Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Thực trạng và điều kiện huy động hiệu quả nguồn vốn đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.28 KB, 19 trang )

Điều kiện huy động hiệu quả nguồn vốn đầu tư
Tổng quan về huy động nguồn vốn đầu tư
Khái niệm

Nguồn vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị
được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà
nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội.
Thực trạng huy động nguồn vốn trong nước

 Nền kinh tế mang nặng tính tập trung, quan liêu, bao cấp chưa tạo
động lực kinh doanh phát triển.
 Sử dụng nguồn vốn kém hiệu quả:
• Lãng phí vốn do bao cấp
• Đầu tư tràn lan thiếu trọng điểm,không tính tới hiệu quả đầu tư
Điều kiện huy động có hiệu quả nguồn vốn đầu tư
1) Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng và bền vững cho nền kinh tế
a) Ảnh hưởng của tăng trưởng đến nguồn vốn đầu tư
-Tăng trưởng ở đây chinh là tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền
kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định,được thể hiện ở quy mô và tốc độ
tăng trưởng,phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế.
CHO THÊM HÌNH BIỂU DIỄN MỐI QUAN HỆ HAI CHIỀU CỦA TĂNG
TRƯỞNG VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ

1


- Nguồn vốn đầu tư đứng trên phương diện vĩ mô mà nói thì bao gồm nguồn vốn
đầu tư trong nước và ngoài nước.Chúng có quan hệ hữu cơ với nha u cùng thúc


đẩy tăng trưởng kinh tế.Vậy câu hỏi đặt ra là tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng tới
nguồn vốn đầu tư hay không?Nếu có thì ảnh hưởng như thế nào?
-Một trong những yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động vốn chính là
năng lực tăng trưởng của nền kinh tế.Tăng trưởng được coi như tiền đề tạo ra sức
hút đối với nguồn vốn đầu tư.là cơ sở để đánh giá cũng như đảm bảo kết quả của
hoạt động đầu tư đồng thời giảm bớt rủi ro có thể xảy ra :
+Khả năng tăng trưởng được đảm bảo thì năng lực tích lũy của nền kinh tế sẽ có
khả năng gia tăng dẫn đến quy mô nguồn vốn trong nước huy động được sẽ tăng
lên
+Triển vọng tăng trưởng và phát triển cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút đầu tư
nước ngoài
Thưc tiên ở Việt Nam đã chứng minh điều này
THÊM VÀO ĐÂY GIÚP TỚ 2 BIỂU ĐỒ TỐC ĐỘ HOẶC QUY MÔ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ(GDP,…..) VỚI TỶ TRỌNG HOẶC QUY MÔ CỦA
NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ ĐỂ SO SÁNH
b.Giải pháp
Nhận thúc được vấn đề này vấn đề đặt ra là chúng ta cần làm gì để co thể tạo
lập,duy trì và gia tăng tăng năng lực phát triển kinh tế?
Đây là một bài toán khó chưa có lời giải nào là tuyệt đối.Vì vậy trong thời ngian
tới Việt Nam cần :
- Tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh và thực hành tiết kiệm cả trong
sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội
- Xác định yếu tố hiệu quả và chất lượng của huy động nguồn vốn đầu tư
trong lâu dài.Cần hoàn thiện cơ chế quản lí đầu tư,tiếp tục cài cách và tăng
tính hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.
- Tăng cường thẩm định đánh giá đối với các dự án sử dụng vốn vay.Hạn chế
tình trạng không trả nợ được gây gánh nặng cho nền kinh tế.Bên cạnh đó
nguồn vốn ODA phải sử dụng một cách có hiệu quá tránh gây lãng phí,tiêu
cực.
2



- Tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các nguồn đầu tư : đầu tư trong nước và
ngoài nước,giữa khu vực nhà nước với tư nhân.
2) Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Chủ đầu tư yêu cầu một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không những đảm bảo
cho nguồn vốn đó an toàn trước các rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môi
trường kinh doanh, mà còn phải có năng lực sinh lời nhất định.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây phải thỏa mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng
trưởng của nền kinh tế, hay ổn định trong tăng trưởng.
Thực tế đánh giá môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam thời gian gần đây.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã thành công rực rỡ, mang lại không khí phấn khởi và
niềm tin sâu sắc cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân bước vào thực hiện những
nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2011, năm đầu tiên của kế koạch 5 năm 2011 –
2015.
Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 “về những giải pháp chủ yếu tập trung
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội” là nền tảng cho
mọi cơ chế, chính sách của Chính phủ đối với đời sống kinh tế - xã hội năm 2011
và có tính xuyên suốt cho các năm tiếp theo.
Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị đã khẳng định tính đúng
đắn của Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 và nêu rõ: “… Mục tiêu, nhiệm vụ
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 gắn liền với kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 là: Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đổi
mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Đây là
những nhiệm vụ có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, cần được quán triệt,
triển khai đồng bộ trong suốt quá trình phát triển… Tập trung ưu tiên hàng đầu cho
việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội, coi đây
vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của
một vài năm tiếp theo. Trong năm 2011 và một vài năm đầu của kế hoạch 5 năm
2011 – 2015, không quá câu thúc bởi mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng GDP năm

