liệu và kiểm nghiệm nó đợc hình thành.
Song song với sự tiến bộ của các ngành khoa học khác, nhất là hoá học, dẫn tới
việc chiết xuất ra các hoạt chất chính. Dần dần ngời ta đã tổng hợp đợc hoạt chất
nhân tạo với số lợng gần nh vô tận. Thế nhng cỏ cây vẫn giữ đợc tầm quan trọng của
nó trong điều trị. Thực tế tác dụng dợc lý của cây không hẳn lúc nào cũng là tác
dụng của chế phẩm nguyên chất đã đợc tách ra. Thông thờng, thuốc có nguồn gốc từ

động vật sống, đợc cơ thể chịu đựng dễ hơn là thuốc tổng hợp có tác dụng dợc lý
mạnh. Thêm vào đó là các tác dụng phụ, đôi khi cha nhìn thấy đợc.
Các nớc phơng Đông cũng có một nền Đông y dợc truyền thống lâu đời. Trung
Quốc, ấn Độ, là những trung tâm lớn về lĩnh vực này trong suốt cả thời kỳ cổ đại.
Nhiều bộ sách lớn còn để lại cho đến ngày nay:
- Thần nông bản thảo chinh là bộ sách có từ thời nhà Hán (50-150 trớc công
nguyên). Nguyên bản đã thất lạc, đến đời nhà Minh và nhà Thanh có ngời đã biên
soạn lại cuốn sách này. Đây là sách chuyên khoa đầu tiên về thuốc của Trung Quốc.
Trong đó gồm 365 bài dợc liệu.
- Thần nông bản thảo kinh tập chú (493-500 CN). Dựa vào cuốn sách trên, Đào
Hùng Cảnh đã chỉnh lý, bổ sung thêm thành 730 loại làm thuốc.
- Tân tu bản thảo (657 - 659 CN). Cuốn sách đã ghi chép tỷ mỷ 844 loại dợc liệu.
Có thể coi đây là cuốn Dợc Điển đầu tiên của Trung Quốc .
- Chng loại bản thảo (1108CN) của Đờng Châu Vi thời nhà Tống biên soạn.
Gồm 1740 loại làm thuốc. Đặc điểm cuốn sách này là có kèm theo tranh vẽ, có ghi
chép nguồn gốc, cách chế biến của từng vị thuốc và những đơn thuốc kim cổ kèm
theo. Đồng thời đã hiệu đính, bổ sung về mặt dợc tính của từng vị thuốc.
Bản thảo cơng mục (1596 CN). Do Lý Thời Trân biên soạn ở đời nhà Minh.
Sách bao gồm 1892 loại thuốc. Trong đó 257 loại khoáng vật, 444 loại động vật, 1094
loại thực vật và 79 loại thức ăn hàng ngày.
Trong bộ sách này, Lý Thời Trân đã vẽ tranh bổ sung, sắp xếp có kết hợp phân
loại theo đặc tính phân loại của thuốc.


Ngời Trung Quốc coi đây là công trình phân loại thực đầu tiên của thế giới, trớc
cả Linê chừng 200 năm.
Mỗi vị thuốc có ghi rõ các mục: tên gọi, địa lý thu hái, hình thái, tính chất, chủ
trị, bài thuốc mẫu...
Bản thảo cơng mục đã tổng kết kinh nghiệm chữa bệnh của nhân dân suốt 16
thế kỷ trớc. Đã đợc dịch ra 6 thứ tiếng: La tinh, Nga, Anh, Đức, Pháp, Nhật. Lý Thời

Trần và bộ sách của ông đã có vị trí xứng đáng trong kho tàng khoa học thế giới.
- Bản thảo cơng mục tập di (1848CN). Đây là bộ sách lớn ở thế kỷ 19 của Trung
Quốc. Ngô Kỳ Tân biên soạn sau ngày giải phóng (1949) việc nghiên cứu và áp dụng
Đông y càng đợc đẩy mạnh. Hai cơ quan nghiên cứu lớn về Trung y ở Bắc Kinh và
Nam Kinh, tiếp đó nhiều cơ quan tơng tự, ở khắp các tỉnh, các vùng của Trung Quốc
đã đạt nhiều thành tựu mới về các mặt: điều tra nguồn gốc và trữ lợng, kiểm định
phẩm chất, nghiên cứu tác dụng dợc lý, thành phần hoá học, các ứng dụng điều trị
mới, các phơng pháp điều chế mới...Nhiều vấn đề đã đạt trình độ cao, hiện đại của
thế giới. Rất nhiều sách và tạp chí của Trung Ương và địa phơng đã ra đời, đóng góp
những kinh nghiệm quý báu cho nền Y học phơng Đông và thế giới.
B.- Lịch sử phát triển của Đông dợc Thú y và Dợc liệu học ở Việt Nam:
Đông dợc Thú y là môn học mới đợc thành lập gần đây. Tuy vậy việc tìm tòi cây
cỏ chữa bệnh cho vật nuôi đã đợc nhân dân ta, đặc biệt là các danh y nổi tiếng của
dân tộc áp dụng từ thời cổ xa. Các thầy lang đợc mời về kinh đô ngoài việc chữa bệnh
cho vua chúa, quan lại, nhiều khi còn phải chữa bệnh cho cả súc vật nuôi có nhiệm
vụ bảo vệ hay làm cảnh ở trong cung đình: voi, ngựa, chó, chim....Rất tiếc việc đó
làm xong cha đợc các danh y quan tâm ghi chép lại. Vì vậy không có những bộ sách
lớn chuyên về Đông dợc thú y. Sau ngày giải phóng 1954, các cán bộ thú y của ta đã
quan tâm hơn đến vấn đề chữa bệnh cho gia súc và gia cầm bằng thuốc Nam, đã đi
sâu tìm hiểu kinh nghiệm chữa bệnh cho gia súc trong nhân dân và đem áp dụng.
Nhìn chung những kinh nghiệm đợc phổ biến còn rất đơn giản, tản mạn.việc su tầm,
tổng hợp một cách khoa học để viết thành chuyên luận lớn giới thiệu việc dùng thuốc
nam chữa bệnh gia súc, gia cầm còn rất ít. ở một số sách giáo khoa thú y: Nội, Ngoại,
Sản, Ký sinh trùng, Dợc lý... cũng có giới thiệu một số vị thuốc nam thờng dùng trong
thú y để chữa bệnh cho vật nuôi. Các giáo trình này cũng chỉ nhấn mạnh đến việc sử
dụng vị thuốc để chữa bệnh mà cha đi sâu tìm hiểu cơ chế, tác dụng dợc lý... của vị
thuốc đó.
Muốn hiểu về lịch sử phát triển của Đông dợc Thú y ở Việt Nam chúng ta cần
phải biết đợc lịch sử phát triển của Dợc liệu học nói chung của nớc ta.



lịch sử của môn dợc liệu học ở Việt Nam.
Tập dợc liệu đầu tiên đợc xuất bản ở Việt Nam năm 1429 thời Lê Thái Tổ. Đây
là một cuốn sách do Phan Phu Tiên biên soạn, từ cuối đời Trần, qua thời nhà Hồ và
thời kỳ giặc Minh chiếm đóng (1407-1413) đến năm 1429 thì hoàn thành.
Tập dợc liệu thứ 2 có giá trị đó là Nam dợc thần hiệu của Tuệ Tĩnh. Cụ đã ghi
rõ giá trị của 630 vị thuốc nam, kèm theo đó một tập gồm 13 đơn thuốc làm mẫu và
37 cách chữa các chứng sốt nhiệt (thập tam phơng gia giảm và thơng hàn thất thập
pháp). Theo cụ, đối với ngời Nam, thuốc nam thích hợp và tốt nhất. Tuệ Tĩnh đợc coi
là ngời đầu tiên sáng lập ra nền Y học Việt Nam (sau này Lãn Ông là ngời tuyên
truyền rất có uy tín và kết quả). Tuệ Tĩnh đợc coi là Tổ s của Y học cổ truyền ở Việt
Nam. Hiện nay có chùa Hồng vân đợc thiết lập để nhớ ơn Cụ. Nhà Minh phong kiến,
thấy nớc ta có vị danh y chuyên dùng các vị thuốc nam để giảm giá thành thuốc bắc
nên đã sang đón Cụ về Trung Quốc chữa bệnh cho Tống V ơng Phi. Năm 1412,
sau khi Cụ đã chữa khỏi bệnh cho Tống Vơng Phi, vẫn không đợc tha về mà bị giam
giữ ở thành Kim Lăng. Đồng thời các sách Cụ viết ra trớc đều bị nhà Minh tìm cách
mua lại hết. Tuệ Tĩnh vắng mặt ở nớc Nam nên thuốc Nam bị phát triển chậm một
thời gian.
Tiếp theo Tuệ Tĩnh là cụ Hải Thợng Lãn Ông (1721-1792). Trong đời hoạt động
cống hiến cho nghề thuốc, Hải Thợng Lãn Ông đã để lại cho chúng ta một bộ sách
gồm 66 quyển, trình bày cả y lý và dợc liệu, đồng thời còn có một tập sách nhỏ khác,
kê nhiều đơn thuốc có giá trị. Lãn Ông đợc coi là ngời sáng lập ra nghề thuốc Việt
Nam.
Đã nhiều lúc, thuốc nam, thuốc bắc bị coi khinh, xem thờng. Sách về dợc liệu
hầu nh rất ít. Nhng trong nhân dân, việc dùng thuốc nam thuốc bắc vẫn đợc tín
nhiệm lu truyền.
Ngày nay, phơng châm kết hợp Đông Tây y đợc đề cao. Về mặt cơ sở vật chất,
thiết bị hiện đại đợc tăng cờng để đa khoa học tiên tiến vào việc nghiên cứu và sử
dụng các nguồn đợc liệu phong phú của nớc ta.
Nhiều cơ quan nghiên cứu và giảng dạy về Dợc liệu xây dựng và phát triển nh

Viện nghiên cứu y học cổ truyền, Viện Dợc liệu, Trờng Đại học Dợc khoa...
Nhiều sách viết về Dợc liệu Việt Nam đã xuất bản và có giá trị không ở trong nớc, mà cả các nớc trên thế giới cũng đánh giá cao.
Bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi đã đ ợc coi là một trong 6 viên ngọc quý của thế giới, trong dịp triển lãm sách quốc tế trớc
đây.


