Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Cơ sở lý luận về đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.94 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân của mỗi nước. Ở Việt Nam nông nghiệp giữ vị trí đặc biệt quan trọng
vì nhiều lẽ: hơn 3/4 dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông
nghiệp; trong cơ cấu kinh tế quốc dân, GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn chiếm vị
trí quan trọng; trên 50% giá trị xuất khẩu là từ nông sản, thủy sản. Sự tăng
trưởng của nông nghiệp có tác động lớn đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh
tế quốc dân nói chung. Song muốn có tăng trưởng, phải có đầu tư thoả đáng.
Nhiều học thuyết kinh tế hiện đại đã kết luận rằng: đầu tư là chìa khoá trong
chiến lược phát triển kinh tế quốc dân nói chung, kinh tế ngành nói riêng của
mỗi nước. Một nền kinh tế muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung bình, ổn định thì
nhất thiết phải đảm bảo tỷ lệ đầu tư trên GDP thoả đáng. Quan hệ này đối với
nông nghiệp vẫn là chuẩn mực. Không có đầu tư thoả đáng thì không có tốc độ
tăng trưởng mong muốn, dù có các yếu tố về cơ chế chính sách, thị trường và
các yếu tố tinh thần khác. Từ trước tới nay, nông nghiệp nước ta luôn gắn với
hình ảnh nông thôn. Hiện nay, tuy bộ mặt xã hội đang thay đổi từng ngày thì
hình ảnh đó vẫn như vậy, một phần có nguyên nhân từ việc khoa học kỹ thuật
lạc hậu nên chúng ta chưa có những vùng sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao để
tách ra khỏi hình ảnh nông thôn. Chính mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ này mà
nhiệm vụ phát triển nông nghiệp không thể tách rời khỏi phát triển nông thôn.
Xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề rộng lớn và
phức tạp của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình trạng đói nghèo và kinh tế kém
phát triển của khu vực nông thôn là mối quân tâm lớn của các chính phủ, được
nhiều ngành khoa học đi sâu vào nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp trước mắt và
lâu dài.
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm, chú trọng đến
đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và đã đạt được những thành tựu lớn
trong sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Bên cạnh những

1



thành tựu đó vẫn còn nhiều vấn đề nổi cộm cần được phân tích và có giải pháp
cụ thể. Vì vậy em mạnh dạn chọn đề tài: “Cơ sở lý luận về đầu tư phát triển
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam”.
Trong quá trình làm đề án môn học do trình độ và thời gian có hạn do vậy
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy cô xem xét, góp ý để bài
làm của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Vũ Đình
Thắng đã hướng dẫn em trong quá trình làm đề tài, hoàn thành đề án môn học.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


I.

Lý luận chung về đầu tư phát triển

1.

Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các

hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất
kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc
làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội.
2.

Vai trò của đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá


của sự tăng trưởng. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước vai trò này
được thể hiện như sau:
a. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu
- Về mặt cầu: Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm
cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang đường D’) kéo sản lượng cân
bằng tăng theo từ Q o - Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P o – P1 .
Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo – E1.
- Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên
(đường S dịch chuyển sang S’), kéo theo sản lượng tiềm năng tăng từ Q o – Q1 và
do đó giá cả sản phẩm giảm từ P o – P1. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép
tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn
nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế
xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên
trong xã hội.

3


P
S
E1
P1
P0
P2

S’

P
E00

E2

D’
D
Q
Q0

Q1

Q2

b. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Chẳng hạn, khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư tăng làm cho giá
của các hàng hoá có liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật
tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm
phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn
do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm
lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất
của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp,
nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này
tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng
ngược lại so với các tác động trên đây.
c. Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất
nước
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyêt của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay.

4



Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên
cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự nghiên
cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những
phương án không khả thi.
d. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể
tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 – 10%) là tăng cường đầu tư nhằm
tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông,
lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt
được tốc độ tăng trưởng từ 5 – 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết
định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triên giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế,
kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn
đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
e. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng
trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 – 20% so với GDP
tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước.

Vốn đầu tư
ICOR

=

vốn đầu tư

=

∆ GDP

GDP do vốn tạo ra
Từ đó suy ra:
5


Vốn đầu tư
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP chỉ phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo
trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các
nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả
đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của
chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng
năng lực. Do đó, ở các nước đang phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến
tốc độ tăng trưởng thấp.
3.

