Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận triết một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.04 KB, 21 trang )

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền đã có một lịch sử rất lâu đời, tư tưởng này
ra đời nhằm chống lại Nhà nước chuyên chế, chống lại sự độc đoán, lạm quyền và
nằm trong trào lưu chung của hệ tư tưởng giải phóng.
Trong thời điểm hiện nay, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải
thay đổi hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ dựa trên nguyên tắc tôn trọng tính tối
cao của pháp luật và pháp chế.
Với tính cách là một hình thức chính trị pháp lý hợp lý, Nhà nước pháp quyền
là một trong những giá trị quý báu chung của toàn nhân loại, được xếp ngang với
những giá trị khác như nhân quyền, dân chủ và chế độ lập hiến.
Với ý nghĩa to lớn về nhà nước pháp quyền như trên, và để nhằm hoàn thành
môn Triết học trong chương trình cao học Hành chính công. Em xin chọn đề tài:
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam” làm tiểu luận kết thúc môn học.
Trong quá trình nghiên cứu viết tiểu luận kết thúc môn học, em xin chân
thành cám ơn sự giảng dạy và hướng dẫn tận tình của Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương
Quốc Chính – giảng viên của Học viện Hành chính Quốc gia.
Tiểu luận bao gồm 3 chương:
- Chương I: Lý luận chung về nhà nước và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa tại Việt Nam.
- Chương II: Một số thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam.
- Chương III: Một số phương hướng nhằm hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành tiểu luận chắc chắn còn có nhiều
thiếu sót và khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của thầy giáo
hướng dẫn để nội dung của tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn./.


1

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
I. Một số vấn đề về nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, Nhà nước là một phạm trù lịch sử.
Nhà nước không đồng nghĩa với xã hội, không phải xã hội loài người hình thành là
đã có nhà nước. Lịch sử xã hội đã có một thời kỳ chưa có nhà nước - thời kỳ xã hội
cộng sản nguyên thuỷ; chỉ đến khi xã hội phân chia thành giai cấp nhà nước mới ra
đời.
Chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành những giai cấp đối kháng - chủ
nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa các giai cấp, cuộc đấu tranh giữa giai cấp đó không
ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được. Để bảo vệ lợi ích
của mình, giai cấp chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp. Bộ máy đó là nhà
nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, tiếp đó là nhà
nước phong kiến, nhà nước tư bản đều xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng giai cấp
vốn có của mỗi xã hội đó. Như vậy, nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những
mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không
thể điều hoà thì ở đó nhà nước xuất hiện.
Bản chất nhà nước là nền chuyên chính của một giai cấp này đối với giai cấp
khác và đối với toàn xã hội. Nhờ có bộ máy nhà nước, giai cấp thống trị chiếm số ít
trong dân cư duy trì được sự áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị bao giờ
cũng chiếm số đông. Bản chất đó được thể hiện ở chức năng và đặc trưng của nhà
nước.

Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, nhà
nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ "công bằng" bảo vệ lợi ích cho các giai
cấp trong xã hội.
Theo bản chất đó, nhà nước, là một bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc
thượng tầng của xã hội có giai cấp. Do đó, "Nhà nước nói chung chỉ là sự phản ánh,
dưới hình thức tập trung của những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản
xuất".
Về mặt chức năng, Nhà nước có chức năng gia cấp, nhà nước là công cụ đắc
lực bảo vệ chế độ xã hội hiện hành; trấn áp phản kháng của giai cấp khác. Đồng
thời nhà nước còn thực hiện chức năng quản lý các hoạt động chung của xã hội; xã
hội hóa một số lĩnh vực hoạt động xã hội. Hai chức năng này có mối quan hệ mật
thiết với nhau, xong chức năng giai cấp chiếm vị trí quyết định.
2

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

II. Cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
1. Khái quát sự hình thành và nội dung tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
trong lịch sử nhân loại
1.1. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân
chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư
tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN),
Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị và
pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755),
J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển

như một thế giới quan pháp lý mới.
1.2. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền.
Khái niệm nhà nước pháp quyền
Về mặt khái niệm, có rất nhiều quan điểm khác nhau, nhìn chung có thể khái
quát lại:
Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có
sự ngự trị cáo nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
Đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền
- Nhà nước pháp quyền là biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ vừa là
bản chất của nhà nước pháp quyền vừa là điều kiện, tiền đề của chế độ nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
- Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đề cao và đảm bảo quyền con người trong mọi
lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
- Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức và thực hiện theo
các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực và kiểm soát quyền lực.
- Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù
hợp.
- Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân
chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu
cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn
trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.
- Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong các
mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.
Cho đến nay, ở nước ta chưa có một khái niệm thống nhất về Nhà nước pháp
quyền. Nhưng qua các công trình nghiên cứu thì các học giả đều có chung quan
điểm đó là một cách tổ chức quyền lực Nhà nước, chứ không phải là một kiểu Nhà
nước. Khác với Nhà nước thần quyền, Nhà nước độc tài, chuyên chế, Nhà nước
pháp quyền đề cao dân chủ, coi trọng pháp luật và phân công thực hiện quyền lực
(quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) trong nhà nước. Đặc biệt, trong

