TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
BÀI THU HOẠCH
MÔN: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Giảng viên: TS Võ Xuân Vinh
Lớp: TCDN – Cao học K23
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2014
MỤC LỤC
1. Đề tài 1: Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Đề tài này cung cấp một số hiểu biết về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, từ
lịch sử hình thành và phát triển, thực trạng đến cơ hội và thách thức đối với hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam.
Ngân hàng thương mại (NHTM) đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm
gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có
tác động rất lớn và quan trọng đến quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế
hàng hóa, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là
nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những
định chế tài chính không thể thiếu được.
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển
của từng thời kì cách mạng và công cuộc xây dưng, phát triển đất nước. Qúa trình
phát triển của ngân hàng được chia làm 4 thời kì:Thời kì 1951 – 1954, thời kì 1955 –
1975, thời kì 1975 – 1985, thời kì 1986 đến nay.
Hệ thống NHTM Việt Nam bao gồm:
-
NHTM nhà nước: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam.
NHTM cổ phần: SCB, OCB,…
NH liên doanh: Shinhanvina, Indovina,…
Ngân hàng là ngành có mối quan hệ mật thiết với các biến động của nền kinh tế. Đây
là ngành chịu ảnh hưởng đầu tiên khi nền kinh tế gặp khó khăn nhưng cũng là ngành
hồi phục trước tiên để tạo điều kiện cho nền kinh tế phục hồi và đi vào ổn định. Vì
vậy, những biến động của nền kinh tế, của môi trường kinh doanh có sự ảnh hưởng
mạnh mẽ đến hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam. Môi trường kinh doanh được
chia thành môi trường vĩ mô và vi mô. Môi trường vĩ mô bao gồm: môi trường kinh
tế, môi trường văn hóa – xã hội, môi trường chính trị - pháp luật, môi trường công
nghệ, môi trường nhân khẩu học, môi trường toàn cầu. Môi trường vi mô bao gồm
mức độ cạnh tranh giữa các NH trong nước, NH trong nước và NH nước ngoài và
định chế phi chính phủ.
Thập kỷ qua, cùng với quá trình đổi mới và hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam đã
có nhiều thay đổi quan trọng. Sự xuất hiện của các NH 100% vốn nước ngoài và việc
loại bỏ dần các hạn chế đối với hoạt động của chi nhánh NH đã khiến mức độ cạnh
3
tranh ngày càng trở nên gay gắt, buộc các NH Việt Nam phải tái cấu trúc để tiếp tục
phát triển. Các NHTM cổ phần một mặt đang cấu trúc lại, có sự tham gia của các nhà
đầu tư chiến lược nước ngoài cùng lộ trình tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu là 3.000
tủ VND. Tất cả các động thái này nhằm hướng tới sự phát triển bền vững trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay NH Việt Nam cũng đã có những chuyển biến
tích cực, thứ nhất, quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những kết quả ban đầu
đáng khích lệ; thứ hai, hiệu quả kinh doanh ngân hàng được cải thiện; thứ ba, xử lý
nợ xấu đã đạt được những thành công bước đầu. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn
đọng nhiều bất cập như tổng cầu suy giảm gây khó khăn cho việc hấp thụ vốn, mặc
dù việc xử lý nợ xấu đã thành công bước đầu nhưng vấn đề muôn thuở này vẫn là rào
cản đối với hoạt động ngân hàng, ngoài ra khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
thực hiện tái cơ cấu chậm.
Cùng với cả nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tích cực chuẩn bị những điều
kiện cần thiết để tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nâng dần vị thế của
Việt Nam trên thị trường quốc tế, điều này tạo ra cơ hội để phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế trong nước, đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức cần
phải vượt qua. Trước hết, việc hội hập tạo ra nhiều cơ hội đối với hệ thống ngân hàng
Việt Nam, hội nhập quốc tế sẽ là tăng uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt
Nam, nhất là trên thị trường tài chính khu vực. Hệ thống NHTM và thị trường tiền tệ
hoạt động an toàn và hiệu quả sẽ tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
của chính sách tiền tệ. Hội nhập quốc tế còn buộc các ngân hàng trong nước phải hoạt
động theo nguyen tắc thị trường, khắc phục những nhược điểm còn tồn tại, đồng thời
phải tăng cường năng lực cạnh tranh trên cơ sở nâng cao trình độ quản trị điều hành
và phát triển dịch vụ ngân hàng, khuôn khổ pháp lý sẽ hoàn thiện và phù hợp dần với
thông lệ quốc tế, dẫn đến sự hình thành môi trường kinh doanh bình đẳng và từng
bước phân chia lại thị phần giữa các nhóm ngân hàng theo hướng cân bằng hơn. Các
NHTM trong nước có điều kiện để tiếp cận sự hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn, đào tạo, thông
qua các hình thức liên doanh, liên kết với các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế.
Bên cạnh đó việc hội nhập cũng đem lại một số khó khăn và thách thức nhất định đối
với hệ thống ngân hàng Việt Nam. Việc mở của thị trường tài chính làm tăng số lượng
các ngân hàng có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ và trình độ quản lý, áp lực
4
cạnh tranh cũng tăng dần theo lộ trình nới lỏng các quy định đối với các tổ chức tài
chính nước ngoài. Đồng thời nó cũng làm tăng rủi ro do những tác động từ bên ngoài,
cơ hội tận dụng chênh lệch tỷ giá, lãi suất giữa thị trường trong nước và thị trường
quốc tế giảm dần.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài này đã trình bày một cách chi tiết, rõ ràng về những kiến thức căn bản nhất
cũng như mở rộng về hệ thống ngân hang thương mại ở Việt Nam. Đề tài giúp cho
người đọc hiểu và nắm kĩ hơn về hệ thống ngân hàng thương mại, thực trạng các ngân
hàng thương mại tại Việt Nam, cũng như những khó khăn, thách thức và cơ hội đối
với các ngân hàng thương mại Việt Nam khi mà sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ.
Tuy nhiên khi nhắc đến các khó khăn và thách thức mà các ngân hàng thương mại
Việt Nam gặp phải, đề tài cần nêu thêm những giải pháp để các ngân hàng có thể đối
phó, khắc phục được những khó khăn, thách thức đó. Từ đó, các ngân hàng thương
mại Việt Nam có thể vừa tận dụng được những cơ hội cũng như hạn chế được những
điều không tốt mà hội nhập thị trường mang lại để có thể phát triển ngày một vững
mạnh hơn nữa. Sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng giúp
nền kinh tế ngày càng phát triển hơn.
2. Đề tài 2: Vấn đề nợ xấu ở Việt Nam
Trên thị trường Việt Nam hiện nay, vấn đề xử lý nợ xấu là vấn đề nóng bỏng – cơn ác
mộng kéo dài chưa đến hồi kết. Nợ xấu không những tắc nghẽn dòng tín dụng trong
nền kinh tế mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, chất lượng, hiệu quả hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Do vậy, xử lý nợ xấu là vấn đề cấp thiết và quan
trọng.
Theo định nghĩa nợ xấu của các tổ chức tín dụng thế giới thì: “Một khoản nợ được coi
là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ
90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thoả thuận; hoặc
các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do chắc chắn để nghi
ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ”.
