Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tổng quan về giá và chính sách giá trong kinh doanh lữ hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.83 KB, 24 trang )

Lời nói đầu
Ngày nay, khi nói đến thuật ngữ "du lịch" thì mọi người đều biết, vì vậy Du
lịch ra đời từ rất lâu đời khi nền kinh tế phát triển ngành Du lịch cũng phát triển
theo. Du lịch có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và xã hội. Du lịch
không những là sự giao lưu giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa nền văn
hoá này với nền văn hoá khác mà còn là chiếc cấu nối đi tới hoà bình. Khi du lịch
phát triển ở một vùng nào đó, một quốc gia nào đó cũng có nghĩa rằng ở đó có
nền chính trị ổn định và thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhưng để du lịch phát triển
tốt, ngoại trừ có nền chính trị ổn định, một nền văn hoá phong phú đặc sắc ra,
điều quan trọng không kém đó là chính sách giá được sử dụng như thế nào?
Trên thị trường hiện nay, giá đã nhường chỗ cho chất lượng song không có
nghĩa là nó không có vai trò gì trong quyết định của khách du lịch đối với một thị
trường du lịch. Nhu cầu và mong muốn của khách du lịch có thực hiện được hay
không hay nói cách khác nó có trở thành cần hay không điều đó phụ thuộc và khả
năng thanh toán, và điều người ta cần xem xét đó là giá cả. Định giá sản phẩm,
dịch vụ là vấn đề cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ
sản phẩm đến lợi nhuận và do đó có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
công ty. Vì thế trong quá trình kinh doanh không thể định giá một cách chủ quan
tuỳ tiện và càng không thể xuất phát từ lòng mong muốn cũng vì lý do đó mà phải
vận dụng chính sách giá như thế nào cho hợp lý và thu được lợi nhuận tối ưu cho
công ty. Xuất phát từ lý do đó mà tôi đã chọn đề tài "Tổng quan về giá và chính
sách giá trong kinh doanh lữ hành’’ .Việc chọn đề tài này là nhằm mục đích
nói lên những hiểu biết về giá và nội dung chính sách giá.

1


Mục lục

tổng quan về giá và chính sách giá trong kinh doanh lữ hành
A-NÔI DUNG


1. Một số vấn đề cơ bản về du lịch và kinh doanh lữ hành
1.1 Khái niệm về du lịch
1.1.1 Khái niệm
Ngày nay Du lịch đó trở thành hiện tượng kinh tế-xó hội phổ biến. Hội đũng
Lữ hành và Du lịch quốc tế (World Travel and Tourism Council- WTTC) ĐÃ
CễNG BỐ Du lịch là một ngành kinh tế lớn nhất thế giới , vượt trên cả ngành sản
xuất ô tô ,thép, điện tử và nông nghiệp.Đối với một số quốc gia Du lịch là nguồn
ngoại tệ quan trọng nhất strong ngoại thương .Tại nhiền quốc gia khác Du lịch là
một trong ba ngành kinh tế hàng đầu .Du lịch đó nhanh chúng trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia trờn thế giới . Du lịch ngày nay là một đè tài
hấp dẫn và đó trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu. Nhiều nước đó lấy chỉ
tiờu đi du lịch của cư dân là một chỉ tiêu để đánh giá chất lượng của cuộc sống
.Du lịch - thực sự mới trở thành một ngành công nghiệp không khói ở một số
nước đang phát triển trong vòng 30 năm trở lại đây. Theo nhận định của các nhà
kinh tế trên thế giới, du lịch là một ngành "kỹ nghệ" có tốc độ phát triển mạnh
hơn cả ngay từ những năm đầu của thập kỷ 40 khi chiến tranh thế giới thứ hai
chưa kết thúc.
Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) thỡ năm 2000 số lượng khỏch du
lịch toàn cầu là 689 triệu lượt người ,thu nhập là 467 tỷ USD;Năm 2002 lượng
khách là 716,6 triệu người, thu nhập là 474 tỷ USD; và đến năm 2010 là 1 tỷ
người.năm 2011 con số này tăng lên khoảng từ 2 -3%.
Do sự phát triển kinh tế cùng với sự gia tăng của dân số và sự phát triển
2


nhanh chóng của giao thông vận tải, du lịch ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Do phạm vi và góc độ nghiên cứu đa dạng, cho nên khái niệm về du lịch
được đề cập rất khác nhau.
-Năm 1881 ,lần đầu tiên có định nghĩa về du lịch tại Anh như sau:’’Du lịch
là sự phối hợp nhịp nhàng giữa lý thuyết và thực hành của (cỏc) cuộc hành trỡnh

với mục đích giải trí. Ở đây sự giải trí là động cơ chính’’
-Năm 1930 ,ông Glusman , người Thụy Sỹ định nghĩa:’’Du lịch là sự chinh
phục không gian của những người đến một địa điểm mà ở đó họ không có chỗ cư
trú thường ‘’thường xuyên’’ ‘’.
- ễng Kuns ,một người Thụy Sỹ khác cho rằng : "Du lịch là hiện tượng
những người ở chỗ khác ngoài chỗ ở thường xuyên đi đến bằng phương tiện giao
thông và sử dụng các xí nghiệp du lịch".
- Theo định nghĩa của hai giỏo sư ,tiến sỹ Hunziker và Krapf : "Du lịch là
tập hợp các mối quan hệ và hiện tượng phát sinh trong những cuộc hành trình và
lưu trú của những người ngoài địa phương, nếu như việc lưu trú đó không trở
thành lưu trú thường xuyên và không có hoạt động kiếm lời".
- Định nghĩa về du lịch trong cuốn ‘’Từ điển bỏch khoa quốc tế về du
lịch’ .do viện hàn lõm khoa học quốc tế về du lịch xuất bản
"Du lịch là tập hợp các hoạt động tích cực của con người nhằm thực hiện
một dạng hành trình là một công nghiệp liên kết nhằm thoả mãn các nhu cầu của
khách du lịch, du lịch là một cuộc hành trình mà một bên là người khởi hành với
mục đích đã được chọn trước và một bên là những công cụ làm thoả mãn nhu cầu
của họ".
- Định nghĩa trường Đại học Praha (Cộng hoà Séc)
"Du lịch là tổng hợp các hoạt động kỹ thuật kinh tế và tổ chức liên quan đến
cuộc hành trình của con người mà việc lưu trú của họ ngoài nơi ở thường xuyên
với nhiều mục đích khác nhau, ngoại trừ mục đích hành nghề và thăm viếng có
tính chất định kỳ".
- Định nghĩa của Michael Coltman (Mỹ)

