Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Truyện cổ tích giáo trình dạy học mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.49 KB, 22 trang )

Chiếc cầu phúc đức
Ngày xưa có anh chàng chuyên sống về nghề ăn trộm. Trong nhà còn có mẹ
già phải nuôi. Tuy có lúc được nhiều, có lúc được ít, nhưng trong nhà không
bao giờ có của để dành. Hai mẹ con chàng thường phải chịu bữa ăn, bữa
nhịn.
Một hôm, nhân ngày giỗ cha, mẹ chàng ôn lại cho chàng nghe cuộc đời của
ông và cha chàng xưa kia.
Xưa kia ông nội của chàng cũng làm nghề ăn trộm, có đêm kiếm được
những món đáng bạc chục, bạc trăm, vậy mà khi nhắm mắt xuôi tay cũng
không để lại cho cha chàng được chút gì.
Rồi đến đời cha chàng. Lớn lên, không biết chọn nghề gì khác tốt hơn, cha
chàng lại nối nghề ông cụ, đến đêm lại đi rình mò hết làng trên đến xóm
dưới, mà cũng không bao giờ kiếm được nổi hai bữa cho hai vợ chồng và
đứa con. Rồi cha chàng chết đi cũng không có gì để lại. Nay đến đời chàng,
lao theo cái nghề này đã gần hai chục năm rồi mà tay trắng vẫn hoàn trắng
tay. Đã vậy, chàng cũng không tìm được nổi một người vợ, mặc dầu đã gần
bốn chục tuổi đầu.
Ôn lại đời cha ông xưa và nhìn cuộc đời mình chàng không khỏi thấy ngán
ngẩm.
Một đêm, chàng đến rình nhà ông thầy đồ ở xóm bên, định ăn trộm cái thủ
lợn mà một nhóm học trò mang đến biếu. Rình mãi tới khuya, ông thầy vẫn
chưa đi ngủ, ông đọc hết trang sách này tới trang sách khác. Chợt ông thầy
đọc tới câu: "Tích thiện chi gia tất hữu dư hương; tích bất thiện chi gia tất
hữu dư ương". Chàng bụng bảo dạ: "Phải chăng ông cha ta làm nghề thất
đức nên để khổ nhục lại cho tả” Rồi tự đáp: "Phải, quả thật đúng như vậy".
Đoạn chàng chạy một mạch về nhà, quyết từ nay bỏ nghề ăn trộm.
Sáng hôm sau, chàng vác búa vào rừng hái củi mang ra chợ bán. Công việc
thật là vất vả, hái được một gánh củi chàng phải đổi một bát mồ hôi mới
kiếm được một món tiền mua gạo, nhưng chàng thấy yên tâm hơn mọi
ngày. Tuy vậy, đi đến đâu, chàng cũng nghe tiếng người xì xào: "Cẩn thận
đấy! Cái thằng ba đời ăn trộm đã đến kia!". Cái tiếng "ba đời ăn trộm" làm


cho chàng buồn bã. Chàng nghĩ: "Từ nay ta phải làm những việc gì phúc đức
họa may mới xóa được mấy tiếng đó".
Một ngày mùa hạ, trời mưa to nước lũ tràn về. Chàng đem củi đi chợ bán, vì
nước lũ tràn về nhanh quá, không thể lội qua sông như mọi hôm được. Hàng
trăm người ùn lại vì chưa có đò, mặt trời đã khuất sau rặng núi, mà mọi
người vẫn loay hoay ở bờ sông. Chàng bèn nghĩ tới việc bắc một cái cầu.
Đêm ấy, ngủ lại bến sông cùng với nhiều người khác, chàng đem chuyện bắc
cầu ra hỏi bà con, nhiều người nói:

truyencotich

1


- Đó là một điều phúc đức được muôn ngàn người nhớ ơn. Trước đây cũng
đã có người làm nhưng rồi lại bỏ dở...
Sáng hôm sau, nước rút, chàng lội sông về nhà, tới nhà, chàng đem ý định
bắc cầu ra hỏi ý kiến mẹ. Mẹ chàng rất vui và giục chàng dốc sức bắc cầu!
Từ đó, cứ sáng chàng lên rừng chặt cây; chiều ra sức chuyển gỗ; trưa cố hái
thêm một gánh củi để về cho mẹ đi chợ.
Chàng làm việc quên ngày tháng. Buổi chặt cây, buổi chuyển gỗ, buổi bắc
cầu, không bao lâu đã bắc được hơn chục sải cầu. Công việc còn nhiều nặng
nhọc vì con sông rộng gần hai trăm sải. Vì ăn đói mà làm nhiều nên chàng
bị kiệt sức. Một hôm đói quá chàng nằm lăn ra mê man ở đoạn cầu đang
làm dở. Những người đi qua xúm lại cứu chữa, nhưng chàng vẫn chưa hồi
tỉnh.
Giữa lúc ấy có một viên quan võ đi đến, thấy một đám đông đang xúm
quanh một người nằm sõng soài, viên quan xuống ngựa đến gần hỏi chuyện.
Mọi người cho biết đây là anh chàng bắc cầu làm phúc đang làm thì vì mệt
quá mà lăn ra ngất đi... Viên quan liền mở túi lấy thuốc cho chàng uống.

Được một lúc, chàng bắc cầu tỉnh lại, mọi người tản dần ra về, viên quan
ngồi lại bên chàng ân cần hỏi chuyện. Chàng thật thà kể hết cho ông nghe
cuộc đời của mình và nói rõ ý định cùng công việc đang làm. Viên quan võ
nghe nói ra chiều cảm động, ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Xưa kia cha ông chàng làm nghề thất đức để cho chàng ngày nay phải đói
nghèo. Nay, chàng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa kia, quả là
hay vô cùng! Về phần tôi, tôi xin nói thật: cha tôi, ông tôi, ông cụ ông kỵ
tôi, đời đời làm quan ức hiếp dân lành, bóp hầu bóp cổ để nã tiền, nã của.
Đấy cũng là điều thất đức, vì vậy đến tôi ngày nay trời quả báo: lấy vợ đã
hơn hai mươi năm rồi mà không có một đứa con để vui cửa vui nhà, cho
nên, tuổi đã ngoài bốn mươi, chúng tôi vẫn phải sống hiu quạnh. Nay tôi
cũng muốn làm điều phúc đức để chuộc lỗi lầm xưa, chẳng hay chàng có cho
tôi góp sức cùng nhau bắc cầu được không?
Chàng bắc cầu vui mừng nói:
- Nếu quan lớn có chí hướng như vậy thì cái cầu này sẽ chóng xong, dân
chúng sẽ mau được qua lại, còn gì tốt hơn!
Hai người bèn kể cho nhau biết tên tuổi, quê quán rồi kết làm anh em, viên
quan võ hơn chàng bắc cầu bốn tuổi, được nhận là anh. Chàng bắc cầu nói:
- Em còn có mẹ già ở nhà, vì nhà nghèo, phải bán củi lấy tiền mua gạo cho
nên ngày nào em cũng phải đem củi về nhà để sáng hôm sau mẹ đem củi ra
chợ bán lấy tiền.
Viên quan võ thân mật bảo chàng:
truyencotich

2


- Anh có nhiều tiền của, anh sẽ bỏ ra nuôi mẹ để em khỏi phải bận tâm, như
vậy chúng ta sẽ chuyên chú vào việc bắc cầu, em nghĩ thế nào?
Chàng bắc cầu nói:

