Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Hình tượng người lính tây tiến quang dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.46 KB, 3 trang )

Hình tượng người lính Tây Tiến Quang
Dũng
Hình ảnh người lính nói chung và những người lính thời kỳ chống Pháp nói
riêng từ lâu đã đi vào văn chương như một nguồn thi cảm. Các nhà thơ viết về
người lính với tất cả niềm kiêu hãnh, tự hào. Giữa muôn vàn những tác phẩm
như vậy,Tây Tiến là bài thơ có vị trí đặc biệt.Tây Tiến là một trong những bài
thơ sớm nhất viết về người lính cách mạng, ra đời ngay trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và trở thành thi phẩm xuất sắc của nền
thơ Việt Nam từ sau năm 1945 cùng với hình tượng người lính Tây Tiến.
Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ
phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực
lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào va miền Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng
quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La,
Lai Châu, Hòa Bình, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).
Về xuất thân, các chiến sĩ Tây Tiền phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó
có nhiều học sinh, sinh viên. Mặc dù hoàn cảnh chiến đấu rất gian khổ, thiếu
thốn về vật chất, thuốc men với căn bệnh sốt rét hoành hành dữ dội nhưng
những người lính Tây Tiến vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
Có thể nói những người lính Thủ đô đã đi vào cuộc kháng chiến mang theo vẹn
nguyên cái mộng mơ, lãng mạn, hào hoa của người con đất Hà Thành.
Bài thơ được hình thành từ một nỗi nhớ, nỗi nhớ da diết về những người đồng
đội và những ngày tháng, những kỉ niệm không thể nào quên của chính tác giả
với đoàn quân Tây Tiến, gắn với vùng đất miền Tây hùng vĩ, hiểm trở và thơ
mộng. Nỗi nhớ ấy đã đánh thức mọi ấn tượng , kí ức để kết tinh tập trung trong
bức chân dung người lính Tây Tiến.
Bằng bút pháp lãng mạn mà không thoát li hiện thực, bài thơ đã khắc họa sừng
sững bức tượng đài người lính trường tồn, bất tử mãi mãi với không gian, thời
gian.
Trước hết, đó là nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm


Ta đã từng thấy một “Tiểu đội xe không kính” dí dỏm trong thơ Phạm Tiến
Duật thì nay lại thấy một “đoàn binh không mọc tóc” trong thơ Quang Dũng.
Nhưng nét gân guốc, lạ hóa trong ngoại hình của người lính Tây Tiến bắt
nguồn từ chính hiện thực đến từng chi tiết. Không mọc tóc là hậu quả của
những trận sốt rét rừng khủng khiếp, rừng thiêng nước độc, thuốc men không


có nên quân xanh màu lá cũng là thực tế hiển nhiên. Tố Hữu khi vẽ chân dung
anh vệ quốc quân trong bài cá nước cũng không quên nhắc tới sức ảnh hưởng
ghê gớm của căn bệnh quái ác đó:
Giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Nhưng ẩn sau ngoại hình ấy là sức mạnh nội tâm là tâm hồn, khí phách của
những người lính Tây Tiến:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Nếu câu thơ thứ nhất nhấn mạnh chữ MỘNG thì câu thơ thứ hai nhấn mạnh
chữ “Mơ”. Câu thơ mang vẹn nguyên cả ước vọng và điểm đến cuối cùng của
đời lính Tây Tiến. Chữ “trừng” được sử dụng khá độc đáo. Người đọc có cảm
tưởng như mọi ước mơ khao khát tận đáy lòng đã trào dâng và đong đầy trong
ánh mắt người lính. Tứ thơ ấy gợi nhắc đến hình ảnh thơ quen thuộc:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
{Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Thì ra bao giờ cũng vậy, đích đến cuối cùng của những người lính luôn là hạnh
phúc. Nỗi nhớ của họ hướng cả về “dáng kiều thơm”, những bóng hình giai
nhân yêu kiều, thướt tha, thanh lịch nào đó ngoài cuộc đời. Họ ra đi chiến đấu
vì tự do, độc lập, nhưng trước hết là vì cuộc sống tương lai hạnh phúc mà họ
khao khát. Chính vì vậy mà “dáng kiều thơm” trở thành điểm tựa, niềm hi
vọng để tiếp thêm cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng.

Những người lính Tây Tiến sống anh dũng mà hi sinh cũng anh hùng. Quang
Dũng không hè né tránh hiện thực khắc nghiệt nhất, đau thương nhất, tàn nhẫn
nhất của chiến tranh đó là sự hi sinh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
– Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh;
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lèn khúc độc hành.
Ba lần Quang Dũng nhắc tới sự hy sinh, nhưng lần nào cũng là hình ảnh ẩn dụ
để tránh đi từ “chết”. Dường như khi người lính Tây Tiến ngã xuống chỉ là khi
anh tạm nghỉ chân trước cuộc đời. Cái chết không đồng nghĩa với ngừng chiến
đấu vì tâm hồn, vì ước nguyện của anh sẽ mãi trường tồn với thời gian. Anh
ngã xuống nhưng vẫn kịp trao ngọn lửa tuổi trẻ cho những đồng đội tiếp tục
con đường cách mạng vinh quang. Sự hi sinh của các anh làm người đọc không
khỏi nghẹn ngào: “Rải rác biên cương mồ viền xứ”. Chữ “rải rác” được đảo
lên đầu câu, nhấn mạnh cho sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, hoang vắng gợi cảm giác



xót xa đau đớn nhưng đôi cánh của lí tưởng quên mình vì Tổ quốc“Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã xoa dịu nỗi đau làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn
của người lính Tây Tiến.
Có lẽ hình tượng người lính Tây Tiến đã trở thành bất tử với muôn đời. Dòng
lịch sử có thể đổi thay nhưng mọi thế hệ sau vẫn gợi nhắc đến các anh như hình
tượng đẹp đẽ nhất. Qua dòng hồi tưởng của Quang Dũng, những chiến sĩ Tây
Tiến hiện lên trong sự đối mặt với khó khăn, gian khổ, hi sinh nhưng lúc nào
cũng lạc quan phơi phới yêu đời. Với âm hưởng thơ lúc dữ dội, khi sôi nổi, lúc
lại vang vọng, trầm lắng, bài thơ đã dẫn hồn người đọc trở về một thời quá khứ
xưa, để cùng lắng cảm trong nỗi nhớ thương da diết của Quang Dũng.




×