3


"Du lịch là sự kết hợp với tương tác của 4 nhóm nhân tố trong quá trình
phục vụ du khách:


Du khách

Nhà cung ứng
dịch vụ

Dân cư sở tại

Chính quyền địa
phương

1.1.2. Cầu về du lịch:
- Khái niệm về cầu nói chung và cầu du lịch nói riêng:
+ Cầu hàng hoá là số lượng hàng hoá mà người mua muốn đem ra khỏi thị
trường tương ứng với các mức giá nhất định xét trên một đơn vị thời gian và ở
một thị trường nhất định.
+ Cầu về du lịch: Nhu cầu trong du lịch được hình thành trên cơ sở nhu cầu
tự nhiên và nhu cầu có khả năng thanh toán của con người.
"Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được".
Nhu cầu trong du lịch là một nhu cầu đặc biệt là sự cần thiết tạm ngừng cuộc
sống hàng ngày đến với khung cảnh mới của môi trường thiên nhiên, sự cần thiết
phải giải phóng họ ra khỏi cuộc sống hàng ngay căng thẳng ồn ào, khỏi sự ô
nhiễm môi trường để nghỉ ngơi giải trí phục hồi sức khỏe, để giải toả sự nhàm
chán và tăng cường hiểu biết của mỗi cá nhân. Vậy cầu trong du lịch là nhu cầu
du lịch có khả năng thanh toán.
- Đặc điểm của cầu trong du lịch
+ Cầu trong du lịch là cái chủ yếu về dịch vụ: Theo thống kê cho thấy trung
bình 2/3 cho tới 3/4 chi phí cho các chuyến đi là chi phí về dịch vụ. Trong đó
4



những dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu cần thiết yếu của con người như dịch
vụ vận chuyển, ăn uống lưu trú chiếm một tỷ trọng lớn đặc biệt là chi phí cho
dịch vụ ngủ (khách sạn).
+ Cầu trong du lịch có tính phân tán: Do sản phẩm dịch vụ trong du lịch tạo
ra để thoả mãn nhu cầu giải trí và hiểu biết của con người. Đây là những nhu cầu
có tất cả ở mọi cá nhân. Chính vì vậy mà những sản phẩm dịch vụ này có sức thu
hút lớn đối với mọi tầng lớp dân cư mọi lứa tuổi trên trái đất, nó không phân biệt
kẻ giàu người nghèo chính vì vậy gây nên sự phân tán trong nhu cầu du lịch. Nó
phân tán về mặt địa lý. Nhu cầu du lịch không cố định ở một quốc gia mà nó bao
trùm lên toàn thế giới ở tất cả những nơi nào có con người. Đây là một điều khó
khăn cho các Công ty lữ hành là làm thế nào để thu hút được nhu cầu về phía
mình. Tuy nhiên ở từng mức độ khác nhau thì nhu cầu có khả năng thanh toán
cũng có một tính tập trung tương đối. Đặc biệt với nhu cầu có khả năng thanh
toán cao. Thông thường, những nhu cầu này thường tập trung nhiều hơn ở những
nơi, những khu vực có nền kinh tế và văn hoá xã hội phát triển.
+ Cầu trong du lịch dễ thay đổi
Cầu trong du lịch dễ thay đổi hay dễ dịch chuyển từ loại sản phẩm dịch vụ
này sang một loại sản phẩm dịch vụ khác. Ví dụ: cùng đi du lịch biển nhưng du
khách có thể thay đổi từ việc tắm biển bằng cách trò chơi thể thao dưới biển, du
lịch thám hiểm biển. Hoặc ngay trong cùng ý định đi du lịch thì du khách có thể
thay đổi du lịch nghỉ biển bằng du lịch nghỉ núi.
Mặt khác, do đặc tính của sản phẩm dịch vụ trong du lịch rất đa dạng về
hình thức và chủng loại. Hơn nữa, có một đặc tính quyết định là cùng với một số
tiền nhất định du khách có quá nhiều hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn mà những
hàng hoá và dịch vụ này vẫn đem lại cho du khách những cảm giác thoái mái như
nhau. Đây chính là sự khác biệt lớn của sản phẩm và dịch vụ trong du lịch đối với
sản phẩm và dịch vụ của hàng hoá thông thường, đây cũng chính là điều thúc đẩy
ảnh hưởng tới tính dễ thay đổi của cầu trong du lịch. Ngoài những nguyên nhân
trên đây tính dễ thay đổi của cầu trong du lịch còn là kết quả tác động của các

nhân tố như: điều kiện tự nhiên, mùa vụ và tâm lý của k hách du lịch. Nhưng ở
đây cũng phải thấy rằng trong điều kiện và xu hướng như hiện nay khi thu nhập
5


của các tầng lớp dân cư trong xã hội ngày càng tăng lên thì tính dễ thay đổi trong
cầu du lịch giảm xuống vì khi đó nhu cầu đi du lịch sẽ được đáp ứng nhiều hơn
và thuộc tính tâm lý nhàm chán với những gì lặp đi lặp lại của con người cùng
với sự phát triển của những thể loại những sản phẩm và dịch vụ mới trong du lịch
thấp hơn nhu cầu và khả năng thanh toán về du lịch. Đây là những nguyên nhân
cơ bản làm giảm tính thay đổi trong cầu về du lịch.
+ Cầu trong du lịch mang tính chu kỳ
Tính chu kỳ của cầu về du lịch đối với một vài loại sản phẩm dịch vụ nào đó
mạnh hơn nhiều lần so với tính thời vụ của cầu về một hàng hoá cụ thể. Đặc điểm
này được hình thành do tác động của nhiều nhân tố trong đó nhân tố tự nhiên
chiếm một tác động lớn quan trọng. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta xét
một ví dụ sau: Trong một năm tại những khu vực nghỉ biển ở khu vực phía Bắc
nước ta chỉ có khách vào mùa hè còn những tháng còn lại hầu như không có.
Điều này thật dễ hiểu vì chỉ vào mùa nóng thì người ta mới tắm biển được khi đó
cầu về du lịch nghỉ biển mới xuất hiện.
Hơn nữa, do tính vô hình của sản phẩm du lịch lại tăng thêm tính chu kỳ
này. Du khách không thể mua một tour du lịch nghỉ biển vào tháng 1 sau đó để
dành tới tháng 8 mới mang ra tiêu dùng. Sản phẩm du lịch không thể cất trữ được
giống như các sản phẩm hàng hoá thông thường khác, do đó không có hệ thống
kho tàng bến bãi tạo nên tính chu kỳ của cầu trong du lịch.
+ Cầu trong du lịch có khả năng tự thoả mãn
Đây là một vấn đề khá quan trọng trong cầu về du lịch. Vấn đề này được xác
định trên khả năng tự tổ chức các chương trình du lịch của du khách. Khi có nhu
cầu đi du lịch và có khả năng thanh toán du khách có thể tự tổ chức chuyến đi cho
mình, họ không phải mua chương trình du lịch của bất kỳ một công ty du lịch nào