- Nếu vậy thì còn gì hay hơn!
Từ đấy, hàng ngày hai anh em cùng nhau lên núi đốn cây, chuyển gỗ.
Chẳng bao lâu, hai người đã dựng xong chiếc cầu gỗ hơn hai trăm sải. Dân
chúng ai cũng vui mừng, họ đặt tên là cầu Phúc Đức. Các cụ hai làng hoan
hỉ cùng nhau bàn định góp tiền làm một bữa tiệc ăn mừng cầu.
Ngày ăn mừng chiếc cầu, các vị bô lão và tất cả dân chúng quanh vùng nô
nức đến dự, ai cũng cầu xin Ngọc Hoàng ban phúc cho hai người bắc cầu, họ
ăn uống linh đình suốt cả buổi sáng. Bỗng một cơn gió bất chợt kéo đến, gió
thổi mạnh, làm cúi rạp ngọn cỏ nghiêng ngả cành cây. Gió thổi mỗi lúc một
mạnh, rồi bất thình lình cuốn anh chàng bắc cầu đi mất. Viên quan võ thất
thanh kêu gọi, tất cả mọi người đều ngậm ngùi.
Thấy người em kết nghĩa của mình hết lòng hết sức hàng ba năm trời ra làm
cầu mà lại không được hưởng phúc, viên quan xót xa lắm. Sau khi mọi
người đã ra về, ông đón vợ sang ở chung với bà cụ để sớm hôm trông nom,
phụng dưỡng bà thay người em kết nghĩa.
Lại nói đến chàng bắc cầu bị gió lốc cuốn tới một cái hang trên một ngọn núi
cao. Chàng lảo đảo đứng chưa kịp vững. Cơn gió bỗng vụt hóa thành người
tươi cười nói với chàng:
- Nhà ngươi chớ sợ, ta là thần Gió được Ngọc Hoàng sai đi đón nhà ngươi về
đây để thưởng cho ngươi cái công thành tâm làm chuyện phúc đức. Bạc
vàng đấy, nhà ngươi muốn lấy bao nhiêu thì lấy.
Chàng bắc cầu nhìn vào hang thấy đống vàng sáng chói. Chàng cởi áo gói
lấy một số vàng, rồi buộc lại cẩn thận, chàng vác gói vàng lên vai, tiến ra
cửa hang, thần Gió lại hóa thành cơn gió lốc cuốn chàng đi, trả về bản và
đặt chàng nhẹ nhàng xuống giữa sân nhà.
Chàng bắc cầu sung sướng để gói vàng xuống rồi lên tiếng gọi cửa. Nghe
tiếng gọi, mẹ chàng và hai vợ chồng viên quan võ tưởng là hồn chàng bắc
cầu hiện về, liền dắt nhau lại ngồi quanh chiếc bàn thờ thắp hương khấn vái
lầm rầm. Nhìn qua kẽ liếp thấy ba người vừa cúi lạy, vừa khấn, chàng bắc
cầu bật cười lại một lần nữa chàng lên tiếng gọi:

- Mẹ ơi! Anh ơi! Em đây mà! Em hãy còn sống trở về nhà đây! Mau mau mở
cửa!
Nghe rõ tiếng gọi của con, bà mẹ mừng quýnh, lật đật xuống giường. Vợ
chồng viên quan võ cũng chạy ra mở cửa, đón người em kết nghĩa.
truyencotich

3


Chàng bắc cầu ngồi xuống kể lại ngọn ngành câu chuyện được thần Gió đưa
đi lấy vàng cho cả nhà nghe, mọi người reo mừng sung sướng.
Từ đấy mẹ con chàng bắc cầu bắt đầu trở nên giàu có, chàng mời hai vợ
chồng người anh kết nghĩa ở lại và cùng nhau làm ăn.
Ít lâu sau, vợ viên quan võ có mang, đến tháng đến ngày chị sinh hạ được
một con trai. Hai vợ chồng mừng vô kể. Còn chàng bắc cầu ít lâu sau cũng
lấy vợ có con và sống sung sướng đến già.

Chiếc áo tàng hình

Ngày xưa ở vùng Cao Bằng có một chàng trẻ tuổi, nay đây mai đó làm nghề
chài lưới, tên là Triều. Gia sản của anh không có gì ngoài bộ đồ nghề. Nhưng
tính anh vốn hay thương người. Mỗi lần đánh được nhiều cá, anh thường đổi
lấy gạo đem chu cấp cho những người túng thiếu mà anh gặp. Vì vậy người
nghèo khổ trong vùng, ai cũng mến anh.
Ở Cao Bằng một thời gian, Triều lại dời sang đánh cá ở vùng Thái Nguyên. Ở
đây, anh lại cứu giúp mọi người không tiếc sức. Một hôm, anh không được
mẻ cá nào. Nhưng lúc về dọc đường, anh bỗng thấy một ông cụ đang nằm
run rẩy dưới gốc cây. Động lòng thương, anh cởi ngay chiếc áo đang mặc
đắp vào người ông cụ.
Bẵng đi một dạo, một hôm anh đang buông chài giữa sông, bỗng nghe trên

núi cao có tiếng đàn văng vẳng. Anh dừng lại nghe một cách say sưa. Qua
ngày hôm sau, anh lại được nghe tiếng đàn trên núi như hôm qua. Hôm sau
nữa, cũng từ trên ngọn núi cũ, tiếng đàn quen thuộc lại bay đến tai anh. Lấy
làm lạ, anh vội thu xếp đồ nghề của mình, rồi tìm đường trèo lên núi, quyết
tìm cho ra người gảy đàn. Lần theo tiếng đàn, anh vạch cỏ rẽ lau tiến bước.
Cuối cùng, đến một bãi rộng, anh thấy một cụ già đang ngồi trên phiến đá.
Ông cụ mải mê gảy đàn không biết có người tới gần. Triều nhận ra khuôn
mặt cụ già này rất giống với ông cụ nằm ở gốc cây hôm nọ. Chờ cho bản
đàn dứt hẳn, anh đến trước mặt hỏi:
- Thưa cụ, cụ là ai mà ngồi đánh đàn ở đây?
Ông cụ ngước mắt nhìn anh một cách âu yếm, rồi chỉ vào một phiến đá
trước mặt, bảo:
- Ta ngồi đợi con đây! Con trèo núi có mệt lắm không? Con hãy ngồi xuống
đây nghỉ một tí.
Triều đỡ chén nước ở tay ông cụ, đã nghe ông cụ hỏi:
- Con có nhớ ta không?
- Có - Triều đáp ngay - Cụ có phải là người nằm ở gốc cây đa đầu làng hôm
nọ không?
- Đúng - Ông cụ trả lời - Hôm nọ, con đành chịu mình trần để nhường áo
cho ta. Tấm lòng này thật là ít có. Nay ta muốn đền cho con một chiếc áo

truyencotich

4


khác.
Nói xong, cụ cởi chiếc áo đang mặc quàng vào mình Triều rồi biến mất.
Từ ngày được áo của Tiên cho, Triều mới biết đấy không phải là chiếc áo
thường mà là một bảo vật, có phép làm cho người ta tàng hình. Mỗi lần mặc

áo, không một ai nhận ra có anh ở trước mặt. Triều mừng quá, từ đấy anh
đi chu du khắp nơi. Anh thường mặc áo rồi tìm đến nhà bọn giàu có, đường
hoàng đi vào tận buồng chúng, lấy gạo tiền cho những người nghèo. Anh kín
đáo trị tội những kẻ bất lương, bạc ác. Có những người vì quá cơ cực đang
nằm lả bên vệ đường mà thở than thì bỗng thấy có những quan tiền trước
mặt. Có những tên quan đang nọc người ra đánh giữa công đường thì chính
hắn bỗng bị quất vào lưng đau quằn lên, nhưng ngoảnh lại thì vẫn không hề
tìm thấy ai. Nhiều sự việc giống nhau xảy ra, làm cho lời đồn đại lan khắp cả
một vùng. Người lo, kẻ mừng, nhưng ai cũng tin rằng Trời Phật đã có con
mắt.
Cứ như thế Triều đi khắp nơi và giúp đỡ người cùng khổ. Một hôm, anh tìm
đến đất kinh kỳ. Mặc áo vào, anh tha hồ đi đó đây cho thoả mắt. Hết vào
nhà bọn quyền quý, anh lại vào cung cấm là nơi từ xưa không một người
nào như anh dám bước chân đến. Thấy người nghèo khó nhan nhản khắp
phố phường, anh lẻn vào kho tàng nhà Vua lấy của ra phân phát cho họ. Vì
thế kho công luôn luôn bị hao hụt, nhưng không một ai tìm ra thủ phạm cả.
Trong khi đó thì khắp kinh đô đồn ầm lên rằng có một vị Tiên thường cứu
giúp những người đói khổ và trừng trị những tên gian tà. Ở đâu Tiên cũng có
mặt, nhưng lại không "xuất đầu lộ diện" bao giờ.
Về phía Triều, anh vẫn ngày ngày làm công việc cứu giúp dân nghèo, coi
đây là phận sự của mình, mà không hề băn khoăn đến chuyện báo đáp. Anh
đã làm cho bọn giàu sang xiết bao sợ hãi, lo lắng khi thấy tiền của chúng tự
nhiên không cánh mà bay, mặc dầu trong nhà ngoài ngõ đều có người canh
gác cẩn mật.
Nhưng một hôm, sau khi trừng trị một tên quyền quý ỷ thế đánh người, anh
vội lẻn ra khỏi nhà hắn ngay vì thấy kẻ hầu người hạ của hắn nghe tiếng
động đổ xô tới rất đông. Giữa lúc vội vàng, anh vướng vào một chiếc gai tre
ở bờ giậu làm cho chiếc áo toạc mất một miếng. Sợ rằng để vậy có thể bị lộ
nên anh đã dùng một mụn giẻ vá lại. Sau đó, hàng ngày anh lại vào kho nhà
Vua tiếp tục phận sự của mình.