Nhà nước pháp quyền, quyền con người luôn luôn được coi trọng; pháp luật quy
định đầy đủ về quyền con người và được bảo đảm thực hiện trong thực tế.
3

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền với tính cách là những giá trị phổ
biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Trong ý nghĩa này nhà nước pháp
quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà
nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có ý nghĩa là nhà nước pháp quyền gắn
liền với một nền dân chủ, tuy không phải là một kiểu nhà nước được xác định theo lý
luận về hình thái kinh tế - xã hội, nhưng không thể xuất hiện trong một xã hội phi dân
chủ. Điều này cắt nghĩa vì sao ý tưởng về một chế độ pháp quyền đã xuất hiện từ rất xa
xưa, thậm chí từ thời cổ đại bởi các nhà tư tưởng phương Tây, hay tư tưởng pháp trị tại
Trung Hoa cổ đại, nhưng mãi đến khi nhà nước tư sản ra đời, với sự xuất hiện của nền
dân chủ tư sản, nhà nước pháp quyền mới từ nhà nước ý tưởng dần trở nên một nhà
nước hiện thực.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền
XHCN
Ở nước ta, tư tưởng Nhà nước pháp quyền đã có từ lâu. Nghiên cứu các bản
Hiến pháp nước ta từ trước tới nay (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992) cho thấy
các yếu tố đặc trưng của Nhà nước pháp quyền đã được hình thành.
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), trong đó
có việc đổi mới tư duy lý luận, chống duy ý chí trong lý luận, nhận thức… thì quan
niệm về Nhà nước pháp quyền đã dần dần được ghi nhận, hình thành và phát triển.
Từ Đại hội VII đến Đại hội VIII, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

nhà nước pháp quyền đã có bước phát triển. Nếu như ở Đại hội VII, Đảng ta mới
chỉ xác định yêu cầu phải xây dựng nhà nước pháp quyền và mới chỉ định hình
được rằng, đó là nhà nước có năng lực định ra một hệ thống luật pháp đồng bộ để
quản lý mọi mặt đời sống xã hội, thì đến Đại hội VIII, Đảng ta lại xác định thêm
tính “xã hội chủ nghĩa” cho nhà nước pháp quyền, tức là chủ trương xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở đây, chúng ta thấy bước phát triển tư duy lý
luận của Đảng về nhà nước pháp quyền là ở chỗ đã đề cao tính pháp chế, coi đó là
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền, đồng thời cũng coi trọng khía cạnh đạo
đức như một thuộc tính của xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và xác định bản chất của nhà nước, đó là của dân, do dân và vì dân.
Đồng thời với chủ trương tăng cường pháp chế, các Nghị quyết của Đại hội IX
cũng chủ trương mở rộng dân chủ - là cơ sở chính trị - xã hội của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Còn về cơ sở kinh tế - chính trị của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa được Đảng ta dựa trên bản chất định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường.
Chủ trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã
được Đảng ta khẳng định lại ở Đại hội X: “Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản
4

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp

trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”
Như vậy, ở đây chúng ta vẫn dễ dàng nhận thấy rằng, tính pháp chế là đặc
trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền và bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Về mặt tư duy lý luận, có lẽ
điểm khác biệt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam so với các nhà
nước pháp quyền khác là ở cơ chế vận hành của nhà nước, bởi vì ở các nhà nước
pháp quyền tư sản thì cơ chế vận hành phổ biến là “tam quyền phân lập”. Việc
Đảng ta xây dựng cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực nhà nước là thống
nhất, chính là dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước và
pháp luật.
Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, có thể thấy:
Một là, Đảng đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng và
Nhà nước.
Hai là, nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: là phương thức tổ
chức dân chủ quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện
quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã hội.
Ba là, nhất quán chỉ rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân.
Bốn là, nhận rõ đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp chế,
khẳng định vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, tính tối
cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội.
Năm là, xác định được cơ chế vận hành của các cơ quan quyền lực nhà nước:
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sáu là, thấy rõ yêu cầu mở rộng dân chủ đồng thời với việc tăng cường kỷ
luật, kỷ cương, giáo dục đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa.
Bảy là, khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Điều đó không chỉ mang tính nguyên tắc được khẳng định từ lý
luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn là kết luận chắc chắn được rút ra
từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay. Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm
bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân, thực sự là nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phối
hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp nhà nước hoàn
thành mọi nhiệm vụ của mình và giữ vững tính chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước
pháp quyền.
5

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

Quan điểm trên của Đảng đã được thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước
ta. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung tại mục 2 điều 1 Nghị quyết
số: 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992) quy định như sau: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, vì nhân dân, do nhân dân.Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân…
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; đến nay
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 vẫn tiếp tục khẳng định và bổ sung hoàn thiện quan
điểm trên.
3. Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa

- Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Khi nói Nhà nước của dân, ý muốn nói nhân dân là người chủ quyền lực Nhà
nước - nguyên lý ấy là nền tảng, là cái bất biến của Nhà nước ta trong suốt gần 70
năm xây dựng và trưởng thành. Quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. “Chế
độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ; nước ta là nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Nhân dân, người chủ của Nhà nước, bắt nguồn từ
thực tế nhân dân là người sáng tạo chân chính của lịch sử và làm ra mọi của cải vật
chất, tinh thần cho xã hội.
Sự tồn tại, hoạt động của Nhà nước cũng phải “do dân”. Bằng kết quả đấu
tranh cách mạng lâu dài của nhân dân mà Nhà nước được thành lập. Các cơ quan,
nhân viên Nhà nước là do dân lựa chọn cử, bầu ra.
Mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các cán bộ, công chức phải quán
triệt quan điểm vì dân. Một Nhà nước vì dân coi việc đem lại quyền lợi chính đáng
cho dân là mục tiêu hoạt động của mình. Sứ mệnh “vì dân” hàm chứa một nội dung
cực kỳ súc tích thể hiện đầy đủ vai trò, bản chất, chức năng của một Nhà nước dân
chủ.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Liên minh công - nông - trí
thức bao hàm những nội dung chính là: liên minh về chính trị, liên minh về kinh tế
và liên minh về xã hội.
- Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp, tư
pháp, nhằm hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại tới lợi ích hợp pháp
của công dân từ phía Nhà nước. Đây là vấn đề vừa khoa học, vừa thực tiễn;
phức tạp và rất nhạy cảm.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, chứ không phải là cơ quan được giao
tất cả quyền lực của nhân dân. Nghĩa chữ cũng đã rõ ràng: “Cao nhất” khác với
“Toàn bộ”. Toàn bộ quyền lực thì ở và chỉ ở nhân dân mà thôi. Đó là tư tưởng Hồ

Chí Minh.

6

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những
vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Chính phủ, cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chánh Nhà nước
cao nhất của đất nước, có quyền ra các văn bản pháp quy (Nghị định, Nghị
quyết…) gọi tắt là quyền lập quy tức quyền ra các văn bản có giá trị dưới luật.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Nhà nước.
Trên lĩnh vực hoạt động tư pháp, tòa án là cơ quan xét xử độc lập, các thẩm
phấn khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất. Quan điểm có tính nguyên tắc này thể hiện
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực hiện
quyền lực Nhà nước. Đó là một Nhà nước mà mọi quyền hạn và hiệu lực đều ở nơi
dân. Đại hội XI của Đảng đã bổ sung, phát triển quan điểm: “Nhân dân thực hiện
quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các
hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện” (1).
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, nhưng phải có sự phân công và phối hợp
hiệu quả giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Điều đó có nghĩa là phải coi trọng việc xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền để
hạn chế đến mức thấp nhất sự lạm quyền, lộng quyền, xâm hại lợi ích hợp pháp của

công dân từ phía Nhà nước, hoặc chồng chéo, cản trở công việc chung.
- Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất
của Trung ương.
Tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung đều bao hàm hai thành tố: tập trung
và dân chủ. Hai thành tố đó không hề đối lập nhau mà có mối quan hệ biện chứng
với nhau và cùng phát triển theo tỷ lệ thuận. Tập trung càng cao thì dân chủ càng
được mở rộng, và ngược lại. Tập trung ở đây không phải là tập trung quan liêu, tập
trung độc đoán. Dân chủ ở đây là dân chủ thực sự, chứ không phải dân chủ mang
tính hình thức, hay dân chủ “không giới hạn”, dân chủ cực đoan, muốn làm gì thì
làm. Tập trung trên cơ sở dân chủ thì tập trung sẽ thúc đẩy dân chủ rộng rãi và có
chất lượng cao hơn. Tập trung là đòi hỏi của chính bản thân dân chủ. Ngược lại,
dân chủ trên cơ sở tập trung sẽ dễ dàng đạt tới sự thống nhất cao. Lúc đó, dân chủ
trở thành đòi hỏi của chính bản thân tập trung. Dân chủ mà không tập trung, về
thực chất, là xóa bỏ dân chủ. Tập trung mà không dân chủ, về thực chất, cũng là
xóa bỏ tập trung.
Xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
bộ máy Nhà nước sẽ kém hiệu lực và sức mạnh. Quan điểm này được biểu hiện cơ
bản nhất ở cách thức tổ chức và phân công quyền lực giữa các cơ quan Nhà nước, ở
sự phân cấp giữa chính quyền Trung ương và địa phương, ở chế độ giao quyền và
tự chịu trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân

7

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

chủ thường được thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp

dưới, giữa cá nhân phụ trách với tập thể lãnh đạo.
Tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương,
đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương, khắc phục khuynh
hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức.
Trên cơ sở đó, giữ vững được bản chất giai cấp, quyền lực Nhà nước sẽ thống
nhất và tập trung nơi nhân dân; nguyên tắc tập trung dân chủ có điều kiện để trở
thành hiện thực. Đây là một quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là biện pháp cần thiết để bảo đảm dân
chủ, thể hiện ở việc thể chế hóa đầy đủ bằng pháp luật quyền làm chủ của nhân dân
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và quyết tâm đưa pháp luật vào cuộc sống,
thực thi pháp luật; đặt Hiến pháp và các đạo luật ở vị trí cao nhất trong việc điều
chỉnh các quan hệ thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống pháp luật luôn luôn được đổi mới theo yêu cầu toàn diện của nhiệm
vụ quản lý xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học
và công nghệ… Đồng thời phải coi trọng công tác giáo dục pháp luật, nâng cao đạo
đức.
Nhà nước bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, mọi tổ
chức đảng, mọi cơ quan Nhà nước, đoàn thể…đều phải hoạt động theo Hiến pháp
và pháp luật. Không một tổ chức, cá nhân dù ở cương vị nào được đứng trên pháp
luật. Tất nhiên, đối với các hoạt động phá hoại, gây rối, thù địch thì pháp luật phải
nghiêm trị.
- Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là trọng
trách của Đảng cầm quyền, là một tất yếu khách quan, yêu cầu cần thiết mà thực
tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta đặt ra.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nhà nước, pháp luật là bộ máy và phương
tiện chuyển tải đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống. Đảng lãnh đạo nhân
dân làm cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân, và Đảng tiếp tục lãnh đạo

xây dựng Nhà nước, lãnh đạo hoạt động của Nhà nước nhằm xây dựng chủ nghĩa
xã hội là lẽ đương nhiên.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân phải bao quát toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền và dựa trên cơ sở
Đảng thường xuyên được đổi mới, chỉnh đốn, xứng đáng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân, thật sự là một Đảng cách mạng chân chính.
Nhà nước còn chịu sự giám sát và phản biện xã hội của nhân dân, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Với những đặc trưng nêu trên, Nhà nước pháp quyền của ta đã thể hiện những
tư tưởng quan điểm tiến bộ, phản ánh khát vọng của nhân dân đối với công lý, tự
do, bình đẳng trong một xã hội còn tồn tại giai cấp.
8

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

4. Một số nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay
Nghiên cứu lý luận về Nhà nước pháp quyền, quán triệt quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đường lối, chiến lược, chính
sách của Đảng, có thể rút ra một số nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở nước ta hiện nay như sau:
Một là, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực Nhà nước vừa trực tiếp vừa gián tiếp, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với cơ quan Nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân giao phó.
Quyền giám sát đó được đảm bảo bằng cơ chế và công cụ pháp lý hữu hiệu.
Hai là, các quan hệ cơ bản phải được điều chỉnh bằng pháp luật, chứ không

phải chỉ bằng đạo lý. Pháp luật đóng vai trò là khuôn mẫu cho hành vi, là qui tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung, tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho xử sự của từng
cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội. Ở nghĩa này, Nhà nước không “làm ra” luật mà
chỉ hình thức hoá các quy tắc, các mô hình phổ biến của các hành vi xã hội. Các
thiết chế của Nhà nước phải là công cụ đắc lực để thực thi pháp luật.
Ba là, pháp luật phải giữ vị trí chủ đạo trong toàn xã hội, trong mọi xử sự
của các chủ thể quan hệ xã hội. Mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức phải tuyệt đối
tuân thủ tính thống nhất của pháp luật, trong đó tính tối cao của hiến pháp và luật
phải được đặc biệt coi trọng; Các văn bản dưới luật phải phục tùng chúng, phải bảo
đảm tính hợp pháp, tính hợp hiến và tính pháp chế.
Bốn là, không một tổ chức, cá nhân nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật
hoặc thậm chí đứng trên pháp luật; Đảm bảo nguyên tắc: Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật. Đồng thời với nguyên tắc này, Nhà nước tiến tới thực hiện
nguyên tắc: “Có thể làm tất cả những gì luật không cấm” đối với công dân, tất
nhiên phải trong khuôn khổ đạo đức xã hội, phải tôn trọng lợi ích của xã hội và của
người khác. Con người phải là mục tiêu cao nhất để pháp luật bảo vệ và có giá trị
cao nhất. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội.
Với những nguyên tắc trên, Nhà nước pháp quyền do đó phải là một Nhà nước
đích thực của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trong đó, tất cả quyền lực phải
thực sự thuộc về nhân dân.

