Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Ôn thi kinh tế học trong quản lý công dành cho cao học quản lý công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.64 KB, 23 trang )

CÂU HỎI THI
MÔN HỌC: KINH TẾ HỌC TRONG QUẢN LÝ CÔNG
Dành cho Cao học Quản lý công
1. Hãy nêu các nguyên lý chủ yếu của kinh tế học. Những nguyên lý này được vận dụng như thế
nào vào quản lý công. Cho ví dụ thực tiễn để minh họa.
Kinh tế học chủ yếu nghiên cứu phương thức xã hội quản lý nguồn lực khan hiếm của xã hội, tức là
giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế (Sản xuất cái gì?, Sản xuất như thế nào? và Sản xuất cho ai?).
Thực tế, nguồn lực được phân bổ không phải chỉ do nhà hoạch định duy nhất của chính phủ trung ương,
mà còn thông qua sự tác động qua lại của hàng triệu hộ gia đình và doanh nghiệp. Do vậy, kinh tế học cần
tìm hiểu xem mọi cá nhân ra quyết định thế nào, quyết định làm việc bao nhiêu, mua cái gì, tiết kiệm như
thế nào và khoản tiết kiệm đó đầu tư ra sao. Kinh tế học cũng cần nghiên cứu, phân tích làm thế nào mà
rất nhiều người mua cùng một sản phẩm lại có thể cùng nhau tạo ra một mức giá duy nhất và một lượng
hàng ổn định. Mục tiêu cuối cùng, kinh tế học phải phân tích được các lực lượng và xu thế ảnh hưởng đến
nền kinh tế với tư cách tổng thể, tốc độ tăng trưởng của thu nhập bình quân, thất nghiệp và sự gia tăng của
giá cả.
Các nguyên lý của kinh tế học là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể
xảy ra trong nền kinh tế. Trên thực tế, hộ gia đình là một bộ phận nằm trong nền kinh tế; và hộ gia đình và
nền kinh tế có rất nhiều điểm chung. Kinh tế học là bộ môn khoa học nghiên cứu phương thức xã hội
quản lý nguồn lực khan hiếm của mình. Nó được đặt trên cơ sở của một số ý tưởng cơ bản chi phối hành
vi cá nhân, sự tương tác giữa các cá nhân và nền kinh tế với tư cách một tổng thể - Các nhà kinh tế gọi
chúng là các nguyên lý của kinh tế học - đây là các nguyên lý cơ bản của kinh tế học:
Nguyên lý 1: Con người đối mặt với sự đánh đổi: "Mọi thứ đều có giá" - Để có được một thứ ưa
thích, người ta phải bỏ ra một thứ khác mà mình thích. Nói cách khác, quá trình ra quyết định đòi hỏi
phải đánh đổi một mục tiêu nào đó để đạt được mục tiêu khác
Một học viên quyết định học cao học sẽ phải từ bỏ các lợi ích khác nếu không đi học như: Dành thời
gian để nghỉ ngơi, để đi du lịch, kiếm tiền…
Ví dụ 1: Một sinh viên đứng trước một quyết định phân bổ nguồn lực quý báu của mình là thời gian.
Anh ta có thể dành toàn bộ thời gian để nghiên cứu môn kinh tế học, hoặc dành toàn bộ thời gian để
nghiên cứu môn tâm lý học, và hoặc là phân chia thời gian giữa hai môn học đó. Để có một giờ học môn
này, anh ta phải từ bỏ một giờ học môn kia. Để có một giờ học một trong hai môn kia, anh ta phải từ bỏ
một giờ đi chơi, xem ca nhạc hoặc đi làm để kiếm thêm thu nhập.


Khi con người tập hợp lại thành xã hội, Chính phủ phải đối mặt với nhiều loại đánh đổi. Trong
cuốn "Kinh tế học" của tác giả Paul Anthony Samuelson (15/5/1915-13/12/2009) - một nhà kinh tế học
người Hoa Kỳ, đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp tổng hợp và có đóng góp to lớn ở một
loạt lĩnh vực của kinh tế học - đưa ra sự đánh đổi giữa "Súng và bơ". Khi tăng chi tiêu cho quốc phòng để
tăng khả năng phòng thủ đất nước (mua thêm súng), Chính phủ phải từ bỏ một phần tiêu dùng (một phần
bơ), và như vậy mất đi cơ hội nâng cao mức sống của nhân dân.
Trong quản lý công, các mục tiêu thường xung đột với nhau : chẳng hạn giữa công bằng và hiệu quả,
mà khi đó Chính phủ phải đối mặt với sự đánh đổi. Nếu như hiệu quả ám chỉ quy mô của chiếc bánh kinh
tế, thì khái niệm công bằng nói lên phương thức phân chia chiếc bánh đó. Và khi Chính phủ cố gắng cắt
chiếc bánh kinh tế thành những phần đều nhau hơn thì chiếc bánh nhỏ lại. Do đó, khi thiết kế các chính
sách, Chính phủ phải ý thức được sự đánh đổi đó để có những quyết định chuẩn xác và ít tốn kém nhất.
Nguyên lý 2: Chi phí của một thứ là thứ mà bạn phải từ bỏ để có được nó: Sự đánh đổi liên quan
đến lợi ích và tổn thất, vì vậy trong quá trình ra quyết định, ta thường so sánh giữa chi phí và lợi ích của
các cách hành động khác nhau. Cái khó ở đây là trong nhiều trường hợp, chi phí của một số hành động
không phải lúc nào cũng rõ ràng như khi mới nhìn qua.
Ví dụ, việc quyết định đi học cao học; Ích lợi của cách hành động này là giàu thêm kiến thức và có cơ
hội có được công việc làm tốt hơn trong suốt cả cuộc đời. Thế còn chi phí của nó là gì? Nó chính là tổng
cộng các khoản tiền phải trả để có được việc học hành này (học phí, tài liệu, sinh hoạt phí,...). Nhưng tổng
số tiền đó thực sự chưa phải là toàn bộ những gì bạn phải từ bỏ để theo học cao học.
1


Ví dụ trên cho thấy: Thứ nhất, nó bao gồm cả những thứ không thực sự là chi phí cho việc học cao
học. Kể cả không phải học cao học, người ta vẫn phải chi phí sinh hoạt, vẫn phải chi cho ăn uống, chỗ ở.
Tiền ăn uống ở trường cao học chỉ trở thành chi phí cho việc học cao học khi nó cao hơn ở những nơi
khác. Cũng có khi, sinh hoạt phí ở trường cao học có thể rẻ hơn những nơi khác - Trường hợp này, số tiền
tiết kiệm được trở thành ích lợi cho việc học cao học.Thứ hai, nó bỏ qua khoản chi phí lớn nhất cho việc
học cao học là thời gian của việc học. Khi dành một khoảng thời gian để nghe giảng, đọc tài liệu và viết
tiểu luận, người ta không thể sử dụng nó để làm việc khác. Nhiều người hiểu rằng tiền lường phải từ bỏ
do không đi làm để đi học cao học là khoản chi phí lớn nhất cho việc học cao học.

Chi phí cơ hội của một thứ là thứ mà bạn phải từ bỏ để có được nó. Khi quyết định bất kỳ việc gì
(chẳng hạn đi học cao học), người ra quyết định phải xem xét đến chi phí cơ hội gắn với các hành động có
thể thực hiện. Chi phí cơ hội của các vận động viên thể thao ở lứa tuổi sinh viên có thể rất cao - họ có thể
kiếm được rất nhiều tiền nếu bỏ học, để chơi các môn thể thao nhà nghề. Đương nhiên, mọi người hiểu
rằng, ích lợi của việc học cao học là quá nhỏ so với chi phí.
Nguyên lý 3: Con người hành động hợp lý suy nghĩ tại điểm cận biên
Các quyết định trong cuộc sống hiếm khi được đưa ra dưới dạng có hoặc không, mà thường là dưới
dạng tăng thêm hay giảm đi một lượng nào đó. Khi đến giờ ăn tối, bạn phải đối mặt không phải là ăn hay
không ăn, mà là có nên ăn thêm một ít cơm hoặc thức ăn không. Khi kỳ thi đến, vấn đề không phải là bỏ
mặc bài vở hay học 24 giờ một ngày, mà là nên học thêm một tiếng nữa hay dừng lại để lên mạng
Wikipedia. Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ thay đổi cận biên để chỉ những điều chỉnh nhỏ và tăng dần
trong kế hoạch hành động hiện tại. Cận biên có nghĩa là lân cận một cái gì đó và bởi vậy thay đổi cận
biên là những điều chỉnh ở vùng lân cận.
Nhiều trường hợp, mọi người đưa ra được quyết định tối ưu nhờ tính đến điểm cận biên; bằng cách
so sánh ích lợi cận biên và chi phí cận biên. Các cá nhân và doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định tốt hơn
nhờ cách suy nghĩ ở điểm cận biên. Con người hành động hợp lý chỉ quyết định tăng thêm hành động khi
thấy ích lợi cận biên còn cao hơn chi phí cận biên.
Nguyên lý 4: Con người phản ứng với các kích thích: Con người ra các quyết định dựa trên sự
so sách chi phí và ích lợi, nên hành vi của họ có thể thay đổi khi chi phí, ích lợi hoặc cả hai thay đổi.
Nghĩa là, con người đáp lại các kích thích. Ví dụ, khi giá bưởi tăng, mọi người quyết định ăn ít bưởi hơn,
vì chi phí cho việc mua bưởi đã tăng lên. Đồng thời người nông dân trồng bưởi thuê thêm lao động và thu
hoạch nhiều bưởi hơn vì lợi nhuận thu được từ bán bưởi tăng lên. Chúng ta thấy, tác động của giá cả lên
hành vi của người mua và người bán trên thị trường, nó có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu phương
thức vận hành của nền kinh tế.
Các nhà quản lý công khi hoạch định chính sách không bao giờ được quên các kích thích, vì nhiều
chính sách làm thay đổi ích lợi hoặc chi phí mà mọi người phải đối mặt và bởi vậy làm thay đổi hành vi
của họ. Ngược lại, khi các nhà hoạch định chính sách không chú ý đến ảnh hưởng của các chính sách mà
họ thực hiện đối với các kích thích, họ có thể nhận được những kết quả không định trước.
Nguyên lý 5: Thương mại làm cho mọi người đều có lợi : Hiện nay trên thị trường quốc tế, Nhật
Bản là đối thủ cạnh tranh của Hoa Kỳ. Xét trên một vài khía cạnh, thì điều này đúng vì các công ty Nhật

và Hoa Kỳ đều sản xuất nhiều mặt hàng giống nhau. Hãng Toyota và Ford cạnh tranh để thu hút một nóm
khách hàng trên thị trường ô tô. Hewlett-Packard HP cũng cạnh tranh với Sony Vaio trên thị trường máy
tính cá nhân để thu hút cùng một nhóm hàng. Rất dễ mắc sai lầm khi nghĩ về sự cạnh tranh giữa các nước,
thương mại giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ không giống như cuộc thi đấu thể thao là có kẻ thắng, người thua.
Sự thật thì điều ngược lại mới đúng, thương mại giữa hai nước làm cả hai đều có lợi. Thương mại cho
phép các nước chuyên môn hóa vào lĩnh vực mà mình sản xuất tốt nhất và nhờ vậy được hưởng thụ hàng
hóa và dịch vụ phong phú hơn. Nhật và Hoa Kỳ vừa là bạn hàng của nhau, nhưng cũng là đối thủ cạnh
tranh của nhau.
Nguyên lý 6: Thị trường thường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế: Nửa cuối
Thế kỷ XX với sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu có lẽ là thay đổi
quan trọng nhất của nửa cuối thế kỷ này. Nền kinh tế của các nước này hoạt động dựa trên tiền đề là các
nhà hoạch định trong chính phủ được đặt vào vị trí tốt nhất để định hướng hoạt động kinh tế. Họ là những
2