Từ ngày thấy kho luôn bị hao hụt, nhà Vua hết sức lo lắng. Vua hạ lệnh cho
bọn quan coi kho phải tìm bắt cho kỳ được tên trộm bí mật, nếu không sẽ trị
tội không tha. Bọn này nhiều phen cố sức rình mò nhưng chỉ hoài công vô
ích. Tiền bạc trong kho cứ vơi dần mà chúng vẫn không tìm ra dấu vết gì
đáng kể. Sau cùng, chúng sai thửa một kiểu bẫy lưới rất nhạy để chụp vào
những nơi mà chúng nghi ngờ.
truyencotich

5


Hôm ấy, bọn quan coi kho bỗng thấy có một con bươm bướm trắng ngoài
cổng bay vào kho. Bướm bay đi dạo lại những đĩnh bạc trắng xoá, rồi bướm
lại thủng thỉnh bay ra. Lập tức chúng chụp ngay lưới xuống chỗ có bướm. Và
thế là Triều bị bắt. Chỉ vì miếng vải vá vào chiếc áo tàng hình khiến anh bị
lộ. Bắt được Triều, bọn quan coi kho mừng lắm, liền giải anh lên Vua. Vua
sai bỏ ngục để chờ xét xử.
Hồi ấy, có ông Vua một nước láng giềng từ lâu vẫn nuôi ngầm mưu mô đánh
chiếm nước ta. Giữa lúc Triều bị hạ ngục, thì hàng vạn binh mã của nước
láng giềng cũng đang ùn ùn kéo sang. Nhà Vua đã cho quân đội ra chống
giữ, nhưng đánh trận nào thua trận ấy, không sao ngăn cản được kẻ địch
tiến như vũ bão. Tình hình bỗng trở nên nguy ngập. Tin cấp báo từ biên giới
một ngày đưa về không biết bao nhiêu chuyến ngựa trạm, làm cho kinh đô
nháo nhác. Nghe được tin này, Triều liền bảo quan coi ngục tâu Vua cho
mình được đi dẹp giặc cứu nước. Nhà Vua mừng quá, vội sai tháo xiềng cho
anh, và gọi anh đến hỏi:
- Nhà ngươi cần bao nhiêu binh mã?
- Tâu bệ hạ - anh đáp, chỉ cần một mình tôi cũng có thể đuổi được giặc dữ.
Chỉ xin bệ hạ cho tôi một thanh gươm.
Vua liền cởi gươm của mình trao cho Triều và phong anh là Hộ quốc tướng

quân, Vua còn ra lệnh cho quân đội phải tuân theo lệnh anh.
Trước ngày lên đường, những người nghèo khổ nghe tin anh được tha và
phong tướng đi đánh giặc, đều tìm đến cảm ơn và tình nguyện đi theo. Triều
cho sắp xếp thành đội ngũ và cùng kéo nhau lên đường.
Lúc đến vùng quân giặc đang chiếm đóng. Triều mặc ngay chiếc áo tàng
hình vào người đi thẳng vào trại giặc. Chỉ một lát sau, anh chém chết tên chỉ
huy toán quân tiên phong. Bọn giặc mất tướng như rắn không đầu, bỏ chạy
tán loạn. Những người đi theo Triều chỉ việc chia nhau đón khắp các nẻo
tóm cổ đưa về. Đến những trại khác của giặc, Triều cũng làm như vậy.
Không bao lâu cả đội tiên phong tinh nhuệ của giặc bị tiêu diệt và bị bắt
sống, không sót một tên. Các đội quân khác còn lại kinh hoàng, cho là bên
phía Đại Việt có vị thần thiêng trợ chiến nên bao nhiêu tướng tài của mình
đều bị chém đầu. Thấy quân sĩ ngã lòng, tên Vua láng giềng đành hạ lệnh
rút lui. Từ đấy biên giới lại vô sự. Khắp nơi ai nấy ca ngợi công lao của Triều.
Lúc Triều kéo quân khải hoàn, Vua khen ngợi anh hết lời. Vua phong cho
anh làm quan đại thần, cắt đất đai huyện cho anh ăn lộc, lại gả con gái cho
anh làm vợ. Từ đấy người ta quen gọi anh là Quan Triều. Ngày nay ở Cao
Bằng có đền thờ Quan Triều.

Núi Bà Đen

truyencotich

6


Ngày xưa, núi Bà Đen có tên gọi là Núi Một. Trên đó có một tượng Phật bằng
đá, rất linh thiêng.
Dân chúng rủ nhau chặt cây lá dọn đường lên núi cúng Phật. Người lên núi
thường phải đi từng đoàn, vì dọc đường có rất nhiều beo cọp. Có một người

con gái tên là Lý Thị Thiên Hương, văn hay võ giỏi, gốc ở Trảng Bàng. Vào
mỗi ngày rằm trăng sáng, cô hay lên núi lễ Phật. Trong làng, có chàng trai
tên là Lê Sĩ Triệt để ý cô, đem lòng thương mến.
Vì thấy cô có nhan sắc, một ông quan nọ định dùng võ lực bắt cô đem về
làm thiếp. Ông ra lệnh cho một thầy võ thi hành kế gian. Khi cô Lý bị thầy
võ kia đánh bại, sắp gặp nạn, thì Lê Sĩ Triệt xông ra cứu thoát. Về nhà, cô
thuật truyện lại, được cha mẹ đồng ý gả cô cho chàng trai cứu mạng. Vào
lúc ấy, Võ Tánh đang chiêu binh giúp Gia Long đánh nhà Tây Sơn, Lê Sĩ Triệt
ra tòng quân. Một hôm, giữa lúc đang chờ chồng trở về đoàn tụ, cô đang
cầu khẩn trên núi thì có một bọn cướp đến vây bắt. Cô chạy thoát vào rừng
trốn, rồi mất tích luôn.
Sang đời vua Minh Mạng, có một vị hoà thượng trụ trì trên núi Tây Ninh
ngày kia đang niệm Phật, bỗng thấy một người con gái mặt đen nhưng xinh
đẹp hiện ra nói văng vẳng: "Ta đây họ Lý, khi 18 tuổi bị rượt bắt
nên té xuống hố chết. Nay ta đã đắc quả, xin Hoà Thượng xuống triền núi
phía Đông Nam tìm thi hài ta mà chôn cất dùm". Vị hoà thượng này y lời, đi
tìm xác cô, đem về chôn cất.
Câu chuyện đồn đãi ra tới tai Thượng Quốc Công Lê Văn Duyệt. Ông bèn lên
núi tìm hiểu hư thực, và hứa dâng sớ về triều phong chức cho cô gái họ Lý
này, nếu cô linh hiển cho ông thấy tận mắt sự thật. Cô bèn nhập vào xác
một đưá con gái, nói rằng: "Hồn của thượng quan sau này sẽ được chức
thần kỳ vinh hiển, nhưng xác của thượng quan sẽ bị hành hạ". Lê Văn Duyệt
nói: "Bổn chức không cầu xin cho biết tương lai mình, mà chỉ muốn biết rõ
căn nguyên của nàng". Xác cô gái rơi nước mắt, kể lại câu chuyện chết oan
ức của mình, và nhắc lại duyên nợ tiền định với chàng Lê Sĩ Triệt.
Theo lời kể, sau khi Võ Tánh tự hoả thiêu ngày thành Bình Định thất thủ, Lê
Sĩ Triệt được phong chức chỉ huy 2 tỉnh Khánh Hoà và Bình Thuận. Hai người
vì chưa sống chung chạ nhau, nên được trường sinh bất tử. Nhờ vậy, nàng
trở thành tiên thánh, xuống cõi trần thế để cứu nhân độ thế. Kể dứt lời, cô
gái nọ té nhào, bất tỉnh hồi lâu mới dậỵ Lê Văn Duyệt đã thay mặt vua,

phong cho cô Lý thị Thiên Hương chức vị "Linh Sơn Thánh Mẫu", ngự ở Núi
Một, tức là núi Bà Đen ngày nay ở Tây Ninh. Núi Bà Đen nổi danh là một địa
thế linh hiển, kỳ bí, nhiều phép lạ, khó ai giải thích được.

Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng

truyencotich

7


Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên Ðình rất
chú ý, trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu tiến sĩ, làm quan
đến Thượng thư. Mỗi lần anh đi học thường đi qua một ngôi đền thờ thần ở
làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung
kính đối với người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì tượgng thần
đang ngồi bệ vệ lật đật đứng dậy rất lễ phép.
Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo:
- Ngày mai ngươi phải quét dọn đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến
chơi nhà ta.
Người từ làm y như lời và suốt ngày hôm ấy hắn đứng chực ở cổng đền chờ
vị khách quý của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn ta chả thấy một ai cả, trừ ra
anh học trò ngày hôm đó vô tình có ghé vào đền nghỉ chân một lúc. Người
từ cho là bình thường không để ý gì đến.
Ít lâu sau người từ cũng lại chiêm báo thấy ông thần dặn dò như trước. Lần
này, hắn cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò hôm nó đến ngâm một bài
phú rồi lại đi.
Nhưng hắn vẫn không tin. Ðến lượt thứ ba cũng thế. Bây giờ người từ mới
cho là quả phù hợp với lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nọ
nghe và bảo:

- Ðã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan
to chứ chẳng chơi.
Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh quyết chắc cầm sự vinh
hoa phú quý trong tay. Hắn nghĩ ngợi nhiều về tương lai của mình. Một hôm
khi ngắm lại nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tí nào cả. Thế rồi
đêm hôm ấy nằm dưới bóng trăng hắn mơ tưởng một người đẹp như chị
Hằng. Hắn bụng bảo dạ:
- Rồi ta sẽ cho vợ ta về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiều gì người ngấp nghé
muốn làm bà. Lúc đó ta sẽ tìm những đám con vua cháu chúa, đã da trắng
môi son lại vừa lắm của.
Nghĩ thế, qua ngày hôm sau hắn kiếm cơ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ
được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ một người có học như hắn
lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy mà không kể gì
dư luận.
Một hôm khác có người đến hỏi nợ hắn. Vừa mới bước vào sân, người ấy đã
bị hắn chỉ tay vào mặt mắng một trận:
- Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày
cho mày biết mặt.
Hắn còn đe doạ nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói: "Rồi chúng
sẽ biết tay ông!"
Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về thiên đình.
truyencotich

8


Ngọc Hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đo, người từ giữ đền mơ
thấy ông thần tin cho biết là không phải kinh sợ đối với người học trò đó nữa
vì trên Thiên đình đã tước sổ mất rồi, không cho đỗ đạt. Ông từ nói:
- Tội của nó như thế nào?

- Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất
đức". Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa.
Quả nhiên người học trò ấy từ đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với
vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu
tục ngữ "Chưa đỗ ông nghè đã đe hà

Vụ kiện châu chấu
Ngày ấy có một con châu chấu mải mê kiếm ăn lạc mất đường về. Tối đến,
trời rét lại mưa rơi rả rích, làm cho chấu ta run rẩy. Nó muốn tìm một chỗ
ngủ, nhưng bóng đen dày đặc chẳng biết đường nào mà lần. - "Ta cứ bò liều
may gặp chỗ nào khỏi ướt thì nằm tạm một đêm". Nghĩ vậy, chấu ta cứ lồm
cồm bò mãi trên một cành cây mới bám được. Cuối cùng, không ngờ nó lại
lọt được vào nhà chim ri. Ðến đây, châu chấu thấy ấm áp dễ chịu. Nhưng
một tiếng hỏi cất lên:
- Ðêm hôm khuya khoắt, ai vào nhà tôi đó? Khéo kẻo đạp lên mấy đứa con
tôi!
Thấy chim ri mẹ đứng lên hỏi thế, chấu rên rỉ đáp không ra hơi:
- Tôi là chấu đây!... Ðêm lạnh quá... Làm ơn cho ngủ nhờ một đêm, sáng
dậy đi ngay.
- Nhà rách nát lại chật chội, mấy mẹ con nằm không đủ. Thôi chú đi tìm nơi
khác đi!
Nhưng chấu vẫn kêu nài:
- Cho ghé lưng nằm một tí phía ngoài này cũng được, kẻo tôi lạnh cóng
không thể bước đi đâu được nữa.
Nghe nói, chim ri mẹ thương hại, bèn đáp:
- Thôi được, cho chú mày nằm ghé bên kia, nhưng phải co cẳng kẻo đạp vào
mấy đứa con ta.
Thế là chấu xếp hai càng vào bụng, đặt lưng ngay bên cạnh mấy con bé của
chim ri. Chỉ một chốc sau, chấu cũng như chim ri ai nấy đều ngon giấc.
Ðang ngủ say sưa, bỗng nhiên một tiếng nai kêu "tác" bên cạnh nhà. Tiếng

kêu quá to làm cho châu chấu giật mình tỉnh dậy. Chấu vươn vai rồi quên
mất lời chim ri dặn, duỗi thẳng đôi cẳng dài thượt của nó. Nhà chim ri vốn
đặt lơ lửng trên một cành na, nhà quá rách nát vì gió đánh tả tơi lâu ngày
chưa kịp chữa. Châu chấu duỗi mạnh đôi càng làm cho cả một chỗ nằm kêu
răng rắc:
- Ôi chao! Ðổ mất, đổ mất.
Chim ri mẹ kêu tướng lên. Quả nhiên cái duỗi chân của chấu đã làm hại nó.
Mấy con chim con bị đạp dồn về một phía, cái nhà nghiêng hẳn, chỉ một
chốc rời khỏi cành na, một con chim non còn ngủ say cũng lăn theo và rơi

truyencotich

9


tõm xuống sông. Mẹ con chim bay loạn xạ đi tìm thì nó đã bị nước cuốn đi
mất.
Tức giận vì châu chấu tự dưng vô cớ đến gây tai họa cho nhà mình, sáng
hôm sau mẹ con chim ri bèn đi kiện với Bụt. Nghe nguyên cáo trình bày đầu
đuôi, Bụt liền theo đến tận nơi xem xét rồi gọi châu chấu đến hỏi:
- Tại sao nhà ngươi đêm hôm đến làm hại nhà người ta?
Châu chấu cúi đầu nhận rằng quả nó có gây tang tóc cho nhà chim ri, nhưng
nó cũng cho Bụt biết rằng nó vốn không có ác ý:
- Tôi không phải là kẻ vô ơn bạc nghĩa đâu. Vì con nai tự dưng ở đâu đến
kêu thét vào tai làm cho tôi giật nảy mình. Chính vì thế mà tôi duỗi chân
theo thói quen nên mới ra nông nỗi.
Thấy châu chấu tình thực nên Bụt cũng thương hại, bèn cho gọi nai đến, kể
cho nai biết đầu đuôi sự việc xảy ra, rồi bảo:
- Nhà đổ, con chết, rõ ràng là tại tiếng kêu thét của nhà ngươi. Tại sao nhà
ngươi đêm hôm khuya khoắt đến đây kêu rống lên làm gì để gây nên tai