9

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

CHƯƠNG II.
MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG

QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
1. Một số thành tựu trong tư duy lý luận của Đảng về nhà nước pháp
quyền
a. Những thành tựu quan trọng
Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là một
quá trình khó khăn, phức tạp và không phải không có những do dự; những cân nhắc
nhất định. Song có thể khẳng định, cho đến nay, trong nhận thức và quan điểm của
Đảng về vấn đề nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền nước ta đã
đạt được những kết quả quan trọng
- Từ chỗ còn mơ hồ trong nhận thức về mô hình “nhà nước pháp quyền'', thậm
chí xem nhà nước pháp quyền là sản phẩm của chính trị hội tư sản, gắn với nền
chính trị và dân chủ tư sản, coi nó là một kiểu nhà nước, một chế độ nhà nước của
giai cấp tư sản, chỉ tồn tại trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, thì Đảng ta đã đi
đến thừa nhận nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và hoạt động của
nhà nước hàm chứa những giá trị có tính phổ biến, có thể và cần phải được vận
dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Từ chỗ nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của pháp luật, Đảng ta đã đi đến chính
thức thừa nhận và sử dụng khái niệm ''nhà nước pháp quyền” và từng bước xác
định rõ ràng hơn, cụ thể hơn những yêu cầu, đặc trưng phù hợp với các đặc điểm về
chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội của nước ta, nhất là những đặc điểm đó được
đặt trong bối cảnh của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nuớc.
Từ chỗ sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau như: ''Nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam''; ''Nhà nước của dân do dân, vì dân”, ''Nhà nước pháp quyền, Việt
Nam”, ''Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; ''Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân” v.v. đến nay, trong các văn kiện chính thức của Đảng đã thống nhất
sử dụng khái niệm ''Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
- Quá trình hình thành quan niệm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam cũng chính là quá trình nhận thức và suy tư, trăn trở, tìm cách
vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, học thuyết Mác-Lênin về nhà nước nói

riêng cho phù hợp vời đặc điểm cụ thể và định hướng phát triển của xã hội Việt
Nam.
Trong bối cảnh phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ kháng chiến và kiến
quốc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, và sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả
nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, những kết quả đã được trong tư duy về nhà
nước pháp quyền Việt Nam là rất đáng ghi nhận.
Có thể khẳng định rằng, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
nhà nước đã được Đảng ta nhận thức và vận dụng ngày càng nhuần nhuyễn và hiệu
quả trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
10

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

b. Một số vấn đề về lý luận cần tiếp tục giải quyết trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở nước ta
- Vấn đề thiết kế mô hình cụ thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Mô hình nhà nước pháp quyền đã được nhân loại thử nghiệm, chọn lọc qua
nhiều thế kỷ và đang trở thành hình thức phổ biến trong thế giới đương đại. Tuy
nhiên, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không có nghĩa là “bê nguyên”
những hình thức ấy.
Ở mỗi quốc gia, nhà nước pháp quyền cũng có những nét độc đáo riêng, tuỳ
thuộc vào các đặc điểm, truyền thống dân tộc cũng như điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội và văn hoá. Hơn nữa, Nhà nước pháp quyền mà nhân dân ta đang xây dựng
là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước này có những đặc trưng cơ
bản riêng biệt, về bản chất, là đối lập với nhà nước pháp quyền tư sản. Vì vậy, việc

học tập, chọn lọc, cải biến, kế thừa mặt này, mặt kia của mô hình nhà nước pháp
quyền trên thế giới là khá phức tạp và rất phức tạp mà tư duy lý luận cần giải quyết.
- Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
Điều khác nhau căn bản với nhà nước pháp quyền tư sản là Nhà nước pháp
quyền ở nước ta do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hơn nữa, chế độ ta là chế độ một
đảng. Nói chế độ nhiều đảng dân chủ hơn chế độ một đảng là không chính xác,
nhưng cũng phải thấy rằng, trong chế độ một đảng, Đảng lãnh đạo như thế nào để
đảm bảo dân chủ, đảm bảo cho Nhà nước thực sự là quyền lực của nhân dân cũng
là vấn đề phức tạp. Đảng ta lãnh đạo Nhà nước không có mục đích nào khác hơn là
đem lại quyền dân chủ, quyền làm chủ cho nhân dân. Nhưng, lãnh đạo như thế nào
để đạt được mục đích đó là một bài toán không dễ. Thực tiễn trong hơn 20 năm đổi
mới đã cho thấy điều đó.
Do vậy, để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một cách có hiệu
quả, Đảng phải tự đổi mới phương thức lãnh đạo của mình trên cơ sở giải quyết
đúng đắn quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, phân định một cách khoa học, rõ ràng
chức năng của Đảng và của Nhà nước. Đây là vấn đề không đơn giản cả về lý luận
lẫn thực tiễn.
- Vấn đề tạo lập những điều kiện, cơ sở cho việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng
những điều kiện cho việc xây dựng đó còn có những hạn chế nhất định. Trước hết,
đó là việc chuẩn bị về mặt lý luận. Phải nói rằng, trong những năm đổi mới, chúng
ta đã có những bước khởi động và tập trung nghiên cứu, tiếp cận và giải quyết từng
vấn đề, từng khía cạnh cụ thể lý luận Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Tuy nhiên,
việc thiết kế mô hình cụ thể chưa thực sự thật chín muồi, không ít vấn đề còn phải
được nghiên cứu, trao đổi, tranh luận trên các diễn đàn, các trang sách báo.
Liên quan đến lý luận nhà nước pháp quyền còn phải nói đến một số lý luận
khác, như xã hội công dân, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề này, cũng có thể nói, chưa được nghiên cứu đủ tầm cả về bề rộng lẫn
chiều sâu; hơn nữa, vẫn còn có những quan niệm chưa thống nhất, nhất là về xã hội