Chúng tôi đã thừa hởng các giá trị của các tập sách nói trên, kết hợp với kinh
nghiệm nhân dân su tàm đợc, với các thực nghiệm khoa học của cán bộ ngành chăn
nuôi thú y trong cả nớc, để viết nên tập bài giảng này.
tên gọi các vị thuốc
Chúng ta đã biết việc tìm ra nguyên liệu đầu dùng làm thuốc gồm: cây, động
vật và khoáng vật là cả một quá trình lâu dài, nó song song tồn tại cùng với lịch sử
phát triển của loài ngời. Loài ngời phải trải qua rất nhiều công trình nghiên cứu kể
cả thành công và thất bại mới rút ra đợc các kho tàng kinh nghiệm vô cùng quý báu
trong việc điều tra, sử dụng thuốc. Kinh nghiệm ngày càng đợc tích luỹ nhiều theo
từng dòng họ, đặc biệt là các bài thuốc gia truyền (do trớc đây phơng tiện giao lu,
trao đổi khó, ngôn từ ít, sử dụng thuốc cũng giống nh mọi mặt của cuộc sống hàng
ngày theo kiểu tự cung tự cấp). Do vậy tên gọi của các vị thuốc thờng rất khác nhau.
Thực tế đã gặp một cây thuốc nhng có rất nhiều tên hay ngợc lại một tên nhng đợc
đặt cho nhiều cây khác nhau. Một phần cũng còn do một số vị thuốc lại có nhiều
công dụng khác nhau. Nên ngời đặt tên thuốc lại dựa vào công dụng của vị thuốc đợc
sử dụng lần đầu. Việc đặt tên các vị thuốc và đơn thuốc đợc dựa trên các nguyên tắc
sau đây
1.- Căn cứ vào công dụng vị thuốc mà đặt tên
Thảo quyết minh là cây có hạt, uống vào sẽ sáng mắt ra (quyết minh tử). ích
mẫu: là vị thuốc có ích cho ngời mẹ. Phòng phong là vị thuốc có tác dụng chữa cảm
gió, đau đầu, chóng mặt nhức các khớp xơng
2.- Căn cứ vào màu sắc của vị thuốc
Hoàng liên: vị thuốc có mầu vàng rễ cây mọc liên tiếp. Hoàng đằng: Vị thuốc
này có màu vàng. Huyền sâm: thứ sâm có mầu đen. Hồng hoa: vị thuốc là một thứ

hoa có mầu hồng.
3.- Căn cứ vào hình dạng
Ngu tất: Ngu là Trâu, tất là gối - vị thuốc có thân cây nơi cành mọc bị phình to
ra giống đầu gối con trâu. Cẩu tích (gốc rễ cây lông cu li) - cẩu là chó, tích là cái lng.
Cẩu tích vị thuốc trông giống lng chó. Ô đầu - Ô là con quạ. Vị thuốc trông giống
đầu con quạ.
4.- Căn cứ vào mùi vị của thuốc
Đinh hơng: vị thuốc giống cái đinh có mùi thơm. Hồi hơng: vị thuốc thơm nh
hồi.Cam thảo: cam = ngọt, thảo = cỏ, 1 loại cỏ có vị ngọt. Khổ sâm vị thuốc giống
sâm nhng có vị đắng. Khổ quá mớp đắng...


5.- Căn cứ vào địa phơng sản xuất
Sâm Bố chính - Sản xuất ở huyện Bố Trạch Quảng Bình. Ba đậu: Sản xuất ở
Ba Thục (Trung Quốc giống nh hạt đậu).
6.- Căn cứ vào cách sống mà đặt
Bán hạ: vị thuốc thu củ vào giữa mùa hạ. Hạ khô thảo: vị thuốc đến mùa hạ thì
khô héo. Nhẫn đông: cây chịu đợc qua mùa đông vẵn xanh tốt (kim ngân), hay tang
ký sinh...
7.- Căn cứ vào những điển tích, tên ngời dùng
Đỗ trọng: Vị thuốc đợc dùng đầu tiên do ngời có họ Đỗ tên Trọng. Hà thủ ô: Hà
= họ Hà, thủ = Đầu, ô = quạ. Ông lão họ Hà tóc đã bị bạc dùng thuốc này đầu trở
thành đen nh đầu quạ. Sứ quân tử: chính là Sứ Quân Tử một vị sứ quân họ Quách
chuyên dùng thuốc này chữa bệnh cho trẻ em bị cam tích do giun sán. Do đó đặt tên
là hạt của ông sứ quân = Sứ quân tử (tử = hạt).
8.- Căn cứ vào bộ phận dùng
Chỉ một bộ phận của cây hay con đợc dùng làm thuốc: tang diệp (là cây dâu);
Cúc hoa (hoa cúc), hổ cốt (xơng hổ), Niết giáp (mai ba ba), cát căn (củ sắn dây)...
9. Căn cứ vào tên ngoại quốc mà phiên âm ra
Actixô: phiên âm từ tiếng Pháp Artichant. Man - đà - la - hoa tiếng ấn Độ - cây

có màu sặc sỡ. Nó chính là cây cà độc dợc
Có khi cùng vị thuốc nhng vì nơi sản xuất có tiếng là tốt, ngời ta thêm nơi sản
xuất. Ví dụ : Xuyên Hoàng liên (Hoàng liên của tỉnh Tứ Xuyên). nhng nhiều khi
trong cùng một tên thuốc, thêm tên địa phơng vào, tởng là cùng một loại nhng thực
ra là hai cây khác nhau. Xuyên bối mẫu chữa ho lao, ho khan, còn Triết bối mẫu là
chứa ho cảm, ho gió. Lại cũng có vị thuốc thêm chữ nam ( hay chữ thổ ) vào thì lại là
một vị thuốc hoàn toàn khác.Ví dụ: Nam hoàng liên có khi là cây hoàng đằng có khi
là cây thalinctrum. Cam thảo nam là cây scoparia dulsis hay cây Abrus Precatorius.
trong khi cam thảo bắc là cây Glycyrrhiza coralensí hay Glycyrrhiza glabra.
Vậy về việc gọi tên, nêu một số nguyên tác chung trên đây để chung ta tham
khảo. Nên gọi theo Việt nam là tốt nhất. Nhng mỗi nơi lại gọi mỗi khác. Do đó sẽ gặp
khó khăn khi nghiên cứu và sử dụng. Vì vậy đối với mỗi cây thuốc chúng ta thống
nhất nh sau:
- Các tên thờng dùng ở Việt Nam.
- Tên của số nớc trên thế giới có.
- Tên khoa học (cả tên cây và họ thực vật hay chi và bộ của động vật)- viết tên
La tinh, phải ghi cả tên ngời phân loại vì có thể mỗi tác giả phân loại một khác.


nguồn gốc của thuốc.
Việc dùng thuốc trong dân gian đã có từ rất lâu. Từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên ta
khi tìm kiếm thức ăn đã ăn phải cây độc gây tiêu chảy, nôn mửa hay chết ngời, dần
dần loài ngời đã biết phân loại cây độc với cây làm thức ăn. kinh nghiệm tích luỹ dần,
loài ngời không những biết lợi dụng cây để làm thức ăn mà còn biết sử dụng cây làm
thuốc phòng trị bệnh và những cây độc dùng trong săn bắn hay chống giặc ngoại
bang. Nh vây việc phát minh ra cây thuốc đã có từ thời thợng cổ khi đấu tranh với
thiên nhiên, tìm thức ăn mà có. Nguồn gốc để tìm ra thức ăn, thuốc và cây độc đều
giống nhau. Việt Nam tồn tại 2 dạng ngời làm thuốc
- Thuốc nam gia truyền: Trị bệnh theo kinh nghiệm cha truyền con nối để tồn tại
và phát huy, loại này không hay ít biết lý luận khoa học tồn tại ở các vùng dân tộc ít