vạ?
Nai vội vàng trả lời:
- Oan tôi quá! Lúc ấy tôi cũng đang lim dim đôi mắt. Tự nhiên một quả na
xanh rơi xuống trúng vào mặt làm cho tôi toáng đảm kêu lên. Vậy là tại quả
na chứ không phải tại tôi.
Nghe nai bày tỏ có lý, Bụt lại quay sang hỏi cây na:
- Vì sao ngươi lại để cho quả xanh rơi trúng vào mặt con nai, làm cho nó hét
tướng lên, gây tai vạ cho nhà người ta. Ngươi đã biết tội chưa?
Na đợi Bụt buộc tội xong, lập tức trả lời:
- Bẩm ngài. Tôi đâu có muốn quả xanh của tôi rơi. Vì con sâu nó làm hại tôi,
nó cắn cuống quả xanh, cho nên quả mới rụng đấy ạ!
Ðến lượt sâu được Bụt sai gọi đến kể cho nghe sự tình rồi kết tội:
- Nhà ngươi đã thấy rõ chưa? Nếu nhà ngươi không cắn quả na xanh thì làm
gì có tai vạ xảy đến cho nhà chim ri. Vậy ngươi không tránh được tội lỗi.
Nhưng Bụt không ngờ sâu cũng không nhận tội. Sâu đáp:
- Bẩm ngài, tôi vốn sống yên ở trong đám lá khô dưới kia. ở đó tôi có nhiều
thức ăn ngon lành. Nhưng mấy hôm nay có con gà ở đâu đến sục sạo tìm
giết cả họ nhà tôi rất là kinh khủng. May mắn làm sao, tôi ba chân bốn cẳng
bò được lên đây. Chẳng có gì nhét vào bụng nên tôi phải gặm chút vỏ quả
na xanh cho đỡ đói. Nếu có rơi trúng vào nai hay là con gì khác thì điều đó
không phải tại tôi mà là tại con gà kia.
Lại đến lượt gà được gọi đến đối chất. Gà vốn không phải quê tại khu vực
này. Nó có một đàn con. Mẹ con thường dẫn nhau đi kiếm ăn. Nhưng thức
ăn ngày một hiếm. Ngày hôm kia, mẹ gà nhờ được vịt, chỗ quen biết chở
qua sông hứa sẽ xin ấp trứng vịt để đền ơn. Vì thế mấy hôm nay gà được no
bụng. Nhưng khi nghe Bụt buộc tội vì đã gây tai vạ cho chim ri, gà đớ người
không biết tìm câu gì để chống chế vì khu vực này không phải là quê quán
truyencotich

10



của mình. Hỏi đến ba lần, gà không trả lời được, nên bị Bụt sai giam lại.
Bầy con của gà có bốn con mái, một con trống. Khi nghe vịt cho biết là mẹ
mình bị giam ở bên kia sông thì chúng nó hết sức hốt hoảng. Chúng khẩn
khoản nhờ vịt chở qua thăm mẹ. Bốn con gà mái nhớ thương mẹ quá, tranh
đi trước. Chúng nó chỉ biết kiếm sâu tìm dế nuôi mẹ mà không biết
kêu van với Bụt để mẹ được tha nên cuối cùng lại về không. Hôm sau đến
lượt con trống con đi thăm mẹ nó. Khi nghe mẹ nó kể đầu đuôi sự tình vì
sao bị Bụt bắt giam, gà trống con bèn đi tìm Bụt rồi phân trần:
- Bẩm ngài, ngài bắt giam mẹ con thật quả oan ức.
Bụt chau mày hỏi:
- Lại còn oan nỗi gì. Nếu mẹ mày cứ kiếm ăn ở bên kia sông đừng qua bên
này, thì làm gì có chuyện con sâu bò lên cắn quả na xanh, làm gì có chuyện
quả na xanh ấy đứt cuống rơi vào mặt con nai để con nai kêu thét lên, rồi
làm gì có chuyện con châu chấu giật mình duỗi chân đạp đổ nhà chim ri và
làm cho con nó chết. Chính thủ phạm là mẹ mày, mày còn kêu oan nỗi gì.
Gà trống con lễ phép thưa:
- Bẩm ngài, chính vì thế mà con phải kêu oan cho mẹ con, vì rõ ràng trong
lục súc sáu loài, loài nào loài ấy khi sinh con đẻ cái đều được trời cho có sữa
nuôi con. Riêng loài gà chúng con thì tuyệt nhiên không có lấy một giọt sữa.
Vì thế gà phải chạy vạy tần tảo nuôi con. Mẹ con phải vất vả đi các nơi kiếm
thức ăn là vậy. Bên kia người khôn của khó nên phải lần mò sang bên này.
Tình cảnh khó khăn buộc phải thế, đâu có phải là tội tại mẹ con!
Bụt thấy gà trống con cãi cho mẹ có lý có lẽ, đành phải thả cho mẹ nó về.
Thấy gà trống bé người mà khôn ngoan, ai nấy đều khen ngợi. Từ đó mỗi
lần có kiện tụng việc gì, người ta thường mang gà trống theo, hy vọng nhờ
sự có mặt của nó mới thắng kiện. Còn gà thì phải ấp trứng vịt để trả ơn,
dòng dõi của nó sau này vẫn thế.ng tổng".


Từ Thức gặp tiên
Ngày xưa, vào đời Trần, niên hiệu Quang Thái (1388-1398) có chàng thư
sinh ở đất Hóa Châu tên Từ Thức, giữ chức huyện Tiên Du, thuộc tỉnh Bắc
Ninh ngày nay.
Cạnh huyện đường có ngôi chùa danh tiếng, trước sân chùa có một gốc mẫu
đơn quý lạ. Hàng năm đến kỳ nở hoa, người ta mở hội tưng bừng, trai gái
các nơi tấp nập kéo nhau đến dự hội thưởng hoa.
truyencotich

11


Năm Bính Tỵ, vào khoảng tháng hai, người ta thấy có một cô gái tuyệt sắc
trạc lối mười lăm, mười sáu tuổi đến dự hội. Nàng ít tô điểm phấn son song
làn da mặt hết sức mịn màng, tươi thắm.
Để ngắm hoa được gần hơn, nàng vin một cành hoa xuống, không ngờ mẫu
đơn dòn gãy dưới tay. Người giữ hoa trông thấy liền bắt nàng trói vào gốc
cây. Đến xế chiều cũng không thấy có ai đến chuộc cứu nàng. Từ Thức nhân
đi qua, nghe câu chuyện, động lòng thương người đẹp, bèn cởi áo cừu đang
mặc đưa cho nhà chùa để bồi thường. Cô gái được thả ra ngập ngừng cảm
ơn Từ Thức rồi đi về một phía mất hút.
Từ đó Từ Thức càng được dân tình mến trọng là một vị quan hiền đức.
Nhưng Từ Thức vốn thích bầu rượu, túi thơ, cây đàn hơn là chồng giấy tờ ở
công đường, mải mê theo cảnh đẹp trời mây mà bỏ bê cả việc quan. Cấp
trên gởi tờ khiển trách, bảo rằng ông cụ thân sinh trước kia là một vị quan
đại thần, lẽ nào chàng không nối được nghiệp nhà mà giữ nổi chức tri
huyện? Từ Thức thở than: "Lẽ nào chỉ vì một vài đấu thóc mà ta đành dìm
thân trong chốn lợi danh! Sao bằng với một chiếc thuyền con, ta thoát khỏi
vòng cương tỏa. Nước biếc non xanh sẽ không bao giờ phụ ta"!
Rồi chàng trả ấn từ quan, lui về vùng núi non ở huyện Tống Sơn. Mang theo

bầu rượu, cây đàn, chàng đi du ngoạn khắp mọi chốn danh lam thắng cảnh.
Gặp nơi đẹp đẽ chàng dừng chân uống rượu, làm thơ. Vết chân, câu thơ của
chàng ghi dấu ở nhiều nơi, núi Chích Trợ, động Lục Vân, nguồn sông Lễ, bờ
Kênh Nga.
Một hôm, chàng tới cửa Thần Phù, trông ra ngoài biển thấy một lớp mây
năm sắc kết thành đóa hoa sen. Chàng ngồi thuyền đến nơi, gặp nhiều núi
non kỳ dị. Từ Thức lo ngại bảo người chèo thuyền:
"Ta đã đi khắp miền đông nam, biết rõ cả vùng này, nhưng chưa bao giờ
nghe nói đến những núi non kỳ tú kia. Có lẽ đây là non Tiên đưa đến, hay
núi Thần dời lại, không thì làm sao ta chẳng hề thấy bao giờ"?
Rồi sai buộc thuyền, lên bờ. Đi được vài bước thấy sừng sững trước mặt một
sườn đá cao nghìn trượng, Từ Thức thở ra: "Không có cánh làm sao mà vượt
qua được"? Rồi chàng lấy bút viết lên thành đá một bài thơ.
Đang lúc mải mê ngắm cảnh, chàng bỗng thấy sườn đá mở ra một cửa hang
động rộng chừng một trượng. Chàng vén áo lần vào. Vừa đi được vài bước
thì cửa hang tự khép lại, chàng chìm trong bóng tối không còn biết đâu lối
ra. Chàng liều chết sờ theo lớp rêu trên đá mà đi, theo một lối quanh co,
được một quãng thì đường hầm dần dần mở rộng. Ra khỏi bóng tối, mắt
truyencotich

12


chàng chói ngợp vì ánh sáng rực rỡ, sửng sốt vì mây muôn màu sắc bao phủ
các đền đài giát bằng châu ngọc giữa cảnh vườn đầy hoa quý lạ, hương
thơm khác thường.
Từ Thức còn đang ngây ngất, tưởng mình đang mơ, thì bỗng vẳng có tiếng
cười trong trẻo ở sau lưng, chàng ngoảnh lại thấy hai cô gái áo xanh đang
khúc khích bảo nhau:
"Kìa, chú rể mới nhà ta đã đến"!