cả mà họ tự lập ra chương trình du lịch cho chính họ. Với cách thức này du khách
sẽ đáp ứng tối đa nhu cầu của mình về tuyến địa điểm du lịch, phương tiện vận
chuyển và đặc biệt có thể tiết kiệm tối đa chi phí cho chuyến đi. Thế nhưng một
thực tế cho thấy với kiến thức, kinh nghiệm và mối quan hệ của mỗi người không
cho phép họ làm được một chương trình hoàn thiện cho mình đặc biêt là tổ chức
cho một nhóm đông người cùng đi. Trong chuyến đi du khách sẽ gặp rất nhiều bất
trắc có thể xảy ra. Nhất là tổ chức các chương trình tới những vùng mà du khách

6


chưa đặt chân tới. Du khách chưa có đầy đủ những thông tin để phục vụ cho
chuyến hành trình. Ngoài tính thời vụ trong du lịch gây ra không ít khó khăn cho
du khách. Khi đó những chuyến đi do du khách tự lập ra tính hoàn thiện sẽ giảm
và chất lượng của chương trình bị giảm. Du khách sẽ không cảm thấy thoả mãn
với chuyến đi. Chính vì điều đó mà du khách có mong muốn đó là được đi du lịch
theo chương trình du lịch mà các công ty, các hãng lữ hành du lịch bán theo giá
trọn gói, và điều này thuộc phạm vi kinh doanh của các hãng lữ hành.
+ Tính đàn hồi của cầu
Không như đối với các sản phẩm khác: Nhu cầu đối với sản phẩm dịch vụ
trong du lịch có một sự đàn hồi giữa khối lượng du khách với giá cả rất phức tạp
do nhu cầu trong du lịch phụ thuộc vào nhiều đặc tính tâm lý, văn hoá truyền
thống của du khách đặc biệt là tính thời vụ trong du lịch. Các nhân tố đó tác động
tới khả năng đàn hồi của cầu.
Đối với mỗi chủng loại sản phẩm dịch vụ nhất định ví dụ như du lịch leo
núi, nghỉ biển... thì khả năng đàn hồi của cầu rất lớn. Do trong cùng một chủng
loại có rất nhiều sản phẩm, dịch vụ tương tự nhau cùng có tính hấp dẫn như nhau.
Do đó một sự thay đổi nhỏ nhất trong giá cũng dẫn tới một sự thay đổi lớn về
khối lượng du khách đó là một tác động của lợi ích vật chất. Tuy vậy nhưng tính
đàn hồi của một chủng loại sản phẩm lại thay đổi rất lớn theo thời vụ của sản

phẩm đó. Ngoài thời vụ tính đàn hồi rất lớn trong thời vụ tính hồi rất nhỏ thậm
chí vào chính vụ có thể gọi là cầu không có giãn. Ngoài ra tính đàn hồi của cầu
còn phụ thuộc vào đặc tính của người tiêu dùng và mối quan hệ giữa giá cả và
chất lượng. Có những người không cần dịch vụ có chất lượng cao, giá đắt mà họ
thích những dịch vụ có chất lượng thấp hơn nhưng giá rẻ. Đây là điều làm cho
các công ty lữ hành phải chú ý. Không phải lúc nào, cứ chất lượng cao, giá đắt là
có thể thu hút được khách mà phải tuỳ theo từng đối tượng khách mà đưa ra các
mức giá chất lượng và giá cả phù hợp với yêu cầu của họ. Đó là cách định giá sản
phẩm của công ty mà tuỳ thuộc vào đó doanh thu của công ty tăng hoặc giảm.
Trong quá trình đi du lịch để đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách thì đòi
hỏi phải kết hợp nhiều bộ phận với nhau như: vận chuyển, về lưu trú, ăn uống,
vui chơi, giải trí... Do đó cầu về du lịch có tính tổng hợp. Nó đòi hỏi có sự phối
hợp chặt chẽ của các nhà cung cấp mới có thể đáp ứng tương đối đầy đủ nhu cầu
7


trong du lịch.
Quá trình biến đổi mong muốn đi du lịch đến cầu về du lịch (có khả năng
thanh toán) đó là cả một quá trình hết sức phức tạp. Để thúc đẩy quá trình này là
nhiệm vụ của các doanh nghiệp kinh doanh du lịch họ làm gì và làm như thế nào
để đáp ứng nhu cầu đó.
- Để nhu cầu đó được đáp ứng thì phải nghiêm túc và tìm hiểu kỹ xu hướng
phát triển của cầu du lịch. Từ đó có biện pháp hữu hiệu để thu hút nhằm đạt mục
tiêu của công ty.
- Xu hướng phát triển của công ty
+ Du lịch ngày càng được khẳng định là một hiện tượng kinh tế xã hội phổ
biến bởi các nguyên nhân sau:
* Đời sống người dân ngày càng cao, càng được cải thiện hơn.
* Phương tiện vận chuyển được hoàn thiện nhất là vận chuyển khách bằng
đường hàng không với các chủng loại máy bay ngày càng hiện đại . Du khách có