11

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

công dân. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở xã hội công dân. Đến
lượt mình, xã hội công dân chỉ có thể được hoàn thiện và phát triển thuận lợi trên
cơ sở nhà nước pháp quyền.
2. Một số thành tựu quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
2.1. Về xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Nhà nước
- Chúng ta đã đổi mới và nâng cao một bước chất lượng hoạt động của Quốc
hội trên các mặt như các kỳ họp Quốc hội, chất lượng và hoạt động của đại biểu
Quốc hội, vị thế của Quốc hội trong bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội.
Quốc hội đang thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có khả năng thực
hiện tốt nhất quyền lập pháp, quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước và quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quốc hội càng cố gắng vươn lên, đáp ứng những yêu cầu cuộc sống đặt ra đòi
hỏi Quốc hội phải thể hiện rõ khả năng của mình trong việc thực hiện chức năng
lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời,
Quốc hội cũng đã thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong cơ chế quyền lực theo
nguyên tắc: “Quyền lực Nhà nước ta là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Hoạt động lập pháp Lập pháp là một trong những lĩnh vực hoạt động cơ bản
nhất của Quốc hội, nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành các quy
định của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng.

Trên cơ sở đó, hệ thống pháp luật đã từng bước được hoàn thiện, góp phần quan
trọng vào “việc giữ vững” ổn định chính trị, đổi mới kinh tế và mọi mặt cuộc sống.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội đã không ngừng được tăng cường và đổi mới.
Quốc hội đã thông qua các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1958, năm 1980, năm
1992 và Hiến pháp năm 2013 sửa đổi bổ sung Hiến pháp năm 1992 cùng hàng trăm
luật và Bộ luật tạo nên cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Số lượng luật được thông qua ở mỗi kỳ họp gần đây cũng tăng lên đáng kể, các
đạo luật được ban hành đã thực sự quy định các vấn đề cơ bản, quan trọng thuộc
các lĩnh vực về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân như Bộ luật Hình sự, Bộ luật
Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật
Hàng hải, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, Luật Đất đai…
- Củng cố, kiến toàn hội đồng nhân dân các cấp làm đúng chức năng, nhiệm vụ
theo luật định.
- Hoàn thiện các quy định và tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính nhà nước
theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
+ Thành tựu quan trọng nhất về mặt thể chế là những quy định mới của Hiến
pháp năm 1992 (đã được sửa, bổ sung đổi năm 2001) về vị trí, vai trò của Chính

12

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

phủ, đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc thúc đẩy cải cách Chính phủ theo yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Đồng thời trong Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên chính thức khẳng định Chính

phủ thực hiện quyền hành pháp. Theo đó, đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng
về phạm vi và nội dung quyền hành pháp của Chính phủ. Với nội dung quy định tại
Khoản 1 và 2 Điều 96 của Hiến pháp 2013, quyền hành pháp của Chính phủ được
bổ sung, đổi mới, hoàn thiện một bước, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền
hành pháp hiện đại: hoạch định, điều hành chính sách quốc gia và tổ chức thi hành
các đạo luật.
+ Hệ thống thể chế được đổi mới và hoàn thiện, phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
+ Chức năng của Chính phủ và các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà
nước được điều chỉnh, bảo đảm sự phù hợp với cơ chế kinh tế mới và hội nhập kinh
tế.
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương được điều chỉnh, sắp xếp theo hướng tinh gọn, hợp lý,
hiệu lực, hiệu quả.
+ Chế độ làm việc, quan hệ công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được
đổi mới, đạt được những thành tựu quan trọng.
+ Thủ tục hành chính trong quan hệ giải quyết công việc của cá nhân, tổ chức
được cải cách mạnh mẽ.
+ Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ được đổi mới nhằm phát
huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Chính phủ trong quản lý, điều hành đất
nước.
- Cải cách một bước nền hành chính nhà nước, trước hết đã tập trung cải cách
thủ tục hành chính, từng bước cải cách thể chế hành chính trên các lĩnh vực phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong
điều kiện hội nhập quốc tế; xây dựng một hệ thống hành chính thông suốt, rõ về
chức năng, nhiệm vụ, tinh giản gọn nhẹ.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Việc quản lý, sử dụng, được đổi mới một bước theo các quy
định của pháp luật về cán bộ công chức. Coi trọng gắn kết hợp chế độ trách nhiệm,
khen thưỏng và kỷ luật. Cải cách một bước chế độ tiền lương để nâng cao đời sống.