Rồi hai nàng bỏ đi. Một lát sau trở ra bảo: "Phu nhân chúng tôi cho mời
chàng vào". Từ Thức theo. Đi qua một quãng sân, hai bên tường thêu dệt
gấm hoa, đến một lớp cửa son, chàng thấy treo ở trên lầu cao hai bức
hoành phi chữ vàng: "Quỳnh Hư chi điện và Giao Quang chi các".
Trong cung điện, một bà tiên mặc áo trắng đang ngồi trên giường thất bảo.
Bà tiên mời Từ Thức ngồi lên ghế bên cạnh rồi bảo:
"Chàng vốn say mê cảnh lạ, bấy lâu đã thỏa chí bình sinh ngao du đó đây,
chàng có biết nơi này là đâu không"?
Từ Thức đáp:
"Tôi là một thư sinh sống ẩn dật ở huyện Tống Sơn, ngao du với một chiếc
thuyền con ở giữa trời biển. Tôi không được biết là chốn này có lầu hồng,
điện biếc. Lòng tôi đây còn nhiễm đầy trần tục, không hiểu biết được đây là
chốn nào, xin phu nhân vui lòng dạy cho kẻ thư sinh được thấu rõ".
Bà tiên nói:
"Phải, chàng làm sao mà biết được chốn này. Đây là hang thứ sáu trong ba
mươi sáu động Phù Lai. Nơi này biển bao bọc chung quanh, lơ lửng không
chạm đất, cũng như núi La Phù theo chiều gió mưa mà tan hợp, như núi
Bồng Lai mọc trên ngọn sóng. Ta đây là Ngụy phu nhân, tiên chủ núi Nam
Nhạc. Vì thấy chàng có đức nên mới cho mời đến"!
Nói rồi bà tiên đưa mắt ra lệnh cho các tiên nữ đứng hầu. Một nàng áo xanh
đưa từ trong ra một tiên nữ trẻ tuổi. Từ Thức liếc nhìn thì nhận ra người đã
làm gẫy cành mẫu đơn trong Hội Thưởng Hoa. Bà tiên trỏ thiếu nữ mà nói
với Từ Thức:
"Em nó là con gái ta, tên gọi Giáng Hương. Ngày trước nó gặp nạn trong Hội
Thưởng Hoa, được chàng cứu thoát. Lòng em nó vẫn không quên. Ta muốn
truyencotich

13



cho nó kết duyên với chàng để đền ơn đó".
Rồi bà tiên ra lệnh cử hành hôn lễ ngay đêm hôm ấy, dưới ánh đèn mỡ
phụng, trên chiếu thêu rồng. Hôm sau, chư tiên ở khắp nơi đến mừng đôi
tân nhân. Kẻ mặc lụa từ phương bắc cỡi rồng xanh đến, kẻ mặc tơ từ
phương nam cỡi ly vàng đến, kẻ ngồi xe ngọc, kẻ đi xe mây... Các tiên tụ
họp trên gác điện Giao Quang rèm ngọc, sáo vàng.
Khi Kim Tiên đến, tất cả chư tiên đều xuống điện rước lên ngồi ở trên ngai
pha lê bày chính giữa. Chư tiên vừa ngồi xuống, tiếng nhạc trời văng vẳng
trỗi lên. Đủ các thứ rượu quý đượm hương ngào ngạt rót dâng ra.
Tiên nương mặc áo lụa nói:
"Chúng ta dạo chơi trong vùng này đã gần tám mươi ngàn năm, biển phía
nam đã ba lần biến đổi. Giờ đây chú rể không sợ thay đổi đời sống, từ xa
đến đây để lấy vợ. Tôi nghĩ là chú rể sẽ không hối tiếc đời cũ và sẽ không
còn nói là trên đời này không có Tiên"!
Kim Đồng, Ngọc Nữ sắp thành nhiều hàng dài bắt đầu múa. Ngụy phu nhân
chủ động đứng ra mời tiệc. Giáng Hương rót rượu đưa đến tay chư tiên.
Nàng tiên trẻ tuổi mặc tơ cười nói:
"Cô dâu chúng ta hôm nay thịt da như mỡ đọng, không còn gầy như trước
nữa. Người ta thường nói là con gái thượng giới không có chồng. Tôi không
còn có thể tin như vậy nữa"!
Ngụy phu nhân nói:
"Tôi nghe nói người ta có thể gặp Tiên song khó mà tìm đến. Những cuộc
gặp gỡ hiếm có, nhiệm mầu, thời nào cũng thấy: tỉ như vết tích đền Bạc
Hậu, núi Cao Đường, dấu chân ở Lạc Phố, đồi ngọc Giang Phi, nàng Lộc Ngọc
lấy Tiên Sử, Vân Tiêu gặp Thái Loan, Lan Hương và Trương Thạc. Nếu ta chế
giễu cuộc hôn nhân này, thì những việc trước kia cũng hóa ra đáng cười lắm
ru!".
Tất cả chư tiên đều cười, trừ ra nàng tiên áo lụa nói bằng một giọng kém
vui:
"Cô dâu trẻ chúng ta đã thành thân tốt đẹp rồi. Nhưng khi tin kẻ tiên kết

hôn với người tục xuống đến trần, trên Thiên Đình sẽ không khỏi có kẻ mỉa
mai chúng ta. Chư tiên thượng giới phải gánh chịu lấy thành quả này. Tôi e
truyencotich

14


rằng chúng ta không tránh khỏi tiếng tăm đó"!
Kim Tiên liền nói:
"Tôi ở Thiên Đình, chưa bao giờ đặt chân xuống ở bể trần, thế mà có kẻ xấu
miệng đã nói rằng thiên tiên dâng rượu cho vua Chu, chim xanh đem tin đến
cho vua Hán. Chính chúng tôi cũng phải chịu lấy những lời lẽ phạm thượng
của người đời. Thế làm sao chư tiên tránh khỏi được lời vu khống kia? Tân
lang đang ở đây, chúng ta không nên tranh luận với nhau điều ấy để làm
buồn lòng chàng làm gì".
Chư tiên lại cười lên vui vẻ. Đến khi mặt trời ngả về tây, các tiên mới chia
tay ra về. Còn lại một mình, Từ Thức cười bảo Giáng Hương:
"Ở thượng giới, tình yêu cũng đưa đến việc lứa đôi. Cho nên Chức Nữ
mới lấy Ngưu Lang, Thượng Nguyên theo Phong Trác ở dưới trần, Tăng Nhu
viết ra thiên Chu Tần, Quần Ngọc làm bài thơ Hoàng Lãng. Hoàn cảnh tuy
mỗi nơi có khác, song tình yêu ở đâu cũng giống nhau. Từ ngàn đời nay, bao
giờ cũng thế. Bây giờ tất cả chư tiên đi rồi, sao không khí chung quanh đôi
ta lại lạnh lẽo, buồn bã thế này. Có phải vì tình yêu không phát sinh ra ở
lòng em, hay là em cố cầm giữ lại?"
Giáng Hương buồn rầu đáp:
"Các chị đều đã đắc đạo, có tên ở Hoàng Điện, thường lui tới Hồng Môn,
sống ở chốn thanh khiết, vui chơi trong cõi cực tịnh, lòng không vương vấn
dục tình. Còn em đây chưa sạch khỏi thất tình. Dấu vết còn ở nơi Thúy Điện,
vấn vương duyên nợ trần ai. Thân em tuy ở điện ngọc nhưng lòng em còn
dính bụi trần. Đừng đem em mà so sánh với các chư tiên khác!"