thể đi đến những nơi xa hơn mà vẫn có nhiều thời gian dành cho tham quan nghỉ
dưỡng và phục hồi sức khỏe.
* Điều kiện hoà bình ngày càng ổn định đòi hỏi các quốc gia mở rộng giao
lưu kinh tế. Mối quan hệ về xã hội và kinh tế giữa các nước được mở rộng hơn.
Do đó du lịch có điều kiện phát triển hơn.
Nói chung nhu cầu và khả năng cho du lịch ngày một tăng cả về số lượng và
chất lượng.
+ Sự thay đổi về hướng và về phân bố của luồng khách Du lịch quốc tế.
Trước đây, nguồn khách du lịch quốc tế chủ yếu tập trung vào Địa Trung Hải,
Biển Đen, Vịnh Caribe về mùa hè. Còn về mùa đông, thì tập trung ở vùng núi
châu Âu như dãy Anpơ... Ngày nay, nhu cầu du lịch thay đổi họ mong muốn tìm
hiểu và phát triển những điều mới mẻ ở vùng châu á- Thái Bình Dương.
Sự phân bố của luồng khách Du lịch quốc tế có sự thay đổi rõ rệt, tỷ trọng
khách du lịch đến châu Âu và châu Mỹ là hai khu vực có vị trí quan trọng nhất
của nền du lịch thế giới có xu hướng giảm rõ nét trong 30 năm gần đây. (1960-

8


1990) giảm từ 96,7% xuống 83,5%. Ngược lại vùng Châu á - Thái Bình Dương tỉ
lệ đó tăng lên rõ rệt từ 0,98% lên 10, 94%.
+ Có sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của khách du lịch. Những năm trước
đây, tỉ trọng chi tiêu của khách du lịch dành cho các dịch vụ cơ bản/ dịch vụ bổ
sung (vui chơi, giải trí) = 7/3 song cho đến nay tỉ trọng đó là 3/7. Khách tập trung
vào các dịch vụ vui chơi giải trí nhiều hơn.
+ Khách du lịch chỉ sử dụng một phần dịch vụ của các tổ chức kinh doanh
du lịch nhiều khi họ không mua các chương trình du lịch hoặc là các chương trình
trọn gói nhất là khách du lịch vì họ được tự do nếu như họ đi và phần trăm trọn
gói được giảm giá nhưng bị các đại lý ăn chặn do đó tổng giá trong dịch vụ trọn
gói lớn hơn bán lẻ. Do đó họ thiệt thòi và nhu cầu về chương trình trọn gói giảm.

+ Sự hình thành ba thành phần khách trên thị trường thế giới. Đó là khách du
lịch thanh niên, trong độ tuổi lao động tích cực, cao tuổi.
Xu hướng hình thành 3 thành phần khách du lịch thì loại 1 và 3 phải có
chính sách giá hợp lý để thu hút họ.
1.2. Khái niệm về kinh doanh du lịch
1.2.1. Khái niệm
Kinh doanh du lịch là hoạt động sản xuất và bán cho khách du lịch các dịch
vụ và hàng hoá của những doanh nghiệp du lịch (đảm bảo việc đi lại, lưu trú, ăn
uống, giải trí... cho khách du lịch) đảm bảo lợi ích cho quốc gia và lợi nhuận cho
tổ chức đó.
Như vậy kinh doanh du lịch bao gồm kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ
để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch như vui chơi, giải trí, hàng lưu niệm, dịch
vụ vận chuyển, hướng dẫn, lưu trú, ăn uống...
Căn cứ vào việc thoả mãn các nhu cầu của khách du lịch trong quá trình du
lịch có 3 loại. Kinh doanh lưu trú, kinh doanh dịch vụ bổ sung vào kinh doanh lữ
hành.
Có hai cách nhìn nhận về khái niệm kinh doanh lữ hành:
- Theo nghĩa rộng ta có thể hiểu lữ hành với du lịch là một nghĩa là nói đến
9


lữ hành du lịch là nói đến các hoạt động đi lại và các hoạt động khác có liên quan
đến các chuyến đi với mục đích du lịch. Do vậy, ở đây khái niệm kinh doanh lữ
hành đồng nhất với kinh doanh du lịch (thường phổ biến ở các nước Bắc Mỹ)
- Theo nghĩa hẹp thì hoạt động lữ hành được hiểu là những hoạt động tổ
chức các chương trình trọn gói.
Theo định nghĩa của tổng cục du lịch Việt Nam, "Kinh doanh lữ hành là việc
thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường thiết lập các chương trình này trực
tiếp hay gián tiếp thông qua các trung gian và tổ chức chương trình hướng dẫn du
lịch.

1.2.2. Cung trong du lịch
- Khái niệm: "Cung trong du lịch là khả năng cung cấp các hàng hoá và dịch
vụ nhằm đáp ứng các nhu cầu trong du lịch. Nó bao gồm toàn bộ hàng hoá và
dịch vụ được đưa ra thị trường trong một thời gian nhất định".
- Cung du lịch là một phần của cung hàng hoá do đó nó chịu tác động của
các yếu tố như cung hàng hoá song có khác biệt sau:
+ Cung trong du lịch chủ yếu là cung về du lịch: Trong nền kinh tế hàng hoá
khi xuất hiện nhu cầu thì tất yếu phải có cung để đáp ứng nhu cầu đọ. Đây là 2
mặt của một vấn đề mua bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ chúng luôn đi cùng
với nhau tác động tới nhau. Nhiều nơi nhiều lúc cung là gợi mở nhu cầu tiềm
năng.
Đối với cung trong du lịch cũng như cung của hàng hoá nói chung chịu tác
động của những yếu tố: công nghệ, giá cả của các yếu tố sản xuất (thay thế) số
lượng người bán, sự mong chờ. Tuy vậy, trong du lịch cung cũng có một vài điểm
riêng biệt như sau:
+ Cung trong du lịch chủ yếu là cung về dịch vụ: Đây là những đặc điểm
riêng biệt của du lịch. Đặc điểm này bắt nguồn từ đặc điểm của các hàng hoá du
lịch chủ yếu là dịch vụ. Do cầu trong du lịch rất phức tạp và đa dạng nên cung
trong du lịch cũng phải bao gồm sự phối hợp của nhiều ngành và nhiều lĩnh vực
từ giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, xây dựng... Điều này thể hiện tính
khác biệt cao giữa các yếu tố cấu thành sản phẩm dịch vụ trong du lịch đặc biệt là
10