Những đặc điểm của đầu tư phát triển
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình

đầu tư khác, đó là:
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng
trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư
phát triển.

- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả
của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiểu biến động
xảy ra.
- Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra với các cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng
và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu
tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế…
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài,
có khi hàng trăm, hàng ngàn năm thậm trí tồn tại vĩnh viễn như các công trình
6


kiến trúc nổi tiếng thế giới ( Kim Tự Tháp cổ Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm,
Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Ăng Cô Vát của Campuchia…). Điều này
nói lên giá trị lớn của các thành quả đầu tư phát triển.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt
động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện địa lý, địa hình
tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như các tác dụng
sau này của các kết quả đầu tư. Thí dụ: Quy mô đầu tư để xây dựng nhà máy
sàng tuyển than ở khu vực có mỏ than tuỳ thuộc rất nhiều vào trữ lượng than của
mỏ. Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì quy mô nhà máy sàng tuyển cũng không
nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hàng năm hoạt động hết công suất với số năm
tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án.
- Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng
nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không
gian.
Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi
hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc
soạn thảo các dự án đầu tư (lập dự án đầu tư), có nghĩa là phải thực hiện đầu tư
theo dự án được soạn thảo với chất lượng tốt.

Đầu tư phát triển trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn thông
thường đều trực tiếp hay gián tiếp chịu ảnh hưởng của các đặc điểm sản xuất
nông nghiệp nên mang một số đặc điểm đặc trưng sau :
-

Đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đặc biệt là đầu
tư trong nông nghiệp, thường có thời gian thu hồi vốn dài hơn đầu
tư trong các ngành kinh tế khác.Những nguyên nhân chủ yếu của
thời gian thu hồi vốn dài là :
+ Tính sinh lời của sản xuất kinh doanh nông nghiệp trong điều

kiện hiện nay thường thấp hơn các ngành khác.

7


+ Chu kỳ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp thường dài, năng suất lao
động nông nghiệp lại thấp, do vậy thời gian khấu hao tài sản cố định trong
nông nghiệp thường kéo dài so với các ngành kinh tế khác.
+ Tính rủi ro và kém ổn định của sản xuất kinh doanh nông nghiệp một
mặt ảnh hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư trong nông nghiệp, mặt
khác gián tiếp ảnh hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư của các ngành
kinh tế nông thôn có sử dụng nguyên liệu nông nghiệp hoặc liên quan tới
nông nghiệp.
+ Tỷ giá cánh kéo giữa hàng công nghiệp và hàng nông sản bất lợi cho
nông nghiệp. Điều này ảnh hưởng xấu tới khả năng thu hồi vốn đầu tư
trong nông nghiệp, nhất là trong điều kiện năng suất lao động trong nông
nghiệp còn thấp.
-


Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn,
nhất là trong nông nghiệp, thường được tiến hành trên một phạm
vi không gian rộng lớn. Phần lớn các hoạt động đầu tư trong lĩnh
vực nông nghiệp, nông thôn có phạm vi không gian rộng hơn các
lĩnh vực khác. Điều này làm tăng thêm tính phức tạp của việc quản
lý, điều hành các công việc của thời kỳ đầu tư xây dựng các công
trình cũng như thời kỳ khai thác các công trình đầu tư.

4.

Nguồn vốn đầu tư
Ở mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích lũy của

nền kinh tế. Nguồn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, xét về lâu dài, là nguồn đảm
bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách ổn định, là điều kiện đảm
bảo tính độc lập và tự chủ của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như các lĩnh
vực khác. Vốn đầu tư trong nước được hình thành chủ yếu từ các nguồn :
+ Tích lũy từ ngân sách nhà nước
+ Tích lũy của các doanh nghiệp

8


+ Tiết kiệm của dân cư
Ngoài nguồn vốn tích lũy trong nước, các quốc gia còn có thể và cần huy
động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm : vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn
đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài đầu tư sang nước khác và trực tiếp quản lý hay tham gia quản lý quá

trình đầu tư. Vốn đầu tư gián tiếp thường là của chính phủ, các tổ chức quốc tế,
các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức : viện trợ không
hoàn lại, viện trợ có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và cho vay thông
thường.
II.

Một số vấn đề về nông nghiệp nông thôn

1.