người quyết định sản xuất hàng hóa, dịch vụ nào, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào và phân phối
cho ai. Thực chất, đây là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Hiện nay, hầu hết các nước từng có nền kinh tế hóa tập trung đều đã từ bỏ hệ thống này và đang nỗ
lực phát triển nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, quyết định của các nhà hoạch định kinh
tế của chính phủ được thay bằng quyết định của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Họ toàn quyền sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và phân phối nó cho ai. Các hộ gia đình tự quyết định việc làm cho
doanh nghiệp nào và mua cái gì bằng chính thu nhập của mình. Các hộ gia đình và gia đình tương tác với
nhau trên thị trường, nơi mà giá cả và phúc lợi cá nhân định hướng cho các quyết định của họ.
Adam Smith (1723-1790) đã nêu ra nhận định nổi tiếng trong kinh tế học là: "Khi tác động qua lại
với nhau trên thị trường, các hộ gia đình và doanh nghiệp hành động như thể họ được dẫn dắt bởi
một bàn tay vô hình, đưa họ tới những kết cục thị trường đáng mong muốn". Giá cả là công cụ mà nhờ
đó bàn tay vô hình điều khiển các hoạt động kinh tế. Giá cả phản ánh cả giá trị của hàng hóa đối với xã
hội và chi phí mà xã hội phải chịu để sản xuất ra nó; vì hộ gia đình và doanh nghiệp nhìn vào giá cả khi
đưa ra quyết định mua và bán cái gì, nên vô tình họ tính đến lợi ích và chi phí xã hội mà hành vi họ tạo ra.
Kết quả giá cả giúp các cá nhân đưa ra quyết định mà trong nhiều trường hợp cho phép tối đa hóa phúc

lợi xã hội. Hệ quả của bàn tay vô hình: "Khi ngăn không cho giá cả điều chỉnh một cách tự nhiên theo quy
luật cung - cầu, chính phủ cũng đồng thời cản trở bàn tay vô hình trong việc phối hợp hàng triệu hộ gia
đình và doanh nghiệp - những đơn vị cấu thành nền kinh tế". Đây là hệ quả quan trọng, nó lý giải tại
sao thuế tác động tiêu cực tới quá trình phân bổ nguồn lực (thuế làm biến dạng giá cả, và do vậy làm biến
dạng quyết định của các hộ gia đình và doanh nghiệp).
Nguyên lý 7: Đôi khi chính phủ cải thiện được kết cục thị trường
Thúc đẩy hiệu quả và công bằng của xã hội là hai nguyên nhân chủ yếu để chính phủ can thiệp vào
nền kinh tế. Nghĩa là, hầu hết các chính sách đều nhằm vào mục tiêu vừa làm cho chiếc bánh kinh tế lớn
lên và vừa làm thay đổi cách thức phân chia chiếc bánh đó. Bàn tay vô hình thường hướng dẫn thị trường
phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả. Song vì nhiều nguyên nhân, đôi khi bàn tay vô hình bị tê liệt.
Các nhà kinh tế sử dụng thuật ngữ "thất bại thị trường" để chỉ tình huống thị trường tự nó thất bại trong
việc phân bổ nguồn lực theo cách có hiệu quả.
Có một nguyên nhân làm cho thị trường thất bại là ảnh hưởng ngoại hiện. Ảnh hưởng của ngoại
hiện là tác động do hành vi của một người tạo ra đối với phúc lợi của người ngoài cuộc. Ví dụ về ảnh
hưởng ngoại hiện tiêu cực (hay chi phí ngoại hiện) là ô nhiễm môi trường. Nếu một nhà máy hóa chất
không phải chịu toàn bộ chi phí cho khí thải, thì nó có thể thải ra rất nhiều khí thải. Trường hợp này,
chính phủ có thể làm tăng phúc lợi kinh tế nhờ các quy định về môi trường. Một ví dụ nữa về ảnh
hưởng ngoại hiện tích cực (hay lợi ích ngoại hiện) là phát triển khoa học. Khi đi đến một phát minh quan
trọng, nhà khoa học tạo ra một nguồn lực có giá trị mà mọi người có thể sử dụng. Trường hợp này, chính
phủ có thể tăng phúc lợi kinh tế bằng cách trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu khoa học.
Nguyên lý 8: Mức sống của một nước phụ thuộc vào năng lực sản xuất của nước đó : Hầu hết
sự khác biệt về mức sống có nguyên nhân ở sự khác nhau về năng suất lao động của mỗi quốc gia (số
lượng hàng hóa được làm ra trong mỗi một giờ lao động của một công nhân). Ở những quốc gia, người
lao động sản xuất ra được lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn trong một đơn vị thời gian, thì hầu hết
người dân được hưởng mức sống cao; còn những quốc gia có năng suất kém hơn, thì hầu hết người dân
phải chịu cuộc sống khó khăn. Thực chất, tốc độ tăng năng suất lao động của một quốc gia quyết định tốc
độ tăng thu nhập bình quân của quốc gia đó. Mối quan hệ cơ bản giữa năng suất và mức sống khá đơn
giản, nhưng nó mang một hàm ý sâu xa. Nếu năng suất là yếu tố then chốt quyết định mức sống, thì
những cách lý giải khác về mức sống phải đóng vai trò thứ yếu. Nhiều người tin vào vai trò của công
đoàn hoặc luật về tiền lương tối thiểu trong việc làm đã làm tăng mức sống của người dân Hoa Kỳ. Song

người thực sự làm tăng đời sống người dân lại là năng suất lao động ngày càng cao.
Nguyên lý 9: Giá cả tăng khi chính phủ in quá nhiều tiền : Nguyên nhân gây ra lạm phát là gì?
Trong hầu hết các trường hợp, lạm phát trầm trọng hoặc kéo dài dường như đều có chung một thủ phạm đó là sự gia tăng của lượng tiền. Khi Chính phủ phát hành ra một lượng tiền lớn, giá trị của tiền sẽ giảm.
Nguyên lý 10: Chính phủ đối mặt với sự đánh đổi ngắn hạn giữa lạm phát và thất nghiệp
Nếu lạm phát như vậy, thì tại sao đôi khi các nhà hoạch định chính sách lại gặp rắc rối trong việc chèo lái
3


con thuyền kinh tế? Một lý do là mọi người cho rằng chính sách cắt giảm lạm phát thường gây ra sự gia
tăng tạm thời của thất nghiệp. Đồ thị minh họa cho sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp được gọi
là đường phillips.
2. Trình bày các mô hình kinh tế thị trường? Hãy so sánh vai trò của Chính phủ trong mỗi loại
mô hình đó? Đánh giá vai trò của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 1975-1986 và từ năm 1986
đến nay.
KINH TẾ CHỈ HUY (Mệnh lệnh, Kế hoạch hóa tập trung): là nền kinh tế trong đó chính phủ chỉ huy
bằng cách quyết định các phương hướng phát triển, các cân đối lớn, các nhiệm vụ sản xuất, phân phối, lưu
thông và tiêu thụ. Không giống như trong nền kinh tế có kế hoạch, nhà nước không định ra những chỉ tiêu
cụ thể cho nền kinh tế về sản xuất và phân phối. Nền kinh tế ở các nước, bất luận là xã hội chủ nghĩa hay
tư bản chủ nghĩa, trong hoàn cảnh chiến tranh thường là KTCH, do hoạt động trong những điều kiện khắc
nghiệt của chiến tranh, do những yêu cầu tối cấp thiết phải động viên cao độ để đảm bảo cho chiến tranh.
Trong điều kiện đó, không thể để thị trường tự do điều tiết một cách tự phát toàn bộ hay một phần lớn nền
kinh tế cũng như chưa thể quản lí nền kinh tế theo kế hoạch. Trong điều kiện hoà bình, nhiều nước cũng
theo nền KTCH bằng cách hạn chế tác động của cơ chế thị trường, thực chất đó cũng là nền KTCH. Ưu
điểm: Tất cả các vấn đề đều do nhà nước thống nhất, tập trung quản lý nên các vấn đề kinh tế lớn được
giải quyết một cách dễ dàng hơn như xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng và củng cố an ninh quốc phòng,
xây dựng các công trình phúc lợi công cộng; quan hệ giữa con người với nhau bình đẳng, bác ái; hạn chế
phân hóa giàu ngèo và đảm bảo sự công bằng xã hội. Hạn chế: Bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu, bao
cấp; kế hoạch sát với thực tế; người sản xuất và người tiêu dùng không có quyền tự do lựa chon nên tính
năng động và chủ động không cao, chậm đổi mới công nghệ; Phân phối mang tính chất bình quân nên
không kích thích người lao động, khai thác và sử dụng nguồn lực khan hiếm kém hiệu quả

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: là một thị trường mà không có sự can thiệp kinh tế và quy định của nhà
nước, ngoại trừ việc thực thi các hợp đồng tư nhân và quyền sở hữu tài sản. Thị trường tự do ngược lại
với thị trường có kiểm soát, trong đó nhà nước trực tiếp quy định hàng hoá, dịch vụ và lao động có thể
được sử dụng, định giá giá cả, hoặc phân phối như thế nào, hơn là dựa vào cơ chế sở hữu tư nhân. Những
người ủng hộ thị trường tự do về mặt truyền thống xem thuật ngữ này ngụ ý rằng các phương tiện sản
xuất là thuộc tư nhân, không phải thuộc kiểm soát của nhà nước. Đây là cách sử dụng đương đại cụm từ
"thị trường tự do" bởi các nhà kinh tế và văn hóa đại chúng; thuật ngữ này trong lịch sử đã có các cách sử
dụng khác. Một nền kinh tế thị trường tự do là một nền kinh tế nơi mà tất cả các thị trường bên trong nó
không được kiểm soát bởi các bên khác hơn so với những người tham gia trên thị trường. Ở dạng thuần
khiết nhất của nó chính phủ đóng một vai trò trung lập trong việc quản lý và điều ban hành pháp luật về
hoạt động kinh tế không giới hạn và cũng không tích cực thúc đẩy nó (ví dụ như điều tiết các ngành công
nghiệp cũng như trợ cấp cung cấp cho các doanh nghiệp cho phép một mình bảo vệ họ khỏi áp lực thị
trường nội / ngoại ). Một nền kinh tế như vậy dưới hình thức cực đoan nhất của nó không tồn tại trong
nền kinh tế phát triển, tuy nhiên những nỗ lực tự do hóa nền kinh tế hoặc nỗ lực làm cho nó "tự do hơn"
để hạn chế vai trò của chính phủ theo cách như vậy. Lý thuyết này cho rằng trong một thị trường lý tưởng
tự do, quyền sở hữu được trao đổi một cách tự nguyện trao đổi ở một mức giá được thỏa thuận chỉ bằng
sự đồng ý lẫn nhau của người bán và người mua. Theo định nghĩa, người mua và người bán không ép
buộc lẫn nhau, theo nghĩa là họ có được quyền sở hữu của nhau mà không sử dụng vũ lực, đe dọa của lực
lượng vật chất, hoặc gian lận, cũng không phải là họ bị cưỡng chế do bên thứ ba (như của chính phủ
thông qua các khoản thanh toán chuyển giao)và họ tham gia vào thương mại đơn giản chỉ vì họ đều đồng
ý và tin rằng những gì họ đang nhận được là giá trị nhiều hơn hoặc càng nhiều càng tốt những gì họ bỏ đi.
Giá là kết quả của các quyết định mua bán hàng loạt như được mô tả bởi các lý thuyết về cung và cầu.
Ưu điểm: Người sản xuất và người tiêu dùng được tự do lựa chọn nên tính năng động và tính chủ động
sáng tạo cao hơn, thường xuyên đổi mới công nghệ và kích thích nâng cao năng xuất, chất lượng hiệu quả
trong sản xuất kinh doanh; Khai thác và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Hạn chế: Coi lơi nhuận là trên hết nên gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường, hệ thống sinh thái bị
phá vỡ; Mâu thuẫn ngày càng cao giữa các mối quan hệ trong nền kinh tế với mối quan hệ truyền thống,
tệ nạn xã hội nảy sinh, phân hóa giàu ngèo và bất công xã hội tăng, các nhu cầu công cộng xã hội khó
được thực hiện, chịu nhiều rủi ro
4