chương trình trong du lịch.
+ Cung trong du lịch mang tính cố định và thụ động
Cung trong du lịch không tự đến được với cầu như hầu hết các sản phẩm
hàng hoá khác. Nó chỉ có thể ở nơi, tài nguyên du lịch ở Trung Quốc nếu muốn
xem người ở nơi khác không thể mang về xem được mà phải đến tận nơi xem. Do
đó cung trong du lịch là cố định. Nó chỉ được sử dụng khi du khách đến nơi và

tiêu thụ nó tức là xem xét nó chứ không chủ động mang đến để cung cấp như các
hàng hoá hay dịch vụ khác.
+ Cung trong du lịch chịu ảnh hưởng lớn bởi tài nguyên du lịch cả về không
gian và thời gian. Như chúng ta đã biết cung trong du lịch được tạo ra bởi những
yếu tố cơ bản là: Tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Nhưng sản phẩm và dịch vụ tại điểm du lịch phải phù hợp với tài nguyên du lịch
tại nơi đó. Ví dụ: tại một điểm du lịch nghỉ núi không thể đưa ra các dịch vụ cho
thuê phao bơi... mà phải là các dịch vụ săn bắn leo núi.
Hơn nữa những cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tại điểm du lịch phải
phù hợp với tài nguyên du lịch tại nơi đó. Ví dụ: tại một bãi chỉ có thể kinh doanh
về tắm biến một ngày không thể xây dựng ở đó những khạch sạn với tổng số
phòng quá cao, như thế không thích hợp. Nếu như chỉ biết khai thác tài nguyên
mà không biết cải tạo giữ gìn thì cho dù đó là tài nguyên thiên nhiên hay nhân tạo
nó cũng sẽ bị kiệt quệ. Các nhà cung cấp du lịch phải nhìn vào tiềm năng, khả
năng của tài nguyên và phải có chương trình để tôn tạo, bảo vệ nó.
+ Cung trong du lịch rất khó tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới nó đòi
hỏi nhiều thời gian, vốn cũng như các yếu tố liên quan khác. Như đã biết các sản
phẩm và dịch vụ trong du lịch ra đời để đáp ứng nhu cầu cao cấp của con người
chính vì điều đó mà những sản phẩm và dịch vụ du lịch bao gồm những sản phẩm
có chất lượng cao và hiện đại, điều này phải nhiều vốn, sản phẩm và dịch vụ
trong du lịch là sự cấu thành hết sức phức tạp của nhiều sản phẩm và dịch vụ
khác. Do vậy, nó đòi hỏi phải có thời gian để nghiên cứu thị trường và khả năng
đáp ứng. Ngoài ra để có một sản phẩm, dịch vụ có chất lượng nó còn phụ thuộc
nhiều vào cơ sở hạ tầng của đất nước, nó đòi hỏi phải có thời gian và khối lượng
vốn lớn, do đó khó tạo sản phẩm mới hay trong ngắn hạn cung du lịch ít đàn hồi.
11


Để đưa ra được chương trình thu hút nhiều khách đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ
về cung và cầu. Cung và cầu có liên quan đến việc định giá trong các chương

trình du lịch. Quan hệ cung và cầu có liên quan đến vai trò của các công ty lữ
hành du lịch từ đó đưa ra chính sách giá hợp lý cho các chương trình du lịch.
1.3. Quan hệ cung cầu du lịch và vai trò của các công ty lữ hành
Sự tồn tại của các công ty lữ hành là một tất yếu khách quan. Nói như vậy là
vì chỉ có các công ty lữ hành mới giải quyết được tính phức tạp và tính mâu thuẫn
trong mối quan hệ cung cầu du lịch. Tính phức tạp và tính mâu thuẫn này thể hiện
ở các điểm sau đây:
- Cung du lịch mang tính chất cố định, không thể di chuyển còn cầu du lịch
thì phân tán ở khắp mọi nơi. Thể hiện các tài nguyên du lịch, phần lớn các nhà
cung cấp sản phẩm du lịch như: khách sạn, nhà hàng, vui chơi giải trí. Không thể
cống hiến những giá trị của mình đến tận nơi ở của khách du lịch. Để có được
những giá trị nói trên thì khách du lịch phải rời khỏi nơi ở thường xuyên của
mình đến với tài nguyên, đến với sản phẩm du lịch của nhà cung cấp. Muốn tồn
tại được buộc nhà cung cấp sản phẩm du lịch bằng mọi cách thu hút khách đến
với cơ sở của mình từ đó trong du lịch chỉ có dòng chuyển động 1 chiều của cầu
đến với cung. Không có dòng chuyển động ngược chiều như các hoạt động kinh
doanh khác. Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có các công ty lữ hành
đứng ra chắp nối cung và cầu.
+ Cầu du lịch mang tính tổng hợp trong khi đó mỗi một nhà cung cấp sản
phẩm du lịch chỉ có thể đáp ứng được một trong một vài nội dung của cầu. Tính
độc lập của các thành phẩm trong cung du lịch gây không ít khó khăn cho khách
trong việc tự sắp xếp bố trí các hoạt động để có một chuyến đi như ý muốn có họ
và để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi phải có các công ty lữ hành.
+ Các nhà cung cấp sản phẩm du lịch gặp nhiều khó khăn trong việc quảng
bá sản phẩm củamình. Trong khi đó, khách du lịch không có đủ thời gian và khó
khăn trong việc tìm kiếm thông tin và khả năng để tự tổ chức các chuyến đi du
lịch với chất lượng cao phù hợp với mong muốn của họ. Do đó công ty lữ hành ra
đời.