2011 cao hơn năm 2010 để tránh tạo ra lạm phát cao, tạo tiền đề vững chắc cho
tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5 năm". Trong những giai
đoạn kinh tế vĩ mô được ổn định thì Việt Nam thực sự trở thành một điểm đến lý
3


tưởng của đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua khi lạm phát
gia tăng, kinh tế vĩ mô có nhiều biểu hiện không ổn định, đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã chững lại, đầu tư nước ngoài gián tiếp cũng nhỏ giọt.
Sau khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới, mặc dù đã có dấu hiệu hồi phục song
các nền kinh tế lớn tăng trưởng còn chậm, không rõ nét và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro,
các luồng vốn đầu tư đang đổ dồn vào các nước Đông Nam Á. Nhiều nước trong
khu vực đang phải vất vả tìm mọi giải pháp để hấp thụ các luồng vốn này một cách
hiệu quả nhất, đồng bản tệ của họ liên tục lên giá.
Trong khi đó tại Việt Nam, các luồng vốn này hầu như im ắng và VND liên tục
mất giá. Ở những thời điểm nhất định trong thời gian qua chúng ta cũng đặt vấn đề
ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát nhưng không nhất quán và nhiều khi còn
bị đánh đổi lấy các mục tiêu kinh tế khác. Điều này đã làm giảm lòng tin của cộng
đồng các nhà đầu tư, các nhà tài trợ vào môi trường đầu tư của Việt Nam. Mức xếp
hạng tín nhiệm đầu tư của ta bị giảm sút.
Theo Báo cáo cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2011 (do IMF và WB thực
hiện tháng 9 và 10.2011) cho thấy, mức giảm điểm mà các DN đánh giá về môi
trường kinh doanh VN năm nay chỉ còn 2,04 điểm, thấp hơn nhiều so với 2,52
điểm của năm ngoái và gần mức 1,9 điểm của năm 2008 (năm khủng hoảng tài
chính toàn cầu nổ ra). Điều này cho thấy môi trường kinh doanh năm nay có rất
nhiều thách thức cho DN. Do đó, thông điệp của diễn đàn năm nay đưa ra rất rõ:
“DN ủng hộ Chính phủ ổn định kinh tế vĩ mô”.
Đáng chú ý là sau nhiều năm được đánh giá cao, quản lý kinh tế vĩ mô (quản lý
lạm phát, điều hành tỷ giá) lần đầu tiên bị xếp vào nhóm 3 lĩnh vực đáng lo ngại
nhất của môi trường kinh doanh. Ông Alain Cany - Chủ tịch Eurocham (châu Âu)

nói: "Lạm phát cao kèm theo khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng, thiếu đồng bộ
cơ sở hạ tầng và các gánh nặng về thủ tục hành chính vẫn tiếp diễn tại VN đã làm
các DN lo ngại". Cụ thể từ 1996 - 2000, CPI bình quân là 3,4% còn tăng trưởng
GDP bình quân là 6,96%. Các con số tương ứng của giai đoạn 2001 - 2005 là 5,1%
và 7,51%; giai đoạn 2006 - 2010 là 11,4% và 7,2%. Như vậy, trong vòng 5 năm,
tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP
chỉ đạt 35,1%.

4


Theo nhận định của một số chuyên gia, những biện pháp mà CP Việt Nam cần
triển khai ngay lúc này:
• Ổn định giá trị tiền tệ: năm 2012 cũng như năm 2011 không nên đặt mục
tiêu tăng GDP cao (khoảng 6- 6,5%), mà vẫn ưu tiên số một là kéo giảm CPI
xuống dưới một con số (khoảng 9%). Hơn nữa, Chính phủ cần tiếp tục giám
sát chặt chẽ nợ Chính phủ, nợ công, nợ quốc gia; ưu tiên dành nguồn tăng
thu ngân sách để giảm bội chi, tăng trả nợ.
• Duy trì lãi suất và tỷ giá hối đoái ở mức hợp lí: việc thắt chặt tiền tệ tuy là
giải pháp bắt buộc và khá "đau đớn" nhưng qua đây, VN sẽ thanh lọc các
DN kém năng lực cạnh tranh, loại bỏ những DN cơ hội, không chuyên
nghiệp, đầu cơ trục lợi, sinh ra ăn nhờ cơ chế..."Đây cũng là việc làm cần
thiết khi dư nợ tín dụng của VN đang tăng quá nhanh, tỷ lệ nợ xấu gia
tăng..." - ông Brian O'Reilly - Chủ tịch Auscham (Australia) nói. Phó Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Lê Minh Hưng cũng khẳng định: Tăng tín dụng
của VN năm 2012 sẽ giữ ở mức 15-17%, thấp hơn mức 20% năm 2011. VN
sẽ tiếp tục theo đuổi chính sách tỷ giá phù hợp với thị trường, cung cầu, kinh
tế vĩ mô và cán cân thanh toán. Vốn tín dụng năm 2012 sẽ ưu tiên cho sản
xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, DN nhỏ và vừa và thắt chặt với
các khu vực phi sản xuất, không ưu tiên.

• Cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư: Ông Lê Đăng Doanh cho rằng,
tình hình kinh tế - xã hội không bình thường hiện nay cần được phản ánh
trung thực với Quốc hội để có quyết sách thích hợp cho 5 năm tới và năm
2012. Theo ông Doanh, đặc trưng của nền kinh tế hiện nay là có nhiều bệnh
mà nguồn gốc sâu xa gắn liền với thể chế kinh tế, chính sách của Nhà nước
như chính sách đầu tư công, hoạt động yếu kém của các doanh nghiệp nhà
nước. Để khắc phục các căn bệnh đó, không thể không cải cách bộ máy quản
lý của nhà nước, các chính sách kinh tế. Nếu không có những cải cách mạnh
mẽ, có hiệu lực thì khả năng nước ta sẽ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”
ngay trong những năm sắp tới, với mức thu nhập bình quân đầu người còn
rất thấp sau khi vừa vượt qua ngưỡng nước nghèo, ông Doanh lo ngại.
Ở tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN), với vai trò là cơ quan hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, đã
thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng
5


nhằm kiểm soát tăng trưởng tiền tệ ở mức hợp lý, điều tiết lãi suất và tỷ giá
phù hợp với các cân đối vĩ mô, đảm bảo khả năng an toàn thanh toán của hệ
thống và hỗ trợ thanh khoản cho nền kinh tế đảm bảo phù hợp với các Nghị
quyết của Quốc hội và Chính phủ, trong đó các biện pháp cơ bản như:
- Triển khai thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp như để ổn định lãi suất thị
trường theo xu hướng giảm dần, theo đó NHNN đã tích cực hỗ trợ thanh
khoản cho các NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước
đây thông qua hoạt động tái cấp vốn, thị trường mở, hoán đổi ngoại tệ, mua
ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối và can thiệp tỷ giá phù hợp trên thị trường.
- Điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 17.961VND/1USD lên
18.544VND/1USD; điều chỉnh lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức
kinh tế (trừ TCTD) tại TCTD xuống còn 1%/năm và giảm mạnh dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% kể từ kỳ dự trữ bắt buộc tháng 2/2010.

- Kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và đẩy mạnh quy mô tín dụng cho
các dự án trọng điểm của nhà nước, DNNVV và các chi phí sản xuất nông,
lâm, ngư, diêm nghiệp, thu mua và chế biến nông sản phục vụ xuất khẩu.
- Phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng và chỉ đạo các NHTM nhà nước nâng
cao vị thế, tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh
giảm dần lãi suất cho phù hợp với diễn biến kinh tế và quy luật thị trường.
- Chỉ đạo các NHTM thực hiện quyết toán hỗ trợ lãi suất đối với các khoản
vay ngắn hạn VND phát sinh trong năm 2009 và tiếp tục triển khai cơ chế hỗ
trợ lãi suất đối với những khoản vay trung, dài hạn VND, khu vực nông
nghiệp, nông dân và nông thôn…
Kết quả là: Thị trường tiền tệ về cơ bản ổn định trở lại, lãi suất thị trường đã
nằm trong ngưỡng kiểm soát của NHNN, tiền gửi dân cư tăng, đầu tư của tổ
chức kinh tế tăng, chỉ tính riêng trong Quý 1/2010, dư nợ tín dụng tăng
3,34% so với cuối năm 2009, thanh khoản và tiền mặt cơ bản đáp ứng đủ
nhu cầu phát triển kinh tế, lòng tin của các tầng lớp dân cư và các tổ chức
kinh tế đối với hệ thống ngân hàng và đối với chủ trương, chính sách do hệ
thống ngân hàng thực hiện ngày càng được nâng cao. Trạng thái ngoại tệ của

6


các NHTM trong những tháng đầu năm 2010 tương đối tốt khi các NHTM
đang tự cân đối được cung - cầu ngoại tệ của mình, diễn biến tỷ giá đã có
nhiều tín hiệu lạc quan khi tỷ giá trên thị trường chính thức duy trì xu hướng
ổn định và tỷ giá tự do đang tiến gần sát với tỷ giá chính thức; sự ổn định
của thị trường ngoại hối là nhân tốt, có tác dụng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế,
ngặn chặn nguy cơ lạm phát trước mắt và tạo được niềm tin của doanh
nghiệp và người dân vào sự ổn định của tỷ giá, khả năng can thiệp và kiểm
soát thị trường ngoại hối của Nhà nước cũng được nâng lên. Chính phủ đã
đưa ra 7 nhóm giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội năm 2012 trong đó, điều hành chủ động và linh hoạt các công cụ chính
sách tiền tệ, nhất là chính sách lãi suất, cho vay tái cấp vốn và nghiệp vụ thị
trường mở, kiểm soát mức tăng trưởng tín dụng cả năm 2012 khoảng 15% 17%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14% - 16%, bảo đảm thanh
khoản của các tổ chức tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý với diễn
biến kinh tế vĩ mô.
3) Xây dựng chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được
các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện các chính sách và
giải pháp khai thác và huy động vốn phải có sự tính toán tổng hợp về khả năng
cung ứng vốn và khả năng tăng trưởng các nguồn vốn trên cơ sở giải quyết hợp lý
các mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thống kê không chính thức cho thấy, số lượng quỹ
đầu tư hoạt động tại Việt Nam khá đông đảo, khoảng hơn 400 quỹ, trong khi quỹ
thành lập trong nước còn quá nhỏ bé, cả về số lượng và quy mô vốn quản lý. Các
quỹ đầu tư vào Việt Nam, tính tới thời điểm này, chủ yếu dưới hình thức công ty
đầu tư hoặc quỹ đầu tư của NĐT nước ngoài thành lập tại nước thứ ba là các thiên
đường thuế như Cayman Islands, Bermuda, British Virgin Island và sau đó mở tài
khoản đầu tư vào Việt Nam với tư cách một NĐT nước ngoài đầu tư gián tiếp. Ba
năm trở lại đây, việc huy động vốn từ các NĐT trong nước trở nên hết sức khó
khăn do sự thiếu hụt vốn của các tổ chức nội địa, áp lực lãi suất cao và diễn biến
TTCK kém hấp dẫn. Trong khi đó, các NĐT nước ngoài sau khủng hoảng tài chính
7