ngời.
- Loại cũng dùng thuốc nhng có hiểu biết về y lý, khoa học tồn tại trong khu đô
thị, đợc học và đào tạo nghiêm chỉnh.
Về nguồn gốc dợc liệu: tạm thời phân chia thành 2 loại
Loại 1: Dợc liệu có nguồn gốc thiên nhiên - hoàn toàn dựa vào thiên nhiên mà khai
thác kể cả thực vật, động vật và khoáng vật.
Loại 2: Dợc liệu do con ngời sản xuất ra.
Hai nguồn gốc nói trên, nhiều vị thuốc phân biệt hơi khó, càng về quá khứ thuốc
gần nh chỉ dựa vào thiên nhiên, bị động bởi thiên nhiên. Càng về sau, ngời ta nhận
thấy rằng không thể để cho thiên nhiên chi phối, mà phải tự mình bắt thiên nhiên
phục vụ mình. Do vậy việc trồng tỉa cây và nuôi động vật làm thuốc đợc đẩy mạnh.
Khi kỹ nghệ dợc phẩm cha phát triển, cây mọc hoang hay động vật làm thuốc
sống hoang dại là nguồn dợc liệu chính. Về sau, nguồn dợc liệu kể trên ngày càng
hiếm do khai thác quá mức hay phá hoại nghiêm trọng. Hơn nữa do cây mọc hoang
hiếm dần, nên mọc lẻ tẻ, dẫn dến việc thu hái đòi hỏi nhiều công phu. Do vậy nên
nghề nuôi con và trồng cây làm thuốc đã ra đời. Nhiều khi chăn nuôi và trồng cây
làm thuốc đặt ra do nhu cầu xã hội thúc đẩy. Ví nh trồng canh ký na đợc đặt ra vì
cây này mọc hoang dại trở nên hiếm. Nuôi hơu, nai, để chủ động lấy nhung, sừng và
xơng. Hiện nay nhiều nơi đã trồng cây thanh cao hoa vàng để sản xuất thuốc chống
ký sinh trùng sốt rét. Việc trồng tỉa hay chăn nuôi nh vậy có nhiều u điểm
- Chủ đồng đợc nguốn thuốc.
- Không sợ nhầm lẫn, giả mạo. Do sự chăm sóc, ta có thể làm tăng hoạt chất của vị
thuốc nên sẽ tăng hiệu lực chữa bệnh của thuốc.
- Chi phí về thu nhặt, vận chuyển và chế biến sẽ giảm đi nhiều. Cây trồng đến


tuổi, thu hoạch đều cùng một lúc, việc thu hoạch có thể cơ giới hoá đợc.
- Lựa chọn địa điểm trồng gần nơi phơi sấy và xởng sản xuất để giảm chi phí về
vận tải, tránh sự hỏng từ lúc thu hái đến khi sấy khô và bào chế.
Còn đối với việc chăn nuôi động vật làm thuốc, ngoài những u điểm kể trên, việc

chăn nuôi còn để cho ta chủ động mọi biện pháp tác động vào súc vật, chủ động
nguồn thức ăn, chủ động phòng chữa bệnh theo dõi sức khoẻ con vật hàng ngày ...tạo
cho nó cuộc sống gần giống với cuộc sống thiên nhiên. Nh thế tất nhiên sẽ cho sản
phẩm làm thuốc cao nhất, tốt nhất.
Những quy tắc về trồng tỉa hay chăn nuôi động vật làm thuốc, chúng tôi không
giới thiệu chi tiết ở giáo trình này vì nó thay đổi theo từng cây và con. Nhng chúng tôi
sẽ giới thiệu một số vấn đề cần chú ý
Phải dựa vào các thành tựu của các ngành khoa học: sinh học phân tử, di
truyền học... để chọn giống tốt, ít bệnh, năng suất cao và ổn định. Với cây thuốc
chúng ta cần chọn phơng pháp nhân giống tốt nhất: Gieo hạt, cấy thẳng hay cấy lại,
trồng bằng cành hay bằng rễ...
Phơng pháp bón, tới: dùng phân gì để tăng hoạt chất, tăng hiệu suất kinh tế của
cây trồng. Thời kỳ sinh trởng nào cây cần nhiều nớc, giai đoạn nào cần ít ...Sự bón
phân đã đợc nghiên cứu nhiều. Ví dụ nh cây Atropa bentadona mọc hoang chỉ có 0,3
0,5 % ancaloit. Nếu ta bón phân tốt và đúng mùa vụ, hiệu suất ancaloit sẽ tăng 0,8
%, đồng thời lợng lá thu hoạch sẽ tăng. Ngợc lại với cây bạc hà, vì bón phân không
đúng nên làm giảm lợng tinh dầu.
Do các kết quả trên, việc trồng cây thuốc và nuôi động vật làm thuốc ngày càng
phát triển. Việc phát triển dợc liệu làm thuốc đang là một yêu cầu cấp bách của xã
hội. Chúng ta cần nghiên cứu, phát triển hơn nữa, góp phần bảo vệ sức khoẻ đàn gia
súc và phát triển nền kinh tế nớc nhà.
Ngành thú y, tiến bộ về mặt này còn chậm, việc chữa bệnh cho gia súc bằng
thuốc nam ở các cơ sở cha đợc các cán bộ thú y chú ý. Nguyên liệu dùng làm thuốc
chữa bệnh cho gia súc hoàn toàn còn phụ thuộc vào bên nhân y và thu hái tự nhiên,
chứ cha chủ động trồng đợc. Mấy năm gần đây, một số địa phơng cũng có nghiên cứu
thí điểm vờn thuốc thú y nhng bị phá sản vì hoặc do thiếu cán bộ, hoặc thiếu kinh
phí, hoặc lãnh đạo ở đơn vị đó thiếu quan tâm
cân đong dùng trong đông dợc
Trong thực tế hiện nay vẵn đang tốn tại 2 hệ thống đơn vị cân đong khi sử dụng
Đông dợc



Hệ thống cân đong cũ (theo đồng cân, lạng, cân ta...)
Hệ thống cân đong thông dụng của quốc tế (gam, kilogam, miligam, minilít...)
Để giúp tham khảo, xin giới thiệu tơng quan giữa 2 hệ thống này
1 yến: 10 cân bằng 6,048kg. Theo dợc điển Trung Quốc thì 1 yến ta bằng đúng
5kg.
1 cân ta: bằng 16 lạng = 0,6048 kg hoặc bằng 0,500kg (DĐTQ, 1963)
1 lạng: 10 đồng cân hay 10 tiền ; bằng 37,77g hay 31,25 g (DĐTQ, 1963).
1 đồng cân: 1 chỉ = 10 phân = 3,77 g,
1 phân: 10 ly bằng 0,377 g hay 0,3125 g (DĐTQ, 1963),
1 lai hay 1ly bằng 0,037 g hay 0, 0031 g (DĐTQ, 1963
1 lắm tay: ớc chừng 50 g lá tơi hoặc 20 g lá khô,
1 nhúm tay: ớc chừng 2 3g,
1 thìa cà fê: chừng 5 ml,
1 thìa súp: chừng 15 ml,
1 chén tống: chừng 50 60 ml
1 bát: chừng 200 250 ml,
1 chai: chừng 700 ml; 1 cút bằng 100ml; 1 gù bằng 300ml...
thu hái, bảo quản và chế biến dợc liệu
Thu hái dựơc liệu
Mục đích của việc thu hái
- Chủ động nguồn thuốc trong điều trị.
Nguyên liệu dùng làm thuốc chỉ sinh
trởng và phát triển theo từng mùa, không phải lúc nào cũng có đợc nguyên liệu tơi
dùng trong phòng, trị bệnh đợc. Đặc biệt hoạt chất có trong vị thuốc cũng không đợc
phân bố đều trong tất cả các bộ phận hay tồn tại trong cây cả bốn mùa.
Việc thu hái dợc liệu có tầm quan trọng rất lớn. Nhiều khi nó có tác dụng quyết
định đến công tác điều trị tốt hay không tốt. Song, trong thực tiễn, chùng ta cha quan
tâm đầy đủ và đúng đắn. Do đó đã gặp không ít trờng hợp sử dụng và thu hái bừa

bãi. Hái lá làm thuốc không đúng mùa vụ, không đúng quy cách, có khi hoàn toàn
không có tác dụng chữa bệnh vì không có hoạt chất cần dùng. Ví nh Ma hoàng thu
hái khi đã có gió mùa đông bắc hay cả vụ đông sẽ ít hay không có tác dụng chữa
bệnh nữa vì không còn Ephedrin.
Thực tế cho thấy hàm lợng hoạt chất của một cây thuốc thay đổi tuỳ theo bộ
phận cây, nhng cũng có thể thay đổi theo tuổi cây, theo từng thời kỳ trong năm, thậm
chí cả từng giờ trong ngày. Vì thế không có quy luật chung để lúc nào biết có hàm l-