Khái niệm
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất, là một bộ phận cấu thành của

nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp chỉ có ngành trồng
trọt, chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp. Còn nông nghiệp theo nghĩa
rộng nó còn bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản.
2.

Vị trí, vai trò của nông nghiệp nông thôn
Nông nghiệp là ngành sản xuất hết sức quan trọng của nền kinh tế nói

chung và kinh tế nông thôn nói riêng. Nó không chỉ là một ngành kinh tế đơn
thuần mà còn là một hệ thống sinh học – kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát
triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm năng sinh học – cây trồng, vật nuôi.
Chúng phát triển theo qui luật sinh học nhất định con người không thể ngăn cản
các quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của chúng, mà phải trên cơ sở
nhận thức đúng đắn các qui luật để có những giải pháp tác động tích cực với
chúng.

9



Nông thôn có phát triển được hay không trước tiên phụ thuộc vào sự phát
triển của nông nghiệp, dù đó là nông thôn của các nước đang phát triển hay nước
phát triển.
Vai trò của nông nghiệp và nông thôn:
- Thứ nhất: nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to
lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát
triển. ở những nước nghèo, đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay
cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông
nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và
không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống con người những sản
phẩm tối cần thiết đó là lương thực, thực phẩm. Những sản phẩm này cho dù
trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có
thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết
định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế – xã hội của đất
nước.
- Thứ hai: nông nghiệp sản xuất ra nguyên liệu cho hàng loạt ngành công
nghiệp phát triển, như công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp dệt, may,
công nghiệp giấy, đồ gỗ… mà nếu không phát triển tốt sẽ ảnh hưởng nhiều đến
xuất khẩu và hàng tiêu dùng. Thông qua công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp
chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả
năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường…
- Thứ ba: khu vực nông nghiệp góp phần vào việc tăng thu nhập và tích
luỹ của nền kinh tế quốc dân. Điều này đặc biệt quan trọng với các nước đang
phát triển, đi lên từ nông nghiệp. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá thì
đây là khu vực lớn nhất, xét cả về lao động và sản phẩm quốc dân. Nguồn vốn từ
nông nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân đầu
tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do
xuất khẩu nông sản… trong đó thuế có vị trí rất quan trọng. Việc huy động vốn

10


từ nông nghiệp để đầu tư phát triển công nghiệp là cần thiết và đúng đắn trên cơ
sở việc thực hiện bằng cơ chế thị trường, chứ không phải bằng sự áp đặt của
Chính phủ. Những điển hình về sự thành công của sự phát triển các nước đều đã
sử dụng tích luỹ từ nông nghiệp để đầu tư cho công nghiệp. Tuy nhiên số vốn
tích luỹ từ nông nghiệp chỉ là một trong những nguồn cần thiết phát huy, phải
coi trọng các nguồn vốn khác nữa để khai thác hợp lý, đừng quá cường điệu vai
trò tích luỹ vốn từ nông nghiệp.
- Thứ tư: nông nghiệp và nông thôn là nơi có nguồn lao động dồi dào, mà
qua tăng năng suất lao động có thể giải phóng được lao động phục vụ cho các
ngành công nghiệp khác. Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước
đang phát triển là khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công
nghiệp và đô thị. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, phần lớn dân cư
sống bằng nông nghiệp và tập trung sống ở khu vực nông thôn. Vì thế khu vực
nông nghiệp nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho sự phát
triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, một mặt
tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác năng suất lao động nông nghiệp không
ngừng được tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải phóng ngày
càng nhiều. Số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công nghiệp và
đô thị.
- Thứ năm: nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công
nghiệp. ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư
liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong
nước mà thị trường trong nước, trước hết là khu vực nông nghiệp nông thôn. Sự
thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp
đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp,
nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua từ khu vực nông
thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát

triển, từng bước nâng cao chất lượng có thể cạnh tranh với thị trường thế giới.