Theo tiêu chuẩn phân loại quốc tế, mức cảnh báo nợ xấu cần xem xét ở ngưỡng trên
3% GDP, trong khi đó tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam đã ở mức báo động, vượt mức chuẩn
5
quốc tế rất nhiều, tăng nhanh và ngày càng khó xử lý trong điều kiện kinh tế tăng
trưởng thấp. Một điểm đáng chú ý là có sự chênh lệch khá lớn về tỷ lệ nợ xấu công bố
từ các nguồn khác nhau, chẳng hạn số liệu nợ xấu tổng hợp từ các báo cáo của các tổ
chức tín dụng khác xa so với số liệu do cơ quan thanh tra giám sát của ngân hàng Nhà
nước và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cũng như các tổ chức quốc tế. Một đặc
điểm nổi bật là nợ xấu của các doanh nghiệp Việt Nam gắn khá chặt chẽ với khu vực
bất động sản (BĐS). Dư nợ cho khu vực này vay chiếm dưới 16% nhưng các tài sản
thế chấp bằng BĐS cho các khoản vay khác nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài
sản thế chấp.
Nợ xấu tăng cao ở Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, nền
kinh tế Việt Nam đã chịu tác động tiêu cực và kinh tế vĩ mô có nhiều yếu tố không
thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn,
những yếu kém của hệ thống tài chính Việt Nam…. Trong đó đáng lưu ý là các nhóm
nguyên nhân sau đây: nhóm nguyên nhân từ môi trường pháp lý về hoạt động ngân
hàng; nội bộ hệ thống tài chính Việt Nam; cơ chế xử lý nợ xấu; môi trường kinh
doanh và hoạt động của doanh nghiệp.
Nợ xấu ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế cũng như đến sự tồn tại và
phát triển của hệ thống tổ chức tín dụng. Do vậy, nợ xấu không chỉ là vấn đề của các
tổ chức tín dụng cần phải giải quyết mà cần có sự chỉ đạo chung của nhà nước. Các tổ
chức tín dụng cần phải nhận thức đúng về nợ xấu, đồng thời tìm và phân tích được
nguyên nhân để từ đó đưa ra giải pháp khắc phục phù hợp. Nếu các tổ chức tín dụng
cố tình che giấu nợ xấu thì sẽ không phản ánh đúng được thực trạng của toàn hệ
thống tổ chức tín dụng và hậu quả là ảnh hưởng đến nguồn cung ứng vốn cho nền
kinh tế. Việc tỷ lệ nợ xấu gia tăng đã tác động mạnh mẽ đến các hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Bởi vì khi con số nợ xấu tăng cao sẽ làm tăng chi phí hoạt động, vì
phải trích lập dự phòng nhiều hơn đối với các khoản nợ nhóm 3, 4, 5; làm hạn chế
khả năng khai thác và đáp ứng vốn, dịch vụ của tổ chức tín dụng cho nền kinh tế.
Tác động của nợ xấu đến các tổ chức tín dụng và nền kinh tế là rất nghiêm trọng, do
đó cần có những giải pháp xử lý nợ xấu một cách hiệu quả. Việc thực hiện các giải
pháp xử lý nợ xấu phải được phối hợp bởi nhiều cơ quan, tổ chức như các tổ chức tín
6
dụng, ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính và cả về phía các doanh nghiệp. Đồng thời
cũng nên học hỏi một số kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới để
việc xử lý nợ xấu tại Việt Nam hiệu quả hơn.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài cung cấp một cái nhìn bao quát về nợ xấu cũng như thực trạng về nợ xấu ở Việt
Nam. Qua đây cũng cho người đọc thấy được sự nghiêm trọng của vấn đề nợ xấu đối
với các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế, cũng như nêu ra được những nguyên
nhân dẫn đến nợ xấu và các giải pháp để xử lý nợ xấu một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, về phần thực trạng nợ xấu tại thị trường Việt Nam, đề tài cần cụ thể, đưa
ra nhiều số liệu và ví dụ về nợ xấu tại một số tổ chức tín dụng hơn nữa để có thể nhấn
mạnh hơn nữa vấn đề nợ xấu là một vấn đề gây nhức nhối không chỉ cho các tổ chức
tín dụng mà của cả nền kinh tế. Một số các giải pháp xử lý nợ xấu mà đề tài đưa ra
cũng đã được nhắc đến nhiều nhưng việc thực hiện nó tại thị trường Việt Nam ra sao
và kết quả đem lại như thế nào vẫn chưa được thể hiện ở trong đề tài này.
3. Đề tài 3: Thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế
chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng
của thị trường tài chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.
Thị trường chứng khoán có chức năng huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, cung cấp
môi trường đầu tư cho công chúng, tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô, tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán, đánh giá hoạt
động của các doanh nghiệp.
Các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán bao gồm: nhà phát hành, nhà đầu
tư, các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán, các tổ chức liên quan đến thị
trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán hoạt động theo nguyên tắc: trung gian,
đấu giá, công khai, tập trung.
Tại thị trường chứng khoán Việt Nam, việc điều hành và giám sát được tổ chức ở
nhiều cấp độ khác nhau, gồm 2 nhóm: Các cơ quan quản lý của chính phủ và các tổ
chức tự quản. Tuy hoạt động theo nguyên tắc và được điều hành, giám sát nhưng thị
trường chứng khoán Việt Nam vẫn tồn tại một số tiêu cực như: đầu cơ (thao túng),
7
mua bán nội gián, phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc, mua bán cổ
phiếu ngầm. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này là gì: thứ nhất, luật chứng
khoán vẫn còn những thiếu sót, chưa phù hợp; thứ hai, quản lý, giám sát hoạt động thị
trường vẫn chưa được tốt; thứ ba, diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam thất
thường; thứ tư, cơ sở hạ tầng trong ngành chứng khoán còn chưa đáp ứng được yêu
cầu, hoạt động của các trung gian tài chính còn chưa đủ năng lực, hoạt động kiểm
toán trên thị trường này còn bộc lộ nhiều hạn chế. Từ đó, cần có những biện pháp
khắc phục để thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động có hiệu quả hơn.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài này đã đem đến cho người đọc một số kiến thức về thị trường chứng khoán
Việt Nam, lịch sử hình thành, quá trình phát triển cũng như thực trạng của nó tại Việt
Nam. Đề tài cũng giới thiệu được cách thức hoạt động cũng như những tổ chức tham
gia vào việc quản lý, giám sát các hoạt động này.
Về những nguyên nhân dẫn đến các tiêu cực của thị trường chứng khoán tại Việt
Nam, đề tài chưa giải thích rõ, vẫn còn sơ sài nên gây cho người đọc sự khó hiểu. Bên
cạnh đó, các giải pháp được đưa ra vẫn còn rất chung chung, chưa cụ thể, như vậy thì
rất khó để có thể áp dụng các giải pháp này trong thực tế, vì chúng vẫn chưa đủ sức
thuyết phục. Đề tài cần nghiên cứu sâu thêm nữa về phần nguyên nhân và các giải
pháp giúp thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển bền vững hơn.
4. Đề tài 4: Giới thiệu về công ty tài chính
Đề tài này cung cấp những hiểu biết chung về công ty tài chính cũng như hoạt động,
thực trạng của các công ty tài chính ở Việt Nam.
Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng với chức năng là sử
dụng vốn tư có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng
các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định
của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi
dưới 1 năm (Nghị định số 79/2002/NĐ-CP).
Theo Nghị định số 79/2002/NĐ-CP, công ty tài chính có các loại hình sau:
-
Công ty tài chính nhà nước.
-
Công ty tài chính cổ phần.
8
-
Công ty tài chính trực thuộc các tổ chức tín dụng.