ợng hoạt chất tối đa trong cây. Vậy phải thu hái dợc liệu nh thế nào để đảm bảo đúng
quy cách, phẩm chất và hiệu lực chữa bệnh của thuốc? Với mỗi vị thuốc, có một quy
định thu hái, sau này đến phần chuyên khoa sẽ giới thiệu kỹ hơn, chơng này chỉ nêu
những nguyên tắc chung trong khi thu hái dợc liệu.
1- Nguyên tắc thứ nhất - thu đúng thời kỳ.
Đối với mỗi vị thuốc cần biết phải thu hái vào lúc nào sẽ cho năng suất và hiệu
lực điều trị cao nhất. Ví nh cây Benladone, hoạt chất chính là Hyoxyamin đợc tạo ra
trong rễ cây, sau đố truyền nên các phần trên mặt đất. ở năm thứ nhất, thân cây khi
còn xanh chứa nhiều ancaloit hơn lá. Sang năm thứ 2 vì thân cây bị hoá gỗ nên hàm
lợng ancaloit chỉ tập trung nhiều ở ngọn có hoa, khi quả chín thì ancloit lại giảm đi.
Vậy khi trồng Benladone lấy ancaloit ở năm thứ nhất ta cắt cành từ chỗ thân còn
xanh và các lá trên cành. Sang năm thứ 2 ta chỉ thu ngọn có hoa. Cúc trừ trùng dùng
tẩy giun, sán, hàm lợng perrithroid cao nhất ở hoa. Trong mễ hoè khi hoa cha nở
nhìn giống nh hạt thóc chứa tới 20 % rutin, nhng đến khi nở có cánh mầu vàng lợng
rutin gần nh mất hoàn toàn.
Tơng tự nh trên khi thu hoạch bạc hà, lấy tinh dầu vào trớc lúc ra hoa.
Tốt nhất nên thu hái lúc khô ráo, giúp việc phơi sấy, bảo quản dợc liệu thuận
tiện. Các cây mang hoa ở ngọn dễ bị hỏng do ma. Các cây có tinh dầu phải thu hái
vào buổi sáng trớc lúc mặt trời mọc.
2. Nguyên tắc thứ hai - thu hái đúng bộ phận.
1.thu cả cây

Bồ công anh, ích mẫu, ngải cứu... Với những vị thuốc dùng cả cây. Khi thu
không lấy phần sát gần mặt đất vì ở đó có lẫn tạp chất, cỏ dại và ít hoạt chất của
những bộ phận đã già.
Cách thu: cắt dới cành cuối cùng ở khoảng 10 -15 cm là thích hợp. Thu hái lúc
cây sắp ra hoa.
2. Thu búp cây
Hái búp thờng vào giữa và cuối mùa xuân (tháng 3, 4 dơng lịch) với những cây
chỉ thu một lần trong năm. Các cây thu hái nhiều lần trong năm nh chè búp thờng
thu khi búp bắt đầu nẩy phồng to, nhng lá cha xoè, có thể lấy thêm một hoặc hai lá
non kèm theo búp cũng đợc.
Cách thu hái: ngắt từng búp (hái búp chè) hoặc bẻ cành con sau đó ngắt.
3. Hoa (Hos)
Với hoa sử dụng tinh dầu là hoạt chất, tốt nhất là hái khi hoa sắp nở, lúc đó
hoạt chất tập chung trong nụ cao nhất.Thí dụ: Hoa kim ngân, hoa hoè, hoa cúc... Có


khi ngời ta hái cả cụm hoa có kèm lá bắc. Còn ở cây sử dụng cánh hoa làm thuốc nh
hoa mào gà phải thu hài cánh khi hoa đã nở hết.
Cách thu: hoa lấy tinh dầu thờng phải hái bằng tay thu hoa cúc, hồng hoa, còn
đối với nhiều trờng hợp, ngời ta sử dụng bằng lợc tuốt chải: thu mễ hoè, bạch cúc,
cúc trừ trùng...
4.
Thu quả (Fructus)
Cần phân biệt 2 loại quả: quả mọng và quả khô (quả giác).
- Quả mọng: quả dâu, mâm sôi (phúc bồn tử), mơ, mận ... Thu lúc quả chín hẳn
- hoạt chất sẽ tập trung trong quả cao nhất. Song hái lúc này sẽ khó bảo quản, dễ
dập nát, h hỏng. Do đó nên hái khi quả vừa chín tới.
- Quả khô: Quả bồ kết, quả hồi, thảo quả, đầu... Thu lúc gần chín hoàn toàn,
nhng trớc khi bị rụng. Nếu hái sớm quả hoạt chất ít, khó bảo quản, phơi sấy lâu, ngợc lại nếu hái muộn, quả nứt hạt rơi vãi hết.
5. Thu ngọn có hoa

Bạc hà, hơng thảo, kinh giới, hơng thu...Thờng dùng liềm hay kéo cắt rồi bó lại.
Trong việc khai thác lớn, ngời ta sử dụng các máy chuyên dụng.
6. Thu lá (Folium)
Tuỳ theo mục đích làm thuốc và vị trí của lá trên cành mà quyết định thời kỳ
thu hái, vì ở mỗi thời kỳ sinh trởng và phát dục của lá, đều chứa các hoạt chất khác
nhau ví nh: Lá chè khi còn non chứa nhiều tanin và cafein hơn chè già. Lá ổi non
chứa nhiều tanin hơn lá già. ở bạc hà, kinh giới...và một số lá chứa tinh dầu, thờng
các lá ở phần trên ngọn chứa nhiều tinh dầu hơn các lá gần gốc. Những cây sống lâu
năm, lá của nó muốn dùng làm thuốc thờng hái vào năm thứ hai, sang năm thứ 3 thờng bỏ là đi, chỉ thu những bộ phận có hoạt chất tập trung: củ, quả. Trong một năm,
thờng hái lá bánh tẻ nghĩa là lúc cây sắp ra hoa, hoặc chớm ra hoa.
7. Thu hạt (Semen)
Tốt nhất thu hạt khi thật già. Nếu là hạt của quả tự mở: hạt muồng, cải...không
đợc chờ khi quả nứt. Chỉ riêng với hạt dẻ tây là nhặt hạt dới đất. Nếu là hạt của quả
thịt: hạt mã tiền, táo, đào...chờ quả chín, hái về, loại bỏ phần thịt quả, rồi phơi khô.
8.Thu vỏ(Corlex)
Còn gọi là bì : thu vỏ quế, mẫu đơn bì, thạch lựu bì... Thờng dùng vỏ cành, ít
dùng vỏ thân, vì có nhiều lớp bẩn. Việc thu vỏ cành hay vỏ thân còn tuỳ hoạt chất
hoặc tuỳ cách sử dụng trong điều trị. Ví dụ khi chữa cảm mạo (cảm hàn) dùng quế
chi, còn nếu cần làm ấm cơ thể và tăng cờng hoạt động của tim, bồi dỡng cơ thể
dùng quế tâm (quế thân).


Vỏ theo nghĩa rộng bao gồm bộ phận tách đợc bằng dao, đến tợng tầng, ở đó có
mặt phảng theo thớ. Nh thế sẽ bao gồm lớp trụ bì, libe và đôi khi vài hàng bên ngoài
tế bào của gỗ.
Thu vào mùa xuân đến đầu mùa hè, nhng phải trớc lúc cây ra hoa.
Cách thu: dùng dao bằng xơng hay thép không rỉ (không dùng dao sắt sẽ làm
mất tanin, sấu mầu dợc liệu vì sẽ gây đen), không nên thu vỏ của những cây quá già
hay còn non quá. Những vỏ của những cây này thờng quá nhiều bẩn và chứa ít hoạt
chất. Lấy dao tách ra đợc các mảnh vỏ, nạo bỏ miền bẩn. ở quế cành, với những cành

có đờng kính 2 5 cm, dùng dao trích 2 đờng vòng tròn và 2 đờng dọc thân cành,
bóc sẽ đợc các cuộn vỏ rồi cạo bỏ lớp bẳn đi.
Với vỏ rễ, việc thu hái sẽ có tác hại phá huỷ cây, nhng trong vài trờng hợp, vỏ
này lại quý, ví nh vỏ lựu. Ngời ta thu vỏ rễ khi có mục đích khai thác cây hoàn toàn,
nhằm chiết hoạt chất. Với canh ky na khi đợc 6 - 7 năm, ngời ta thu toàn bộ vỏ rễ,
thân, cành để chiết hoạt chất kinin làm thuốc
k. Thu gỗ (Lignum)
Ví nh tô mộc, trầm hơng, gỗ long lão...Thờng thu vào cuối thu hoặc cả mùa
đông. Lúc này gỗ chắc, lợng nớc trong gỗ ít hơn, dễ bảo quản, không bị h hỏng.
l. Thu rễ (Radex) và thân (Rhizoma):
Thu các bộ phận dới đất: rễ, thân rễ, củ, tốt nhất thu ngoài thời kỳ sinh dỡng
của cây. Lúc đó hoạt chất tập trung trong củ, rễ và thân rễ. Đối với cây sống 2 năm
nh ngu bàng, ngời ta thu hái vào mùa thu của năm thứ nhất hay mùa xuân của năm
thứ hai. Đối với cây sống lu niên, bao giờ cũng thu hái vào mùa thu. Thờng chờ sau
một vài năm để thu đợc khối lợng lớn, nhng không chờ quá lâu do lõi rễ sẽ hoá gỗ.
Việc thu thờng vất vả vì phải dùng cuốc, thuổng...cố gắng càng tránh đợc dập
nát bao nhiêu càng tốt: sắn dây, rễ long đờm, Ipeca và smilax... rễ cây thu đợc phải
lắc chải hay rửa, loại bỏ đất và các bộ phận dập nát, thối hỏng do côn trùng hoặc sâu
phá hoại. Loại bỏ các rễ nhỏ, những củ to thờng cắt thành khoanh hay làm nứt dọc
để tiện cho việc phơi sấy: đại hoang, long đởm, gừng, đại hoàng...
Có nhiều dợc liệu, lợng hoạt chất không giống nhau ở các chỗ cao thấp khác
nhau của củ. Trong củ đại hoàng theo Vạn ốt và cộng sự (Hà Lan): lợng các dẫn xuất
anthraxen tăng lên từ phần trên của gốc đến đầu các rễ con. Điều này cũng xảy ra
với bạch chỉ. Vậy khi thu đại hoàng, bạch chỉ không đợc loại bỏ các rễ con.
Không nên thu các bộ phận dới đất vào lúc cây đã nẩy lộc, đâm chồi, các chất
dự trữ đã bị huy động đến các bộ phận khác của cây, đễ có quá trình biền đổi sinh
học trong cây, hoạt chất bị đổi sang dạng khác, làm giảm tác dụng chữa bệnh.