Từ Thức nói:
"Nếu thế thì em cũng không xa cách anh lắm"!
Cả hai đều phá lên cười.
Ngày tháng kế tiếp nhau trong khoái lạc thần tiên.
Một sáng, Từ Thức thấy hoa sen nở, hồ ngọc đã thay đổi màu xanh, thấm
thoát thế mà đã qua một năm rồi.
Những đêm gió thổi lạnh lùng, những sáng sương sa nặng hạt, những tối
trăng rọi qua song, có khi Từ Thức không làm sao nhắm được mắt. Một nỗi
truyencotich

15


buồn tràn ngập tâm hồn, thức tỉnh chàng dậy.
Một hôm, trông ra xa thấy một con thuyền, chàng trỏ tay bảo Giáng Hương:
"Anh từ miền xa xôi kia tới đây, chân trời mờ mịt, sóng biển muôn trùng,
không biết rõ nhà anh ở nơi nào!"
Một lát chàng lại nói:
"Khi đi, anh còn có mẹ, bạn bè ở dưới kia. Lòng trần chưa rũ sạch, anh
muốn nhìn lại quê hương. Em hãy hiểu cho lòng anh, để cho anh trở về
thăm nhà ít lâu. Không biết em nghĩ sao?"
Giáng Hương buồn bã không thốt nên lời. Từ Thức nói tiếp:
"Để cho anh đi dăm hôm, một tháng gặp lại các bạn, xếp đặt công việc nhà,
rồi anh sẽ trở lại sống bên em mãi mãi cho đến già ở chốn Bạch Vân".
Giáng Hương khóc nói:
"Em không muốn lấy tình vợ chồng để ngăn anh đừng trở lại quê nhà. Em
chỉ sợ rằng đời sống thế gian quá nhỏ hẹp, ánh sáng mặt trời quá vắn vỏi,
anh sẽ không còn tìm thấy sân vườn xưa trong cảnh cũ nữa đâu!"
Nàng báo tin cho mẹ hay, Ngụy phu nhân thở dài bảo:
"Ta không ngờ con người ấy lại còn vương vấn tục lụy đến thế!"

Rồi cho sắm sửa một chiếc xe mây để đưa Từ Thức đi. Giáng Hương trao cho
chồng một phong thư viết trên giấy lụa, dặn dò:
"Sau này khi xem đến bức thư, anh hãy nhớ đến em"!
Rồi hai người gạt nước mắt chia tay. Trong nháy mắt Từ Thức đã đặt chân
xuống mặt đất.
Nhưng tất cả đều đã hoàn toàn đổi thay. Nhà cửa, người làng không còn là
những người quen cũ nữa. Chỉ có các tảng đá bên bờ suối vẫn phủ rêu xanh
như xưa.
Hỏi đến những người già cả trong làng xem có biết người tên Từ Thức
không, mọi người đều nói:

truyencotich

16


"Hồi chúng tôi còn bé, có nghe nói là ông cố ba đời chúng tôi mang tên đó.
Ông ấy đi lạc vào núi đã tám chục năm nay. Từ đó đến nay chúng tôi đã trải
qua ba đời vua".
Từ Thức cảm thấy lòng buồn thấm thía, muốn trở lại thượng giới, song chiếc
xe mây đã biến thành chim loan bay mất về trời. Chàng mở phong thư ra
đọc: "Trong mây kết duyên loan phụng, mối tình đôi ta đã dứt! Làm sao tìm
lại non Tiên trên biển cả? Chúng ta khó gặp được nhau lần nữa", mới biết là
Giáng Hương đã gởi chàng những lời vĩnh biệt.
Sau đó, Từ Thức khoác áo lông, đội nón nhẹ, một mình đi vào núi Hoành
Sơn, không thấy trở về nữa .

Gà mượn mào vịt
(Truyện cổ dân tộc Cao Lan)
Ngày xưa, vịt đực có bộ cánh biếc xanh và chiếc mào đỏ rực. Còn gà trống

thì không có mào.
Lần ấy mùa xuân về, bản làng mở hội vui lắm. Ai ai cũng nô nức sửa soạn
áo quần đi chơi hội. Gà bèn sang nói với vịt:
- Hội xuân tới rồi. Anh đã có áo lại có mào. Tôi chẳng có gì. Anh làm ơn cho
tôi mượn cái mũ của anh tôi đi hội.
Sau một lúc lâu suy nghĩ, Vịt cho Gà mượn cái mũ mào đỏ của mình để Gà
đi chơi hội.
Được mũ đỏ, Gà tung tăng chơi hội khắp chốn gần xa. Thấm thoắt đã hết
mùa xuân, hội hè cũng hết. Gà vẫn chưa trả mào cho Vịt.
Một hôm Vịt sang đòi mũ. Gà đội mãi đã quen không muốn trả. Điều qua
tiếng lại, cuối cùng xô xát với nhau. Gà cậy có thân hình nhanh nhẹn, nhảy
tung lên đá Vịt ngã lăn ra đất, rồi dẫm chân vào đầu và cổ Vịt rất đau. Vịt vì
nặng nề chậm chạp nên bị thua đau và bị mất cả mào. Từ đó, mỏ Vịt bị dẫm
bẹp và cổ Vịt bị đau, nên tiếng kêu khàn khàn không rõ. Người ta bảo “khàn
khàn như tiếng vịt đực” là vì vậy.

Nàng bò tót
(Truyện cổ dân tộc Bru)
Hai bà cháu anh mồ côi ra đặt bẫy ở một cánh rừng, giết được một con bò
tót. Họ làm thịt con bò chia cho bà con dân bản, chỉ giữ lại một đùi phần
mình.
Năm ngày qua đi, hai bà cháu đã ăn hết phần thịt, chỉ còn lại cái chân, anh

truyencotich

17


mồ côi gác lên sàn bếp.
Một hôm, hai bà cháu đi làm về, thấy sàn nhà sạch sẽ, bếp lò đỏ than, giữa

sạp sàn bày một rá cơm với một nồi canh.
Thấy lạ, nhưng vì đói bụng, hai bà cháu đánh liều cùng ngồi ăn. Ăn xong cả
hai người đều lo lắng vì sợ cơm ma. Đêm đó họ không sao ngủ được. Sáng
hôm sau thấy trong người vẫn bình thường khỏe khoắn, họ yên lòng mang
gùi xách dao lên rẫy như mọi ngày.
Chiều về, hai bà cháu lại thấy cơm canh đã được ai dọn sẵn như hôm qua.
Đang đói bụng, họ lại ngồi vào ăn. Tuy ăn cơm lạ mà bọn họ vẫn không hết
nghi ngờ.
Hôm sau, ra rẫy, hai bà cháu vừa phát cây vừa nói về mâm cơm lạ. Anh mồ
côi nói:
- Bà ơi! Có ai mà lại cứ đến quét dọn cho nhà ta, nấu cơm, nấu nước cho bà
cháu ta mãi thế?
Bà lo lắng trả lời:
- Ăn của con ma thì phải chết theo con ma thôi, cháu ơi!
Rồi hai bà cháu bàn nhau tìm xem ai là người đã làm việc đó. Sáng hôm
sau, vừa thức dậy, anh mồ côi nói to:
- Bà ơi! Việc nương rẫy đã xong, còn ít cây con chưa dọn hết, bà ở nhà làm
hết, cháu phải sang bản Cà Lơ xin ít muối và gạo nhé!
Bà soạn gùi, xách giỏ nứa ra sàn ngoài cho cháu, dặn:
- Cháu đi nhanh chân, chóng về kẻo bà nhớ, bếp lửa trông!
Anh mồ côi hẹn:
- Cháu đi hai lần mặt trời dậy, hai lần mặt trời ngủ mới về.
Bà cầm dao, mang giỏ lên nương. Anh mồ côi mang gùi, đeo giỏ, tách rừng
đi về phía mặt trời mọc.
Đi được một quãng ngắn, anh mồ côi rẽ vào lối rậm, đạp tắt đường rừng,
quay về nấp sau mô đá cao cạnh nhà mình. Từ chỗ đó, anh thấy rõ hết
truyencotich