11


- Thứ sáu: nông nghiệp còn được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập
ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm, thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế
hơn so với các hàng hoá công nghiệp. Vì thế ở các nước đang phát triển, nguồn
xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm, thuỷ sản. xu hướng
chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu giá trị xuất
khẩu nông, lâm, thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và
tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao trong nền kinh tế.
- Thứ bảy: nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự
phát triển bền vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hoá chất như
phân bón hóa học, thuốc trừ sâu bệnh… sẽ làm ô nhiễm đất và nguồn nước.
Trong quá trình canh tác dễ gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và
khai hoang mở rộng diện tích đất rừng… Vì thế, trong quá trình phát triển sản
xuất nông nghiệp, cần tìm những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát
triển bền vững của môi trường.
Tóm lại, nông nghiệp và nông thôn có vị trí, vai trò rất quan trọng trong
nền kinh tế và đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên cần chú trọng phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, tức là gắn
với việc bảo vệ môi trường sinh thái.
3. Sự cần thiết đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam
- Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là đòi hỏi tất yếu của các quốc
gia đang phát triển trên thế giới trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay
nhưng phát triển một nền nông nghiệp vững mạnh và ổn định là không thể thiếu
được. Nước Việt Nam chúng ta có truyền thống về nông nghiệp thì để tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá chỉ thu được thành công khi chúng ta đã đảm bảo
an toàn về lương thực thực phẩm - tức có ngành nông nghiệp phát triển. Như

vậy đối với một nước nông nghiệp như Việt Nam, bên cạnh việc chú ý phát triển
các ngành công nghiệp và dịch vụ, phát triển nông nghiệp vẫn là ưu tiên số một

12


trong quá trình phát kinh tế xã hội của nước ta. Do vậy đầu tư sẽ là nhân tố cực
kì quan trọng và cần thiết.
- Như trên chúng ta đã thấy được nông nghiệp có vị trí, vai trò rất quan
trọng đối với nền kinh tế. Nông nghiệp Việt Nam có các tiềm năng, nguồn lực
lớn cần có sự đầu tư khai thác cụ thể nhằm tận dụng triệt để các tiềm lực đó.
- Nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước về hàng nông – lâm – thủy
sản ngày càng cao cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Đây là một tiềm
năng lớn để phát triển nền kinh tế, cần có sự đầu tư phát triển mạnh mẽ, phù hợp
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
- Nguồn tài nguyên (đất đai, khí hậu, thời tiết…) phục vụ cho nông nghiệp
có nhiều lợi thế, song cũng có những khó khăn, cần có phương án đầu tư hợp lý
tận dụng được lợi thế và hạn chế tối đa những khó khăn đó.
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật nông nghiệp còn hạn chế, cần phải được đầu tư
điều chỉnh bổ sung và nâng cấp xây dựng thêm nhằm hướng vào phục vụ phát
triển nông nghiệp.
- Nước ta có nguồn lao động nông nghiệp dồi dào, song chất lượng còn
thấp, ít được đào tạo về kỹ thuật và quản lý, cần có sự đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn lao động, mang lại hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp.
- Đời sống người dân nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về vật
chất cũng như văn hóa, tinh thần.Cần có các chính sách đầu tư giúp người dân
phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp, đời sống dân trí được
nâng cao mọi mặt…

4. Vai trò của đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn
- Nông nghiệp là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng và
cơ bản của nền kinh tế quốc dân. Khác với các ngành sản xuất khác, nông
13


nghiệp là ngành sản xuất sinh học, phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên. Vì
vậy, đây là ngành cần lượng đầu tư lớn, nhưng lợi nhuận ngành thấp, tính rủi ro
cao. Trong điều kiện sản xuất hàng hóa, do các quy luật của sản xuất hàng hóa
chi phối, những người sản xuất sẽ tập trung đầu tư vào những ngành, những lĩnh
vực có lợi nhuận cao, dẫn đến một số ngành đầu tư mang lại hiệu quả thấp sẽ
không được chú ý phát triển. Nông nghiệp, nông thôn là ngành, lĩnh vực rơi vào
tình trạng đó. Do vậy, nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh hay chậm phụ
thuộc rất lớn vào việc đầu tư của Nhầ nước.
- Đầu tư cho nông nghệp, nông thôn là yếu tố quyết định để phát huy tiềm
năng về đất đai, sức lao động và các nguồn lợi tự nhiên khác nhằm cải biến nông
nghiệp, nông thôn từng bước theo kịp với các ngành, các lĩnh vực khác trong
phát triển kinh tế - xã hội.
- Nông nghiệp, nông thôn còn lầ ngành, lĩnh vực chứa đựng nhiều mối
quan hệ kinh tế xã hội phức tạp. Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn còn giải
quyết các vấn đề xã hội nan giải (xóa đói giảm nghèo, bài trừ các hủ tục lạc
hậu…), thực hiện các chính sách xã hội - một vấn đề hết sức được quan tâm hiện
nay.
- Đầu tư phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy
nông nghiệp, nông thôn phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đời sống nhân dân nông thôn được nâng cao, từng bước xóa
bỏ sự cách biệt nông thôn với thành thị và các ngành khác.
III.