KINH TẾ THỊ TRƯỜNG HỖN HỢP: chủ trương phải kết hợp hai mặt "bàn tay vô hình" của Xmit (A.
Smith) và Thuyết cân bằng tổng quát với "bàn tay của nhà nước". Phải điều hành một nền kinh tế không
có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định "vỗ tay bằng một bàn tay". Cơ chế thị trường xác định ba
vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế: cái gì? như thế nào? cho ai? Nhưng "bàn tay vô hình" cũng có
những khuyết tật và đưa đến những sai lầm; cho nên cần "bàn tay hữu hình" của chính phủ thông qua
những chính sách và biện pháp thuế khoá, chi tiêu (đầu tư, tín dụng...), lãi suất, thanh toán chuyển khoản
và kiểm soát nền kinh tế. Bằng những biện pháp ấy, nhà nước thực hiện các chức năng: định ra khuôn khổ
pháp luật, điều tiết thị trường, bảo đảm sự công bằng, ổn định nền kinh tế vĩ mô, vv. Nhưng "bàn tay hữu
hình" cũng có những khuyết tật của nó, do chính phủ có những nhận định sai lầm và đưa ra những quyết
định can thiệp trái với sự vận động khách quan của thị trường. Cho nên phải kết hợp cả hai mặt và hình
thành nên nền "kinh tế hỗn hợp". Kinh tế hỗn hợp cho rằng do kết quả hoạt động của nhà nước tư sản, nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa hiện đại không còn là nền kinh tế tư nhân nữa, mà là sự kết hợp hai khu vực kinh
tế tư nhân và kinh tế nhà nước bổ sung cho nhau thành một nền "kinh tế hỗn hợp". Khu vực nhà nước đã
mất tính chất tư bản chủ nghĩa xã hội. Sự kiểm soát nền kinh tế do nhà nước và các cơ quan tư nhân thực
hiện là nhằm mục đích "nâng cao phúc lợi xã hội của nhân dân". Theo thuyết này, nhà nước tư sản có khả
năng xoá bỏ một phần những mâu thuẫn nảy sinh trong nền kinh tế, giảm dần và đi đến không có khủng
hoảng và bảo đảm một sự phát triển nhịp độ cao và ổn định. Thuyết này đưa ra những biện pháp kinh tế xã hội của nhà nước tư sản, của kinh tế tư bản nhà nước trong chủ nghĩa tư bản. Ở đây, hai khu vực tư bản
tư doanh và kinh tế nhà nước hợp thành một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thống nhất, trong đó vai trò
quyết định là thuộc các tổ chức kinh tế tài chính trong tổ chức độc quyền mạnh. Mô hình này phát huy
hiệu quả của các nhân tố chủ quan như các quy luật của thị trường lại vừa coi trọng các nhân tố chủ quan
như vai trò của chính phủ. Tuy nhiên còn tùy vào từng trường hợp của mỗi quốc gia mà mà vận dụng vai
trò của chính phủ và thị trường cho phù hợp.
* So sánh vai trò của Chính phủ trong mỗi loại mô hình:
Kinh tế
Kinh tế
Kinh tế thị trường
chỉ huy
thị trường tự do

hỗn hợp
Do Nhà nước
Do cung - cầu thị Do cung-cầu thị trường có
Sản xuất cái gì
quyết định
trường quyết định
sự điều chỉnh của NN
Do Nhà nước
Do cung - cầu thị Do thị trường và NN quyết
Sản xuất cho ai
quyết định
trường quyết định
định
Sản xuất như
Do Nhà nước
Do cung - cầu thị Do thị trường quyết định
thế nào
quyết định
trường quyết định
có sự điều tiết của NN
* Đánh giá vai trò của Chính phủ Việt Nam trong giai đoạn 1975-1986 và từ năm 1986 đến nay:
1. Giai đoạn 1975 – 1986: Đây là thời kỳ mà Chính phủ áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy (kế hoạch
hóa tập trung)
Sau khi miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng (năm 1975) và đất nước thống nhất (năm
1976), bắt đầu ngay việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Kế hoạch này có nhiều điểm
duy ý chí nên phần lớn chỉ tiêu đều không đạt. Sản xuất đình trệ, tăng trưởng chỉ đạt 0,4 %/ năm (kế
hoạch là 13-14 %) trong khi tỷ lệ tăng dân số hàng năm trên 2,3 %. Tình trạng thiếu lương thực diễn ra
gay gắt, năm 1980 phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả tăng hàng năm 20
%, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu. Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhiều công trình
phải bỏ dở, hàng tiêu dùng thiết yếu thiếu trầm trọng.

Đại hội IV ĐCS VN đã quyết định cải tạo XHCN trong cả nước với mục tiêu lớn: xây dựng chế độ
làm chủ tập thể và sản xuất lớn. Do các mục tiêu đề ra quá lớn nên trong kế hoạch 5 năm lần thứ III
(1981-1985) nền kinh tế thiếu cân đối và lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Sản xuất đình trệ thể hiện trên
tất cả các lĩnh vực. Nạn lạm phát tăng nhanh, đầu những năm 80 tăng khoảng 30-50 % hàng năm, cuối
năm 1985 lên đến 587,2 % và siêu lạm phát đạt đến đỉnh cao vào năm 1986, với 774,7 %. Đời sống nhân
dân hết sức khó khăn.
5


Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấpds
Trước đổi mới, cơ chế quản lý kinh tế của Chính phủ là cơ chế kế hoạch hóa tập trung với những
đặc điểm chủ yếu là:
Thứ nhất, nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chi
tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn
vật tư, tiền vốn, định giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền
quyết định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh nghiệp giao
nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ hai, các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những
thiệt hại vật chất do các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.Hậu quả do
hai điểm nói trên mang lại là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp
trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà
nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
Thứ tư, bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ
quản lý kém năng lực, phong cách cửa quyền, quan liêu.
Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa thấp hơn giá trị

thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp như vậy, coi như một phần những thứ đó
được cho không. Do đó, hạch toán kinh tế chỉ là hình thức.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định chế độ phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ
tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ
tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách , nhưng không có chế tài ràng buộc trách nhiệm
vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho
sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy sinh cơ chế “xin cho”.
Trong thời kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế này có tác dụng nhất
định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và
điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế
đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh.
Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm
khuyết của nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, lâm vào tình
trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch
hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là
chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa nhận trên thực tế sự
tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ
yếu.
2. Giai đoạn 1986 – nay:
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, từ Đại hội VI đến Đại hội X của Đảng, Đảng ta đã
phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới một cách khách quan, xác định các xu thế phát triển
tất yếu của thế giới và đã thực hiện bước chuyển đổi quan trọng cả về lý luận và thực tiễn: xóa bỏ cơ chế
quản lý tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới tiến hành 25 năm đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
6



Quan điểm cho rằng, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì Nhà nước không cần phải can thiệp vào
kinh tế và không cần thiết phải kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế… là hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ
lý luận, thực tiễn. Trong tất cả các mô hình kinh tế đã được đúc kết trên thế giới có hai dạng điều tiết kinh
tế: thứ nhất, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hóa và các biện pháp hành chính; thứ hai, điều tiết gián
tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp,
dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn
khổ pháp luật và theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở
mức độ, liều lượng và hình thức của mỗi dạng trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là
công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hóa và thị trường đều có cả ưu
thế lẫn khuyết tật. Bởi vậy, chúng cần bổ sung cho nhau để hạn chế những khuyết tật.
Công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện
bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Đến Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định "phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, coi đó là đường lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam".
Thực chất của quá trình đổi mới kinh tế vừa qua ơ Việt Nam chính là thừa nhận sự tồn tại khách
quan của quan hệ hàng hoá- tiền tệ và cơ chế thị trường dựa trên tư duy, lý luận mới về quan hệ giữa kinh
tế thị trường và chủ nghĩa xã hội .Theo đó, vai trò của Nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn
bản. Đó là quá trình chuyển nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa Nhà nước và thị trường ( “ bàn
tay hữu hình ” – “ bàn tay vô hình ” ),giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa Nhà nước và nhân dân trong
các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.Nếu trước đây Nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu, thì hiện nay
đang giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu, nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh thì hiện
nay là thiết kế “ luật chơi ” ,hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh, và nếu trứơc đây
thực hiện kế hoạch hoá trực tiếp thì hiện nay chuyển sang điều tiết bằng hệ thống công cụ quản lý kinh tế
vĩ mô.Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ,chức năng cơ bản của Nhà
nước về kinh tế bao gồm : -Định hướng phát triển nền kinh tế thông qua chiến lược, chính sách, kế hoạch,
quy hoạch và quản lý vĩ mô. -Phát triển tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở đa dạng hoá các quan hệ

sơ hữu,lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; thực hiện chế độ phân phối lợi ích một cách hợp lý thông qua
việc sữ dụng các công cụ quản lý kinh tế (ngân sách, thuế,tín dụng…), tạo động lực phát triển mạnh mẽ
cho nền kinh tế . -Tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh về kinh tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế hoạt động bình đẳng và tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh.-Thực hiện tốt chức năng kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng pháp luật
và chính sách. Nghiêm trị các tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng, quan liêu, sách nhiễu phiền hà …
Nhà nước có cơ chế, chính sách để bảo đảm sự ưu tiên đó, thể hiện ở cả ba lĩnh vực kinh tế cơ bản
sau:
Trên lĩnh vực sở hữu: Sự tồn tại của ba chế độ sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân), ba hình thức sở hữu (hình thức sở hữu nhà nước, hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu tư
nhân) là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Nhà nước thông qua hệ
thống chính sách, pháp luật, đòn bẩy kinh tế để định hướng, làm cho kinh tế nhà nước từng bước vươn lên
nắm vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Trên lĩnh vực quản lý: Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách... tạo điều kiện thuận lợi cho người
lao động trực tiếp hay thông qua các khâu trung gian nhất định tham gia quá trình hoạch định, tổ chức,
giám sát, kiểm tra việc thực hiện các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực phân phối: Nhà nước vừa thông qua hệ thống chính sách kinh tế do mình hoạch định,
vừa sử dụng các nguồn lực - trực tiếp là bộ phận kinh tế nhà nước - để định hướng, can thiệp vào lĩnh vực
phân phối và phân phối lại theo hướng ưu tiên phân phối theo lao động và qua phúc lợi xã hội; kết hợp
tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền
ơn đáp nghĩa...
Đặc biệt, trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước có vai trò to lớn trong việc bảo
đảm sự ổn định vĩ mô cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. “ổn định” ở đây thể hiện sự cân đối, hài hòa
7


các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự đồng thuận xã hội trong hành động vì mục tiêu
phát triển của đất nước. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng lực tổ chức thực
hiện các chính sách phát triển vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết nhất hình thành sự
đồng thuận đó. Là những công cụ tạo ra sự đồng thuận xã hội, từ đó mà có ổn định xã hội cho phát triển

và tăng trưởng kinh tế, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, một mặt, phải phản ánh đúng những nhu
cầu chung của xã hội, của mọi chủ thể kinh tế...; mặt khác, phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích
cụ thể của các chủ thể đó.
Nhà nước ta cũng có vai trò to lớn trong việc bảo đảm gia tăng phúc lợi xã hội, bởi mục tiêu căn
bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là góp phần thực hiện “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Có chính sách xã hội hợp lý; bảo đảm phúc lợi ngày
một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của chính sách kinh tế tiến bộ do Nhà nước hoạch định và tổ chức
thực hiện bằng những nỗ lực của nhiều chủ thể kinh tế khác nhau... là nhân tố có vai trò quyết định trong
vấn đề này.
Vai trò của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng thể
hiện ở việc nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho thị trường phát triển, như tạo lập kết
cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hóa; tạo lập sự phân công lao động theo ngành, nghề,
vùng kinh tế qua việc nhà nước tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế theo lợi thế từng vùng, ngành và
nhu cầu chung của xã hội... Là chủ thể trực tiếp sở hữu hoặc quản lý, khai thác những cơ quan truyền
thông mạnh nhất của quốc gia, nhà nước góp phần cung cấp thông tin thị trường cho các chủ thể kinh tế
để các chủ thể này chủ động lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, đối tác kinh tế, thời điểm thực hiện
các giao dịch kinh tế, cách thức sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện cụ thể của mình...
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng còn những hạn chế đáng kể: thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa được xây dựng đồng bộ, vận hành suôn sẻ; quản lý nhà nước về
kinh tế còn nhiều bất cập; chưa có giải pháp mang tầm đột phá để kinh tế nhà nước thực sự hoàn thành tốt
chức năng chủ đạo trong nền kinh tế; kinh tế tập thể còn rất yếu kém; năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
thấp; chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường...
Nhìn lại nền kinh tế nước ta những năm qua, mặc dù kinh tế trưởng liên tục với tốc độ cao, nhưng
chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, sức cạnh tranh và hiệu quả vẫn còn kém, nhất là yếu kém xuất phát
từ nội bộ nền kinh tế. Ngoài sự tác động từ những nguyên nhân bên ngoài, một trong những nguyên nhân
nổi bật thuộc về cơ chế quản lý và chính sách kih tế của nhà nước đối với doanh nghiệp. Nổi cộm nhất là
sự đan xen giữa cơ chế quản lý cũ và mới, giữa nhận thức và phương thức chỉ đạo thực hiện ở TW và cấp
cơ sở, giữa cách nghĩ, cách nhìn và cách làm của đội ngũ viên chức Nhà nước đã làm cho các doanh
nghiệp thiếu phấn chấn trong kinh doanh.