lại đang chuyển hướng tìm kiếm cơ hội đầu tư sang các thị trường mới nổi như
Việt Nam. Trong ba năm vừa qua, có hơn 8.100 NĐT tổ chức và cá nhân nước
ngoài đã mở tài khoản giao dịch chứng khoán tại Việt Nam
Cần phải đa dạng hóa và hiện đại hóa các hình thức và phương tiện huy

động vốn. Thực hiện mở rộng các hình thức huy động tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước từ khu vực dân cư qua hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất và
thời gian hấp dẫn. Thành lập và phát triển hệ thống quỹ đầu tư dưới nhiều hình
thức khác nhau. Tiến tới gia nhập thị trường vốn trong và ngoài nước để huy động
vốn cho đầu tư phát triển.
VD: về hình thức huy động vốn dự án
5 hình thức huy động vốn
Theo điều 9, NĐ/71 về huy động vốn đầu tư xây dựng nhà ở quy định: Trường hợp
CĐT dự án phát triển khu nhà ở, dự án khu đô thị mới (CĐT cấp I) huy động vốn
để đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu đô thị thì chỉ được huy động theo 5 hình
thức.
Hình thức thứ 2 là CĐT cấp I ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp tác đầu tư với CĐT
cấp II nhằm chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hạ tầng kỹ thuật cho CĐT này
để thực hiện đầu tư dự án nhà ở; ba là, CĐT ký hợp đồng góp vốn hoặc hợp đồng
hợp tác đầu tư với tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng nhà ở và bên tham gia góp
vốn được phân chia lợi nhuận bằng tiền, cổ phiếu hoặc được phân chia sản phẩm là
nhà ở trên cơ sở tỉ lệ góp vốn theo thoả thuận.
Trong trường hợp các bên thoả thuận phân chia sản phẩm là nhà ở thì CĐT chỉ
được phân chia cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại VN theo quy
định của Luật Nhà ở và phải tuân thủ quy định về số lượng nhà ở tối đa không quá
20% số lượng nhà ở trong mỗi dự án; bốn là, CĐT ký hợp đồng hợp tác kinh doanh
với DN có chức năng kinh doanh BĐS để đầu tư xây dựng nhà ở; bên tham gia hợp
tác kinh doanh được phân chia lợi nhuận bằng tiền, cổ phiếu, hoặc được phân chia
sản phẩm là nhà ở thì tối đa cũng không được vượt quá 20% số lượng nhà ở cho
mỗi dự án; năm là, huy động vốn từ tiền mua nhà ứng trước của các đối tượng
được quyền sở hữu nhà ở tại VN thông qua hình thức ký hợp đồng mua bán nhà ở
8


hình thành trong tương lai.

Đối với trường hợp CĐT dự án phát triển nhà ở độc lập (bao gồm cả CĐT cấp II đã
được chuyển giao quyền sử dụng đất của CĐT cấp I và xây dựng các dự án nhà ở
và công trình kiến trúc trên đất đã có hạ tầng, thì chỉ có 4 hình thức huy động vốn,
trừ hình thức ký hợp đồng góp vốn với CĐT cấp II.
Tuy nhiên, để phân biệt dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu đô thị với dự án xây
dựng nhà ở trên đất đã có hạ tầng, NĐ quy định rõ: CĐT cấp I chỉ được ký hợp
đồng góp vốn với CĐT cấp II sau khi đã giải phóng mặt bằng của dự án và thực
hiện khởi công xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật của dự án.
Trường hợp CĐT cấp II có nhu cầu huy động vốn để xây dựng nhà ở trên diện tích
đất nhận chuyển nhượng của CĐT cấp I thì cũng chỉ được ký hợp đồng huy động
vốn sau khi đã có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, có thoả thuận trong
hợp đồng về việc CĐT cấp II được phép huy động vốn để xây dựng nhà ở và có đủ
các điều kiện để huy động vốn.
Một quan chức Cục Quản lý nhà và thị trường BĐS cho biết: “Làm như vậy để
tránh các tranh chấp có thể xảy ra khi CĐT cấp II chưa hoàn tất các thủ tục về
chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã huy động vốn. Hoặc chí ít, CĐT cấp II phải
được sự chấp thuận bằng văn bản của CĐT cấp I về quyền sử dụng đất thì mới
được quyền huy động vốn, để tránh tình trạng CĐT cứ tự ý huy động tiền của
khách hàng khiến "tiền mất tật mang”.

Các chính sách huy động vốn cần được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn
và biện pháp thực hiện. . Các chính sách về đầu tư phải đảm bảo khuyến khích,
định hướng các hoạt động thu hút cung ứng vốn nhằm huy động tổng lực của nền
kinh tế cho công nghiệp hóa đất nước. Đảm bảo sự bình đẳng, gắn bó và tạo điều
kiện lẫn nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn.