-
Công ty tài chính liên doanh.
-
Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài.
Theo Luật các tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng:
huy động vốn, tín dụng, cho vay, chiết khấu – tái chiết khấu, bảo lãnh và các hoạt
động khác.
Với việc thị trường tài chính Việt Nam hiện nay chưa thực sự phát triển dẫn đến trình
độ chuyên môn hóa của các tổ chức tài chính chưa cao. Công ty tài chính dễ dàng
thành lập vì vốn pháp định thấp hơn nhiều so với ngân hàng, số lượng các công ty tài
chính được cấp phép đi vào hoạt động liên tục tăng trong 10 năm trở lại đây. Sự xuất
hiện của các công ty tài chính đã nâng cao chất lượng cạnh tranh trên thị trường cho
vay tiêu dùng Việt Nam, tạo ra một kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.Tuy nhiên, các công ty tài chính tại Việt Nam hiện nay vẫn
còn có những tồn tại, thứ nhất là chịu sự chi phối từ các tập đoàn, tổng công ty mẹ
dẫn đến việc đối tượng khách hàng bị hạn chế, phần lớn chưa có phân khúc thị trường
rõ ràng; thứ hai, các công ty tài chính còn dàn trải quá nhiều lĩnh vực, các sản phẩm
và dịch vụ tài chính chưa có sự chuyên môn hóa cao; thứ ba là thủ tục trong các lĩnh
vực tài chính rườm rà, gây hạn chế đến khả năng tiếp cận của khách hàng đối với gói
các sản phẩm và dịch vụ tài chính; thứ tư, tốc độ phát triển của các công ty tài chính
còn chậm, chưa khai thác được hết tiềm năng và thế mạnh của thị trường Việt Nam;
thứ năm, lãi suất cho vay tín dụng cá nhân của các công ty tài chính vẫn còn rất cao.
Chính những tồn tại đó nên chúng ta cần đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế các
tồn tại, nâng cao hiệu quả cho các công ty tài chính tại thị trường Việt Nam, với sự
kết hợp giữa các bên có liên quan như: công ty tài chính, nhà nước, ngân hàng nhà
nước và các tổng công ty chủ quản của các công ty tài chính.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài trình bày khá kĩ về công ty tài chính, làm nổi bật lên được sự khác nhau giữa
công ty tài chính và những công ty khác. Bên cạnh đó, nêu được những hoạt động của
công ty tài chính, cũng như các cơ hội và khó khăn của loại hình công ty này.
9
Tuy nhiên, phần thực trạng các công ty tài chính tại Việt Nam còn quá sơ sài, không
có những số liệu cụ thể cũng như những dẫn chứng dẫn đến việc rất khó để thuyết
phục người đọc. Những tồn tại của các công ty tài chính cũng vậy.
Về phần giải pháp, đề tài đã đưa ra được các giải pháp cho từng đối tượng liên quan
như nhà nước, ngân hàng nhà nước, các công ty chủ quản của các công ty tài chính để
các công ty tài chính có thể phát triển tốt hơn.
5. Đề tài 5: Giới thiệu về thị trường trái phiếu ở Việt Nam
Thị trường trái phiếu là nơi giao dịch và mua bán các loại trái phiếu đã được phát
hành, bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tham gia vào thị trường trái
phiếu có các chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư và chủ thể trung gian. Thị trường trái
phiếu đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, chính phủ, tỏ chức phát hành cũng
như các nhà đầu tư.
Tại Việt Nam, trước năm 2000, thị trường trái phiếu nước ta chưa phát triển, thị
trường mở chưa hình thành. Sau hơn 17 năm, trái phiếu phát hành theo phương thức
đấu thầu qua NHNN đã được đăng ký, lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt
Nam và được niêm yết giao dịch trên thị trường trái phiếu chính phủ tại HNX.
Các loại trái phiếu phát hành: Trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo
lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, thị trường trái phiếu Việt Nam có sự phát triển và đạt được một
số thành tựu như: khung pháp lý về phát hành trái phiếu đã được ban hành đầy đủ,
đồng bộ; thực hiện đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu; hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng công nghệ giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán; giảm thời gian đưa trái phiếu
phát hành vào giao dịch từ T + 6 thành T + 5; thực hiện đề án tái cơ cấu hàng hóa trên
thị trường trái phiếu chính phủ; rà soát, cải tiến cơ chế thuế, phí và lệ phí.
Bên cạnh một số thành tựu đã đạt được, thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn tồn tại
một số hạn chế về các quy định pháp lý, các cơ sở nhà đầu tư trên thị trường trái
phiếu, về thông tin giao dịch và rủi ro về thanh toán. Để khắc phục những hạn chế
này, cần có một số biện pháp được đưa ra như: hoàn thiện dự thảo Nghị định về thành
lập và hoạt động của doanh nghiệp định mức tín nhiệm; hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
phát triển hệ thống đại lý cấp I; nghiên cứu và xây dựng Nghị định về Qũy hưu trí tự
10
nguyện để trình chính phủ xem xét, ban hành; khuyến khích sự phát triển của thị
trường trái phiếu doanh nghiệp; phát triển các sản phẩm mới; tiếp tục hoàn thiện
khung khổ pháp lý về phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo
lãnh, trái phiếu cơ quan địa phương và trái phiếu doanh nghiệp; tiếp tục hỗ trợ thị
trường thứ cấp phát triển; thu hút nhà đầu tư nước ngoài; tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện các chính sách thuế và phí đối với thị trường trái phiếu.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài này trình bày rất kĩ về thị trường trái phiếu cũng như thị trường trái phiếu Việt
Nam. Nó nêu lên được những lý thuyết nền tảng về thị trường trái phiếu, cung cấp
một cái nhìn đầy đủ về thị trường trái phiếu đối với người đọc. Bên cạnh đó, đề tài
còn thể hiện được tầm quan trọng của thị trường trái phiếu đối với nền kinh tế, nhà
đầu tư, nhà phát hành và Chính phủ.
Phần thực trạng cũng được thể hiện rất đầy đủ, chi tiết, giúp người đọc có một cái
nhìn bao quát về thị trường trái phiếu Việt Nam từ lịch sử hình thành, quá trình phát
triển cũng như những tồn tại hiện có. Đồng thời từ đó đề tài cũng đúc kết được những
giải pháp cho những tồn tại hiện có của thị trường trái phiếu Việt Nam, giúp cho thị
trường trái phiếu ngày một phát triển bền vững, từ đó sẽ tác động tích cực đến nền
kinh tế.
6. Đề tài 6: Giới thiệu về các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Ngân hàng nước ngoài là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài, có hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là hoạt động ngân hàng. Ngân hàng nước ngoài được
phép hoạt động ở Việt Nam dưới các hình thức sau: Chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và văn phòng đại diện.
Tại Việt Nam, xét về phần tổng tài sản thì đến 31/07/2012 thị phần của các ngân hàng
nước ngoài chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 10,66%, trong khi thị phần của các ngân hàng
TMCP chiếm đến 44,25% và các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm đến 40,86%.
Như vậy, tổng tài sản của các ngân hàng nước ngoài chỉ bằng ¼ các ngân hàng trong
nước. Xét về công nghệ, các ngân hàng nước ngoài thường đi đầu trong lĩnh vực công
nghệ vì họ đến từ các quốc gia phát triển, có thế mạnh về công nghệ.