Thực trạng đó có thể quy tụ vào 4 loại vấn đề sau: 1) Cơ chế và chính sách kinh tế chưa đảm bảo
tính đồng bộ, lại hay thay đổi. Cơ chế xin – cho với những thủ tục hành chính phức tạp, vẫn còn thiếu
chiến lược, quy hoạch tổng thể làm phân tán mục tiêu và lãng phí nguồn lực. 2) Đối với việc sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp, tiền kiểm tuy có giảm bớt, nhưng còn phiền hà, nhũng nhiễu, còn hậu kiểm
thì hữu khuynh, buông lỏng, thả nổi hoặc vi phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. 3) Bộ máy
quản lý các cấp nặng nền, cồng kềnh, chống chéo, đầy khó khăn cho doanh nghiệp gánh chịu, cơ quan
quản lý trực tiếp vô can; các quan hệ dân sự kinh tế thường bị hình sự hóa làm cho doanh nghiệp lo ngại.
4) một bộ phận không nhỏ đội ngũ viên chức yếu kém về năng lực, trình độ quản lý và xuống cấp về đạo
đức, phẩm chất trở thành đường dây móc ngoặc bên ngoài, trên dowis hoặc là kẻ tiếp tay, bao che cho
những kẻ kinh doanh lừa đảo, gian lận, gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp.
Hiện nay, trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước và ngoài quốc doanh có những tiếng nói
đối lập nhau. Doanh nghiệp nhà nước thì kêu bị trói buộc bởi cơ chế, tạo cho họ ít lợi thế cạnh tranh trên
thương trường, trước hết so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang có nhiều lợi thế hơn từquyền tự
chủ. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì cho rằng, nhà nước vẫn còn quá ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà
nước trên nhiều lĩnh vực, tạo sự bất đối xứng và có sự cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh.
Hiện nay, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã và đang tác động rõ nét đến nền kinh tế
nước ta. Chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn về vấn đề thanh khoản của hệ thống tín dụng, lãi
8


suất ngân hàng không ổn định, những cơn sốt giá lương thực và năng lượng, sự sụt giảm của thị trường
chứng khoán…
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các
nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á, thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)...Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo
ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam vẫn chưa được một số nước trên thế giới công nhận (Mỹ) vì một số ngành nghề ở Việt Nam
vẫn được Chính phủ Việt Nam bảo hộ.

Để nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực tác động của Nhà nước tới phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nhà nước cần sớm hoàn thiện thể chế của nền kinh tế
thị trường, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu. Hệ thống luật này phải khẳng định và bảo
vệ sự tồn tại khách quan, lâu dài tính đa dạng của các hình thức sở hữu; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ sở hữu. Cần xác định rõ, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Nhà nước ta là cung cấp
môi trường pháp lý tin cậy cho các chủ thể kinh tế phát huy tối đa năng lực của họ.
Cùng với vấn đề then chốt trên, cần tiếp tục phân định rạch ròi chức năng quản lý hành chính nhà
nước đối với kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; Nhà nước cần làm tốt chức năng
hỗ trợ cho toàn xã hội sản xuất hàng hóa công cũng như tư; đặc biệt là kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội...
Để nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, cần cải cách thể chế xây dựng
chính sách, tích cực đấu tranh chống các hành vi độc đoán, chuyên quyền, tệ quan liêu, tham nhũng trong
bộ máy nhà nước.
Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài đó sẽ nâng cao
hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu hiện nay./.
3. Hãy phát biểu luật cầu. Cho một ví dụ minh họa về dịch vụ công và biểu diễn đường cầu dịch
vụ công đó. Hãy chỉ ra một vài nhân tố tác động đến cầu về dịch vụ này và biểu diễn bằng đồ thị
dịch chuyển của đường cầu.
 FILE RIÊNG
4. Vài năm trước ngập lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long đã phá hủy hàng ngàn hecta lương thực.
a. Những người nông dân bị mất mùa do lũ lụt bị thiệt, trong khi những người nông dân không bị
mất mùa được lợi. Tại sao?
b. Bạn cần có thông tin gì về thị trường này để đánh giá xem nông dân nói chung được lợi hay bị
thiệt hại do lũ lụt.
5. Theo bạn hệ số co giãn của cầu về điện thoại di động nói chung lớn hơn hay hệ số co giãn của
cầu về Iphone lớn hơn? Thế còn hệ số co giãn của cung về 2 loại điện thoại di động này? Hãy giải
thích.
6. Chính phủ quyết định bãi bỏ quy định về giá sàn đối với nông sản. Hãy dự báo tác động của
quyết định này đến giá nông sản. Có những đối tượng nào được lợi và bị thiệt trong quyết định
này? Minh họa bằng mô hình.

7. Trên thị trường mía (cầu về mía là không co giãn), lo ngại giá mía xuống thấp có thể làm nông
dân nản lòng, chặt mía trồng cây khác nên Chính phủ đã quyết định các doanh nghiệp sản xuất
đường phải mua mía với một mức giá sàn.
a. Ở mức giá đó, lượng mua mía mà người nông dân bán được sẽ như thế nào? Người nông dân
được lợi hay bị thiệt từ chính sách này của Chính phủ? Biểu diễn trên mô hình.
b. Chính phủ để người nông dân bán toàn bộ số mía đã trồng cho nhà máy theo giá thỏa thuận rồi
bù lỗ cho nông dân bằng phần chênh lệch giữa mức giá thỏa thuận với mức giá sàn đã quy định. Vẽ mô
hình biểu diễn và chỉ ra phần người nông dân được lợi trong trường hợp này.
c. Chính phủ dùng ngân sách mua hết lượng mía thừa rồi thiêu hủy. Vẽ mô hình biểu diễn và chỉ ra
phần người nông dân được lợi trong trường hợp này.
9


8. Trên thị trường cặp sách cho học sinh, Chính phủ muốn khuyến khích các doanh nghiệp sản
xuất sản phẩm phục vụ học tập nên quyết định trợ cấp cho mỗi sản phẩm sản xuất ra là 3000 đồng.
Hãy cho biết:
a. Cân bằng thị trường, thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng trước khi có trợ cấp.
b. Tổng số tiền trợ cấp mà ngân sách Chính phủ phải chi, lợi ích trợ cấp mà người sản xuất, người
tiêu dùng được hưởng.
c. Sự thay đổi thặng dư sản xuất, thặng dư tiêu dùng khi có trợ cấp? Tổn thất phúc lợi xã hội do trợ
cấp gây ra?
9. Trên thị trường bia mức giá hiện tại là 5000 đồng/cốc, Chính phủ quyết định đánh thuế 1000
đồng/cốc bia vào người tiêu dùng. Dùng mô hình cân bằng cung-cầu, chỉ ra những điều sau:
a. Cân bằng thị trường, thặng dư sản xuất, thặng dư tiêu dùng trước khi có thuế.
b. Doanh thu thuế của Chính phủ, gánh nặng thuế về phía người sản xuất, người tiêu dùng, sự thay đổi
thặng dư sản xuất và thặng dư tiêu dùng sau khi có thuế.
c. Tổn thất phúc lợi xã hội do thuế gây ra? Tổn thất về phía người sản xuất và người tiêu dùng?
c) Giá tăng khiến cả người tiêu dùng và nhà sản xuất đều bị thiệt do cả hai đều phải gánh thuế trên giá
mỗi cốc bia: người tiêu dùng phải trả giá cao hơn, trong khi giá nhà sản xuất nhận được thì thấp hơn. Tuy
nhiên, khi cầu co giãn hơn cung như trong trường hợp này thì người tiêu dùng bị thiệt ít hơn do gánh thuế

ít hơn nhà sản xuất.
P

S

P*
D
Q*
Q
Khi chưa có thuế, giá người tiêu dùng phải trả bằng giá nhà sản xuất thu được và bằng giá
tại điểm cân bằng thị trường P* => Không có sự chênh lệch giữa giá người tiêu dùng phải trả và
giá người sản xuất thu được.
Lượng bia bán ra là lượng bia tai điểm cân bằng thị trường Q*.
Bây giờ hãy vẽ đồ thị thị trường bia khi có thuế. Và thực hiện các yêu cầu như câu a. Lượng bia
bán ra tăng hay giảm?
P

Thuế = 2$

S

Giá người mua
trả: Pc

Cân bằng trước
thuế
Giá không
thuế: P*

D1

D2

Giá người bán
nhận: Ps

Q1 Q*

Cân bằng
sau thuế

Q

10


Khi chính phủ dánh thuế 2$ cho mỗi thùng bia người tiêu dùng mua, quy định này tác động
làm đường cầu dịch chuyển qua trái (xuống dưới) một lượng đúng bằng mức thuế 2$, tức là từ D1
xuống D2.
Lúc này:
 Giá người tiêu dùng phải trả là Pc > P*
 Giá người bán nhận được là Ps < P*
 Lượng bia bán ra là Q1 < Q*
 Mức chênh lệch giữa giá người tiêu dùng phải trả và giá người sản xuất thu được là : ∆P =
Pc – Ps = T = 2 ($/thùng)
G
10. Những nhận định dưới đây đúng hay sai. Giải thích vì sao.
a. Quy định về giá trần không phải lúc nào cũng bảo vệ được lợi ích của người tiêu dùng như ý đồ
chính sách đặt ra.
 Đúng vì nó không chắc chắn làm tăng thặng dư tiêu dùng. Có 2 lý do gây thất bại của việc định giá
trần: 1) giá trần đặt cao hơn giá cân bằng của thị trường. 2) Làm giảm phúc lợi xã hội do phần mất không

lớn hơn ban đầu.
b. Kết hợp giữa chính sách đặt giá sàn và hạn chế định lượng sẽ khắc phục được tất cả tổn thất phúc
lợi xã hội.
 Sai vì cả 2 biện pháp này đều gây ra tổn thất phúc lợi xã hội
c. Muốn biết giữa người tiêu dùng và người sản xuất ai là người thực sự chịu thuế, cần phải biết thuế
đó đánh vào bên cung hay bên cầu.
 Sai vì biết độ co giãn của đường cung và đường cầu
11. Chính phủ cho rằng gạo trên thị trường tự do quá thấp. Chính phủ đặt giá sàn có tính ràng
buộc lên thị trường gạo.
a. Hãy sử dụng đồ thị cung cầu để chỉ rõ ảnh hưởng của chính sách này đối với giá và lượng gạo bán
ra. Sẽ có tình trạng dư thừa hay thiếu hụt gạo?
b. Nông dân phàn nàn rằng, giá sàn làm giảm thu nhập của họ. Điều đó có thể xảy ra không? Hãy giải
thích.
Trả lời:
Giá sàn là mức giá thập nhất mà người mua được phép mua. Chính phủ của nhiều nước thường đặt ra
mức giá tối thiểu đối với một số hàng hoá nhằm bảo hộ cho một số nhà sản xuất đặc biệt là các sản phẩm
là nông, lâm nghiệp. Giá sàn thường cao hơn giá cân bằng thị trường, và thường gây ra hiện tượng dư
thừa hàng hoá.Việc can thiệp của Chính phủ vào giá cả thường giảm tính hiệu quả của thị trường. Hiệu
quả của thị trường được biểu hiện bằng lợi ích ròng của xã hội ( NSB). Lợi ích ròng xã hội bao gồm hai
bộ phận là thăng dư sản xuất (PS) và Thăng dư tiêu dùng (CS)
12. Chính phủ quyết định rằng Việt Nam sẽ giảm ô nhiễm không khí bằng cách giảm mức tiêu
thụ xăng. Họ quyết định đánh thuế 1.000 VND cho mỗi lít xăng bán ra.
a. Khoản thuế này đánh vào người sản xuất hay người tiêu dùng? Hãy giải thích cặn kẽ bằng đồ thị
cung cầu.
b. Nếu cầu về xăng co giãn hơn, khoản thuế này có tác dụng hơn hay kém tác dụng hơn trong việc
giảm lượng xăng tiêu thụ? Hãy giải thích bằng lời và đồ thị.
c. Người tiêu dùng được lợi hay thiệt vì luật thuế này? Tại sao?
………….
Trả lời:
a) Khoản thuế này đánh vào nhà sản xuất hay người tiêu dùng? Giải thích cặn kẽ bằng đồ thị cung

cầu.