Một số chính sách

9



Thứ nhất, từng bước dỡ bỏ các rào cản đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Hầu hết các
quốc gia đều có một số giai đoạn phải kiểm soát dòng vốn FDI ra ngoài thông qua
các quy định và quy chế để tránh tác động tiêu cực đối với cán cân thanh toán (đào
thoát vốn và ngoại hối). Việc dỡ bỏ các rào cản kiểm soát này diễn ra khi có sự
thặng dư đủ lớn đối với tài khoản vãng lai. Hàn Quốc được coi là nước kết hợp hài
hòa giữa chính sách tự do hóa đầu tư ra nước ngoài, bảo hộ ngành cùng với diễn
biến kinh tế vĩ mô, tình trạng cán cân thanh toán quốc tế. Đến nay, phần lớn trong
số các nước đang phát triển và chuyển đổi, kém phát triển đã tự do hóa hoàn toàn
ĐTRNN.
Thứ hai, xây dựng các công cụ chính sách xúc tiến đầu tư ra nước ngoài.Các quốc
gia cần đạt tới một mức độ phát triển nhất định trước khi thực hiện các biện pháp
xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các biện pháp khuyến khích được sử dụng
làm giảm chi phí các dự án đầu tư ra bên ngoài, bao gồm cả cho vay ưu đãi, vốn
cổ phần, xuất khẩu tín dụng và các biện pháp kích thích thuế; tham gia bảo hiểm
đầu tư thông qua Cơ quan Bảo đảm đầu tư đa phương (MIGA) và các cơ quan tín
dụng xuất khẩu; và cung cấp thông tin, các dịch vụ liên quan và liên kết. Các công
cụ chính sách bổ trợ để xúc tiến đầu tư trực tiếp ra ngoài rất đa dạng, được kết hợp
lồng ghép với các chính sách đầu tư khác nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
này (Bảng 1).
Thứ ba, thành lập các tổ chức xúc tiến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Những cơ
quan nhà nước quan trọng nhất trong lĩnh vực này bao gồm: cơ quan xúc tiến
thương mại, các cơ quan xúc tiến đầu tư (IPAs) và các cơ quan tín dụng xuất khẩu
và bảo hiểm; ngân hàng xuất - nhập khẩu; và các cơ quan nhà nước có liên quan.
Tuy nhiên, mỗi quốc gia cần phải xác định mức độ tối ưu và các dịch vụ hỗ trợ
cho đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trong từng bối cảnh cụ thể.
Thứ tư, thực hiện các chính sách bổ trợ khác. Các chính sách bổ trợ để xúc tiến
đầu tư trực tiếp ra ngoài rất đa dạng, được kết hợp lồng ghép với các chính sách
đầu tư khác nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này, bao gồm: cung cấp thông
tin, các dịch vụ liên kết, các biện pháp thúc đẩy, các nghiên cứu về tính khả thi, hỗ

trợ luật pháp, hỗ trợ đào tạo, bảo đảm đầu tư. Tuy nhiên, ngoài các cơ quan nhà
nước, sự hỗ trợ của các hiệp hội ngành hàng cũng rất quan trọng đối với việc thúc
đẩy đầu tư ra nước ngoài.
Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả cuối cùng cao nhất, các chính sách cụ thể đối với
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần phải được phối hợp với các chính sách khác để
hướng tới thúc đẩy hoạt động quốc tế hoá (như thương mại, di dân và thu hút FDI)
và các chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng và cải thiện các doanh nghiệp trong

10


nước. Nhìn chung, các chính sách FDI chỉ có hiệu quả khi chúng là một phần của
các chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô.
Thứ năm, giảm các rủi ro tiềm ẩn liên quan đến FDI ra nước ngoài. ĐTRNN có
thể có tác động tiêu cực lên việc làm và công nghệ của nước đầu tư (do dịch
chuyển hoạt động sản xuất, chuyển giao công nghệ (nghiên cứu và triển khai) và
lao động ra nước ngoài) và gây nên các vấn đề về cán cân thanh toán quốc tế của
nước đó. Các tác động dự tính tùy thuộc vào các động cơ đầu tư ra nước ngoài, các
điều kiện trong nền kinh tế trong nước và vị thế tương đối của các khu vực công
nghiệp nước đầu tư trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, nhà nước cần có các chính
sách công chuyên biệt đối với các nhóm đối tượng này chịu tác động tiêu cực như
các chương trình giáo dục, đào tạo tay nghề, cũng như các chương trình khuyến
khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ các ngành công nghiệp
trong nước sản xuất các phần phụ kiện và nguyên liệu cho xuất khẩu, tích cực thu
hút FDI vào, đặc biệt là với các ngành công nghiệp công nghệ cao. Ở đây, các
chính sách bổ trợ được sử dụng nhằm giảm các tác động tiêu cực của đầu tư ra
nước ngoài mà không cản trở quá trình quốc tế hoá.
Thứ sáu, tham gia các các hiệp ước khu vực quốc tế để tăng đầu tư giữa các nước
đang phát triển và chuyển đổi. Tham gia vào các đầu tư song phương, Hiệp ước
Tránh đánh thuế hai lần, các thỏa thuận đầu tư quốc tế, khu vực là nhằm khuyến

khích sự chia sẻ kinh nghiệm giữa các tổ chức có thể hỗ trợ tài chính cho thương
mại và đầu tư Nam - Nam, bảo vệ các doanh nghiệp của các quốc gia phát triển
chống lại những rủi ro chính trị, như phân biệt, chiếm đoạt và hạn chế chuyển giao
trong khi cùng một lúc giúp các nước đang phát triển thu hút thêm nhiều FDI.
Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, nhiều nước đã thành lập Quỹ phúc
lợi quốc gia (tạm dịch từ National Wealth Fund - SWF) để thực hiện các chiến
lược quốc gia dài hạn, nhất là xây dựng các quỹ dự trữ các tài nguyên thiên nhiên
(như dầu thô, khoáng sản,..) và các hàng hóa khác, hỗ trợ cho các hoạt động
M&A[3] (đặc biệt là mua lại các tài sản chiến lược) và đầu tư gián tiếp trên toàn cầu
cũng như phục vụ các mục tiêu chính trị khác .