Nh vậy việc thu hái dợc liệu thật muôn hình, muôn vẻ và đòi hỏi mất nhiều thời

gian. Việc thu dợc liệu đúng lúc rất quan trọng, không đợc xem thờng. Ngoài những
quy định trên chúng ta còn chú ý thêm:
- Hái về, phải kịp thời sử lý ngay, sử lý đúng phơng pháp để tránh dập nát, lên
men, sinh thối. Tuyệt đối không nên thu lúc trời ma, độ ẩm cao, trong nhà không có
phơng tiện sử lý kịp thời.
- Những bộ phận độc, có chứa hoạt chất tác dụng dợc lý mạnh, phải đợc báo
quản riêng, nên có ký hiệu riêng.
Các phơng pháp làm khô dợc liệu
Mục đích làm khô dợc liệu
Trên thực tế, có một số dợc liệu dùng tơi mới tốt, ví dụ: mần tới chữa mạt gà.
Ngợc lại, có những vị thuốc chỉ dùng khô, không những thế, lại đòi hỏi để càng lâu
năm tác dụng càng tốt nh trần bì. Nói chung dợc liệu tơi chỉ giải quyết yêu cầu trong
một phạm vi nhỏ, khi bệnh xẩy ra đúng mùa có cây thuốc phát triển, hay chỉ để cất
tinh dầu, chế cồn thuốc tơi. Trong thực tế lâm sàng không phải lúc nào cũng sẵn cây
tơi, nhất là khi mùa đông lạnh, cây cối tàn lụi. Vậy để chủ động nguồn thuốc trong
điều trị và sản xuất, nhất thiết phải tìm cách dùng dợc liệu khô.
Khi cây sống có sự cân bằng giữa các quá trình chuyển hoá, dẫn đến tổng hợp,
biến đổi và tổng hợp các thành phần hứu cơ trong tế bào bình thờng. Cây không có
sự phân huỷ gây mất hoạt chất. Khi cây bị cắt ra sẽ héo nhanh do việc mất nớc. Sự
mất nớc xảy ra nhanh hay chậm tuỳ theo các bộ phận của duợc liệu, tuỳ theo nhiệt
độ và độ ẩm của không khí. Sự thuỷ phân hoạt chất do men vẫn tiếp tục xảy ra nếu ở
cây còn luợng nớc trên 15%. Khi đó các quá trình thuỷ phân, oxy hoá, rexemnic hoá
có thể làm hỏng các hoạt chất của cây.
Ngày nay ngời ta đã công nhận các phản ứng này có thể xảy ra trong cùng một
số tế bào. Các men phân giải hoạt chất đặc biệt có trong cây nhng đợc khu trú ở các
điển khác nhau. Một số tồn tại dới dạng kết hợp với phức lipo proteid của ty thể.
Sự phá huỷ hoạt chất của dợc liệu xảy ra tỷ lệ thuận với việc phân huỷ phức lipo protein của men trong ty lạp thể. Nhiều hoạt chất hoà tan trong túi không bào
(Heterozit, muối ancaloit, tanin, sắc tố flavonozit) đều bị phân huỷ.
Thông thờng ngời ta giảm tỷ lệ nớc để cho các phản ứng lên men không xảy ra
đợc, đồng thời cũng để cản trở sự sinh sản của các vi khuẩn, nầm mốc.

Làm tốt công tác này mới giữ đợc hoạt chất thuốc nh lúc cây còn tơi. Thờng khi
làm khô dợc liệu, tỷ lệ hoạt chất giảm đi do bay hơi hay kết hợp với oxy thành nhựa
cây. Ví dụ dới tác dụng của men oxydaza đặc biệt, các andehyt trong ống bài tiết bị


oxy của không khí hoặc oxy trong bản thân andehyt để thành axit nhựa, chất
chlorophin bị oxy hoá cũng trở thành kém tan hơn. Song không phải lúc nào cũng
đúng nh thế.
Việc làm khô dợc liệu nhằm các mục đích sau:
- Chủ động nguồn thuốc trong điều trị
- Dễ bảo quản, dễ vận chuyển, hay chế biến sang các dạng khác
Nguyên tắc làm khô dợc liệu
Khi phơi khô dợc liệu nên chú ý: phơi khô từ từ, lợng nớc ở bề mặt cũng thoát
ra từ từ từ các tế bào bên trong ra. Nếu phơi ở nhiệt độ cao ngay từ đầu, phía ngoài
mất nớc nhanh dễ rắn chắc lại, làm cho nớc ở bên trong thoát ra khó. Do đó về sau dợc liệu rất dễ bị ẩm mốc. Mặt khác khi nớc rút ra từ từ nh vậy, các hoạt chất đã dần
dần bị cô đặc (đúng vị trí) ngay trong tế bào, không gây nên các phản ứng phụ do
việc mất nớc truyền từ tế bào này qua tế bào khác quá nhanh. Hoạt chất và men đặc
hiệu đều bị đông đặc, không gặp đợc nhau nên không có sự phân huỷ làm mất tác
dụng.
Hiện nay ngời ta làm khô dợc liệu bằng mấy phơng pháp sau
1. Cắt nhỏ phơi khô
a. Phơi trực tiếp ngoài trời (phơi dới ánh nắng mặt trời). Đây là biện pháp kinh tế
nhất, đối với những nơi có khí hậu nóng và khô. Phơng pháp này chỉ dùng với những
vị thuốc có hoạt chất không bị ánh sáng mặt trời làm hỏng. ít khi phơi cây thuốc
hoặc các bộ phận của cây trên mặt đất vì điều này giúp cho nấm mốc phát triển.
Riêng chỉ có tảo biển mới đem xếp dải phơi ngay trên bãi biển. Thờng xếp dợc liệu
thành lớp mỏng trên nong, khay, liếp, hoặc trên dây, kiểu xếp này kéo dài từ vài giờ
đến vài tuần tuỳ theo độ ẩm của không khí và cấu tạo của dợc liệu.
Lối phơi này không thích hợp với các cây có tinh dầu và hoa vì bị h hỏng.
Hạn chế của phơng pháp

- Tác dụng của tia tử ngoại xảy ra đồng thời với tia hồng ngoại có thể làm h
hỏng nhiều hoạt chất.
- Ban đêm, buổi sáng có sơng đọng, khi trời ma phải che, đậy.
b. Phơi trong râm và dới mái che (phơi ấm can).
Là kinh nghiệm rất khoa học của nhân ta từ cổ xa. Phơng pháp này khắc phục
đợc nhợc điểm của phơng pháp trên, thích hợp với cây có tinh dầu, hoa.
Phơng pháp này dễ áp dụng ở quy mô thủ công, tiến hành trong các lều, nhà
bạt. Dợc liệu đợc bó thành các bó nhỏ, treo lên các sợi dây thép hoặc dải dợc liệu
thành lớp mỏng trên các liếp, vải hay tờ giấy. Đến mùa thu hoạch nhiều, chúng ta


nên dựng các nhà tạm, có mái che, đặt cửa di động tuỳ hớng gió, để đảm bảo cho khí
lu thông theo hớng nhất định, tránh đợc ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp, ma giông.
Nhợc điểm của phơng pháp: phơi xếp lâu, không thể xử lý đợc khối lợng lớn dợc
liệu.
2. Sấy bằng không khí nóng và khô
Sấy khô dợc liệu bằng không khí nóng và khô, phơng pháp này rất cần thiết cho
những nớc có khí hậu ẩm ớt nh nớc ta, nếu tiến hành thu hái dợc liệu vào các tháng
2,3,4 và tháng 7,8 hàng năm. Lúc đó thời tiêt ma nhiều, độ ẩm cao, chúng ta không
sử dụng 2 phơng pháp nói trên để làm khô dợc liệu đợc.
Ưu điểm của phơng pháp này
- Nó cho phép sấy nhanh dợc liệu ở các điều kiện khí hậu khác nhau.
- Chủ động khống chế đợc nhiệt độ và độ thông gió, nớc trong các tế bào của dợc liệu đợc thoát ra từ từ. Muốn thế, khi thiết kế cần chú ý để tăng nhiệt độ ở lò sấy
một cách từ từ. Tức sẽ cho dợc liệu tiếp xúc với nguốn nhiệt một cách từ từ, dợc liệu
sẽ đợc khô từ trong ra ngoài. Lúc đầu ngời ta đặt một xe đầu tiên ở đầu đối diện với
nguồn cung cấp nhiệt. Sau 20 - 30 phút, đẩy xe đó lên gần nguồn nhiệt và đa xe thứ 2
vào, cứ tiến hành liên tục nh vậy. Trong khi sấy, bên cạnh việc chú ý nhiệt độ, cũng
cần chú ý đến độ ẩm của lò sấy. Nếu độ ẩm cao, dợc liệu sẽ không khô nếu độ ẩm
thấp nớc thoát ra nhanh. Khi xe thứ nhất chứa dợc liệu đã khô đạt đợc độ ẩm thích
hợp (chừng 2 giờ).