11
Về hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, có thể tìm hiểu 2 ngân
hàng tiêu biểu đó là ngân hàng ANZ và HSBC.
ANZ là ngân hàng được sáp nhập bởi Ngân hàng trung ương Úc và Ngân hàng Liên
bang Úc. ANZ có trụ sở chính đặt tại Melbourne, hoạt động tại 32 thị trường trên toàn
cầu. Chiến lược phát triển của ANZ là tăng cường vị trí ở Úc và New Zealand, xây
dựng cơ sở hạ tầng và mở rộng ở Châu Á. Các sản phẩm và dịch vụ của ANZ bao
gồm: dịch vụ tài chính cá nhân, dịch vụ tài chính cho khối doanh nghiệp lớn, định chế
tài chính và dịch vụ tài chính thương mại. Ngân hàng ANZ hoạt động tại Việt Nam từ
năm 1993, đến nay đã có 8 chi nhánh và phòng giao dịch, một quỹ tiết kiệm tại hai
thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cùng hai văn phòng đại diện tại Cần Thơ và
Bình Dương. Kết quả kinh doanh của ANZ trong những năm qua tại Việt Nam rất tốt,
ANZ đã được trao giải “Ngân hàng của năm”, “Ngân hàng cho vay mua nhà của
năm” và “Ngân hàng kinh doanh của năm” trong năm 2012. Tập đoàn cũng được bầu
chọn là “Nhóm 5 ngân hàng tốt nhất Châu Á cho khách hàng doanh nghiệp” và là “
Ngân hàng phát triển bền vững nhất toàn cầu” theo chỉ số bền vững Down Jones năm
2012.
Ngân hàng HSBC là một trong các tổ chức ngân hàng và dịch vụ tài chính lớn nhất
thế giới. Với hơn 6.200 văn phòng tại cả hai thị trường được thành lập và đang nổi
lên. Mạng lưới của HSBC bao gồm 74 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chiến lược phát
triển của HSBC là tập trung vào các dòng vốn xuyên biên giới với hy vọng 35 thị
trường để tạo ra 90 phần trăm tăng trưởng thương mại thế giới, tạo một mạng lưới các
doanh nghiệp kết nối thế giới, quản lý tài sản và bán lẻ với quy mô địa phương và
mục tiêu cuối cùng là trở thành ngân hàng quốc tế hàng đầu. Các sản phẩm và dịch vụ
của ngân hàng HSBC bao gồm: dịch vụ tài chính cá nhân và quản lý tài sản, dịch vụ
tài chính doanh nghiệp, dịch vụ tài chính cá nhân, dịch vụ thanh toán và quản lý tiền
tệ, hệ thống ngân hàng điện tử toàn cầu với HSBCnet, dịch vụ ngoại hối và thị trường
vốn, dịch vụ thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại. Ngân hàng HSBC mở văn
phòng đầu tiên tại TP. Hồ Chí Minh năm 1870, hiện nay đã có 1 hội sở, 1 chi nhánh
và 5 phòng giao dịch tại TP. HCM; 1 chi nhánh, 3 phòng giao dịch và 1 quỹ tiết kiệm
tại Hà Nội; 4 chi nhánh tại Bình Dương, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đồng Nai và hai văn
phòng đại diện tại Hải Phòng và Vũng Tàu.
12
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài này giới thiệu được những nét khái quát về ngân hàng nước ngoài, quá trình
hình thành các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, khi đưa ra hai ví dụ là ngân hàng ANZ và HSBC, các số liệu của các ngân
hàng này được lấy không đồng nhất. Bên cạnh đó khi trình bày về 2 ngân hàng này,
không có sự so sánh về quy mô, hoạt động, lợi nhuận đạt được của 2 ngân hàng này
tại thị trường Việt Nam, nên làm cho người đọc khó có thể hình dung được.
Về phần phân loại các loại hình ngân hàng nước ngoài, đề tài chưa lấy được ví dụ
điển hình của mỗi loại hình này, nên người đọc sẽ khó phân biệt được đặc điểm riêng
của từng loại hình.
7. Đề tài 7: Sở hữu chéo giữa các ngân hàng Việt Nam
Sở hữu chéo là 2 tổ chức sở hữu cổ phần lẫn nhau, sở hữu chéo là các khoản đầu tư
tài chính do các định chế tài chính hoặc các doanh nghiệp thực hiện để sở hữu chéo
vốn của nhau.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã có quá trình vượt bậc cả về số lượng
các ngân hàng lẫn về tổng mức tín dụng trong những năm qua. Sự tăng trưởng nhanh
chóng của các ngân hàng thương mại cổ phần đã đi kèm với việc hình thành cấu trúc
sở hữu chéo, và điều đó làm cho mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại cổ phần với
các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp: sở hữu của các ngân hàng trong
nước và nước ngoài tại các ngân hàng liên doanh; cổ đông chiến lược nước ngoài tại
các ngân hàng thương mại trong nước; cổ đông tại các ngân hàng là các công ty quản
lý quỹ; sở hữu của các ngân hàng thương mại nhà nước tại cái NHTM cổ phần; sở
hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần; sở hữu ngân hàng cổ phần bởi các tập đoàn,
tổng công ty nhà nước và tư nhân.
Việc sở hữu chéo vừa có tác động tích cực vừa có tính tiêu cực. Sở hữu chéo sẽ nâng
cao khả năng cạnh tranh cho các bên tham gia; hình thành danh mục đầu tư tối ưu;
giúp các ngân hàng tăng vốn đáp ứng theo yêu cầu của Chính phủ; sở hữu chéo còn
giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn vốn từ các ngân hàng. Tuy nhiên, việc
sở hữu chéo có thể tạo ra một số rủi ro: rủi ro tăng vốn ảo, rủi ro thâu tóm đối với
13
hoạt động ngân hàng, rủi ro hệ thống đồng thời nợ xấu là một trong những hệ lụy
nghiêm trọng.
Nguyên nhân dẫn đến những tác động tiêu cực này là gì, vấn đề tăng trưởng tín dụng
nóng, tăng vốn điều lệ, thiếu nguồn nhân lực quản lý cấp cao tại Việt Nam, thiếu
minh bạch thông tin của khu vực doanh nghiệp, thể chế tài chính Việt Nam cho phép
ngân hàng đa năng: ngân hàng vừa hoạt động thương mại là huy động vốn, cho vay
và hoạt động đầu tư, sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan giám sát và những lỗ hỏng trong
luật quản lý ban hành.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Khi đọc đề tài này, khái niệm về sở hữu chéo vẫn chưa thực sự được làm rõ, và có sự
khác biệt giữa các phần. Tuy nhiên, đề tài cũng đã nêu lên được một số loại sở hữu
chéo, thực trạng sở hữu chéo tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài cũng nêu
bật lên được tác động của việc sở hữu chéo đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, tuy
nhiên đó chỉ mới là tác động đối với ngân hàng, việc sở hữu chéo còn có tác động
như thế nào đối với nền kinh tế thì vẫn chưa thấy đề tài đề cập đến.
Đề tài cũng nêu được nguyên nhân dẫn đến việc sở hữu chéo tại thị trường Việt Nam,
cũng như đưa ra được các giải pháp để khắc phục những tác động của việc sở hữu
chéo. Tuy nhiên, việc sở hữu chéo có hoàn toàn là xấu, nó có tác động tích cực gì đến
thị trường và nền kinh tế không, đề tài cần xem xét thêm vấn đề này.