11


QUYẾT ĐỊNH
CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH SỐ 972/TC-ĐTQG NGÀY 29 THÁNG
10 NĂM 1996 VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ GÓP VỐN, HUY ĐỘNG
VỐN QUỸ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ QUỐC GIA
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
- Căn cứ Luật khuyến khích đầu tư trong nước ngày 22 tháng 6 năm 1994;
- Căn cứ Nghị định 29/CP ngày 12 tháng 5 năm 1995 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước;
- Căn cứ Nghị định số 178/CP ngày 28/10/1995 của Chính phủ quy định chức
năng nhiệm vụ của Bộ tài chính;
- Căn cứ Quyết định số 808/TT ngày 9/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia;
- Căn cứ Điều lệ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia ban hành kèm theo Quyết định số
462/TTg ngày 9/7/1996 của Thủ tướng Chính phủ;
- Theo đề nghị của Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia;
QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1.- Ban hành kèm theo Quyết định này Quy chế góp vốn huy động vốn của
Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia.
Điều 2.- Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày ban hành.
Điều 3.- Chủ tịch Hội đồng quản lý, Tổng Giám đốc Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia
và các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện quyết định này.
QUY CHẾ
GÓP VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA QUỸ HỖ TRỢ ĐẦU TƯ QUỐC GIA

12


(Ban hành kèm theo Quyết định số 972 TC/HTĐTQG ngày 29-10-1996
của Bộ trưởng Bộ Tài chính)

CHƯƠNG I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.- Nguồn vốn hoạt động của Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia (sau đây gọi tắt là
Quỹ) bao gồm: Vốn điều lệ và vốn huy động.
1.1. Vốn Điều lệ bao gồm:
- Vốn ngân sách Nhà nước cấp;
- Vốn góp của các doanh nghiệp: mức vốn góp của các doanh nghiệp Nhà nước
không thấp hơn 3% lợi nhuận sau thuế của năm hoạt động trước đó.
Danh sách và mức vốn góp của doanh nghiệp do Bộ trưởng Bộ Tài chính trình Thủ
tướng Chính phủ quyết định.
- Vốn góp tự nguyện của các cá nhân, các tổ chức trong và ngoài nước.
Khi có nhu cầu tăng thêm vốn Điều lệ, Hội đồng quản lý đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài
chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
1.2. Vốn huy động bao gồm:
- Vốn phát hành trái phiếu trung và dài hạn;
- Vốn vay trung và dài hạn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;

- Tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước; các khoản vay của Chính phủ và
nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) để cho vay lại đối với các dự án được
Chính phủ quy định; các khoản chênh lệch lãi suất nguồn vốn ODA cho vay lại;
- Nhận vốn uỷ thác cho vay đầu tư phát triển của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước;
- Tiếp nhận các nguồn vốn của các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân tự nguyện
gửi Quỹ để đầu tư phát triển;
13


- Vốn tài trợ không hoàn lại cho Quỹ của các tổ chức Quốc tế, Quốc gia và các tổ
chức phi Chính phủ;
- Vốn huy động khác do Bộ trưởng Bộ tài chính quy định.
Mức vốn huy động, hình thức huy động, lãi suất huy động của từng thời kỳ do
Tổng giám đốc Quỹ trình Hội đồng quản lý quyết định phù hợp với các quy định
hiện hành của Nhà nước. Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia có trách nhiệm quản lý, thu
hồi và hoàn trả đúng hạn cho chủ sở hữu các khoản vốn huy động nói trên.
Điều 2.- Các tổ chức bảo hiểm, tín dụng và doanh nghiệp Nhà nước (sau đây gọi
tắt là doanh nghiệp) góp vốn vào Quỹ được sở hữu phần tài sản, được chia lãi (nếu
có) tương ứng với phần vốn góp, được xem xét cho vay vốn khi có nhu cầu phù
hợp với cơ chế cho vay của Quỹ và được rút vốn Điều lệ theo Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ trong trường hợp có khó khăn đặc biệt, phá sản, giải thể.
Điều 3.- Các chi phí phát sinh trong nghiệp vụ huy động vốn như trả lãi vốn huy
động, chi phí huy động..., được tính vào chi phí hoạt động của Quỹ.
Điều 4.- Nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia được quản lý theo nguyên tắc
tập trung, thống nhất.