11


P

S2

T = 0,5$

Cân bằng
sau thuế

S1

Giá người mua
trả: Pc
Giá không
thuế: P*

Cân bằng trước
thuế

Giá người bán
nhận: Ps

D

Q1

Q*
Q
 Giả sử khoản thuế này đánh vào nhà sản xuất, Khi chính phủ dánh thuế 0,5$ cho mỗi thùng xăng
bán ra thì quy này tác động làm đường cung dịch chuyển qua trái (lên trên) một lượng đúng bằng
mức thuế 0,5$, tức là từ S1 lên S2.
Lúc này:
 Giá người tiêu dùng phải trả là Pc > P*
 Giá người bán nhận được là Ps < P*
 Lượng xăng bán ra là Q1 < Q*
 Mức chênh lệch giữa giá người tiêu dùng phải trả và giá người sản xuất thu được là : ∆P =
Pc – Ps = T = 0,5 ($/thùng)
 Giả sử khoản thuế này đánh vào người tiêu dùng, Khi chính phủ dánh thuế 0,5$ cho mỗi thùng
xăng mua vào thì quy này tác động làm đường cầu dịch chuyển qua trái (xuống dưới) một lượng
đúng bằng mức thuế 0,5$, tức là từ D1 lên D2 (Xem hình dưới)
Lúc này:
 Giá người tiêu dùng phải trả là Pc > P*
 Giá người bán nhận được là Ps < P*
 Lượng xăng bán ra là Q1 < Q*
 Mức chênh lệch giữa giá người tiêu dùng phải trả và giá người sản xuất thu được là : ∆P =
Pc – Ps = T = 0,5 ($/thùng)
P
T=0,5$
Giá người mua
trả: Pc
Cân bằng trước
thuế
Giá không
thuế: P*

Giá người bán

nhận: Ps

Q1

Q*

Cân bằng
sau thuế

Q

=> Kết luận : Cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều là người chịu thuế
b) Nếu cầu về xăng co giãn hơn, khoản thuế này có tác dụng hơn hay kém tác dụng hơn trong việc
làm giảm lượng xăng tiêu thụ? Hãy giải thích bằng lời và đồ thị.

12


T=0,5$
Giá người mua
trả: Pc

Cân bằng trước
thuế

Giá không thuế:
P*
Giá người bán
nhận: Ps


…Ảnh hưởng của thuế là đánh
vào người bán nhiều hơn

Thuế đánh vào
người mua



 Khi cầu xăng dầu là co giãn hơn cung, thì nhà sản xuất là người gánh thuế nhiều hơn, Sở dĩ như
vậy là bởi lẽ Cầu xăng dầu là co giãn nên có sự giảm mạnh trong lượng cầu xăng dầu tại mức giá
mới => Khoản thuế có tác dụng trong việc giảm lượng xăng tiêu thụ.
c) Người tiêu dùng được lợi hay thiệt do luật thuế này? Tại sao?
Khoản thuế này khiến cả người tiêu dùng và nhà sản xuất đều bị thiệt do cả hai đều phải gánh thuế,
người tiêu dùng phải trả giá cao hơn, trong khi giá nhà sản xuất nhận được thì thấp hơn. Tuy nhiên,
khi cầu co giãn hơn cung như trong trường hợp này thì người tiêu dùng bị thiệt ít hơn do gánh thuế
ít hơn nhà sản xuất.
* Ô nhiễm môi trường do xe chạy xăng thải ra là một ngoại ứng tiêu cực.
* Chính sách của Chính phủ để giảm bớt ô nhiễm:
- Thực hiện chặt chẽ Luật cấm hoặc điều chỉnh hành vi làm ô nhiễm môi trường
- Đánh thuế ô nhiễm đối với nhà máy trên mỗi một đơn vị sản phẩm đầu ra (lít)
- Hình thành thị trường về ô nhiễm để trao đổi giấy phép ô nhiễm
- Kiểm soát trực tiếp bằng mức chuẩn thải
13. Hãy giải thích nhận định sau: “Trong ngắn hạn không có chi phí cố định (FC), tất cả các loại chi
phí là biến đổi (VC)”.
Hãy xác định các loại chi phí sau đây thuộc loại chi phí nào:
(1) Chi phí cho quảng cáo sản phẩm;
(2) Chi phí mua nhiên liệu;
(3) Chi phí trả lãi cho trái phiếu của công ty phát hành;
(4) Chi phí vận tải biển;
(5) Chí phí mua nguyên liệu;

(6) Lương của nhân viên quản lý;
(7) Lương công nhân;
(8) Thuế VAT;
(9) Tiền thuê nhà xưởng.
Ngắn hạn biểu thị khoảng thời gian mà doanh nghiệp chỉ có thể điều chỉnh hay thay đổi được một số yếu
tố đầu vào, trong khi không điều chỉnh hay thay đổi một số yếu tố đầu vào khác.
Không phải mọi đầu vào đều dễ dàng điều chỉnh như nhau. Khi cần tăng sản lượng, dĩ nhiên, doanh
nghiệp phải sử dụng thêm các yếu tố đầu vào. Nó phải sử dụng thêm nguyên, nhiên, vật liệu, tăng mức sử
dụng lao động, hay sử dụng nhiều máy móc, thiết bị hơn. Tuy nhiên, việc gia tăng thêm nguyên, nhiên,
vật liệu tương đối dễ dàng, trong khi đó, việc lắp đặt thêm hệ thống máy móc mới, hay xây dựng thêm
nhà xưởng lại đ̣i hỏi nhiều thời gian hơn, đặc biệt trong các ngành công nghiệp nặng như luyện kim, sản
xuất điện năng, chế tạo máy v.v…Vả lại, nếu doanh nghiệp cho rằng, xu hướng gia tăng sản lượng chỉ là
tạm thời, nó không muốn mở rộng sản xuất bằng cách đầu tư thêm vào nhà xưởng hay máy móc, thiết bị.
13


Cách đơn giản và kinh tế hơn là: mua thêm nguyên, vật liệu, sử dụng thêm lao động mà trước hết là động
viên công nhân làm thêm giờ trên cơ sở những nhà xưởng và thiết bị, máy móc hiện có. Nói cách khác,
trong ngắn hạn, khi cần thay đổi sản lượng, doanh nghiệp chỉ có thể điều chỉnh một số yếu tố đầu vào,
đồng thời bị ràng buộc bởi một số yếu tố đầu vào cố định khác. Quy mô kỹ thuật của doanh nghiệp thể
hiện ở số lượng nhà xưởng, máy móc, thiết bị thường được xem là những yếu tố cố định này.
Dài hạn là khoảng thời gian đủ dài để doanh nghiệp có thể thay đổi hay điều chỉnh được tất cả các yếu tố
đầu vào.
Một mặt, thời gian đủ dài khiến cho việc điều chỉnh, tăng, giảm quy mô của các đầu vào, kể cả những đầu
vào không dễ dàng thay đổi trong một thời gian ngắn trở nên có thể thực hiện được. Mặt khác, khi doanh
nghiệp tin tưởng rằng, xu hướng gia tăng hay giảm sút trong nhu cầu về loại hàng hóa mà nó đang kinh
doanh là ổn định trong một thời gian dài, nó có thể yên tâm đầu tư thêm hay thu hẹp quy mô của những
đầu vào loại này. VÌ thế, trong dài hạn, về nguyên tắc, mọi yếu tố đầu vào đều có thể thay đổi được.
Sự phân chia ngắn hạn và dài hạn chỉ có tính tương đối và nó phụ thuôc vào tính chất kỹ thuật của từng
ngành. Một năm có thể là khoảng thời gian dài hạn đối với doanh nghiệp sản xuất gạch thủ công, song lại

là thời gian ngắn đối với công ty thủy điện.
VÌ thời gian điều chỉnh các đầu vào của các doanh nghiệp trong ngắn hạn và dài hạn là khác nhau, nên
quyết định của chúng trong ngắn hạn cũng có thể khác trong dài hạn. Chẳng hạn, trong một thời gian
ngắn, các khoản thua lỗ có thể được doanh nghiệp chấp nhận và công việc kinh doanh vẫn được duy tŕ,
trong khi các khoản thua lỗ dài hạn buộc doanh nghiệp phải tính đến việc rời khỏi lĩnh vực đang kinh
doanh. VÌ thế, cần phân biệt chi phí ngắn hạn và chi phí dài hạn.
Chi phí ngắn hạn: Trong ngắn hạn, do bị ràng buộc bởi một số yếu tố đầu vào không thay đổi được, nên
một số chi phí của doanh nghiệp là cố định.
Chi phí cố định (FC) là khoản chi phí không phụ thuộc vào mức sản lượng. Khi sản lượng tăng hay giảm,
chi phí cố định vẫn không thay đổi. Ví dụ, một doanh nghiệp hàng tháng phải trả 100 triệu đồng tiền thuê
mặt bằng và nhà xưởng để sản xuất. Hợp đồng thuê này kéo dài trong hai năm. Vậy thì trong khoảng thời
gian này, dù doanh nghiệp không sản xuất gì (sản lượng bằng không), sản xuất nhiều hay ít (tất nhiên,
trong giới hạn chưa phải thuê thêm mặt bằng, nhà xưởng mới), nó vẫn phải trả 100 triệu đồng tiền thuê
những yếu tố đầu vào trên. Khoản 100 triệu đồng tiền thuê đó là một khoản chi phí cố định.
Ngoài chi phí cố định, các chi phí khác tăng hay giảm tùy theo mức sản lượng sản xuất. Những chi phí
phụ thuộc vào sản lượng như thế gọi là chi phí biến đổi (VC). Những loại chi phí về nguyên, nhiên, vật
liệu hay tiền lương, nói chung là chi phí biến đổi. Sản lượng sản xuất ra càng lớn, lượng đầu vào này được
sử dụng càng nhiều, chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra càng cao. VÌ vậy, trong khi chi phí cố định độc lập với
mức sản lượng, chi phí biến đổi lại được coi là một hàm của sản lượng. Đây cũng là một hàm đồng biến,
thể hiện quan hệ thuận giữa q và VC. Sản lượng càng tăng thì chi phí biến đổi càng lớn và ngược lại.
Như vậy, trong ngắn hạn, tổng chi phí bằng các chi phí cố định cộng các chi phí biến đổi: TC = FC + VC.
VÌ độc lập với sản lượng, đường chi phí cố định được thể hiện như một đường nằm ngang, song song với
trục hoành, trục biểu thị các mức sản lượng.