Nội dung đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn


1.

Đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn: điện, đường,
trường học, trạm y tế…
Đầu tư xây dựng và nâng cấp hệ thống thuỷ lợi: kênh mương, cầu cống,

các trạm bơm tưới tiêu… Cụ thể là đầu tư cho nạo vét kênh mương, xây dựng
các trạm bơm đầu mối, kiên cố hoá hệ thống kênh mương nội đồng, xây dựng hệ

14


thống tưới tiêu hiện đại ở các vùng chuyên môn hoá cao. Xây dựng hệ thống đập
ngăn nước hay thoát lũ.
Đầu tư phát triển mạng lưới giao thông nông thôn trong cả nước: xây dựng
đường xá nông thôn, nâng cấp các tuyến đường đã có, từng bước cứng hoá mặt
đường, xây dựng cầu, cống vĩnh cửu, phục vụ cho vận chuyển hàng hoá và đi lại
của nhân dân.
Đầu tư phát triển hệ thống điện: trạm biến áp, tuyến cáp ngầm, hệ thống
đường dây tải điện nhằm cung cấp có hiệu quả chất lượng cao điện cho nhu cầu
sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn. Đối với các vùng không có điều kiện cấp điện
lưới quốc gia, Nhà nước có chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển các nguồn điện
năng tại chỗ.
Đầu tư phát triển các thị tứ, thị trấn, xây dựng chợ trên địa bàn nông thôn
để thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ văn hoá xã
hội; hỗ trợ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn.
Đầu tư cho giáo dục - đào tạo, đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
giáo dục, y tế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Mạng lưới thông tin,
văn hoá nông thôn trong những năm qua đã có sự phát triển mạnh, góp phần đáp

ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và cải
thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân.
2.

Đầu tư phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp
Đầu tư vào nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho

sản xuất, coi đây là một khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển
nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nhà nước dành kinh phí để nhập khẩu công
nghệ cao, thiết bị hiện đại, các loại giống tốt. Đồng thời đầu tư hiện đại hoá hệ
thống viện, trường, nâng cao năng lực đào tạo cán bộ khoa học, nghiên cứu và
tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến.

15


Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiêp như: chăn nuôi
theo phương pháp công nghiệp, sản xuất rau sạch, đổi mới cơ cấu giống cây
trồng vật nuôi theo hướng xuất khẩu có giá trị cao, mở rộng diện tích cây công
nghiệp có giá trị xuất khẩu cao, trồng rừng theo phương pháp công nghiệp, nuôi
trồng thuỷ hải sản theo phương pháp công nghiệp, tăng năng lực đánh bắt hải
sản xa bờ, ứng dụng công nghệ vi sinh…
+ Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ sinh học: nghiên cứu chọn tạo
giống cây trồng, vật nuôi; ứng dụng công nghệ vi sinh.
+ Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ cơ điện tử và tự động hóa:
nghiên cứu triển khai trang thiết bị kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp bảo
đảm tiết kiệm năng lượng, kim loại để hạ giá thành; nghiên cứu công nghệ sau
thu hoạch và chế biến nông lâm thủy sản.
+ Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ thủy lợi và nguồn nước: bảo vệ
và phát triển bền vững nguồn nước; chỉnh trị sông thoát lũ, phòng chống thiên

tai; nâng cao hiệu quả các hệ thống thủy lợi đã có; nâng cao chất lượng và hạ giá
thành các công trình xây dựng mới; hiện đại hóa hệ thống công trình thủy lợi;
bảo vệ và khai thác vùng ven biển.
3.

Đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản
- Về nông nghiệp:
Đầu tư vào giống cây trồng vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn

công nghiệp, thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm, sử dụng các loại giống mới
có năng suất cao, chất lượng tốt phù hợp với yêu cầu thị trường. Trong chăn
nuôi, đầu tư phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, theo hình thức trang
trại có trang thiết bị hiện đại đạt yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm, phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Đầu tư phát triển sản
xuất và chế biến các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng,
nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm này

16


(như lúa gạo, cà phê hạt điều, hồ tiêu, chè, cao su, rau quả, thịt…) trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Trong những năm qua Nhà nước đã đầu tư cho công tác thuỷ lợi, sử dụng
công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp tạo ra nhiều giống mới, giống lai
có năng suất, chất lượng cao, cung cấp phân bón, thuốc trừ sâu... đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Do vậy nông nghiệp Việt Nam đã đạt
được thắng lợi ngoạn mục đó là sản xuất lương thực phát triển toàn diện, tăng
trưởng nhanh, trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo. Năm
2009, giá trị sản lượng của nông nghiệp đạt 71,473 nghìn tỷ đồng (giá so sánh
với năm 1994), tăng 1,32% so với năm 2008 và chiếm 13,85% tổng sản phẩm

trong nước.
- Về lâm nghiệp:
Mở rộng diện tích rừng, cung ứng đủ giống có chất lượng cho trồng rừng.
Đầu tư cho công tác bảo vệ rừng.
Do được quan tâm đầu tư phát triển lâm nghiệp theo chương trình, dự án:
phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khoán rừng... giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng
bình quân mỗi năm 0,4%. Giá trị trồng và nuôi rừng tăng và chiếm 20% tổng giá
trị sản xuất. Giá trị lâm sản khai thác từ rừng trồng tăng dần.
- Về thuỷ sản
Đầu tư cho các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản: đầu tư giống,
thức ăn, kỹ thuật nuôi trồng, tàu bè đánh bắt xa bờ. Đồng thời chú trọng đến
khâu chế biến thuỷ sản theo phương châm gắn nuôi trồng, khai thác với chế biến
phục vụ nhu cầu trong nước và cho xuất khẩu.
Ngành thuỷ sản và các địa phương đã đầu tư mua sắm tàu thuyền đánh bắt
xa bờ, mở rộng diện tích nuôi trồng nên thủy sản tăng trưởng với tốc độ cao,
nhất là thuỷ sản nuôi trồng. Phong trào nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi cá nước
ngọt, nước lợ phát triển mạnh từ Nam ra Bắc, nhất là vùng ven biển, vùng đồng

17


bằng Nam Bộ. Các phương thức nuôi các ruộng, cá ao, cá bè, cá lồng, nuôi
nghêu, sò huyết, ba ba tiếp tục được mở rộng ở nhiều địa phương.
Thực hiện phương châm gắn nuôi trồng với khai thác và chế biến. Từ năm
1996 đến nay ngành thuỷ sản và các địa phương đã đầu tư xây dựng và trang bị
thêm máy móc, thiết bị để nâng cao năng lực chế biến thủy sản. Cơ cấu mặt
hàng và cơ sở chế biến thuỷ sản cũng được đa dạng hoá gắn với yêu cầu của thị
trường trong nước và xuất khẩu.
4. Đầu tư phát triển các ngành nghề nông thôn, ngành nghề mới, tạo
ra các sản phẩm mới

Đầu tư khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống ở nông thôn
như nghề mộc, mây tre đan, hàng thủ công mỹ nghệ, nghề gốm, sứ… Đồng thời
còn chú trọng phát triển các ngành nghề mới, tạo ra các sản phẩm mới ở nông
thôn như: nuôi trồng nấm, nuôi cá cảnh, nuôi đà điểu…. Thay đổi các tập quán
sinh hoạt mới như làm nhà trên cọc ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, chăn
nuôi gia súc, gia cầm xa nhà ở vùng miền núi phía bắc, sử dụng khí sinh học
trong đun nấu…
Nhờ chính sách đổi mới của Nhà nước, có hướng đầu tư vốn và công nghệ
vào phát triển các làng nghề nên nhiều ngành nghề, sản phẩm truyền thống một
thời bị mai một cũng dần dần được khôi phục. Các cơ sở này đã sản xuất một
khối lượng hàng hoá lớn, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
5. Đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn
Đó là đầu tư xây dựng, nâng cấp, hoàn thiên các nhà máy sản xuất phân
bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, các loại hoá chất phục vụ nông nghiệp xây dựng,
các nhà máy sản xuất máy móc cho nông nghiệp, phương tiện vận tải ở nông
thôn, các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Nhà nước hỗ trợ, khuyến khích phát triển mạnh các ngành công nghiệp ở
nông thôn, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các ngành sử