CHƯƠNG II
QUY ĐỊNH CỤ THỂ


A. VỐN ĐIỀU LỆ:
Điều 5. Ngân sách Nhà nước cấp vốn Điều lệ cho Quỹ từ nguồn vốn được cân đối
trong dự toán ngân sách hàng năm cho đến khi đủ 50% vốn Điều lệ.
Hàng năm căn cứ vào dự toán ngân sách Nhà nước bố trí cho Quý, Bộ tài chính
chuyển vốn vào tài khoản tiền gửi của Quỹ tại Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng
nơi Quỹ mở tài khoản.
Điều 6. Vốn góp của các doanh nghiệp Nhà nước là phần đóng góp bắt buộc theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Mức vốn góp của các doanh nghiệp Nhà

14


nước không thấp hơn 3% lợi nhuận sau thuế của năm hoạt động trước đó. Ngoài
mức vốn góp bắt buộc, các doanh nghiệp còn có thể được góp vốn vào Quỹ với số
lượng không hạn chế. Các doanh nghiệp có mức lợi nhuận sau thuế của năm hoạt
động trước đó thấp hơn 1 tỷ đồng được tự nguyện góp vốn vào Quỹ, nhưng không
bắt buộc.
Điều 7. Các doanh nghiệp được sử dụng các loại quỹ và vốn hợp pháp để góp vốn
vào Quỹ bằng tiền đồng VN. Trường hợp doanh nghiệp được phép kinh doanh
ngoại tệ thì việc góp vốn có thể bằng ngoại tệ (USD), mức vốn góp được ghi bằng
VNĐ theo tỷ giá mua vào của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời
điểm góp vốn.
Điều 8. Trên cơ sở số liệu về lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp do hệ thống
Tổng cục quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp cung cấp, Quỹ có trách
nhiệm tính toán thống nhất với Tổng cục Quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại
doanh nghiệp mức vốn góp của từng doanh nghiệp trình Bộ Tài chính để Bộ Tài
chính trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Việc cung cấp số liệu của Tổng cục
quản lý vốn và tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp cho Quỹ được thực hiện vào
tháng 11 của năm báo cáo (số liệu ước tính) và vào tháng 6 của năm kế hoạch (số
liệu báo cáo quyết toán chính thức của năm trước đó).

Điều 9. Căn cứ vào mức vốn góp của từng doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ
quyết định, Bộ trưởng Bộ Tài chính uỷ quyền cho Tổng Giám đốc Quỹ ký thông
báo đến từng doanh nghiệp góp vốn. Chậm nhất là 3 tháng kể từ ngày Thủ tướng
Chính phủ quyết định, thủ trưởng các doanh nghiệp thực hiện chuyển tiền (có thể
bằng tiền mặt, hoặc phát hành séc, hoặc trích tài khoản bằng uỷ nhiệm chi...) vào
tài khoản tiền gửi của Quỹ Kho bạc Nhà nước hoặc Ngân hàng do Quỹ quy định.
Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện đúng quy định về thời hạn và mức vốn
góp, Quỹ sẽ kiến nghị với Bộ trưởng Bộ Tài chính (qua Tổng cục quản lý vốn và
tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp) để xem xét và xử lý.
Điều 10. Các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước được tự nguyện góp vốn Điều
lệ cho Quỹ với số lượng không hạn chế phù hợp với thông lệ Quốc tế và pháp luật
Việt Nam.
Điều 11. Các thành viên góp vốn Điều lệ Quỹ được hưởng các quyền lợi sau đây:
- Được sở hữu phần tài sản tương đương với phần vốn góp vào Quỹ và được rút
vốn Điều lệ trong trường hợp đặc biệt khó khăn hoặc bị phá sản, giải thể theo
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

15


- Được tham gia ý kiến về chính sách, cơ chế huy động và sử dụng vốn của Quỹ;
được tham dự cuộc họp thường niên để nghe thông báo về kết quả hoạt động của
Quỹ; được cung cấp thông tin cần thiết về tình hình hoạt động của Quỹ;
- Được xem xét cho vay vốn khi có nhu cầu phù hợp với cơ chế cho vay của Quỹ;
- Được chia lãi tương ứng với phần vốn góp trong trường hợp kết quả tài chính của
Quỹ thu lớn hơn chi.

B/ VỐN HUY ĐỘNG:
Điều 12. Vốn huy động là vốn của chủ sở hữu mà Quỹ được quyền sử dụng và có
trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi.

Điều 13. Quỹ HTĐTQG được phát hành trái phiếu trung hạn và dài hạn theo quy
chế phát hành trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số
120/CP ngày 17/9/1994 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài
chính. Mức phát hành, thời hạn phát hành, hình thức phát hành, lãi suất trái phiếu,
cơ cấu về mệnh giá trái phiếu... do Tổng Giám đốc Quỹ báo cáo Hội đồng quản lý
và trình Bộ trưởng Bộ tài chính quyết định cho từng đợt phát hành.
Điều 14. Bộ tài chính có thể phát hành trái phiếu Chính phủ huy động vốn và
chuyển cho Quỹ HTĐTQG để bổ sung nguồn vốn huy động; Quỹ HTĐTQG phải
sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả và hoàn trả đầy đủ, đúng hạn tiền gốc,
tiền lãi cho Bộ Tài chính.
Việc phát hành trái phiếu Chính phủ huy động vốn cho Quỹ HTĐTQG được thực
hiện theo quy định sau:
1- Căn cứ vào nhu cầu sử dụng vốn, Quỹ HTĐTQG xây dựng phương án huy động
vốn, kế hoạch trả nợ trái phiếu, trao đổi thống nhất với KBNN Trung ương và báo
cáo Hội đồng quản lý thông qua để trình Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt.
2- Trên cơ sở đề nghị của Quỹ HTĐTQG và KBNN Trung ương, Bộ trưởng Bộ
Tài chính quyết định việc phát hành trái phiếu Chính phủ huy động cho Quỹ và uỷ
quyền cho KBNN Trung ương thực hiện.
3- Kho bạc Nhà nước Trung ương tổ chức phát hành trái phiếu, tập trung tiền mua
trái phiếu và chuyển vào tài khoản của Quỹ HTĐTQG mở tại KBNN Trung ương.
16