Trong khi đó, do VC = TC - FC nên đường chi phí biến đổi có hình dáng y hệt như đường tổng chi phí.
Nó chính là đường tổng chi phí tịnh tiến song song xuống dưới một đoạn chính bằng FC. VÌ khi sản
lượng bằng 0, chi phí biến đổi cũng bằng không, nên đường chi phí biến đổi có điểm xuất phát chính từ
gốc tọa độ.
14



Các thước đo TC, FC và VC đều đo chi phí theo một khối lượng sản phẩm nhất định. Cũng như ATC đo
chi phí bình quân chung cho mỗi đơn vị sản phẩm, ta có thể tính chi phí cố định FC và chi phí biến đổi
VC một cách bình quân cho mỗi đơn vị sản lượng.
Chi phí cố định bình quân (AFC) là chi phí cố định tính đều cho mỗi đơn vị sản lượng:
AFC = FC / q .
Mặc dù FC là hằng số, độc lập với sản lượng q, song AFC lại là một đại lượng phụ thuộc vào q. Khi q
càng lớn, chi phí cố định bình quân càng nhỏ. Đường AFC có xu hướng tiệm cận dần với trục hoành.

Chi phí biến đổi bình quân (AVC) là chi phí biến đổi tính đều cho mỗi đơn vị sản lượng: AVC = VC / q.
VÌ đường chi phí biến đổi VC có hình dáng tương tự như đường tổng chi phí TC nên đường chi phí biến
đổi bình quân AVC cũng có hình dáng chữ U như đường chi phí bình quân ATC. Đương nhiên, ở mỗi
mức sản lượng q, AVC nhỏ hơn ATC, nên đường AVC phải nằm dưới đường ATC. Khoảng cách giữa hai
đường này chính là AFC. Mối quan hệ này có
thể biểu diễn qua công thức: ATC = TC/q = FC/q + VC/q = AFC + AVC.

Ở trên, ta đă biết rằng đường chi phí biên MC luôn luôn đi qua điểm ATC tối thiểu của đường ATC. Quan
hệ tương tự cũng tồn tại giữa đường chi phí biên MC với đường chi phí biến đổi bình quân. Đường MC
cũng luôn luôn cắt đường AVC tại điểm AVC tối thiểu. Có thể dùng cách tương tự như cách chứng minh
MC cắt ATC tại điểm ATC tối thiểu để giải thích điều này.
15


14. Những nhận định dưới đây đúng hay sai. Giải thích vì sao.
a. Vì độc quyền gây tổn thất phúc lợi xã hội nên Chính phủ cần những chính sách xóa bỏ độc
quyền.
 Sai vì: Độc quyền tự nhiên là không thể xóa bỏ. Có một số ngành hình thành nên độc quyền là
do Nhà nước nhượng quyền sản xuất.
b. Ngoại ứng gây ra tổn thất phúc lợi xã hội vì doanh nghiệp gây ra ngoại ứng đã sản xuất mức sản
lượng mà tại đó lợi ích xã hội biên nhỏ hơn chi phí xã hội biên.

 Sai vì: Có 2 loại ngoại ứng là ngoại ứng tiêu cực và ngoại ứng tích cực. Ngoại ứng tiêu cực gây
tổn thất phúc lợi xã hội sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp sản xuất quá mức.
- Q1>Q0 và tổn thất phúc lợi xã hội là ABC. Ngoại ứng tích cực gây tổn thất phúc lợi xã hội là do
doanh nghiệp sẽ sản xuất ít hơn mức sản lượng tối ưu của thị trường.
- Q1c. Bản thân Chính phủ cũng một nguy cơ đe dọa cạnh tranh và sở hữu tư nhân.
 do nguyên tắc hỗ trợ cho sự can thiệp của CP vào nền KTTT, trong 1 nước có sự vận hành song song,
tương tác lẫn nhau của thị trường và CP thì vai trò của Cp ko phải cạnh trah or thay thế KVTN mà thúc
đẩy, hỗ trợ, điều tiết KVTN. còn mấy cái thất bại thì do những tác động ngoại cảnh nữa chư ko phải do
thực hiện theo ng tắc. còn mấy cái chính sách trợ cấp hay ưu đãi theo bạn nghĩ là đe dọa cạnh tranh thì t
lại nhĩ là vì Cp theo đuổi mục tiêu công bằng, làm sao để đạt đc mức PLXH max, mấy CS ấy nhằm đạt
mục tiêu đó chứ ko phải đe dọa hay sở hữu TN, nếu hoạt động của TN ko ảnh hưởng tới PLXH thì Cp ko
cần can thiệp. Chính phủ điều tiết kinh tế vĩ mô
d. Chương trình “Tấm lòng vàng” giúp đỡ người nghèo và người gặp hoàn cảnh khó khăn là một
cải thiện Pareto.
 Đúng vì: khi này người được chương trình “TLV” giúp đỡ sẽ được lợi hơn mà không làm thiệt
hại đến bất kỳ ai.
15.Hãy cho biết lợi ích và tác hại của độc quyền. Vẽ đồ thị minh họa về thiệt hại do độc quyền
gây ra. Hãy giải thích vì sao nhà độc quyền luôn sản xuất mức sản lượng mà tại đó đường cầu co
giãn. (Gợi ý: nếu cầu không co giãn thì điều gì sẽ xảy ra với doanh thu và tổng chi phí?)
Độc quyền, trong kinh tế học, là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản
xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi. Đây là một trong những dạng của thất bại thị
trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mặc dù trên thực tế hầu như không
thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền thuần túy có
thể coi là không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi
ích xã hội. Độc quyền được phân loại theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc
quyền, cấu trúc của độc quyền...
* Tác hại của Độc quyền: Do tối đa hóa doanh thu nên doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ sản
xuất hàng hóa ở mức sản phẩm mà tại đó doanh thu biên bằng với thu nhập biên thay vì sản xuất ở
mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm cao hơn nhiều chi phí biên như trong thị trường (cân

bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm phụ thuộc vào số
lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong tình trạng chiếm đoạt quyền giá bán sẽ tăng lên
khi doanh nghiệp chiếm đoạt quyền giảm sản lượng. Vì thế lợi nhuận biên sẽ lớn hơn giá bán sản phẩm và
16


cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất thêm doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền
lớn hơn giá bán sản phẩm đó. Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm
được có thể đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt khác, nếu áp dụng nguyên
tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu quả khilợi ích biên bằng doanh thu biên, tất
nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc
quyền ta thấy rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp chiếm đoạt quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính
là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp
chiếm đoạt quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh.
Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng tăng lên trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản
lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do chiếm đoạt quyền.
Như vậy, tác hại của độc quyền là: - Giá cao hơn và mức sản lượng thấp hơn cạnh tranh hoàn hảo. Khả năng chi phí cao hơn do không có cạnh tranh. - Bất công bằng trong phân chia thu nhập.
* Lợi ích của độc quyền: Tiết kiệm chi phí nhờ quy mô sản xuất lớn. Khả năng chi phí thấp hơn nhờ
có nghiên cứu và đầu tư nhiều hơn.- Khả năng tạo phát minh và sản phẩm mới. Lợi nhuận độc quyền là
mong muốn lớn nhất đổi với các nhà sản xuất. Vì vậy các nhà độc quyền luôn tìm mọi cách để duy trì vị
trí độc quyền. Khác với trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sự tồn tại của lợi nhuận độc quyền không
cho phép các hãng khác tham gia vào ngành. Nhà độc quyền luôn cố gắng ngăn chặn các nhà sản xuất
mới xâm nhập vào thị trường.
P, C

MC (= trong CTHH)

P1
P2


P = ATC min = MC
MR

0

Q1 Q2

AR = D
Q

Tính không hiệu quả của ĐQ so với CTHH
Chính phủ phải: Sử dụng luật chống độc quyền; Điều chỉnh giá; Không hành động để tự độc quyền
trôi. Luật ảnh hưởng đến cấu trúc công ty: Các công ty lớn không được chiếm quá 60% thị phần. Luật ảnh
hưởng đến hành vi của các doanh nghiệp: Các công ty không được thỏa thuận với nhau về giá bán hàng…
Công cụ hiệu lực nhất là sử dụng bằng sáng chế hoặc bản quyền sản xuất.
16. Hãy nêu ra 4 ví dụ về những hàng hóa công cộng được Chính quyền địa phương bạn cung
cấp. Theo bạn, chính quyền cần làm gì để khắc phục tình trạng thiếu hụt hàng hóa công cộng? Hãy
cho biết những hàng hóa sau đây có phải là hàng hóa công cộng hay không? Vì sao?
a. Sự đảm bảo an ninh của cảnh sát
b. Giáo dục
c. Nghiên cứu cơ bản
d. Những con đường ở nông thôn
e. Những con đường ở thành thị
……………………………………………………………………
a) 4 loại hàng hóa công cộng mà chính quyền địa phương cung cấp:
- Chiếu sáng đô thị;
- Dịch vụ cung cấp điện
- Dịch vụ cung cấp nước
17



- Bãi biển nghỉ mát
- Đường sá
- Bảo vệ an ninh
- An ninh quốc phòng
- Hệ thống pháp luật,
- Kiểm soát lũ lụt
- Bảo vệ môi trường
c)
a. Sự đảm bảo an ninh của cảnh sát
b. Giáo dục
c. Nghiên cứu cơ bản
d. Những con đường ở nông thôn
e. Những con đường ở thành thị
Đây đều là hàng hóa công cộng do có các hàng hóa này có một trong 2 đặc trưng cơ bản: Không có
tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Không có tính loại trừ trong tiêu dùng. Hàng hoá công cộng là những
hàng hoá và dịch vụ mà khi chúng được sản xuất ra thì ọi người đều có khả năng tiêu dùng. Hàng hoá
công cộng thuần tuý có hai đặc tính chủ yếu à tính không cạnh tranh trong tiêu dùng và tính không loại
trừ trong tiêu dùng.
Tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hoá công cộng ám chỉ khả năng của chúng có thể
được tiêu dùng bởi một người mà không giảm khối lượng cho người khác tiêu dùng. Tính không loại trừ
trong tiêu dùng của hàng hoá công cộng ám chỉ sự thật rằng khi những hàng hoá như vậy được sản xuất ra
thì không có cách gì ngăn cản được những người tiêu dùng nhất định tiêu dùng chúng. Điều này được biết
đến như vấn đề “kẻ ăn không” hay đây là hiện tượng tiêu dùng tự do - tiêu dùng mà không cầu phải trả
tiền. Hàng hoá công cộng là một trường hợp đặc biệt của ảnh hưởng ra bên ngoài tích cực, ảnh hưởng tích
cực đó không chỉ tác động đến một số người mà tác động đến toàn bộ thành viên xã hội.
Một ví dụ của hàng hoá công cộng thuần tuý là an ninh quốc phòng. Khi một người được quốc
phòng bảo vệ, nó không có nghĩa là bất kỳ một người nào khác được bảo vệ ít hơn. Không một ai có thể
ngăn chặn các công dân được hưởng lợi ích từ quốc phòng cho dù họ có trả phí hay không.
b) Chính quyền cần có những biện pháp sau để khắc phục tình trạng thiếu hụt hàng hóa công

cộng:
Chính phủ là người cung cấp HHCC, và có thể khắc phục được vấn đề “ăn không” (hưởng thụ lợi
ích của hàng hóa công cộng mà không đóng góp một đồng nào cho chi phí sản xuất và cung cấp hàng hóa
công cọng) bằng cách bắt buộc các cá nhân phải đóng góp bắt buộc thông qua đóng thuế, rồi sử dụng thuế
thu được để tài trợ cho việc sản xuất và cung cấp HHCC. Chính phủ cần phát triển các hình thức hợp tác
công – tư (PPP) trong việc sản xuất và cung ứng HHDV công. Hợp tác công - tư (PPP) là một loạt các
mối quan hệ có thể có giữa các tổ chức nhà nước và tổ chức tư nhân liên quan đến lĩnh vực kết cấu hạ
tầng và các lĩnh vực dịch vụ khác. Trong quan hệ hợp tác công - tư, khu vực tư nhân có thể tham gia bất
kỳ khâu nào hoặc tất cả các khâu, như thiết kế, tài chính, xây dựng và điều hành của một dịch vụ tiện ích
công cộng, kết cấu hạ tầng, cung ứng hàng hóa công cộng. Chính phủ tài trợ (đặt hàng) khu vực tư nhân
sản xuất hoặc cung cấp HHCC.Chính phủ có cơ chế đặc biệt cho phép khu vực tư nhân tham gia sản xuất
cung cấp HHCC (kết cấu hạ tầng) và kinh doanh một thời gian HHCC đó để thu hồi vốn và lãi hợp lý.
VD: Hợp tác Công – tư (PPP) lối thoát trong việc đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông vận
tải tại Việt Nam
Từ lâu nay, khu vực công thường đóng vai trò quan trọng trong tài chính, xây dựng và điều hành
phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, và đầu tư tư nhân trong lĩnh vực này thường rất thấp. Theo một báo
cáo của Ngân hàng Thế giới về tình hình đầu tư của tư nhân vào kết cấu hạ tầng tại Việt Nam, nguồn vốn
tư nhân đầu tư vào kết cấu hạ tầng mới chỉ chiếm khoảng 20%. Hầu hết các quỹ phát triển kết cấu hạ tầng
trước đây đều từ ngân sách nhà nước và từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Việt Nam có
thể gặp khó khăn lớn trong tương lai nếu chỉ tiếp tục dựa vào các nguồn này.
18