- Nguồn nhiệt ở đây là lò đốt củi, than hay các thiết bị điện, có thể là nhiệt dộ
năng lợng mặt trời cung cấp trong các thiết bị chuyên dùng.
- Đối với các bộ phận mỏng manh: lá, ngọn có hoa... việc loại nớc nếu quá triệt
để, chung để bị vụn nát khi va chạm, do vậy phải mang chúng vào một nơi mát có
thoát hơi nớc để chúng trở lại mềm mại.
-Nhiệt độ sấy thay đổi tuỳ theo các bộ phận của cây. Đối với các ngọn có hoa, lá
cây, nhiệt độ sấy khoảng 30-400C; đối với cành, vỏ, rể, gỗ, nhiệt độ có thể tăng 60700C. Độ ẩm của không khí nóng thổi vào khoảng 30-35% và không khí đi ra khỏi lò
có độ ẩm 65% là thích hợp. Với nhiệt độ này các men cha bị phá huỷ, vì mất nớc nên
men bị cũng bị cô đặc và ức chế.
3. Làm khô bằng tia hồng ngoại
Ngời ta dùng đèn có sợi tung xten. Phơng pháp này hay dùng khi chế biến cà rốt
và quả loại nớc nhng không phổ biến sấy thuốc vì giá thành cao và hoạt chất cũng có
thể bị phá huỷ.
4. Làm khô ở tủ sấy nóng và tủ sâý chân không


Đây là phơng pháp tốt trong phòng thí nghiệm, nó cho phép giảm thời gian cần
thiết để loại nớc nên giảm khả năng gây h hỏng dợc liệu.
Trong quá trình làm khô dợc liệu, tuỳ bộ phận, ta quy định tỷ lệ khô/ tơi thu đợc nh sau: Rễ khô chiếm 25-30%; Hoa khô chiếm 20%; Quả khô chiếm 30%; Búp
khô chiếm 40% so với búp tơi,
Tỷ lệ trên còn phụ thuộc vào mùa thu hái dợc liệu. Nếu thu haí dợc liệu vào cuối
thu đầu đông, tỉ lệ khô/tơi còn cao hơn so với cùng dợc liệu đó nhng hái vào mùa
xuân, hạ.
Làm khô dợc liệu một mặt để bảo quản, mặt khác cũng là dạng một dạng chế
biến ban đầu (cắt nhỏ phơi khô). Thực ra nó là một dạng quá độ để chế ra các dạng
thuốc khác: thuốc bột, thuốc sắc, cao...
Chú ý trong khi chế biến cần phải loại bỏ những tạp chất lạ: lá lạ, sâu mọt...
bảo quản dợc liệu
Bảo quản dợc liệu là một khâu rất quan trọng. Dợc liệu nếu không đợc bảo
quản chu đáo, sẽ bị mất phẩm chất do h hỏng. Nhiều khi bảo quản không tốt đã làm

mất hoàn toàn tác dụng chữa bệnh của vị thuốc.
Yêu cầu của dợc liệu trong thời gian bảo quản
Dợc liệu phải bảo tồn đợc hình thức và phẩm chất.
Cần cố gắng giữ nguyên vẹn các hợp chất nh khi còn là cây tơi.
Chú ý:
- ánh sáng mạnh sẽ làm dợc liệu mất màu hay đổi sang mầu nâu.
- Nhiệt độ tăng làm tăng tốc độ các phản ứng hoá học trong vị thuốc, giúp cho
nấm mốc, côn trùng, sâu, mọt...phát triển.
Vì vậy trong kho cần thoáng, mát, thông gió bằng không khí khô. Đồng thời
phải có biện pháp đề phòng hoả hoạn. Nếu dợc liệu ít thờng ta chỉ đóng gói, gác bếp.
Việc đóng gói cũng chỉ ngăn cản đợc phần nào tác dụng không tốt của các yếu tố kể
trên nhất là về độ ẩm.
Muốn bảo quản dợc liệu tốt, cần tổ chức chu đáo hệ thống nhà kho, xởng sơ chế.
Kho có thể mang tính chất tạm thời hoặc vĩnh viễn. Nói chung các kho này phải khô
ráo, thoáng gió, không đợc quá nóng, để các dợc liệu chứa tinh dầu khỏi bốc hơi. Dợc
liệu đợc đạt trên các giá, giữa các giá nên có lối đi lại để kiểm tra thờng xuyên. Dợc
liệu mốc, mọt... cần phát hiện kịp thời, phơi sấy lại ngay. Thờng dợc liệu chỉ tích trữ
từng năm, hoặc đa đi kịp thời để chế biến thành các dạng thuốc sẽ bảo quả đợc lâu
hơn. Có một số dợc liệu dù đợc bảo quản tốt, đúng phơng pháp, chất lợng vẵn giảm.
Trong kho, dợc liệu can sắp đặt ngăn nắp, riêng từng khu vực, ngoài mục đích


để tìm, dễ kiểm soát, dễ kiểm tra chất lợng. Các dợc lieu độc nh lá, hạt cà độc dợc,
hạt strophantus, hạt mã tiền...phải để một khu vực riêng. Ngời thủ kho phải trực tiếp
chịu trách nhiệm về số lợng xuất nhập. Các dợc lieu có mùi thơm: bạc hà, quả hồi,
cúc hoa, dinh hơng...phải để xa các dợc lieu không có mùi. Nếu không, mùi dợc lieu
thơm sẽ bị các dợc lieu khác hấp phụ. Khi để dợc lieu trong kho, chúng ta phải chú ý
3 mặt sau dây:
1. Chống ẩm ớt
Nớc ta ma nhiều, độ ẩm cao, rất dễ gây hỏng thuốc. Thờng độ ẩm để bảo quả

thuốc là 65 70 %. Thế nhng độ ẩm trung bình ở Việt Nam thờng từ 80 85 %.
Nhiều khi còn đạt độ ẩm tuyệt đối tới 100%. Thời gian này (thờng vào các tháng
2,3,4 và tháng 7, 8 ở miền Bắc, miền Nam là 6 tháng mà : 4,5,6,7,8,9 hàng năm). Việc
chống ẩm cho thuốc rất khó khăn nhất là các dợc liệu thuộc loại thuộc loại dễ hút nớc nhiều.
Để khắc phục độ ẩm cao ta có thể sử lý bằng cách:
- Những nơi có điều kiện thiết bị, để thuốc trong phòng có máy điều hoà nhiệt
độ (khoảng 200C là thích hợp) điều hoà độ ẩm, quạt thông gió.
- Những vùng nông thôn ta gói kín bằng giấy xi năng gác trên bếp hoặc đựng
vào các chum, vại dậy nắp kín.
2. Chống mốc
Vấn đề cơ bản chống mốc là chống ẩm. Dợc liệu đã hút ẩm sẽ bị mốc. Nêu dợc
liệu bị mốc cần phơi nắng lại hay sao tuỳ loại. Một số dợc liệu có thể phun rợu rồi
sao. Dợc liệu bị mốc khi trời đang ma, tốt nhất đốt lu huỳnh xông hơi từ 24 48 giờ.
3. Chống sâu mọt, kiến, chuột, mối, gián
Một tai hoạ rất lớn trong vận chuyển, bảo quản dợc liệu là sâu, bọ, mọt, mối,
gián...và chuột gây hại. Do điều kiện khí hậu ẩm nóng ở nớc ta, sâu bọ trong kho dợc
liệu dễ phát triển.Theo thống kê sơ bộ của Viện Bảo vệ thực vật Bộ Nông nghiệp và
tiểu ban Sinh vật học thuộc Uỷ ban khoa học Nhà nớc đã điều tra và xác định ở Việt
Nam khoảng trên 30 loài côn trùng, sâu mọt, làm h hỏng và phá hoại thuốc nam,
thuốc bắc nh: mọt thuốc: s.tegobilum, paniceum.l, sâu thuốc lá: lasioderma
jerricorsie Fabr. Mọt đỏ: triboliumferrugineum fabr. Mọt cà phê: Aracceus
fasciculatus...
Nói chung các loại sâu mọt thờng sinh nở trong điều kiện thuỷ phần của dợc
liệu từ 14% trở lên và nhiệt độ môi trờng thích hợp 18-300 C. Các giống sâu, mọt thờng ăn hại tất cả các loại thuốc, không kể độc hay không độc. Ví dụ: Hạt mã tiền rất
độc, nhng có một số giống sâu rất thích phát triển ở hạt đó, gián vẫn nhấm phụ tử


mà không chết.
Việc tiêu diệt các sâu bọ trong kho là một vấn đề khó khăn và phức tạp vì phải
làm sao diệt đợc sâu bọ mà chất lợng thuốc không bị ảnh hởng.