8. Đề tài 8: Hiện tượng dollar hóa
Dollar hóa là tình trạng ngoại tệ được sử dụng rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong
toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ.
Căn cứ vào hình thức dollar hóa được chia làm 3 loại: Dollar hóa thay thế tài sản,
dollar hóa phương tiện thanh toán, dollar hóa định giá, niêm yết giá. Căn cứ vào
phạm vi, dollar hóa có thể được chia thành: dollar hóa không chính thức, dollar hóa
bán chính thức và dollar hóa chính thức.
Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng dollar hóa bao gồm: Do nhu cầu phòng chống rủi ro
các loại, trong đó có rủi ro do lạm phát và bản tệ bị mất giá so với ngoại tệ, rủi ro sụp
đổ một thể chế tiền tệ, rủi ro gắn với sự yếu kém của các cơ quan chức năng của
chính phủ; tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là Dollar Mỹ, được sử dụng
14
trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới"; trình độ phát triển nền kinh tế
còn thấp, đồng nội tệ không có sức mạnh và hàm chứa nhiều rủi ro, trình độ dân trí và
tâm lý người dân còn hạn chế, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách
tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối chưa được ổn định, khả năng chuyển đổi của đồng
tiền quốc gia còn khó khăn.
Hiện tượng dollar hóa vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Tác động
tích cực: giúp nền kinh tế giảm áp lực trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân
đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định; Dollar hóa cũng được cho là có tác
dụng thúc đẩy phát triển ngành ngân hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh
tế, phản ánh dưới góc độ tỷ trọng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP tăng
lên khi có Dollar hóa; Dollar hóa còn góp phần hạ thấp chi phí giao dịch thúc đẩy
thương mại và đầu tư, thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi
chính thức giúp cho đồng tiền có khả năng tự do chuyển đổi hoàn toàn ở những nước
mà tiền tệ chưa có khả năng chuyển đổi. Tác động tiêu cực: gây khó khăn trong việc
dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết
định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời;
làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố
gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc
điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả; tác động đến việc hoạch định và
thực thi chính sách tỷ giá; chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài có nêu được hiện tượng đô la hóa là gì, tuy nhiên trong phần phân loại hiện
tượng đô la hóa, mặc dù nêu ra rất nhiều loại nhưng đề tài không nêu rõ được đặc
điểm của từng loại là gì, nó sẽ khiến cho người đọc không thể phân biệt được giữa
các loại.
Đề tài cũng nêu được những nguyên nhân và tác động của đô la hóa. Về phần thực
trạng đô la hóa ở Việt Nam thì trình bày khá sơ sài, không có nhiều số liệu cũng như
dẫn chứng cụ thể. Giải pháp đưa ra cho hiện tượng đô la hóa vẫn chung chung, chưa
thực sự cụ thể.
9. Đề tài 9: Sự phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam
15
Phái sinh là một công cụ tài chính mà giá trị của nó bắt nguồn từ giá trị của tài sản cơ
sở. Tài sản cơ sở ở đây rất đa dạng; như phái sinh hàng hóa thì tài sản cơ sở là cà phê,
nông sản, cao su, sắt thép…; phái sinh chứng khoán thì tài sản cơ sở là cổ phiếu, tín
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; phái sinh tiền tệ thì tài sản cơ sở là tỷ giá, lãi suất,
ngoại hối… Như vậy tùy thuộc vào tài sản cơ sở giao dịch mà thị trường phái sinh
cũng được chia làm 3 loại: thị trường phái sinh hàng hóa, thị trường phái sinh tiền tệ
và thị trường phái sinh chứng khoán. Có 4 loại công cụ phái sinh cơ bản: hợp đồng kỳ
hạn (Forwards), hợp đồng tương lai (Futures), hợp đồng quyền chọn (Options), hợp
đồng hoán đổi (Swaps).Các công cụ phái sinh có nhiều vai trò: quản trị rủi ro, hoạt
động đầu cơ, thông tin hiệu quả hình thành giá, thúc đẩy sự phát triển của các thị
trường.
Thị trường phái sinh hàng hóa ở Việt Nam, Việt Nam với thế mạnh sản xuất và xuất
khẩu nông sản tuy nhiên sản lượng các mặt hàng nông sản lại không ổn định do phụ
thuộc vào mùa vụ, giá cả thường xuyên biến động. Ngoài ra thị trường hàng hóa trong
nước vẫn chưa liên thông với thị trường quốc tế nên nhiều mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam luôn phải bán dưới giá bình quân thế giới. Trên thế giới
mô hình sở giao dịch hàng hóa kết hợp với các công cụ phái sinh hiện đang rất phổ
biến. Tuy nhiên, ở Việt Nam đây vẫn còn là một hoạt động khá mới mẻ. Sàn giao dịch
hàng hóa ở Việt Nam bắt đầu hình thành từ năm 2002 với sàn giao dịch điều của Hiệp
hội điều Việt Nam ở TP.HCM. Năm 2004 sàn giao dịch thủy sản Cần Giờ của Công ty
chế biến thủy sản Cholimex được thành lập. Tuy nhiên 2 sàn giao dịch này chỉ hoạt
động trong thời gian ngắn và chủ yếu hoạt động theo hình thức giao ngay.
Thị trường phái sinh tiền tệ hình thành sớm nhất và được đánh giá là thị trường phái
sinh phát triển nhất hiện nay. Các công cụ phái sinh được sử dụng đa dạng trong các
lĩnh vực ngoại hối, lãi suất và tỷ giá. Tuy nhiên mức độ phát triển của các công cụ
phái sinh tiền tệ ở Việt Nam vẫn còn rất hạn chế. Đối tượng tham gia thị trường chủ
yếu là các Ngân hàng thương mại. Trong khi đó các doanh nghiệp vẫn còn khá thờ ơ,
điều này làm hạn chế sự phát triển của thị trường. Rào cản lớn nhất khi doanh nghiệp
tham gia vào thị trường phái sinh tiền tệ là giới hạn kiến thức về các sản phẩm phái
sinh. Hầu hết doanh nghiệp chỉ dừng lại ở các giao dịch kỳ hạn, các công cụ phái sinh
phức tạp hơn như quyền chọn, hoán đổi vẫn chưa được sử dụng nhiều.
16
Sau hơn 13 năm đi vào hoạt động và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã
đạt được những thành công nhất định. Nhưng đến nay vẫn chưa có một thị trường
chứng khoán phái sinh để hỗ trợ nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro biến động giá. Trên thị
trường mới chỉ có các công cụ đầu tư cơ bản như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ.
Do đó, thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá vẫn còn là một thị trường
non trẻ so với khu vực và thế giới, thiếu các công cụ đầu tư đa dạng và còn nhiều tiềm
năng chưa được khai thác.
Sự phát triển của thị trường tài chính đến một quy mô nhất định tất yếu phải phát triển
thị trường phái sinh. Điều này cũng không phải là ngoại lệ đối với Việt Nam, khi quá
trình hội nhập với thị trường tài chính thế giới đang diễn ra sâu rộng. Chính phủ đang
chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ cho sự phát triển
của thị trường tài chính phái sinh. Trong đó, tập trung vào 3 lĩnh vực then chốt .
Thứ nhất, định hướng phát triển TTCK phái sinh đã được đề cập tại Quyết định
252/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam
giai đoạn 2011-2020.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ chủ trì xây dựng khuôn khổ pháp
lý cho triển khai các sản phẩm phái sinh dựa trên cơ sở là thị trường tiền tệ.