18



những gì xảy ra trên sạp, ngoài sàn nhà mình.
Anh ngạc nhiên sửng sốt khi thấy một cô gái đẹp từ đâu hiện ra dọn sàn
trong sàn ngoài, rồi vác ống tre xuống suối lấy nước, lại lên nhóm lửa bếp
nấu cơm, làm canh.
Khi đã dọn đầy đủ cơm nước ra cạnh bếp, cô gái xõa tóc ra hong nắng ở cửa
ngách sàn ngoài. Ngắm nhìn cô gái đẹp nằm dài trên sạp sàn nhà mình, anh
mồ côi vừa mừng vừa lo.
Rồi anh lẹ làng men đến nắm lấy mớ tóc dài của cô gái, vấn ba vòng, bảy
vòng vào tay mình rồi mới lên tiếng:
- Ta bắt được kẻ xấu vào nhà ta rồi!
Cô gái giật mình, toan vùng dậy lẩn trốn nhưng đầu không cựa nổi, đành vật
vã trên sàn kêu lên:
- Anh buông tôi ra! Tôi là người trong nhà đây mà!
Anh mồ côi thấy thân hình cô gái mềm mại, khuôn mặt hiền dịu thì có ý
thương, nên tháo dần ra một vòng tóc và hỏi:
- Ta có thù oán gì với ai mà cô toan bỏ thuốc độc giết bà cháu ta?
Cô gái lắc đầu hỏi lại:
- Tôi là người trong nhà, anh không nhận ra sao?
- Cô đừng giấu quanh nữa. Cô ở đâu đến đây? Nếu cô nói dối thì tôi sẽ giết
chết cô!
Cô gái run run nói:
- Anh có của mà không biết của đấy. Tôi là cái chân bò tót mà. Anh không
ăn tôi nên tôi đến để trả ơn anh.
Anh mồ côi nhìn lên sàn bếp thấy mất chân bò tót thì có phần tin, nên
buông lỏng thêm một vòng tóc nữa và hỏi:
- Cô trả ơn tôi cho đến bao giờ?
Cô gái lưỡng lự một lúc rồi trả lời:
truyencotich


19


- Tùy anh thôi!
- Ồ, thế thì cô làm vợ làm chồng với tôi nhé! Nhà tôi nghèo, cô có ưng
không?
Cô gái e thẹn trả lời:
- Làm vợ làm chồng thì phải theo phép của Giàng chứ!
Anh mồ côi buồn bã nói:
- Tôi nghèo, bà tôi nghèo, bạc nén không có, nồi đồng, chiêng núm, chiêng
bằng cũng không có. Nhà mình rỗng như chiếc nồi úp miệng xuống đất thì
lấy gì của bỏ, lấy gì làm lễ cưới?
Cô gái bảo:
- Giàng cho ta làm vợ làm chồng thì một lễ nhỏ cũng thành. Anh nấu một
nồi cơm, vắt đủ tám nắm, luộc một quả trứng cắt ra làm tám miếng để lễ
Giàng và ma hai nhà. Lúc lễ, anh ngồi trong nhà, em ngồi ngoài sân. Nếu
anh ném đúng vào tay em cả tám nắm cơm, anh lại ngửa tay hứng đủ tám
miếng trứng em tung vào, không có miếng trứng, miếng cơm nào rơi xuống
đất là ý Giàng thuận cho ta làm vợ làm chồng. Nếu Giàng không cho thì em
xuống thang đi luôn.
Anh mồ côi lo lắng, vội đi nấu cơm, luộc trứng để làm lễ cúng Giàng.
Vào lễ, anh đũ tung được cả tám nắm cơm vào tay cô gái và húng đủ cả tám
miếng trứng, không để rơi lại một miếng nào. Cô gái đem cả tám nắm cơm
lại thành một nắm to và trao lại cho anh mồ côi.
Hai người đã nên vợ chồng.
Bà đi làm rẫy về thấy cháu mình đang ngồi nói chuyện vui vẻ với một cô gái
xinh đẹp ở trên sạp sàn thì lạ lắm. Bà chưa kịp hỏi, anh mồ côi đã kể hết
ngọn nguồn cho bà nghe. Bà cháu vui mừng khôn xiết.
Bà cháu sống với nhau rất hòa thuận. Họ chung sức làm được một rẫy lúa
to.

Lúa rẫy anh mồ côi chín sớm hơn mọi rẫy khác nên bị bò tót kéo đến phá
phách mất nhiều. Anh đã mang ná đi rình nhiều đêm nhưng chưa bắn được
truyencotich

20


một con nào cả.
Người vợ hết mực siêng năng, chăm chỉ công việc ruộng nương, bếp núc.
Mỗi lần nấu nướng, chị ta thường giữ kĩ nắm vung trên nồi, không cho ai sờ
tay vào. Khi nào bà thấy cháu quá bận rộn, vào làm giúp thì chị ta dặn:
- Bà không được mở vung làm sống cơm bà nhé!
Bấy lâu thấy cháu vẫn giữ kĩ vung nồi, bà lấy làm lạ lắm. Nhân lúc cháu vác
ống tre đi múc nước ở suối, bà liền mở vung, hé mắt nhìn vào nồi cơm đang
sôi thì lạ thay: một nửa nồi đã thành cơm, còn nửa kia là một nắm thóc
vàng.
Đoán ra được cơ sự, bà đậy vung nồi cơm lẩm bẩm một mình:
- Bấy lâu ta tưởng bò tót ăn mất lúa rẫy, hóa ra cháu ta cắt về nấu cơm cho
cả nhà cùng ăn. Nó là giống bò tót mà lại!
Biết chuyện, bà càng thương cháu dâu nhưng không kể lại chuyện cho
chàng mồ côi biết. Ít lâu sau, bà già qua đời. Vợ chồng anh mồ côi đã sinh
được hai đứa con xinh đẹp.
Một hôm, có đàn bò tót đạp rào vào phá ngô ở nương nhà anh. Anh mồ côi
lấy ná ra toan bắn thì vợ ngăn lại, van xin:
- Anh ơi, sao anh nỡ bắn họ hàng nhà em?
Đang xót ruột vì nương ngô bị phá, anh chồng gắt:
- Thấy đàn bò ác lại nhận là bà con chú bác là nghĩa làm sao? Nó phá hết
ngô, lấy gì cho con ăn?
Người vợ khóc lóc bảo:
- Cây một gốc, nước một nguồn, có phải bà con em mới nhận chứ đâu có

nhận quàng. Anh không cho ăn thì ra đuổi đi!
Anh mồ côi vẫn chưa nuôi cơn giận, quát to:
- Đuổi được nó à? Nó húc cho thủng ruột ra ấy chứ? Ừ, bà con cô thì cô ra
mời họ ra khỏi rẫy nhà tôi đi!
Người vợ nghe thấy thế giận tím mặt. Chị gạt nước mắt, ôm cả hai con chạy
truyencotich

21


thẳng ra phía đàn bò ở bên rẫy.
Anh chồng thấy thế biết mình quá lời, hoảng hốt lo lắng cho vợ con, vội
buông ná gọi to:
- Em ơi, lui lại! Bò giết mất em với các con đấy!
Người vợ vẫn cắm đầu chạy. Anh mồ côi giơ cả hai tay lên trời chới với như
người sắp chết chìm, miệng lắp bắp kêu tên vợ, tên con.
Người vợ ẵm hai đứa con lao thẳng vào giữa đàn bò và cũng biến thành một
con bò mẹ với hai con bê con. Ba mẹ con bò chạy húc vào lưng, vào cổ, vào
bụng những con bò khác trong đàn. Cả đàn bò tót vểnh cổ, cong đuôi chạy
lao mất vào rừng sâu.
Anh mồ côi bỗng nhiên mất vợ, mất con, càng ăn năn với cơn nóng giận của
mình. Anh khóc rống lên. Tiếng khóc u buồn của anh đến cây rừng nghe
cũng rũ lá, vượn nghe cũng khóc theo, chim chóc nghe thì ngừng tiếng hót.
Khi khóc đã khô nước mắt, anh mồ côi lập bàn thờ cúng vợ.
Từ đó, hễ đám lễ nào có giết bò, hoặc nhà nào săn được bò rừng thì anh
không dám đến lễ ấy, đến nhà ấy nữa. Vì ai nỡ ăn thịt dòng dõi vợ con mình
bao giờ?

truyencotich


22



×