Quan tâm đầu tư cho cán bộ cấp cơ sở.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp đảm bảo dân chủ, khách
quan, minh bạch, chống và giảm bớt oan, sai. Củng cố đồng bộ hệ thống cơ quan
toà án, viện kiểm sát,điều tra, thi hành án, bổ trợ tư pháp.
Vai trò và vị trí của các cơ quan tư pháp, quyền tư pháp cũng như công tác cải
cách tư pháp ngày càng được đề cao, vai trò của cơ quan này trong việc xây dựng
hệ thống pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tư pháp từng bước được thực hiện
theo đúng định hướng của Đảng. Việc thực hiện chủ trương tăng cường tranh tụng
tại phiên tòa, kết hợp với kết quả điều tra tố tụng làm cơ sở chắc chắn cho các phán
quyết của tòa án có sức thuyết phục cao cho dư luận xã hội; đồng thời, đổi mới tổ
13

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

chức hoạt động công chứng, giám định, chất lượng luật sư bước đầu đã đạt kết quả
tích cực.
Số lượng và chất lương đội ngũ cán bộ tư pháp đã được nâng lên rõ rệt (cho đến
nay, các cơ quan tư pháp đã được thành lập ở cả 4 cấp, từ Trung ương đến cấp xã
với hơn 2 vạn cán bộ công chức, trong đó có gần 1 vạn cán bộ tư pháp- hộ tịch
chuyên trách ở xã, phường, thị trấn), chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp
từng bước được cải thiện; tiêu chuẩn, cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm các chức danh
tư pháp cơ bản đã được thể chế hóa rõ ràng; đồng thời việc đầu tư xây dựng trụ sở,
trang bị phương tiện làm việc của cơ quan tư pháp được quan tâm hơn. Những kết
quả trên đã tăng thêm sự tôn nghiêm của pháp luật, hoạt động hợp tác quốc tế trong
hoạt động tư pháp được tăng cường phù hợp với đường lối chung của Đảng và Nhà
nước.
- Tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh chống tham nhũng,

quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước.
2.2. Về xây dựng, đổi mới hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật
Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn, cơ chế
xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đã có những đổi mới
quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình hình và nhiệm vụ mới
của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với đòi hỏi của tình hình. Các văn bản luật
được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các lĩnh vực: tổ chức,
hoạt động của nhà nước (Luật Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức
Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Viện kiểm sát...); trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh (Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh
doanh bảo hiểm...); trong bảo vệ quyền của công dân và các chủ thể…
Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước đã dần
thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.
Công tác thi hành pháp luật được quan tâm và chú trọng hơn; công tác phổ biến
giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được triển khai khá đồng bộ, có trọng tâm,
trọng điểm với nhiều hình thức phong phú, thiết thực.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật được tiến hành
thường xuyên, tập trung vào những lĩnh vực bức xúc của cuộc sống, qua đó đã khắc
phục được nhiều sơ hở, khiếm khuyết của các văn bản pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật.
Có thể nói, sau 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta đã có những
tiến bộ quan trọng, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có bước đổi mới và chuyển
biến đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt sau 5 năm thực hiện Nghị
quyết số 48/NQ-TW của Bộ Chính trị (ban hành năm 2005) về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

14

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

năm 2020, hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành mới hoặc sửa
đổi, bổ sung trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần tiếp tục tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã
hội và đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
3. Những hạn chế cần khắc phục trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam
Việc kết hợp giữa lý luận và thực tiễn còn nhiều vấn đề bất cập, từ nhận thức
đến thực tiễn còn là một khoảng cách. Có lúc nhận thức đúng, nhưng lại vận dụng
sai. Khi thực hiện, chúng ta chưa có những định hướng cải cách rõ ràng, đáng kể về
bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp, chưa theo kịp với sự vận động khách quan
của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội. Những chủ trương, định hướng phát triển hệ
thống pháp luật còn manh mún, thiếu tầm nhìn bao quát. Vị trí của pháp luật trong
đời sống xã hội chưa thực sự được tôn trọng đúng mức. Nhiều vấn đề về lý luận
chưa được giải quyết thấu đáo.
Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm,
yếu kém: tổ chức còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, chồng chéo về chức năng,
nhiệm vụ, thảm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước chưa được xác định
rõ; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước chưa cao.
Hoạt động lập pháp đang đứng trước yêu cầu to lớn về hoàn thiện hệ thống
pháp luật cũng như yêu cầu mới mẻ, phức tạp của việc điều chỉnh pháp luật nên đã
bộc lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật và trong
xác định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật cũng như nâng cao tính
khả thi và tính hiệu lực của văn bản pháp luật.

Hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, thiếu toàn diện. Nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội vẫn chưa có luật điều chỉnh.
Nhiều luật đã ban hành còn thiếu độ minh bạch, thiếu ổn định; nhiều quy định
không trực tiếp điều chỉnh được các quan hệ xã hội phải chờ đợi văn bản hướng
dẫn mới đi vào cuộc sống, cho nên kém hiệu lực, hiệu quả. Nội dung của một số
văn bản quy phạm pháp luật chưa theo kịp với sự phát triển của thực tiễn, còn mang
nặng mong muốn chủ quan, vì vậy tính khả thi thấp.
Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước còn bộc lộ không ít những nhược
điểm, nhiều mặt còn chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ
chức hành chính chưa thông suốt, còn hạn chế trong việc xử lý mối quan hệ ngang,
thậm chí còn hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu
rành mạch. Thẩm quyền cá nhân chưa được quy định rõ. Phong cách làm việc trước
dân của cán bộ, công chức còn là vấn đề bức xúc.
Về lĩnh vực tư pháp, tổ chức và hoạt động còn nhiều bất cập, sai sót.
Hệ thống pháp luật còn cần tiếp tục đổi mới mạnh và sâu sắc hơn nữa. Nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền đang đặt ra là
quyết tâm đổi mới hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi
pháp luật nghiêm minh.

15

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

CHƯƠNG III.
MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI VIỆT NAM
1. Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và

thực hiện nghiêm minh pháp luật.
Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và cán bộ, công
chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá đúng sai, tăng cường
pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội.
Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các lĩnh vực
hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ tự ưu tiên cần
thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong cuộc
sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật.
Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật về phát
triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp luật về nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc.
Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức.
Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh.
Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải theo kịp
yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch vụ và tư
vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật,
xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội.
2. Tiếp cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành văn bản
quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật.
Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách hành chính. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ,
trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Điều chỉnh chức năng và cải tiến
phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc

thực hiện các nhiêm vụ trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn
chỉnh. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa
lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công.
Phân công, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết
hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ; tổ chức hợp lý hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên
môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp trong sạch, công tâm,
16

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

khách quan, độc lập trong hoạt động nghiệp vụ đồng thời chịu sự kliểm tra, giám
sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống toà án nhân dân, phân định hợp
lý thẩm quyền của tòa án các cấp. Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu
mối. Thành lập cảnh sát tư pháp.
3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế.
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, hoàn
thiện các quy định vè tiêu chuẩn đại biểu, các quy định về bầu cử, ứng cử trên cơ sở
thật sự phát huy dân chủ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp
ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thảo
luận quyết định những vấn đề quan trọng.
Chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tôn
trọng các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham
gia.

Quan tâm giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân.
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp
luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
4. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo đức.
Có kế hoạch, chính sách đào tạo cán bộ, công chức và sắp xếp đội ngũ cán bộ
công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng
cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức thoái hoá, yếu kém.
Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi
ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
5. Đấu tranh chống tham nhũng.
Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng
trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành từ TƯ
đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, chống buôn lậu.
Bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách, không để sở hở, lợi dụng.
Xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm
kê, kiểm soát. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nâng cao đời sống, chống đặc
quyền đặc lợi.
Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức đảng, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chống
tham nhũng. Có chính sách khen thưởng đối với người có thành tích.
Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức.
Xử lý nghiêm theo pháp luật và theo Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên vi
phạm ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào. Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc có hình
thức kỷ luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra
những vụ tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo
17


Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

của Đảng đối với nhà nước là yêu cầu cấp bách. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với nhà nước là bảo đảm cho việc giữ vững bản chất XHCN của nhà nước và
cho sự thành công của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Trong quá trình hiện nay sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở
việc đề ra chủ trương, đường lối và các chính sách lớn địnhhướng cho sự phát triển
trong từng thời kỳ; lãnh đạo nhà nước thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ
máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dưng đội ngũ cán bộ,
công chức có phẩm chất, có trí tuệ, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng;
kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của đảng, pháp
luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng và hoạt động của các tổ chức đảng
và đảng viên trong bộ máy nhà nước.

18

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

LỜI KẾT THÚC
Có thể nói nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân của Việt Nam là một nhà nước thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước
pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ
hiện đại, vừa khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình.
Trong những năm vừa qua, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của chúng ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
Mặc dù vậy, trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế và bất cập cần được giải quyết.
Vì vậy, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp
quyền XHCN là một quá trình tương đối khó khăn, phức tạp và lâu dài với những
bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính
trị.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, với sự nỗ lực phấn đấu
bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân,
vì dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam./.

19

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

20

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12


Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU


Trang 1

CHƯƠNG I. LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP
Trang 2
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
I. Một số vấn đề về nhà nước
II. Cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa.
1. Khái quát sự hình thành và nội dung tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
trong lịch sử nhân loại.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền
XHCN .
3. Những đặc trưng của nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa.
4. Một số nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay.
CHƯƠNG II. MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM.
1. Một số thành tựu trong tư duy lý luận của Đảng về nhà nước pháp
quyền.
2. Một số thành tựu quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
3. Những hạn chế cần khắc phục trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam.
CHƯƠNG III.MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG NHẰM HOÀN THIỆN
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TẠI VIỆT NAM.
LỜI KẾT LUẬN

21

Trang 2

Trang 2
Trang 2
Trang 4
Trang 6
Trang 8
Trang
10
Trang
10
Trang
11
Trang
15
Trang
16
Trang
19

Học viên: Đặng Thịnh-Lớp HCK18TN12



×