Thứ ba, Bộ Công thương chịu trách nhiệm chính trong hoạch định cơ chế pháp lý cho
phát triển các sản phẩm phái sinh dựa trên thị trường hàng hóa, nhằm giúp thị trường
tài chính phát triển hiện đại, có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro, đáp ứng nhu cầu của
các định chế tài chính lẫn giới đầu tư.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài này cung cấp cho người đọc những kiến thức khá bổ ích về thị trường phái
sinh Việt Nam. Đề tài trình bày rất kĩ, từ những kiến thức cơ bản về thị trường phái
sinh, các loại thị trường phái sinh, vai trò của công cụ phái sinh.
Bên cạnh đó đề tài còn đưa ra thực trạng cho từng loại thị trường phái sinh tại Việt
Nam rất kĩ, cũng như từ đó đưa đến các định hướng phát triển cho từng loại thị trường
phái sinh Việt Nam.
Tóm lại, đề tài này đã cung cấp đầy đủ những kiến thức cần thiết về thị trường phái
sinh tại Việt Nam cho người đọc.
17
10. Đề tài 10: Ngân hàng đầu tư và các dịch vụ của ngân hàng đầu tư
Ngân hàng đầu tư là một định chế đóng vai trò như một trung gian tài chính để thực
hiện hàng loạt các dịch vụ liên quan tới tài chính như bảo lãnh: làm trung gian giữa
các tổ chức phát hành chứng khoán và nhà đầu tư, tư vấn giúp dàn xếp các thương vụ
mua lại và sáp nhập cùng các hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp khác và môi giới cho
khách hàng là các tổ chức và thực hiện huy động nguồn vốn trung và dài hạn cho
khách hàng.
Các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư: nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, nghiệp vụ đầu tư,
nghiệp vụ nghiên cứu, nghiệp vụ ngân hàng bán buôn, nghiệp vụ quản lý đầu tư,
nghiệp vụ nhà môi giới chính. Các dòng sản phẩm đầu tư: phân tích theo tính chất
thanh toán, phân theo tính chất biến động giá, phân theo lịch sử phát triển. Đặc tính
của ngân hàng đầu tư: thành lập các công ty có mục đích đặc biệt, bán tài sản tài
chính cho công ty có mục đích đặc biệt, thuê công ty quản lý, định mức tín nhiệm và
tăng cường khả năng tín dụng, công ty có mục đích đặc biệt phát hành trái phiếu có
tài sản đảm bảo, quản lý dòng tiền tương lai của công ty có mục đích đặc biệt và
thanh toán gốc + lãi cho các trái chủ.
Cơ cấu tổ chức của ngân hàng đầu tư bao gồm: bộ phận kinh doanh, bộ phận quản trị
rủi ro, bộ phận điều hành.
Để quản lý hoạt động và rủi ro trong ngân hàng đầu tư một cách hiệu quả, ngân hàng
đầu tư có khung quản lý tài chính, hệ thống chỉ số đánh giá các hoạt động cơ bản.
Ý kiến cá nhân về đề tài:
Đề tài này trình bày khá kĩ những kiến thức về ngân hàng đầu tư, đồng thời còn nhấn
mạnh được sự khác biệt giữa ngân hàng đầu tư và các định chế tài chính khác.
Bên cạnh đó, đề tài còn nêu lên được những hoạt động, cơ cấu tổ chức và các đặc tính
của ngân hàng đầu tư. Tuy nhiên, đề tài chưa nhắc đến thực trạng của các ngân hàng
đầu tư tại thị trường Việt Nam, những thành tựu, khó khăn, hạn chế của các ngân
hàng đầu tư Việt Nam. Từ đó đưa ra các giải pháp để hoàn thiện, giúp cho các ngân
hàng đầu tư tại Việt Nam ngày càng phát triển hơn.
II.
BÀI HỌC RÚT RA TỪ CÁC BÀI NGHIÊN CỨU CỦA 5 NHÓM LỚN
18
11. Bài nghiên cứu 1: Mô hình biến động của tỷ giá hối đoái sử dụng các mô hình
GARCH: Bằng chứng thực nghiệm từ các quốc gia Ả Rập
Mục tiêu của bài nghiên cứu là mô hình hóa biến động của tỷ giá hối đoái trong dữ
liệu bảng gồm 19 nước Ả Rập bởi các loại của mô hình GARCH để nắm bắt hầu hết
những quy luật thực nghiệm về tỷ suất sinh lợi của tỷ giá hối đoái.
Biến động tỷ giá hối đoái là một phương pháp đo lường của sự thay đổi bất thường
trong tỷ giá hối đoái; phương pháp này đo lường trên cơ sở hàng giờ, hàng ngày, hàng
tháng, hay hàng năm. Sự biến động cung cấp một ý tưởng về mức độ thay đổi của tỷ
giá biến động trong thời kỳ cho trước là bao nhiêu. Biến động tỷ giá hối đoái thường
được tính toán từ độ lệch chuẩn của những biến động trong tỷ giá hối đoái. Lý thuyết
là không thống nhất đưa ra phương pháp nào là chính xác nhất, gần đây, sử dụng càng
nhiều mô hình GARCH của Bollerslev. Hai phương pháp đo lường biến động thường
được dùng trong tính toán tài chính: Biến động lịch sử và biến động hàm ý.
Dữ liệu của bài nghiên cứu là tỷ suất sinh lợi hàng ngày của tỷ giá hối đoái của 19
nước Ả Rập trên đồng USD từ ngày 01/01/2000 đến ngày 19/11/2011, tổng cộng có
4.341 quan sát.
Phương pháp trong bài sử dụng là mô hình GARCH để nghiên cứu về các đặc điểm
biến động, và trung bình có điều kiên và phương sai có điều kiện.
Bài nghiên cứu này đã xem xét tỷ suất sinh lợi hàng ngày của chuỗi tỷ giá hối đoái
của 19 quốc gia Ả Rập với dữ liệu kéo dài từ 01/01/2000 đến ngày 19/11/2011. Sử
dụng hai kỹ thuật đơn biến của mô hình GARCH bao gồm cả mô hình đối xứng và
bất đối xứng nắm bắt hầu hết những quy luật thực nghiệm về tỷ suất sinh lợi của tỷ
giá hối đoái như biến động nhóm và hiệu ứng đòn bẩy. Bên cạnh đó, phương sai (sự
biến động) có điều kiện là một quá trình bùng nổ của 10 trong 19 loại tiền tệ và khá
bền vững cho 7 loại tiền tệ còn lại. Kết qủa EGARCH (1,1) chỉ ra bằng chứng về hiệu
ứng đòn bẩy cho tất cả các loại tiền tệ - ngoại trừ Dinar Jordan (JOD). Biến động tỷ
giá hối đoái có thể được mô phỏng đầy đủ bởi các loại của mô hình GARCH.
Ý kiến cá nhân về bài nghiên cứu:
19
Bài nghiên cứu đã đem đến cho người đọc những kiến thức khá bổ ích về tác động
của những biến động trong tỷ giá hối đoái tác động đến tỷ suất sinh lợi của các chứng
khoán. Bài nghiên cứu còn giới thiệu cho chúng ta biết được mô hình GARCH được
sử dụng như thế nào trong việc kiểm định tác động của những biến động trong tỷ giá
hối đoái đến tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán tại các quốc gia Ả Rập.