18


dụng nguyên liệu tại chỗ, cần nhiều lao động như sản xuất vật liệu xây dựng,
công nghiệp khai thác mỏ, dệt may, da giày, cơ khí lắp ráp… Hình thành các khu
công nghiệp ở nông thôn, gắn kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất
nguyên liệu với các nhà máy chế biến công nghiệp.
6. Đầu tư phát triển xã hội ở nông thôn
-

Đầu tư để hạn chế các tác động của tự nhiên đến sản xuất, như:

thủy lợi, giao thông, điện…

-

Phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý, trong đó chú ý đến các đối
tượng có những thiệt thòi như thiếu đất sản xuất, thiếu vốn, sản
xuất ở những vùng đặc biệt khó khăn…( cấp đất, cho vay vốn…)

-

Xây dựng nông thôn, xóa dần sự cách biệt về điều kiện sống và
sản xuất ở nông thôn so với thành thị, nhất là ở vùng núi, vùng đặc
biệt khó khăn. Xóa bỏ các hủ tục lạc hâu, phát huy sức mạnh cộng
đồng.

-

Đào tạo nâng cao trình độ của những người nghèo đói tạo điều
kiện tiếp cận với khoa học công nghệ, với kinh tế thị trường.

-

Đầu tư thực hiện các chính sách về dân số, việc làm: chuyển đổi cơ
cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy mạnh xuất
khẩu lao động…

-

Đầu tư giáo dục, nâng cao sức khỏe cộng đồng nông thôn, phát
triển các trung tâm khuyến nông, khuyến lâm: đầu tư vốn xây

dựng các cơ sở giáo dục, y tế đáp ứng yêu cầu của đào tạo và nâng
cao sức khỏe cộng đồng…
Ngoài các nội dung đầu tư ở trên thì đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn

còn có một số nội dung khác: Đầu tư cho việc hoạch định các chính sách, đầu tư
phát triển thị trường nông thôn…

19


KẾT LUẬN

Đầu tư phát triển có vai trò rất to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Các
lý thuyết phát triển kinh tế đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để
phát triển kinh tế và là chìa khóa của sự tăng trưởng.
Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn là vấn đề lớn,
phức tạp có liên quan đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân của mỗi nước, mỗi thời
kỳ.
Lý thuyết kinh tế và thực nghiệm các nước và thực tế ở Việt Nam trong
những năm qua đều đã chứng minh ảnh hưởng có tính chất quyết định của đầu
tư đối với tăng trưởng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng
thu nhập, cải thiện đời sống của hộ nông thôn, phát triển nông nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, còn khá nhiều vướng mắc
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn như: vốn đầu tư ít, đầu tư dàn trải, lãng
phí, không hiệu quả; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý tạo ra mất cân đối giữa nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản, và trong nội bộ giữa các ngành; nông nghiệp chưa phát
triển hết tiềm năng… Những hạn chế đó cần phải có các giải pháp để khắc phục
như đổi mới phương thức đầu tư, đổi mới cơ cấu đầu tư, giải pháp tạo vốn, tăng
vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, và không thể thiếu được vai trò
quản lý của Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư.

Với những cơ sở lý luận trên phần nào có thể thấy được sự cần thiết của
đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và mở ra nhiều triển vọng lớn về tăng
trưởng kinh tế nông thôn nước ta trong những năm tới, góp phần vào sự phát
triển nền kinh tế cũng như công cuộc xây dựng Đất Nước.

20


Môc lôc
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Lý luận chung về đầu tư phát triển................................................................3
1. Khái niệm đầu tư phát triển.........................................................................3
2. Vai trò của đầu tư phát triển........................................................................3
3. Những đặc điểm của đầu tư phát triển......................................................6
II. Một số vấn đề về nông nghiệp nông thôn....................................................9
1. Khái niệm.....................................................................................................9
2. Vị trí, vai trò của nông nghiệp nông thôn.....................................................9
III. Nội dung đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn......................................14
1. Đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn: điện, đường,
trường học, trạm y tế…...........................................................................14
2. Đầu tư phát triển khoa học công nghệ trong nông nghiệp.........................15
3. Đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản...................................................16

21


22




×