Do đó tốt hơn hết là nghiên cứu vòng đời của từng loại sâu bọ, rồi bảo quản dợc
liệu ở những điếu kiện không thuận lợi cho sự sinh sản và phát triển của chúng. Việc
tẩy uế, sát trùng kho tàng bằng hơi độc dichloroetan, chlorofierin hay SO 2, hoặc
bằng các thuốc sát trùng khác. Khi sử dụng các hơi độc, cần đa hết thuốc ra ngoài,
bịt hết lỗ hở, cửa kho, rồi hun thuốc vào kho. Sau đó mở cửa kho cho bay hết khí độc,
mới đa dơc liệu vào. Dợc liệu để trên giá, cách xa tờng và nền nhà, trần nhà.
Đối với chuột, tiêu diệt bằng bả chuột, nuôi mèo, chó, dùng cạm bẫy.
một số phơng pháp chế biến dợc liệu theo đông y
Mục đích của phơng pháp bào chế
- Làm cho vị thuốc tốt hơn, loại bỏ các tạp chất, các phần: vỏ, hạt, rơm, đất...
lẫn vào.
- Tuỳ loại dợc liệu, có thể giảm bớt hay loại bỏ độc tính, những hợp chất không
cần thiết trong điều trị một bệnh nhất định. Ví nh rang thảo quyết minh khi không
dùng với mục đích tẩy.
- Giúp cho sự bảo quản thuận lợi hơn.
Các phơng pháp bào chế.
I. Bào chế chỉ dùng lửa
1. Sao (hoả chế)
Phơng pháp này hay gặp trong bào chế dợc liệu. Đây là cách dùng sức lửa trực
tiếp hay gián tiếp để xử lý dợc liệu. Mục đích của việc sao dợc liệu.
- Làm khô dợc liệu để nghiên cứu hay bảo quản. Có một số dợc liệu phơi khô rồi
mới sao, hoặc trong quá trình bảo quản bị mốc đa sao lại; Số khác sao ngay từ khi
cấy còn tơi. Trong quá trình sao, dợc liệu tiếp xúc trực tiếp với sức nóng khô, kết hợp
với quá trình đảo liên tục, dợc liệu nhanh đạt đến độ ẩm quy định.
- Làm thuốc có mùi thơm, giảm bớt mùi vị khó chịu, đa số dợc liệu khi sao lên,
đều có mùi thơm, màu vàng đen, nhất là các loại hạt: y dì, thảo quyết minh. Mùi
thơm của dợc liệu khi sao là do sự bay hơi của một số tình dầu hay một số chất thơm
đợc hình thành trong quá trình sao.
- Tiêu diệt vi khuẩn, nấm mốc và men để ổn định dợc liệu. Với nhiệt độ 801200C đa số vi khuẩn, nấm, mốc đều bị diệt.
- Sao để thay đổi tác dụng của thuốc ví nh: thảo quyết minh, hạt ba đậu.

Dụng cụ sao: Dùng chảo gang hay nồi đất dầy để sao dợc liệu là tốt nhất. Mức


độ truyền nhiệt của các dụng cụ này tơng đối ổn định, nhiệt độ rang từ từ và giữ sức
nóng lâu.
Kỹ thuật sao dợc liệu là kỹ thuật điều khiển nhiệt độ và thời gian. Tuỳ mục đích
chữa bệnh để sử lý dợc liệu ở các nhiệt độ khác nhau theo những phơng pháp sao hay
gặp sau đây:
a. Sao trực tiếp
* Sao qua (vi sao) là phơng pháp xử lý dợc liệu ở nhiệt độ thấp (50-600C), chủ
yếu làm khô và thơm dợc liệu. Phơng pháp này thờng áp dụng cho dợc liệu có cấu tạo
mong manh đễ làm khô, dễ cháy (hoa, lá, dâu ngô) và các dợc liệu có hoạt chất không
chịu đợc nhiệt độ cao - tinh dầu.
Cách sao: Để khống chế nhiệt độ, ngời ta đốt chảo nóng già rồi tắt lửa cho dợc
liệu vào đảo nhẹ cho đến khi dợc liệu trên chảo nóng đều và khô. Hay cũng có thể
cho dợc liệu vào chảo đun nhỏ lửa đến lúc dợc liệu trong chảo nóng đều rồi khô. Ví
dụ sao râu ngô, kinh giới, búp chè.
* Sao vàng (hoàng sao) là phơng pháp hay gặp nhất để dợc liệu có mùi thơm,
khô, đồng thời cũng để diệt men và chuyển màu dợc liệu.
Kỹ thuật sao: Sử lý dợc liệu ở nhiệt độ 1000C. Mặt ngoài dợc liệu khô vàng, sức
nóng đều, thấm sâu vào trong dợc liệu, lợng nớc thoát ra, nhng không làm biến đổi
mẩu ở bên trong.
Cách làm: Đốt chảo nóng khoảng 60-700C bỏ dợc liệu vào, đun lửa nhỏ, thời
gian đun kéo dài, đảo chậm đến khi dợc liệu có màu vàng, mùi thơm. Ví dụ: sao bạch
thợc, thảo quyết minh... Trong nhiều trờng hợp, ngời ta còn sao vàng hạ thỏ để lập lại
cân bằng âm dơng trong các vị thuốc khi trị bệnh mạn tính, bệnh ghép. cách làm:
khi dợc liệu đã vàng đem đổ hay úp chảo dợc liệu xuống đất đậy kín lại đến khi
nguội. Cách sao này có giá trị điều hoà tác dụng dợc lý ca vị thuốc.
* Sao thâm (thấm hoàng sao): Ngoài các mục đích nh sao vàng, sao thâm còn
làm tăng thêm tác dụng kích thích tiến hoá của vị thuốc. Kỹ thuật sao cũng nh hoàng

sao nhng ở nhiệt độ cao hơn và thời gian lâu hơn. Cuối thời gian sao, ta đảo nhanh
hơn cho đến lúc dợc liệu có màu vàng thâm nh cánh gián: sao bạch truật, sao trà...
* Sao tồn tính (hắc sao): Mục đích của phơng pháp này nhằm thay đổi tính
năng của thuốc, làm tăng thêm tác dụng cầm máu của thuốc. Sao ở 120 0C cho đến
lúc dợc liệu cháy khoảng 70%, nhng bẻ bên trong vẫn còn màu vàng, dợc liệu vẫn cha mất hết tính năng.
Cách sao: Đốt chảo nóng già sau đó cho thuốc vào đảo liên tục đến khi bốc
khói, tiếp tục đảo nhanh làm cho dợc liệu cháy đều. Khi dợc liệu có mầu đen, bắc


chảo ra, đậy vung cho dợc liệu tiếp tục cháy ầm ỉ một lúc nữa. Ví nh sao kinh giơí, đỗ
trọng, ngãi cứu.
* Sao cháy (sao than): Cũng tiến hành nh trên nhng khống chế ở nhiệt độ cao
hơn, thời gian lâu hơn, để thuốc cháy đến 80%. Mục đích của phơng pháp này làm
cho dợc liệu chỉ còn tác dụng cầm máu và giải độc. Ví nh sao trắc bách diệp bồ hoàng
thán.
2. Nung (đoàn)
Cho vị thuốc trực tiếp vào nồi đất, chảo gang để nung, đốt. Cách này hay dùng
chế viến các vị thuốc là khoáng vật, vỏ sò, vỏ hà, lô cam thạch (chính là ZnCO 3 có lẫn
chì, sắt, crôm, magie, cadmi...).Đốt, nung để loại bỏ các chất lẫn trong vị thuốc.
3. Vùi hay lùi
Bọc vị thuốc trong giấy ẩm hay hồ tinh bột rồi vùi vào tro nóng hay lửa nhẹ cho
tới khi giấy cháy đen hay bột khô, chờ nguội bóc bỏ lớp ngoài để dùng. Phơng pháp
này nhằm lấy bớt hay loại bỏ các chất dầu có trong vị thuốc nh chế nhục đậu khấu.
4.Tẩm sao (trích)
Cách sao này nhằm mục đích điều khiển tác dụng dợc lý của vị thuốc, dn
thuốc vào cơ quan và bộ phận mong muốn trong cơ thể (dẫn thuốc qui kinh). Dợc
liệu sau khi đã thái phiến làm khô, đợc tẩm với 5-20% chất lỏng cần tẩm, tiếp tục ủ
một thời gian cho dợc liệu thấm gấm đều dung dịch cầm tẩm rồi sao vàng. Hay cũng
có thể sau khi đã làm nóng dợc liệu, ngời ta phun đều chất lỏng cần tẩm, rồi tiếp tục
sao vàng. Tuy từng trờng hợp cụ thể mà sao tẩm với chất lỏng sau

* Tẩm rợu sao: rợu làm giảm tinh lạnh và tăng khả năng phát tán của thuốc.
Sau khi uống, thuốc sẽ đi từ các cơ quan bên trong ra ngoài, từ phía dới lên phía trên
cơ thể: sao hoàng liên, hoàng bá...
*Tẩm giấm sao: giấm có vị chua, tinh ôn tác dụng vào can kinh. Thuốc tẩm
giấm có tác dụng dẫn thuốc vào gan, giảm đau và bớt mùi tanh nên dễ dùng.
*.Tẩm muối sao: sẽ tăng khả năng dẫn thuốc vào thận, đồng thời có tác dụng
diều vị, làm săn, se niêm mạc.
Ngoài ra còn dùng các chất lỏng khác: nớc gừng, nớc gạo, nớc tiểu đồng (trẻ
em)... Đa số chúng đều là dung môi hoà tan của hoạt chất nên có ảnh hởng đến độ
hoà tan của hoạt chất trong vị thuốc.
II. Phơng pháp bào chế chỉ dùng nớc.
Mục đích
2 Làm cho vị thuốc mềm mại, dễ thái mỏng
3 Giảm bớt độc tính, tinh khiết, loại bỏ tạp chất.