Bên cạnh đó, bài nghiên cứu còn cho ta biết được những kiến thức về tỷ giá hối đoái,
các loại tỷ giá hối đoái cũng như các quy luật thực nghiệm về biến động tỷ giá hối
đoái.
12. Bài nghiên cứu 2: Tác động của biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái đến sự
biến động và tỷ giá sinh lợi của ngân hàng: Bằng chứng thực nghiệm tại Thổ
Nhĩ Kỳ.
Bài này nghiên cứu những ảnh hưởng của biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái đến tỷ
suất sinh lợi của cổ phiếu các ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 1999 – 2009, sử dụng
mô hình ước lượng OLS và GARCH.
Dữ liệu của bài nghiên cứu là lấy giá đóng cửa hàng ngày của mỗi cổ phiếu, giá đóng
cửa của chỉ số ngân hàng, tỷ giá hối đoái và lãi suất.
Đầu tiên các tác giả sẽ ước lượng biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái lên tỷ suất sinh
lợi của cổ phiếu ngân hàng với phương pháp OLS, sau đó sử dụng mô hình GARCH
(1,1) để đo lường tác động của biến động lãi suất và tỷ giá hối đoái lên biến động của
tỷ suất sinh lợi các cổ phiếu riêng lẻ và danh mục đầu tư.
Nhìn chung, hầu hết các tác động đối với ngân hàng riêng lẻ và tỷ suất sinh lợi danh
mục đầu tư có liên quan đến tỷ suất sinh lợi chung của thị trường và tỷ suất sinh lợi tỷ
giá hối đoái. Có sự hiện diện của hiện tượng tự tương quan do đó các hệ số OLS
không được ước lượng một cách hiệu quả dẫn đén suy luận thống kê không đáng tin
cậy. Từ đó, mô hình GARCH xuất hiện để ước lượng các dữ liệu một cách chính xác
hơn.
Từ bài nghiên cứu, có thể đưa đến các kết luận rằng lãi suất và tỷ giá hối đoái có
tương quan âm đối với tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng có điều kiện. Bên cạnh đó
tỷ suất sinh lợi thị trường đóng vai trò quan trọng trong xác định động lực của tỷ suất
20
sinh lợi cổ phiếu ngân hàng có điều kiện. Sự biến động của lãi suất và tỷ giá hối đoái
là một nhân tố quyết định chính tới biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng.
Do đó các nhà đầu tư cần theo dõi sát sao các chính sách tiền tệ để đưa ra quyết định
trong đầu tư còn đối với các nhà tạo lập chính sách, cần nắm bắt tình hình của hệ
thống ngân hàng khi thiết lập chính sách tiền tệ.
Ý kiến cá nhân về bài nghiên cứu:
Bài nghiên cứu này cũng cùng chủ đề với bài nghiên cứu 1, tuy nhiên bài nghiên cứu
này được thực hiện ở Thổ Nhĩ Kỳ. Bài nghiên cứu cũng cung cấp đầy đủ các kiến
thức về biến động tỷ giá hối đoái. Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn đưa ra được những
bài học bổ ích cho các nhà đầu tư cũng như các nhà tạo lập chính sách tiền tệ trong
việc theo dõi tình hình biến động của tỷ giá hối đoái để đưa ra quyết định về đầu tư
hay thiết lập chính sách tiền tệ.
13. Bài nghiên cứu 3: Sự thâm hụt kép và tính bền vững của nợ công cùng với
chính sách tỷ giá ở Lebanon
Bài nghiên cứu đầu tiên xác định xem chính sách tài khóa của Lebanon có thực sự là
đã trở nên không bền vững không, cho dù chế độ tỷ giá cố định hiện tại vẫn là một
lựa chọn khả thi cho ngân hàng trung ương, thứ hai là nghiên cứu vấn đề thâm hụt
ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, làm cho nợ và tỷ giá không bền vững ở
Lebanon. Và nếu trong trường hợp này, các tác động về tỷ giá hối đoái, lãi suất và tỷ
lệ tăng trưởng (GDP) là gì?
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hàng năm từ 1970 – 2013, có nguồn
từ World Development Indicators, IMF’s Direction of Trade Statistics and
International Financial Statistic, BDL và Bộ tài chính Lebanon.
Bài nghiên cứu chỉ ra rằng, thâm hụt ngân sách dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lãi: bắt
đầu từ những năm 1990, khi nợ công và có nghĩa vụ nợ gắn liền bắt đầu gia tăng và
gây ra thâm hụt ngân sách. Đến lượt nó, thâm hụt ngân sách tăng dẫn đến lãi suất tăng
và tiết kiêm quốc gia giảm, dẫn đến gia tăng tỷ giá thực đồng LBs, làm sụt giảm năng
lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế, dẫn đến thâm hụt cán
cân vãng lai.
21
Kết quả bài nghiên cứu đưa ra là không tồn tại quan hệ trong dài hạn giữa BD và CA.
Nợ công (trong/ngoài nước) của Lebanon không bền vững. Trong ngắn hạn, thâm hụt
ngân sách (BD) càng lớn sẽ càng khuếch đại thâm hụt cán cân vãng lai (CA), đe dọa
chế độ tỷ giá cố định hiện tại.
Ý kiến cá nhân về bài nghiên cứu:
Bài nghiên cứu cung cấp cho người đọc một bằng chứng thực nghiệm về tính bền
vững của nợ công, chính sách tỷ giá hối đoái cũng như là mối quan hệ giữa tài khoản
vãng lai và thâm hụt ngân sách tại một nền kinh tế mở đang phát triển và có quy mô
nhỏ tại Lebanon bằng cách sử dụng mô hình kinh tế lượng chuỗi thời gian. Kết quả từ
bài nghiên cứu này chỉ ra sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả đơn hướng, trong ngắn
hạn, giữa thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai – hàm ý rằng sự thâm
hụt tài khóa tang cao sẽ càng tạo ra áp lực lên sự thâm hụt tài khóa vãng lai và nợ
công quốc gia. Từ đó cũng đưa ra được bài học, để tránh sụt giảm tỷ giá hối đoái kỳ
hạn và một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong tương lai, Chính phủ sẽ buộc
phải thực hiện chính sách thắt lung buộc bụng để hạn chế những tiêu cực của việc
tăng thâm hụt ngân sách cũng như thâm hụt tài khoản vãng lai và nợ của nền kinh tế
tại Lebanon.
14. Bài nghiên cứu 4: Sự bất thường dồn tích trên thị trường chứng khoán của
Vương quốc Anh: Tác động của tăng trưởng và những sự bóp méo kế toán.
Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả,
nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát
sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương
tiền. Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính của doanh
nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu của bài này đầu tiên là kiểm tra khả năng có thể có của sự bất
thường dồn tích đối với lợi nhuận tương lai và tỷ suất sinh lợi chứng khoán. Thứ hai
là xem xét liệu sự bất thường dồn tích liên quan đến các yếu tố trong kế toán hoặc
tăng trưởng, hoặc cả hai.
22
Dữ liệu của bài nghiên cứu này là các chứng khoán được niêm yết tại sàn chứng
khoán London với báo cáo tài chính và các dữ liệu thị trường từ 1980 đến 2009. Quỹ
đóng, quỹ tín thác, ADRs, REITs, đơn vị hoạt động trên lãi suất, các tổ chức tài chính
khác, và các công ty nước ngoài bị loại ra khỏi mẫu. Quy mô mẫu là 20.675 công ty
mà không bỏ sót các biến kế toán cơ bản và các biến thị trường cơ bản.