12



Sau đây ta xét đến vai trò của công ty lữ hành.
Tất cả các cơ sở nói trên chỉ ra rằng cần có một tác nhân trung gian làm
nhiệm vụ liên kết giữa cung và cầu trong du lịch. Tác nhân đó chính là các công
ty lữ hành du lịch. Là những người thực hiện các hoạt động kinh doanh lữ hành.
Để thực hiện được vai trò liên kết này đòi hỏi các công ty lữ hành có nhiệm vụ
thực hiện các hoạt động sau đây:
- Tổ chức các hoạt động trung gian và tiêu thụ sản phẩm của các nhà cung
cấp sản phẩm du lịch từ đó rút ngắn khoảng cách giữa khách du lịch và nhà cung
cấp sản phẩm du lịch. Do đó không mất nhiều thời gian và tiền bạc cho việc thu
thập thông tin làm cho giá thành giảm.
- Tổ chức các chương trình du lịch trọn gói. Các chương trình du lịch trọn
gói này nhằm liên kết sản phẩm du lịch mang tính đơn lẻ như: vận chuyển, lưu
trú, tham quan vui chơi giải trí... thành một sản phẩm thống nhất. Do được ưu đãi
của các nhà cung cấp do đó chương trình thường giảm giá hơn so với đi lẻ.
- Đối với công ty lữ hành du lịch lớn với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
phong phú từ các công ty hàng không tới các chuỗi khách sạn, hệ thống ngân
hàng... Nhằm đảm bảo tất cả các nhu cầu của khách từ khâu đầu tiên đến khâu
cuối cùng trong quá trình thực hiện chuyến đi. Do đó chi phí cho một chuyến đi
sẽ giảm.
Từ đó ta thấy rằng các công ty lữ hành làm lợi cho cả khách du lịch (cầu) và
nhà cung cấp (cung), làm cho mối quan hệ cung cầu cùng khăng khít hơn. Nhưng
các chương trình trọn gói do công ty lữ hành làm ra có thu hút khách du lịch
không? và từ đó phải có chính sách giá hợp lý cho mình. Vậy chính sách giá là
gì?
2. Giá và chính sách giá trong du lịch
2.1. Khái niệm về giá
Muốn kinh doanh phải có thông tin của thị trường. Thông tin về giá là thông
tin đầu tiên, quan trọng nhất mà mọi người kinh doanh phải tìm biết vì không có

thông tin này, không có cơ sở để ra quyết định kinh doanh của công ty. Vậy giá là
gì?
13


- Theo khái niệm cổ điển: "Giá là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá".
Khái niệm này lột tả được bản chất của phạm trù giá cả.
- Theo khái niệm về giá gắn với hành vi trao đổi hay thị trường "Giá là một
tương quan trao đổi trên thị trường giữa 1 bên là hàng hoá với 1 bên là tiền tệ".
- Khái niệm về giá trong du lịch
Trong kinh doanh lữ hành: "Giá thành của chương trình du lịch là toàn bộ
những chi phí trực tiếp mà công ty lữ hành phải chi trả để tiến hành thực hiện một
chương trình du lịch nào đó". Giá thành của một chương trình du lịch là xác định
cho một khách du lịch cũng phụ thuộc vào số lượng khách du lịch trong đoàn. Vì
vậy, người ta nhóm toàn bộ chi phí vào 2 loại cơ bản.
+ Chi phí biến đổi là chi phí tính cho một khách du lịch. Nó bao gồm chi phí
của tất cả các loại dịch vụ và hàng hoá mà đơn giá của mỗi loại này quy định cho
từng khách. Các chi phí này thông thường gắn liền trực tiếp với sự tiêu dùng
riêng biệt của từng khách.
+ Chi phí cố định: là chi phí tính cho cả đoàn khách, loại này bao gồm tất cả
các chi phí của các loại hàng hoá và dịch vụ mà đơn giá của chúng được xác định
cho cả đoàn khách. Nhóm chi phí này thường là các chi phí mà mọi thành viên
trong đoàn đều tiêu dùng chung, không bóc tách được cho từng thành viên.
Có nhiều loại giá trong kinh doanh lữ hành.
- Giá trọn gói: Giá bao gồm hầu hết các loại dịch vụ và hàng hoá phát sinh
trong quá trình đi du lịch. Đây là hình thức chủ yếu cảu các chương trình du lịch
do các công ty lữ hành tổ chức.
- Giá cơ bản: Bao gồm giá của một số dịch vụ chủ yếu trong chuyến đi.
- Mức giá tự chọn: Khách du lịch tuỳ ý lựa chọn các cấp độ phục vụ khác
nhau với các mức giá khác nhau. Cấp độ chất lượng phụ thuộc vào thứ hạng của

sản phẩm lưu trú và thứ hạng của các sản phẩm lưu trú và thứ hạng của các sản
phẩm vận chuyển và chất lượng của bản thân hàng hoá cụ thể.
Mức giá tự chọn này ít được lựa chọn vì nó rất phức tạp cho công tác tổ
chức đối với một chương trình du lịch.
14


2.2. Chính sách giá:
Giá cả giữ một vai trò thiết yếu trong Marketing - Mix và dù trong nền kinh
tế phát triển của thế giới cạnh tranh về giá đã nhường chỗ cho cạnh tranh về chất
lượng. Nhưng các quyết định về giá là quan trọng trong việc xác định giá trị cho
khách hàng và giữ vai trò trong việc tạo dựng một hình ảnh của dịch vụ và cũng
bởi vì việc định giá thu hút doanh lợi trong kinh doanh. Việc áp dụng chính sách
giá trong các cơ sở sản xuất kinh doanh đưa đến cho cơ sở những điều kiện mới,
những nhân tố mới để mở rộng thị trường đến với sản phẩm của mình. Để tăng
doanh thu, lợi nhuận và giảm mạo hiểm đối với sản phẩm của cơ sở.
Chính sách giá đối với mỗi sản phẩm của các đơn vị sản xuất kinh doanh là
việc quy định mức giá bán cho phù hợp. Mức giá bán quy định có thể là mức giá
bán cho người tiêu dùng hoặc cho các khâu trung gian.
Việc xác định giá cho sản phẩm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, tác động lớn
tới khối lượng bán ra của sản phẩm, bởi vì giá chính là một trong những tiêu
chuẩn thường xuyên, quan trọng trong việc quyết định mua sản phẩm và sự lựa
chọn của khách hàng.
Giá cả là sự biểu hiện tập trung của các quan hệ kinh tế, vị trí và vai trò của
doanh nghiệp trên thị trường.
2.2.1. Mục tiêu của chính sách giá:
Chính sách giá có 2 mục tiêu sau đây:
- Khối lượng bán: Việc tăng tối đa khối lượng bán hay ít ra đạt được một
khối lượng bán đáng kể luôn luôn là mục tiêu quan trọng của công ty.
- Lợi nhuận: Đây là một mục đích thường xuyên của các doanh nghiệp là

điều cuối cùng mà các xí nghiệp công ty khi kinh doanh phải đạt được chính sách
giá cũng không ngoài mục đích đó do ảnh hưởng của giá tới doanh số của doanh
nghiệp.
2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá:
Việc hình thành giá cả của các sản phẩm chịu tác động của các nhân tố:
- Luật pháp và chính sách chế độ quản lý giá của Nhà nước.
15