Thực tế, từ năm 2010, Việt Nam đã chính thức gia nhập nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình,
do đó không còn nhiều cơ hội để nhận các ưu đãi về ODA từ cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, tình hình
kinh tế trong nước và thế giới cũng đang gặp khó khăn, nên các hình thức huy động vốn từ thị trường trái
phiếu trong nước hoặc quốc tế đều không thuận lợi; huy động vốn từ bản quyền thu phí và cho thuê khai
thác chưa phát triển. Cơ hội tiếp cận tín dụng ngân hàng không nhiều, trong khi với các dự án lớn, không
chỉ cần nguồn vốn lớn mà thời gian để hoàn thành dự án thường lâu, trong khi đó các khoản vay thương
mại của ngân hàng thường bị giới hạn về hạn mức, hầu hết là ngắn hạn và đòi hỏi phải có tài sản cầm cố,

thế chấp. Khó khăn về nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải không chỉ có vậy,
đầu năm 2011, trong bối cảnh lạm phát tăng cao, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về
những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội,
trong đó, một loạt biện pháp nhằm cắt giảm chi tiêu công đã được thực thi.Tuy nhiên, tháo gỡ nút thắt đầu
tư cho kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông vận tải để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì không thể
chậm trễ.
Vậy, đây chính là thời điểm cần sự tham gia mạnh mẽ hơn của khu vực tư nhân. Nguồn vốn đóng
góp từ khu vực tư nhân (đặc biệt là khu vực tư nhân nước ngoài) cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông
vận tải sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thiếu hụt vốn hiện nay.
Như một hình thức của hợp tác công - tư (PPP), mô hình xây dựng - kinh doanh - chuyển giao
(BOT) những năm trước đây được xem như là một hình thức thu hút đầu tư hấp dẫn của Chính phủ để
phát triển các dự án kết cấu hạ tầng mới. Theo kế hoạch, hợp tác giữa Chính phủ và khu vực tư nhân sẽ
được gia tăng, Chính phủ đồng ý ủy quyền xây dựng và vận hành kết cấu hạ tầng cho nhà đầu tư tư nhân.
Do đó, Chính phủ sẽ phải tiếp cận nguồn vốn cũng như kinh nghiệm của khu vực tư nhân, và sử dụng như
là nguồn lực chính cho phát triển kết cấu hạ tầng.
Việc kêu gọi đầu tư tư nhân vào phát triển kết cấu hạ tầng theo các hình thức BOT, BT (xây dựng chuyển giao)..., đặc biệt từ năm 2007 khi Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2007/NĐ-CP và được thay
thế bởi Nghị định số 108/2009/NĐ-CP về đầu tư phát triển công trình kết cấu hạ tầng thực hiện theo hình
thức BOT, BTO (xây dựng - chuyển giao - kinh doanh), BT, đã tạo ra một làn sóng nhiều nhà đầu tư tư
nhân bỏ vốn phát triển kết cấu hạ tầng.
Có thể kể đến những dự án đã được đề xuất thực hiện, như đường ô-tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng,
cầu Rạch Miễu, cầu Cỏ May (trên quốc lộ 51), đoạn An Sương - An Lạc thuộc quốc lộ 1A trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, cầu Đồng Nai, cầu Bình Triệu (khu vực Thành phố Hồ Chí Minh)... Đối với
hình thức BT cũng có rất nhiều dự án giao thông lớn, như: đường trục phát triển kinh tế Bắc - Nam,
đường trục phía Bắc Hà Đông, đường trục phía Nam Hà Tây (cũ)...
Nhằm huy động nguồn vốn cho phát triển hạ tầng giao thông vận tải, chính sách của Chính phủ là
khuyến khích mọi nguồn lực trong và ngoài nước, từ các thành phần kinh tế, dưới nhiều hình thức khác
nhau, như BOT, BT, PPP... đặc biệt chú trọng áp dụng hình thức PPP đối với các cảng hàng không, cảng
biển, sân bay mới, khu bến phát triển mới có quy mô lớn.
Thời gian gần đây Chính phủ bắt đầu thí điểm PPP với việc ban hành quy chế thí điểm đầu tư theo
hình thức đối tác công - tư (ban hành kèm theo Quyết định số 71/QĐ-TTg, ngày 9-11-2010, có hiệu lực từ

ngày 15-1-2011). Theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ lập danh mục dự án ưu tiên đầu tư PPP
hằng năm và tiến hành đấu thầu cạnh tranh để lựa chọn nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước đủ năng
lực, kinh nghiệm nhất để tham gia dự án. Ngay từ khi dự thảo quy chế cho đến khi quy chế thí điểm được
ban hành, rất nhiều nhà đầu tư tỏ ra quan tâm và gợi ý nhiều đề xuất triển khai hợp tác. Việt Nam có hy
vọng về việc tìm kiếm đủ nguồn vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông thông qua cơ chế đầu tư
trên.
17. Hãy giải thích có tình trạng bất đối xứng thông tin trên thị trường bất động sản không?
Dùng mô hình biểu diễn tổn thất của thị trường. Chính phủ có thể làm gì để khắc phục tình trạng
này?
Việc thiếu thông tin hoặc nhận thông tin sai lệch sẽ dẫn đến những sai lầm trong chủ trương, đường lối
của cá nhân, tổ chức hay đặc biệt quan trọng là chính sách của Nhà nước. Như vậy, cần phải có những
19


giải pháp để đối diện với hiện tượng bất đối xứng thông tin nhằm bảo vệ những quyền lợi, giảm thiểu
những rủi ro gặp phải.
Ở Việt Nam, thông tin kinh tế vĩ mô chủ yếu được Tổng cục Thống kê, Bộ Tài chính và Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) thu thập và công bố. Đáng tiếc là VN chưa có một đạo luật nào quy định về nghĩa vụ
công bố thông tin nên các cơ quan nói trên chưa coi việc cung cấp thông tin cho người dân là nghĩa vụ
của mình.
Vậy nên, nhất thiết phải có một cơ chế để dự báo, phòng tránh, xử lý hậu quả của bất đối xứng thông
tin ngay từ khi tiếp cận với các vấn đề, sự việc cụ thể nào đó. Nghĩa là đối với bất kỳ vấn đề nào trong
chính sách, cần có: chiến lược tiếp cận (tiếp cận dưới góc độ nào, nguồn thông tin nào); tổ chức triển khai
(so sánh các nguồn thông tin, dự báo ảnh hưởng, giả thuyết xử lý khi xảy ra rủi ro); giám sát thực hiện
(luôn xem xét khía cạnh lý thuyết và thực tế để kịp thời phát hiện khoảng trống, khắc phục). Ngoài ra, cần
có các cơ chế để các doanh nghiệp cung cấp đầy đủ thông tin về doanh nghiệp mình.
Hy vọng VN sẽ sớm có một bộ luật về quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp và
nghĩa vụ cung cấp thông tin của các cơ quan thẩm quyền.
18. Hãy phân tích để cho biết nguy cơ xuất hiện thất bại về thông tin không đối xứng (thất bại về
phía người sản xuất hay người tiêu dùng; làm tăng hay giảm mức cung ứng so với mức tối ưu xã

hội) và khả năng can thiệp của Chính phủ.
a. Xe hơi cũ
b. Giáo dục cao học
c. Dược phẩm
d. Điện, nước
Trong xã hội của chúng ta có nhiều thoả ước pháp lý để xử lý vấn đề thông tin không hoàn hảo.
Chẳng hạn các hãng ô tô cũ thì người bán ô tô có bảo hành, phát tín hiệu chứng minh uy tín của cửa hàng
thông qua danh tiếng, thương hiệu…người mua thì có thể thuê chuyên gia, hỏi người mua trước hoặc
chạy thử, mua thông tin.
* Có thể sử dụng một trong các giải pháp sau để khắc phục tình trạng thông tin không đối
xứng giữa người mua và người bán:
- Thiết lập thể chế (xây dựng khunh pháp lý) để có biện pháp chế tài, xử phạt.
- Ban hành các điều luật quy định tính trung thực của quảng cáo, xây dựng và đảm bảo hiệu lực thực
thi của luật về bản quyền và sở hữu trí tuệ nhằm bảo vệ thương hiệu của các doanh nghiệp làm ăn chân
chính, chống hàng giả, hàng nhái...
- Chính phủ cần cấp giấy phép chứng nhận (trước hoạt động): chứng nhận tư cách pháp nhân và
chứng nhận chất lượng sản phẩm. Kiểm tra, giám sát (trong quá trình hoạt động): Kiểm tra an toàn chất
lượng sản phẩm, đóng dấu chất lượng và cấp phép lưu thông, Kiểm tra, đối chiếu với tiêu chuẩn đăng ký.
Kiểm toán (sau hoạt động)
- Cho thành lập hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng; Cung cấp thông tin về quy hoạch, dịch bệnh, nhà
đầu tư, dự báo về cung cầu thị trường
- Ban hành các quy định về bao bì, nhãn mác sản phẩm cũng là một phần trong những nỗ lực của
Chính phủ để giúp phân biệt và đảm bảo chất lượng của hàng hóa trên thị trường.
- Chính phủ cũng có thể hỗ trợ cho những cơ quan, tổ chức đóng vai trò “bên thứ ba” của tư nhân
hoạt động có hiệu quả hoặc trực tiếp đứng ra đảm nhận vai trò đó (tổ chức giám định chất lượng hàng
hóa, cấp chứng chỉ, tư vấn tiêu dùng...)
- Có biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: khuyến khích và đỡ đầu cho sự hoạt động của các
hiệp hội người tiêu dùng, thành lập các tòa án xét xử các tranh chấp thương mại giữa người bán và người
mua...
- Chính phủ có thể trực tiếp đứng ra cung cấp thêm thông tin để hỗ trợ thị trường.