Đồng thời Quỹ HTĐTQG ký nhận nợ với Bộ Tài chính (KBNN Trung ương) và
cam kết hoàn trả đầy đủ, đúng hạn tiền gốc và lãi. Tiền lãi tính theo lãi suất trái
phiếu hình thành qua kết quả đấu thầu hoặc lãi suất do Bộ trưởng Bộ Tài chính
quyết định cho từng đợt phát hành.
5- Sau từng đợt phát hành trái phiếu, Quỹ HTĐTQG sẽ thanh toán cho KBNN
Trung ương chi phí in phát hành trái phiếu (theo hợp đồng với cơ quan in ấn) và
chi phí phát hành - thanh toán trái phiếu theo tỷ lệ quy định.

6- Đến hạn trả nợ, Quỹ HTĐTQG có trách nhiệm thanh toán đầy đủ tiền gốc, lãi
trái phiếu cho KBNN Trung ương. Trường hợp Quỹ không hoàn trả, Bộ tài chính
(KBNN Trung ương) có quyền tự động trích tài khoản của Quỹ mở tại KBNN
Trung ương để thu hồi nợ.
Điều 15. Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia được tiếp nhận các nguồn vốn của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước tự nguyện gửi Quỹ để đầu tư phát triển. Các tổ
chức cá nhân trong và ngoài nước tự nguyện gửi tiền vào Quỹ để đầu tư phát triển
được nhận một tỷ lệ lãi suất theo thoả thuận, hoặc theo hợp đồng. Tỷ lệ lãi suất do
HĐQL Quỹ quy định nhưng tối đa không quá lãi suất quy định của Nhà nước.
Điều 16. Quỹ được tiếp nhận và vay vốn trung và dài hạn của các tổ chức, cá nhân
trong nước theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi trên cơ sở hợp đồng
vay vốn và phải đảm bảo trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Điều kiện vay, thời hạn vay,
lãi suất vay... do 2 bên thoả thuận phù hợp với các quyết định của Hội đồng quản
lý trong từng thời kỳ và phù hợp với các quy định hiện hành của Nhà nước.
Điều 17. Quỹ được trực tiếp đàm phán, ký kết các hợp đồng, các hiệp định vay vốn
trung và dài hạn với các tổ chức, cá nhân ngoài nước phù hợp với các quy định của
Nhà nước và thông lệ Quốc tế, đảm bảo trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Quỹ được
quyền tiếp nhận các nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế, Quốc gia, cá nhân người
nước ngoài để tăng cường, bổ sung nguồn vốn cho vay trên nguyên tắc tự nguyện,
bình đẳng, cùng có lợi và theo đúng pháp luật Việt Nam.
Điều 18. Quỹ được nhận vốn uỷ thác cho vay đầu tư phát triển của các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước thông qua hợp đồng uỷ thác.
Điều 19. Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia được tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư của Nhà
nước và các nguồn vay nợ, viện trợ nước ngoài của Chính phủ, các khoản chênh
lệch lãi suất từ nguồn vốn ODA cho vay để cho vay lại đối với các dự án được
Chính phủ quy định.

17



Điều 20. Quỹ được huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển theo quy
định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

C/ QUẢN LÝ, BẢO TOÀN VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN VỐN:
Điều 21. Nguồn vốn Quỹ được quản lý theo nguyên tắc tập trung, thống nhất.
Tổng Giám đốc Quỹ có trách nhiệm quản lý và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả,
đúng mục đích, thu hồi vốn và lãi cho vay, bảo toàn và tăng trưởng nguồn vốn,
được quyền phân bổ, điều hoà, điều chỉnh nguồn vốn trong phạm vi toàn hệ thống.
Điều 22. Giám đốc các chi nhánh Quỹ HTĐTQG tại các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích nguồn
vốn được phân bổ, chấp hành nghiêm chỉnh lệnh điều động, điều hoà nguồn vốn
của Tổng Giám đốc Quỹ; vận động, hướng dẫn các Doanh nghiệp, các tổ chức, cá
nhân trên địa bàn góp vốn cho Quỹ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có
lợi và theo đúng chế độ hiện hành. Nguồn vốn tự huy động trên địa bàn được sử
dụng cho các dự án đầu tư tại địa phương do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định phù
hợp với mục tiêu và nội dung của Luật khuyến khích đầu tư trong nước.
Tổng Giám đốc Quỹ HTĐTQG có trách nhiệm ban hành cơ chế huy động và sử
dụng vốn tại các chi nhánh Quỹ HTĐTQG.

CHƯƠNG III
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 33. Quy chế này có hiệu lực từ ngày ban hành. Trong quá trình thực hiện, nếu
có vướng mắc, đề nghị các Bộ, ngành, Địa phương và các đơn vị phản ánh kịp thời
về Bộ tài chính để nghiên cứu giải quyết.

18


Kết quả đã đạt được


19



×