Phơng pháp dùng nớc bao gồm:
1. Rửa (tẩy): làm vị thuốc sạch hết đất, cát bẩn, không đợc ngâm lâu.
2. Ngân (phiêu): tác dụng và cách làm cũng giống nh rửa nhng ngâm lâu hơn
làm thuốc giảm mùi tanh, vị mặn
3.
Dội (bào): cho thuốc vào nớc lạnh hay nớc sôi tuỳ y chờ một thời gian, khi
thuốc mềm ra, bóc bỏ vỏ ngoài bào mỏng: chế khổ hạng nhân, hạt đào... Chú ý:
4 Không nên ngâm quá lâu sẽ mất hoạt chất, giảm tác dụng trị bệnh.
5 Trong khi ngâm tuỳ dợc liệu và mục đích chữa bệnh ngời ta có thể ngâm dợc
liệu trong nớc gạo nếp vo, nớc gừng, nớc bồ kết... ngâm rôi lại phơi, phơi rồi lại ngâm
để loại bỏ độc chất và tăng thêm tác dụng trị bệnh.
III. Phơng pháp dùng cả lửa và nớc.
1. Chng hay đồ: đun cách thuỷ vị thuốc nh chế sinh đại, hà thủ ô...
2. Đun: cho thuốc vào nớc lã luộc chín

3. Tôi: nung đỏ vị thuốc rồi cho vào nớc lã hay nớc của vị thuốc khác tôi đi tôi
lại nhiều lần.
4. Thuốc sắc:
Là dạng thuốc lỏng, chế bằng cách cho thuốc trộn lẫn với nớc, rồi sắc bằng lửa
trực tiếp hoặc cách thuỷ. Từ thế kỷ 17 trớc Công nguyên ngời đầu tiên là Y Doãn đã
dùng phơng pháp sắc thuốc để chữa bệnh.
Dợc liệu trớc khi đa và sắc, thờng đợc cắt nhỏ ra. Với thân, cành, cắt dài không
quá 2 - 5 cm, bề dày không quá 0,3 mm, quả và hạt cũng không đợc dày quá 0,5 mm.
Cắt nhỏ xong, cho vào nồi men hay nồi đất, nhng phải có nắp đậy kín, rồi đổ nớc vào
sắc. Lợng nớc cho vào, dựa theo các căn cứ sau đây:
- Tuỳ theo hàm lợng nớc có sẵn trong dợc liệu.
- Tuỳ theo thời gian đun sôi lâu hay mau (không thể máy móc theo nguyên tắc 3
bát lấy 1).
- Tuỳ theo tính chất tác dụng của vị thuốc mạnh hay yếu do đó ta có thể cho nớc
theo tỷ lệ sau: với những thuốc tác dụng không mạnh lắm tỷ lệ thuốc/nớc 1/10. Với
những thuốc tác đụng dợc lý mạnh tỷ lệ thuốc/nớc /400. Ngoài ra còn cộng thêm 15
20 % nớc bù hao do thuốc khô ngấm, nớc bay hơi khi đun.
Cách sắc
- Cách tốt nhất vẫn là dạng sắc cách thuỷ, để nguội từ từ, gạn, lọc uống. Nhng
cách này ít đợc sử dụng trong thực tế chữa bệnh vì cầu kỳ.
- Thờng hay bỏ vào nồi đất hay men, đậy vung, đun sôi 15-30 phút. Sau đó mới
bỏ những vị thuốc có tinh dầu vào, nh trần bì, bạc hà, hơng nhu... tiếp tục đậy kín


vung, đun nhỏ lửa một lúc, chở nguội bắc ra, gạn lấy nớc thuốc uống. Thuốc sắc chỉ
dùng để uống.
Với cách chế biến này thuốc có nhiều tạp chất, hàm lợng tinh dầu bị giảm đi
nhiều, một số glucozit có thể bị thuỷ phân và thay đổi tác dụng của một số thuốc
khác. Một số thành phần kháng sinh thảo mộc có thể bị mất tác dụng, các enzim bị
phá huỷ.

IV. Làm bột
Dợc liệu đã qua giai đoạn cắt nhỏ phơi khô, tiếp tục cho nghiền nhỏ trong các
thuyền tán hay trong các máy nghiền ... rồi cho qua rây tuỳ mục đích và cách sử
dụng thuốc. Bột thật nhỏ để chữa các bệnh ở niêm mạc mùi, mắt sẽ dùng dây cỡ lỗ
0,01-0,02 mm. Bột to hơn dùng đắp ngoài hay chế các dạng thuốc khác: hãm nấu cao
Ta có thể chế bột của một loại hay bột hỗn hợp của nhiều loại dợc liệu.
Nếu lợng thuốc sử dụng ít dới 1 gram ta nên trộn thêm tá dợc cũng ở dạng bột.
Khi thuốc có mùi vị khó chịu, vật nuôi không chịu ăn, phải dựa vào đặc điểm của
từng loại động vật mà thêm tá dợc.
Đ. Làm viên
Tuỳ động vật nuôi, có thể làm viên to hoặc nhỏ. Dạng thuốc viên thờng bao giờ
cũng cho thêm tá dợc.
1. Làm viên bằng phơng pháp lắc thúng (viên tròn)
Đây là một phơng pháp thủ công có tính độc đáo trong bào chế đông y.
Nguyên tắc của phơng pháp lắc thúng là dùng nớc hay nớc thuốc loãng và bột
gây một nhân nhỏ gọi là con viên sau đó cho bột thuốc bao dần vào xung quanh cho
tới mức độ yêu cầu. Phơng pháp này thờng áp dụng với những loại thuốc không có đờng, mật hay ít đờng mật
Dụng cụ cần thiết cho phơng pháp lắc thúng
Dụng cụ nghiền tán thuốc, rây các cỡ
Nồi để nấu hay cô cao
Thúng lắc bằng giang hay cật tre, tốt nhất là thúng nhôm.
Khay men, chậu men, đồ đựng bột thuốc, viên thuốc, chổi quét giống nh chiếc
bút lông to dùng để vẫy nớc vào viên trong quá trình lắc thúng.
chuẩn bị nguyên liệu làm viên
Những vị thuốc nào có thể nấu thành cao loãng thì nấu để làm chất dính. Vị nào
có thể chế thành cao khô hay mềm đem nấu để tăng chất, giảm lợng viên. Vị nào tán
thành bột cần tán thật nhỏ, mịn.
Nếu trong đơn không có vị thuốc nào để nấu cao lỏng, dính đợc thì mới cần



dùng thêm tá dợc dính.
Tá đợc cho thêm có tác dụng đệm (cho dễ làm viên) hoặc kích thích tiêu hoá.
Với lợn và chó có thể sử dụng tá dợc có cả 2 tác dụng này.
Trong khi dùng tá dợc để kích thích sự ngon miệng ta phải chú ý đến các đặc
điểm của từng loại gia súc. Ví dụ: với chó, lợn dùng chất ngọt nh đờng mật. Với ngựa
dùng chất đắng mặn hay muối khoáng. Trâu bò dùng chất mặn hay chua mặn.
Lợng tá dợc cho vào vừa phải, thờng trong các đơn thuốc không ghi rõ khối lợng cụ thể. Ta phải dự định cho thích hợp.
Trong đơn thuốc thờng ghi ký hiệu cho tá dợc là G.S. (guantum satis) có nghĩa
là cần bao nhiêu lấy bằng ấy.
Cách làm: Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu xong, bắt đầu làm viên. Quá trình
làm viên gồm 3 giai đoạn: gây viên con, tạo viên và bao viên.
- Gây viên con:
Cứ 2 kg thuốc bột, dùng khoảng 30g bột cho vào chậu men sau đó cho từ từ
chất dính (cao loãng hay hồ tinh bột) trộn cho đến khi bột ớt đều (khỏang 60 ml chất
dính). Sau đó đa bột lên sàng có lỗ khoảng 1 mm, sát cho bột rơi thành các hạt nhỏ
vào thúng, lắc thúng nhẹ cho viên thuốc tròn chạy đều trong thúng. Dùng chổi lông
nhúng vào nớc dính quét đều lên thúng lắc thúng cho hạt trợt đều lên nớc và thấm
đều vào hạt. Cứ sau 1-2 phút lại quét nớc dính 1 lần. Lấy thìa canh dắc đều khoảng
1g thuốc bột. Dắc thật đều lên hạt để bột thấm đều trên bề mặt hạt tạo thành một lớp
mỏng, vài phút sau lại dắc bột và lắc nh trên. Độ 30 phút, sau khi con viên đã đủ to,
dùng sàng 3 mm để loại những hạt quá nhỏ.
- Làm viên chính thức:
Những hạt to còn lại trên sàng 3mm cho vào thúng lắc, sau vài phút lại cho
thêm cao thuốc (nớc dính) và bột thuốc vào lắc, cứ tiếp tục làm nh trên hạt thuốc sẽ
to dần. Hạt càng to thì lợng nớc và bột thuốc cho vào mỗi lần lắc càng nhiều lên. Sau
vài lần lắc ta lại sàng các hạt nhỏ ra để lắc thêm cho có kích thớc bằng hạt to trên
sàng. Khi viên đủ kích thớc yêu cầu cần sàng qua sàng để viên thuốc có kích thớc
không chênh lệch nhau quá nhiều.
Kích thớc của viên thuốc:
Thờng đối với đại gia súc mỗi viên nặng 2 -5 gr.

Với chó và lợn mỗi viên nặng 0,1 0,5 gr.
Với gia cầm 0,1 0,3 gr.
- Bao viên:
Khi viên thuốc đã có kích thớc nh ý, đa sấy hay phơi khô đạt độ ẩm cho phép.


×