20


19. Hãy nêu nguyên nhân gây nên bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của xã hội. Chính
phủ cần làm gì để khắc phục tình trạng này? Liên hệ với thực tiễn ở Việt nam.
* Nguyên nhân dẫn tới phân phối thu nhập không công bằng: Do bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập từ tài sản. Do bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động.
* Chính sách phân phối lại thu nhập tại Việt Nam: Phân phối lại thu nhập xã hội là sự can thiệp
của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật, của các chính sách để vận động, thuyết phục những
người có thu nhập cao đóng góp để cùng nhà nước giúp đỡ cộng đồng và những người có thu nhập thấp.
Đây là một trong những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong điều kiện kinh tế
khó khăn hiện nay, phân phối lại thu nhập là chính sách rất cần thiết và có ý nghĩa. Phân phối lại thu nhập
có thể thực hiện bằng nhiều cách:
Thứ nhất, thông qua chính sách thuế. Gần như tất cả các quy định pháp luật đều có tác dụng phân
phối lại thu nhập nhưng cụ thể và rõ nhất là thuế thu nhập cá nhân và thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế thu
nhập cá nhân động viên thu nhập của những người có thu nhập ở một mức khá cao so với mặt bằng xã hội
(hiện nay mức giảm trừ cho người nộp thuế là 9 triệu đồng, mức giảm trừ cho người phụ thuộc là 1,6 triệu
đồng/người). (Tuy nhiên, hiện khung thuế này đã lạc hậu, nhà nước cần sớm điều chỉnh). Thuế tiêu thụ
đặc biệt đánh vào người mua sắm, sử dụng một số hàng hóa, dịch vụ thuộc diện xa xỉ. Trong lúc toàn xã
hội đang triệt để tiết kiệm thì có thể tính đến việc tăng loại thuế này đồng thời giảm một số loại thuế khác.
Thứ hai, thông qua các chính sách an sinh xã hội vĩ mô. Bằng luật pháp và các chính sách cụ thể
khác, nhà nước có thể tạo ra cơ chế, hành lang pháp luật để thực hiện các sự chăm lo, hỗ trợ các đối tượng
đặc biệt trong xã hội, như trẻ em, người già yếu, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số, bà con vùng
sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn… Chẳng hạn, chính sách về y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội… mặc
dù luôn đảm bảo quyền lợi cho tất cả mọi thành phần trong xã hội nhưng thường có xu hướng ưu tiên cho
những người khó khăn.
Thứ ba, thông qua các cuộc vận động, các phong trào hỗ trợ. Các phong trào “toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”, “vì người nghèo”, các hoạt động xã hội, từ thiện… một mặt thể hiện tinh
thần nhân ái, đoàn kết, giúp đỡ nhau của các tầng lớp nhân dân đồng thời cũng là sự phân chia lại thu

nhập. Những khoản giúp đỡ người khó khăn của các doanh nghiệp thường được tính vào chi phí để giảm
thuế, coi như là một sự khuyến khích của nhà nước đối với việc làm này.
Thứ tư, thông qua việc hỗ trợ cho các đối tượng khó khăn, thuộc diện chính sách. Thời gian qua,
việc miễn, giảm phí khám chữa bệnh cho trẻ dưới 6 tuổi hay hỗ trợ cho người già từ 80 tuổi trở lên; miễn,
giảm học phí cho con em các hộ gia đình thuộc diện nghèo, hộ gia đình các xã đặc biệt khó khăn, kể cả
việc hỗ trợ tiền điện cho các hộ nghèo, trợ cấp cho các đối tượng khó khăn… là những chính sách an sinh
xã hội có ý nghĩa thiết thực, có tác dụng an dân sâu sắc. Trong điều kiện hiện nay, có thể mở rộng các đối
tượng được hưởng trợ cấp xã hội, cả thường xuyên và đột xuất, đồng thời tăng mức chi cho các đối tượng
này.
Tóm lại, với xu hướng ngày càng giãn xa về khoảng cách thu nhập và mức độ giàu nghèo hiện
nay ở nước ta, nguy cơ về bất bình đẳng trong xã hội ngày một rõ nét. Từ đó có thể phát sinh những vấn
đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định của đất nước. Do đó, một trong những giải pháp
mà nhà nước cần quan tâm là nên có các chính sách phân phối lại thu nhập sao cho hiệu quả, thiết thực để
đảm bảo công bằng xã hội.
20. Chính phủ rất muốn các công ty tư nhân đầu tư vào vùng Tây Bắc vì nó sẽ góp phần xóa đói
giảm nghèo, tạo công ăn việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng này. Tuy nhiên, các công ty
thì cho rằng chi phí tư nhân cho việc đầu tư vào vùng Tây Bắc quá lớn, khiến họ thấy đầu tư vào
đây không có lãi. Dùng đồ thị mô tả tình huống này và cho biết Chính phủ muốn khuyến khích đầu
tư tư nhân vào vùng này thì có thể sử dụng những biện pháp gì?
Nhà nước mong muốn các nhà đầu tư kinh tế đầu tư vào các vùng miền núi Tây Bắc để Nhằm đẩy
mạnh và thu hút đầu tư, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc cải thiện đời
sống dân cư này nhưng các nhà đầu tư lại chỉ thích đầu tư vào các vùng đồng bằng, đô thị do: Dễ đầu tư;
Thu hồi vốn, lãi nhanh; Không phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất; Tận dụng nguồn nhân lực có
21


trình độ cao; Giao dịch với các đối tác nhanh chóng….Còn đầu tư vào vùng Tây Bắc thì công ty tư nhân
sẽ phải: xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất cho công ty; Hệ thống giao thông bất tiện do có địa hình
đồi núi; Sản xuất kinh doanh sẽ không có nhiều lãi; mất thời gian và tài chính để đào tạo nhân sự… Ý
thích đó rõ ràng là trái với lợi ích mà chính phủ mong muốn, nhưng không phải vì thế mà gây tác hại cho

nhà nước, cho cộng đồng. Khi đó, nếu chính phủ muốn họ hành động theo hướng có lợi cho mình, thì
chính phủ phải chia sẻ lợi ích cho họ. Do đó, chính phủ sẽ phải áp dụng phương pháp kích thích ( kinh tế).
Nó có lợi cả về vật chất và danh giá. Ngoài ra, cần thiết phải có thêm phương pháp thuyết phục, động viên
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Danh giá đối với doanh nghiệp tư nhân, suy cho cùng cũng là vì vật chất. Bởi vì, danh giá là điều
kiện để có lợi nhuận cao. Từ danh giá sinh ra lợi thế thương trường, là lời giới thiệu, tạo uy tín cho doanh
nghiệp tư nhân. Chẳng hạn, những huy chương về chất lượng sản phẩm, những lời tuyên dương của nhà
nước về công trạng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế vùng miền núi khó
khăn...Đây chính là những lợi thế cho người được tôn vinh trong hoạt động kinh doanh sau đó. Lợi ích vật
chất đối với doanh nghiệp tư nhân chính là lợi nhuận. Nhà nước không thể trực tiếp cho doanh nghiệp tư
nhân lợi nhuận. nhưng nhà nước có thể gián tiếp làm cho doanh nghiệp tư nhân có lợi nhuận cao bằng
nhiều cách. Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp tác động vào doanh thu và giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp tư nhân, làm tăng doanh thu, hạ giá thành tất sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tư
nhân tăng lên.
Cách tác động đó là:
- Tác động bằng thuế: để khuyến khích sự đầu tư của doanh nghiệp tư nhân, nhà nước ra những
quyết định giảm thuế, xóa hoặc miễn thuế cho giai đoạn đầu khi đầu tư vào vùng Tây Bắc;- Tác động
bằng lãi suất tín dụng: Do nhà nước có trong tay hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, có th ể
khống chế lãi suất tiền gửi của mọi ngân hàng không phải của nhà nước, mà là nhà nước có thể điều chỉnh
để các ngân hàng tăng hoặc giảm lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên các
hướng mà nhà nước muốn. Chính phủ cho các công ty vay với lãi suất thấp, kỳ hạn kéo dài…- Tác động
bằng giá cả: Nhà nước chỉ đạo các tổ chức của mình mua giá cao đối với các sản phẩm của các doanh
nghiệp tư nhân khi họ đầu tư sản xuất, kinh doanh ở vùng Tây Bắc. Thông qua các hợp đồng hành chính,
các đơn vị đặt hàng phục vụ các chương trình quân sự, quốc phòng….Nhà nước giữ ổn định hoặc nâng
giá mua vào các hàng hóa và dịch vụ của các đơn vị kinh tế khi thấy cần bảo trợ, khuyến khích họ mở
rộng sản xuất, kinh doanh.
Ngày 3-4-2013, tại Tuyên Quang, Ban chỉ đạo Tây Bắc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đã phối hợp với UBND tỉnh Tuyên Quang và các tỉnh Tây Bắc tổ chức Hội nghị Xúc tiến
đầu tư và an sinh xã hội vùng Tây Bắc 2013 với khoảng 200 doanh nghiệp (DN) cùng lãnh đạo các ngành,
địa phương liên quan tham dự.

Việc xúc tiến đầu tư vùng Tây Bắc nhằm giới thiệu tiềm năng, lợi thế cũng như gọi đầu tư của DN
trong, ngoài nước vào các tỉnh Tây Bắc, thúc đẩy sự giao thương giữa các tỉnh ngoài khu vực với Tây Bắc
kết hợp liên kết nội vùng, từ đó tạo bước phát triển ổn định, bảo đảm an sinh xã hội theo hướng bền vững
trong thời gian tới. Với địa thế rộng (gồm 12 tỉnh trung du, miền núi Bắc bộ và các huyện phía tây Thanh
Hóa, Nghệ An), Tây Bắc có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch, công
nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân đặc thù, các tiềm năng và lợi thế của vùng Tây Bắc
vẫn chưa được phát huy, kinh tế còn chậm phát triển, đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn. Hội nghị lần
này nhằm kêu gọi, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia phát triển kinh
tế trên địa bàn và hỗ trợ đời sống cho đồng bào Tây Bắc.
Việc kêu gọi đầu tư lần này được ưu tiên cho các dự án chế biến nông, lâm sản gắn với đầu tư phát
triển vùng nguyên liệu, thông qua quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp với hộ nông dân; đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông - vận tải; đầu tư khai thác tiềm năng du lịch sinh thái, văn hoá, lịch sử,
các dịch vụ đào tạo, dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu tổ chức sản xuất
hàng hoá. Cần ưu tiên đầu tư vào kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, thông qua việc huy động nhiều
nguồn lực khác nhau như nguồn vốn nhà nước, hợp tác PPP, BOT… tạo thuận lợi cho việc giao thương
cũng như thu hút các nhà đầu tư đến với Tây Bắc. Cùng với đó là tập trung phát triển nguồn nhân lực, xây
22


dựng hệ thống đào tạo tại chỗ, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, đáp ứng nhu cầu
của các nhà đầu tư; đồng thời tập trung đầu tư cho sản xuất, khai thác lợi thế của vùng, giúp người dân có
thể tạo thu nhập từ chính sản phẩm nông - lâm nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác. Bộ Kế hoạch và Đầu
tư sẽ tiếp tục nghiên cứu, tham mưu cho Chính phủ có thêm nhiều chính sách xây dựng ưu đãi phù hợp
cho vùng Tây Bắc.
Tại hội nghị, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình cam kết, trong năm 2013 sẽ tiếp
tục phối hợp với các bộ, ngành đưa vốn đến tay người nông dân để phát triển sản xuất, bảo đảm an sinh
xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Các ngân hàng cũng đã cam kết cho vay ít nhất 20.588
tỷ đồng và 35 triệu USD cho các dự án đầu tư vào Tây Bắc. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại sẽ hỗ trợ
gần 400 tỷ đồng an sinh xã hội cho vùng này.
Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo đánh giá, hội nghị là cơ hội

cho doanh nghiệp (DN) Thủ đô tìm hiểu, vươn tới một thị trường tiềm năng. Thời gian tới, thành phố sẽ
khuyến khích các DN liên kết với các đối tác địa phương trong việc trồng, chế biến, tiêu thụ nông, lâm
sản. Các DN du lịch sẽ tăng cường hợp tác với các đối tác Tây Bắc để xây dựng những tuyến du lịch mới,
giàu sức cạnh tranh và chất lượng… Thủ đô sẽ chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực
trong lĩnh vực y tế, giáo dục cho các tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân vùng Tây
Bắc.
Đại diện các DN cũng đề nghị, mỗi địa phương ở vùng Tây Bắc cần xác định rõ, công bố công khai
cơ chế, chính sách với nhà đầu tư; nhất là những ưu đãi cụ thể. Trong đó, nhà đầu tư mong muốn được
hưởng nhiều ưu đãi hơn, bởi họ phải chi phí cao hơn so với khi đầu tư vào khu vực khác. Đặc biệt, UBND
cấp tỉnh cần ban hành cơ chế cho phép DN đầu tư làm công trình hạ tầng, đường bộ sau đó được quyền
khai thác khoáng sản, tài nguyên với điều kiện hợp lý…
Ngay sau hội nghị xúc tiến đầu tư, chính quyền các tỉnh Tây Bắc đã trao giấy chứng nhận đầu tư
cho 26 dự án, với tổng vốn 10.623 tỷ đồng; các ngân hàng đã ký thỏa thuận cho vay tín dụng với 14 dự
án, tổng vốn hơn 20.000 tỷ đồng và 35 triệu USD; đại diện 16 dự án khác cũng ký thỏa thuận cam kết đầu
tư, với tổng vốn 16.816 tỷ đồng.

23



×