- Những yêu cầu bắt buộc về phía thị trường đối với ngành du lịch.
- Đặc tính của tài nguyên du lịch đất nước. Điều này hoàn toàn phụ thuộc
vào chất lượng của môi trường thiên nhiên, tài nguyên du lịch các điều kiện và
kết cấu cơ sở hạ tầng.
- Chất lượng sản phẩm: Khi có chất lượng cao của sản phẩm thì có thể mưu
cầu giá cao cho sản phẩm đó.
- Cơ cấu chi phí của sản phẩm: Giá bán phải bù đắp được chi phí và có lãi. Sự tác động của các chính sách khác trong Marketing - Mix vì chính sách giá nằm
trong hệ thống các chính sách cảu Marketing - Mix điều này đưa tới những ảnh
hưởng của các chính sách khác tới chính sách giá cả.
Ngoài các yếu tố trên ra chính sách còn chịu sự tác động của các yếu tố bắt
buộc về thị trường. Đó là quan hệ cung - cầu, mức độ cạnh tranh trên thị trường,
hai yếu tố này sẽ điều chỉnh mức giá của thị trường. Đó là mức giá để lựa chọn
xác định chính sách giá cho phù hợp.
2.2.3. Nguyên tắc xác định giá trong các công ty lữ hành:
- Các chi phí phải được tâp hợp đầy đủ và chính xác.
- Các đơn vị tiền tệ khi sử dụng để tính giá thành phải thống nhất, nếu thay
đổi phải quy định trước để tính theo thời giá hiện hành lúc thanh toán.
- Chi phí được tính phải là chi phí gốc tức là không được tính các khoản hoa
hồng mà công ty được hưởng từ các nhà cung cấp dịch vụ du lịch. Đảm bảo các
chi phí được tính là chi phí thực, không bị chồng chéo lên nhau.
2.2.4. Các phương pháp định giá trong công ty lữ hành

- Giá tính theo chi phí: Nghĩa là tính trên tổng chi phí để tạo ra sản phẩm
(gồm cả chi phí cố định và biến đổi). Đây là phương pháp xác định giá cơ bản
nhất, nó được áp dụng cho mọi ngành kinh tế, mọi cơ sở sản phẩm. Giá sản phẩm
dịch vụ được xây dựng theo phương pháp này được coi là giá chuẩn chính thức
của cơ sở. Xây dựng giá theo phương pháp này chúng ta nắm rõ được cơ cấu giá.
Đây là điều hết sức quan trọng để có biện pháp tác động thích hợp và những phần
nhất định trong cơ cấu giá nhằm giảm những chi phí bất hợp lý, giá này là giá gốc

16


mà để căn cứ vào đó công ty thay đổi theo chiến thuật riêng của mình phù hợp
với thị trường và điều kiện và cạnh tranh.
Tuy nhiên để đưa ra giá phân biệt một cách linh hoạt nhất thì phải có một cơ
sở để xây dựng các chương trình du lịch theo mức giá tự chọn. Đó là phương
pháp xác định giá thành của chương trình du lịch.
- Công thức:
Z =V +

F
n

Trong đó:
Z/1 khách = giá thành cho 1 khách
V chi phí biến đổi cho 1 khách
F Tổng chi phí cố định cho cả đoàn khách
n Số lượng khách tối ưu (Dựa vào phương tiện vận chuyển).
Z/ đoàn khách = V.n + F
Công cụ chủ yếu của phương phápnày là người ta dùng bảng.
Bảng để tính giá thành có dạng sau:

TT

Nội dung chi phí

Chi phí cố định
(F)

Chi phí biến đổi
(V)

1

Chi phí thuê ôtô toàn tuyến

*

2

Khách sạn (Ngủ)

*

3

Ăn

*

4


Hướng dẫn viên

5

Vé tham quan (vào cửa)

6

Chi phí thuê phương tiện tham quan

*

7

Thuê xuất diễn

*

*
*

17


8

Chi phí visa - hộ chiếu

*


9

Chi phí bảo hiểm cho chuyến đi

*

10

Chi phí thuê bao khác

*

Tổng
Lưu ý: Nếu chi phí bảo hiểm cho chuyến đi cho mỗi người thì chi phí đó
thuộc vào chi phí biến đổi.
Phương pháp này đơn giản, có tính linh hoạt cao - vì thế nó cho phép xác
định giá thành một cách dễ dàng. Khi trong chương trình du lịch có một số dịch
vụ thay đổi về đơn giản. Tuy nhiên, nó rất dễ bỏ qua các chi phí, dễ nhầm hoặc
tính quá các chi phí.
Có được giá thành gốc cho một chuyến đi, thì tuỳ theo nhu cầu của thị
trường mà định giá như thế nào cho phù hợp.
Để khắc phục việc bỏ qua chi phí, thì ta tính giá thành theo phương pháp
lịch trình, về bản chất, phương pháp này cũng tương tự như là phương pháp trên.
Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ các khoản phí được liệt kê theo trình tự của lịch
trình.
Lịch trình
Ngày 1

Ngày 2


ST
T

Nội dung chi phí

F

V

1

Vận chuyển

*

2

Khách sạn (ngủ)

*

3

Ăn

*

4

Hướng dẫn


*

1

Vận chuyển

*

2

Khách sạn (ngủ)

*

3

Ăn

*
18


4

Hướng dẫn

*

5


Hướng dẫn

*

6

Xem biểu diễn rối nước

*

Từ chi phí biến đổi và chi phí cố định tính được giá thành của một chương
trình cho cả đoàn hay bằng cách tập hợp tất cả các chi phí phát sinh trong tất cả
các ngày của chương trình theo từng loại chi phí biến đổi, hay chi phí cố định.
Ta có: Z = F+V.n
Trong đó: Z: giá thành cả đoàn
F: Tổng chi phí cố định cả đoàn
V: Chi phí biến đổi của mỗi khách
n: Tổng số khách của đoàn
Khi xác định giá, người ta căn cứ vào giá thành, lợi nhuận và những chi phí
khác (thuế, chi phí bán...) tất cả các chi phí này tạo nên một hệ số trội giá trên giá
thành ( = tỷ lệ lãi).
Theo phương pháp cộng tiến, giá bán được tính theo công thức:
G = Z + P + Cb + Ck + T
= Z + Zxp + Zxb + Zxk + Zxt = Z (1 + X )
Trong đó: G: Giá bán chương trình
P: Lợi nhuận
Cb: Chi phí bán và chi phí quảng cáo
Ck: Chi phí khác: chi phí quản lý
T: Thuế