Bài nghiên cứu đưa ra kết luận là có tồn tại bất thường của thu nhập tại thị trường
Anh: tổng thu nghịch biến với lợi nhuận tương lai và tỷ suất sinh lợi chứng khoán; sự
bóp méo kế toán phải là nguyên nhân thu nhập thấp hơn trong khi tăng trưởng không
bị ảnh hưởng, tuy nhiên cả hai yếu tố đều đóng góp vào tác động dồn tích đối với tỷ
suất sinh lợi chứng khoán; sự bóp méo kế toán và tăng trưởng bổ sung cho nhau trong
việc giải thích tác động của dồn tích đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán; kết quả phù
hợp với việc định giá sai của tác động bóp méo kế toán đến lợi nhuận tương lai; cách
giải thích theo kiểu mới phù hợp hơn đối với các bất thường dồn tích của thị trường
chứng khoán Anh.
Ý kiến cá nhân về bài nghiên cứu:
Bài nghiên cứu cung cấp một bằng chứng thực nghiệm về sự bất thường dồn tích ở thị
trường chứng khoán Anh. Trên cơ sở phân tích dồn tích hai thành phần bao gồm sự
bóp méo tăng trưởng sản lượng đầu ra và kế toán, bài nghiên cứu phân tích tác động
của các nguyên tắc dồn tích trong kế toán đến hiệu suất trong tương lai của các công
ty trên thị trường chứng khoán UK. Kết quả bài nghiêm cứu cho thấy có mối quan hệ
ngược chiều giữa các dồn tích với tỷ suất sinh lợi chứng khoán. Các tác động của dồn
tích đến hiệu suất thu nhập trong tương lai chỉ do sự bóp méo kế toán, còn các dồn
tích tác động đến hiệu suất giá cổ phiếu bao gồm cả sự bóp méo kế toán và sự tăng
trưởng. Hai thành phần này bổ sung cho nhau trong việc các dồn tích tác động đến tỷ
suất sinh lợi chứng khoán.
15. Bài nghiên cứu 5: Ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến lợi nhuận
chứng khoán: Thị trường chứng khoán Istanbul.
Mục tiêu của bài nghiên cứu là để điều tra việc thực hiện các lý thuyết chênh lệch giá
cả (APT) tại sở giao dịch chứng khoán Istanbul (ISE) thông qua 6 biến kinh tế vĩ mô:
23
cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, lạm phát không dự kiến, phần bù rủi ro, tỷ giá hối đoái và
cung tiền.
Lý thuyết chênh lệch giá APT nói rằng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng của tài sản tài chính
có thể được đo lường thông qua các yếu tố kinh tế vĩ mô khác nhau hoặc là yếu tố thị
trường. Sự nhạy cảm của tài sản với sự thay đổi trong mỗi yếu tố được đại diện bằng
đại lượng xác định gọi là hệ số beta.
Nguồn dữ liệu được lấy từ trang web của Sở Giao dịch Chứng khoán Istalbul, bao
gồm cổ phiếu của 259 công ty niêm yết từ tháng 1 năm 2001 cho đến tháng 9 năm
2005. Tuy nhiên, một số công ty không có dữ liệu đầy đủ nên nguồn dữ liệu nghiên
cứu được rút gọn còn 193 mã cổ phiếu, phân loại theo mười ba nhóm ngành.
Nghiên cứu này cố gắng quan sát mối quan hệ giữa các biến kinh tế vĩ mô được xác
định trước và lợi nhuận thị trường chứng khoán trong ISE trong giai đoạn tháng 1
năm 2001 đến tháng 9 năm 2005, trên cơ sở hàng tháng.
Tóm lại, kết quả cho thấy rằng có một mối sau quan hệ về giá cả đáng kể giữa lợi
nhuận chứng khoán và các biến kinh tế vĩ mô được kiểm tra; cụ thể là, lạm phát
không dự báo được, cấu trúc kỳ hạn lãi suất, phần bù rủi ro và cung tiền có ảnh hưởng
đáng kể trong việc giải thích lợi nhuận thị trường chứng khoán với sự đa dạng danh
mục đầu tư. Tuy nhiên, những kết quả này cho thấy một sự giải thích yếu dựa trên kết
quả tìm thấy.
Điều này có nghĩa rằng có những yếu tố kinh tế vĩ mô khác ảnh hưởng đến lợi nhuận
thị trường chứng khoán ở ISE hơn so với những kiểm định khác.
Áp dụng tại thị trường Việt Nam, kết quả hồi quy cho thấy biến phần bù rủi ro có ý
nghĩa thống kê với tất cả các ngành quan sát. Các biến còn lại như lạm phát, cung
tiền, cấu trúc lãi suất có ý nghĩa yếu ở một vài ngành như bất động sản, chứng khoán,
công nghệ viễn thông. Biến tỷ giá không cho thấy vai trò nào của mình. Kết quả hồi
quy của mô hình chưa mang nhiều ý nghĩa, điều đó chứng tỏ rằng còn tồn tại những
biến khác có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất sinh lợi thị trường chứng khoán mà
chúng ta cần xem xét thêm.
Ý kiến cá nhân về bài nghiên cứu:
24
Bài nghiên cứu này là một tài liệu tham khảo cho người đọc về bằng chứng thực
nghiệm của các lý thuyết chênh lệch giá cả (APT) tại sở giao dịch chứng khoán
Istanbul (ISE).
Bài nghiên cứu này dường như là kiểm định thực nghiệm đầu tiên của APT sử dụng
công thức CAPM cho việc tìm kiếm các điểm bù rủi roc ho ISE. Tuy nhiên trong bài
nghiên cứu này, các tác giả phải đối mặt với một vấn đề đó là không có trái phiếu
doanh nghiệp trên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ.
16. Bài nghiên cứu 6: Ảnh hưởng của những cú sốc biến động lên mối liên hệ
giữa tỷ giá
Bài nghiên cứu này phân tích mối tương quan giữa tỷ giá hối đoái (dựa vào đồng
USD), lãi suất và thị trường chứng khoán của Thổ Nhĩ Kỳ từ tháng 01/2013 đến
09/2013.
Mục tiêu nghiên cứu: Tìm hiểu mối tương quan giữa các biến (tỷ giá hối đoái dựa vào
đồng USD, lãi suất trái phiếu chính phủ và chỉ số giá thị trường chứng khoán) có thay
đổi trong thời kỳ biến động cao hay không, và nếu có thay đổi thì sự thay đổi này là
tạm thời hay vĩnh viễn.
Lý do các tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu là:
•
Phân tích tác động của 3 thị trường này đóng vai trò quan trọng không chỉ
cho vấn đề đầu tư và quản trị rủi ro mà còn cho nền kinh tế và ổn định tài
•
chính.
Bài nghiên cứu thực hiện dựa trên dữ liệu của Thổ Nhĩ Kỳ từ 1993 – 2001,
•
giai đoạn chính trị và kinh tế không ổn định.
Hơn nữa, những năm gần đây, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một trong những nền
kinh tế mới nổi quan trọng trong thế giới và đóng vai trò quan trọng trong
thương mại toàn cầu và tài chính.
Dữ liệu của bài nghiên cứu được lấy từ hai nguồn khác nhau: Tỷ giá hối đoái (đối với
đồng USD) và lãi suất được lấy Ngân hang Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ; chỉ số BIST
100 được lấy từ trung tâm dữ liệu Istanbul trong khoảng thời gian từ 02/01/2003 đến
05/09/2013.
25