19


X: Hệ số các khoản chi phí tính trên giá thành
X∑: Hệ số tổng cộng
- Định giá dựa vào cạnh tranh: Theo phương pháp này chi phí cá biệt không
được quan tâm tới mà chỉ căn cứ vào giá trên thị trường của đối thủ cạnh tranh để
định giá của mình.
- Các chiến lược điều chỉnh giá?:
+ Chiết giá: dành cho những khách hàng quen thuộc hoặc cho khách hàng
thanh toán nhanh, bao gồm:
*0

Chiết giá do thanh toán nhanh

*1

Chiết giá theo kênh phân phối

*2

Chiết giá theo mùa

*3

Trợ giảm quảng cáo

+ Thặng giá (theo mùa, theo đối tượng khách và theo tiêu dùng cụ thể của
khách trong chương trình) Thặng giá nhằm mục đích khai thác tối đa thị trường

cũng như nhằm tăng uy tín của chương trình du lịch. Trong du lịch, giá trị của
chương trình du lịch là do cảm nhận của khách hàng, đồng thời các chương trình
khác nhau đối với tất cả những đoàn khách nên chiến lược thặng giá có thể thực
hiện một cách dễ dàng có hiệu quả.
+ Định giá phân biệt: Định giá khác nhau cho các đối tượng khách khác
nhau nhằm khai thác triệt để các đoạn thị trường.
3.ý nghĩa của việc nghiên cứu
Như ta đã biết, muốn kinh doanh phải có thông tin của thị trường. Thông tin
về giá là thông tin đầu tiên quan trọng nhất mà mọi nhà kinh doanh phải tìm hiểu
vì không có thông tin này không có cơ sở để ra các quyết định kinh doanh của
công ty.
Các quyết định giá cho dịch vụ đặc biệt được đưa ra giá trị vô hình của sản
phẩm dịch vụ. Giá được trả cho một dịch vụ báo hiệu cho khách hàng biết về chất
lượng dịch vụ có thể họ sẽ nhận được.

20


Tầm quan trọng của giá được thể hiện trong các mặt:
- Giá là tín hiệu để các công ty lựa chọn các mặt hàng và những khối lượng
hàng hoá để sản xuất khi có yếu tố khác nhau như chi phí, năng lực doanh
nghiệp... không đổi.
- Trên thị trường, giá hàng hoá nào cao và có xu hướng gia tăng thì đây
chính là cơ hội để thu lợi nhuận cho công ty.
- Giá được coi là công cụ để thực hiện gia tăng lợi nhuận và doanh thu.
Quyết định về giá cả của một dịch vụ mới phải xem xét nhiều đặc điểm phù
hợp. Điều quan trọng nhất là các quyết định về giá cần phải thống nhất với chiến
lược chung Marketing. Việc đưa ra các mức giá khác nhau trong thị trường khác
nhau cũng cần phải được xem xét. Nó ảnh hưởng tới quyết định mua của khách
hàng. Từ đó ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của công ty. Một chính sách

giá hợp lý có thể được xuất phát từ một hay vài mục tiêu của cơ sở. Tuy nhiên
phải thấy rằng mục tiêu của công ty ở từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Giá trong thời kỳ cần sự tồn tại thì nên thế nào, muốn tối đa hoá lợi nhuận, tối đa
hoá doanh thu tức là công ty có một chỗ đứng vững vàng trên thị trường hoặc
muốn tạo uy tín hay thu hồi vốn đầu tư... thì nên dùng thế nào.
Do đó ta thấy giá và chính sách giá trong một công ty được áp dụng như thế
nào đó là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Nhưng làm thế nào để xây
dựng được một chính sách giá hợp lý phù hợp với từng giai đoạn và từng thị
trường của doanh nghiệp. Đó thực sự là một điều hết sức khó khăn.

21


B-KÊT LUÂN
Trên đây, chúng ta đã tìm hiểu, nghiên cứu tổng quan về giá và chính sách
giá của công ty lữ hành. Một trong những vấn đề không phải mới song cũng
không thể nói là cũ, mặc dù giá đã nhường chỗ cho chất lượng song không có
nghĩa là giá không quan trọng. Tôi đã cố gắng trình bày những hiểu biết tổng
quan nhất về giá và nội dung của chính sách giá đặc biệt là các nguyên tắc,
phương pháp định giá trong công ty lữ hành. Tuy nhiên với trình độ và thời gian
có hạn chắc chắn đề án này sẽ có nhiều thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của tất cả mọi người - những người cầm trên tay và đọc đề án
này, đặc biệt là thầy giáo hướng dẫn để cho đề án này được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy cô trong khoa Du lịch trực
tiếp giảng dạy trên lớp lữ hành POHE52 .đặc biệt cảm ơn những bài giảng của
Thầy Nguyễn văn Mạnh - trưởng khoa Du lịch khách sạn, Thầy Trương Tử Nhân,
Cô Quỳnh Trang đã giúp tôi hoàn thành đề án này.

22



Tài liệu tham khảo
1. PGS. TS. Nguyễn Văn Mạnh, PGS. TS. Phạm Hồng Chương (2009), giáo
trình Quản trị kinh doanh lữ hành, Nxb Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội
2. GS. TS. Nguyễn Văn Đính, PGS. TS. Trần Thị Minh Hòa (2008) ,giáo
trình kinh tế du lịch, Nxb Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội
3. Trương Tử Nhân (2006), Thực hành huwongs dẫn du lịch, Nxb Đại học
kinh tế quốc dân Hà Nội
4. Tiêu chuẩn kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam, Nghiệp vụ điều hành tour
-VITOS, trình độ cơ bản
5. Bài giảng nhập môn quản trị lữ hành
6. Bài giảng nhập môn du lịch
7. Bài giảng hướng dẫn du lịch
8. Bài giảng điều hành chương trình du lịch
9. Tạp chí du lịch 1996, 1997, 1998

23


24



×