Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực trạng và giải pháp thu chi quỹ bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.01 KB, 34 trang )

1


ĐỀ TÀI: Thu chi quỹ Bảo hiểm xã hội- Thực trạng và giải pháp
BHXH ở Việt Nam trong những năm qua luôn nhận đuợc sự quan tâm của Nhà
nuớc và nguời dân. Điều này là dễ hiểu bởi BHXH liên quan đến hàng triệu lao động trên
đất nuớc và những đối tượng khác phụ thuộc. Không những thể, BHXH còn có ý nghĩa
quan trọng đối với kinh tế - xã hội, thể hiện sự nhân đạp sâu sắc và trình độ văn minh, tiềm
lực kinh tế và khả năng tổ chức quản lý của Nhà nước.
Cùng với sự thay đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, BHXH ở Việt Nam cũng có những bước chuyển biến
cho phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội. Với mục đích thống nhất việc quản lý và thực
hiện các chế độ BHXH nhằm đảm bảo tốt hơn của nguời lao động, BHXH đã được hình
thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương
thuộc hệ thống Bộ Lao động – thuơng binh và xã hội và Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam nhằm giúp Thủ tướng chỉ đạo công tác quản lý quỹ và thực hiện chế độ
chính sách BHXH theo pháp luật hiện hành.
Cùng với sự phát triển của hệ thống luật pháp và phương thức quản lý, việc
thực hiện công tác thu chi BHXH ở Việt Nam hiện nay đã đạt được những thành
tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc thu chi BHXH vẫn còn bộc
lộ những hạn chế nhất định.
Chính vì những lý do trên nên việc nghiên cứu về đề tài: “Thu chi quỹ bảo hiểm
xã hội - Thực trạng và giải pháp” là rất cần thiết. Bài viết sau xin trình bày những hiểu biết
của tác giả về vấn đề thu chi quỹ bảo hiểm xã hội, thực trạng của vấn đề này và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của việc thu chi quỹ bảo hiểm xã hội ở nuớc ta trong
tình hình hiện nay.

PHẦN NỘI DUNG
I. Tổng quan về quỹ bảo hiểm xã hội
I.1. Khái niệm
2




Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tiền tệ độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Mục đích tạo lập quỹ bảo hiểm xã hội là dùng để chi trả trợ cấp cho nguời lao động,
giúp họ và gia đình họ ổn định cuộc sống khi gặp các rủi ro biến cố. Chủ thể của quỹ bảo
hiểm xã hội chính là các bên tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó nó bao gồm:
người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý 1 cách thống nhất, dân chủ, công khai, minh
bạch. Nó phải được sử dụng đúng mục đích, được hạch toán độc lập theo các quỹ thành
phần của từng chế độ, bao gồm: quỹ ốm đau, thai sản; quỹ TNLĐ-BNN; quỹ hưu trí, tử
tuất; quỹ BHYT; quỹ BHTN.
I.2. Đặc điểm của quỹ bảo hiểm xã hội
- Ra đời, tồn tại và phát triển gắn với mục đích đảm bảo cuộc sống cho người
lao động và gia đình họ khi NLĐ gặp rủi ro, biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao
động.
-

Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời.
Là một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong thời gian dài, luôn vận động

biến đổi và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn dùng để chi trả trợ cấp trong tương lai.
- Phân phối quỹ vừa mang tính chất hoàn trả, vừa mang tính chất không hoàn
trả. Quỹ BHXH có tính chất hoàn trả vì NLĐ vừa là đối tượng tham gia và đóng góp
BHXH, vừa là đối tượng được nhận trợ cấp khi họ gặp rủi ro, biến cố. Tính không hoàn trả
thể hiện ở chỗ cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng phụ thuộc vào nhiều yếu tố theo
quy định mà có NLĐ được hưởng trợ cấp nhiều lần và ở nhiều chế độ khác nhau, nhưng
cũng có NLĐ được ít lần hơn, thậm chí không được hưởng. Điều này thể hiện tính xã hội
của toàn bộ hoạt động BHXH.
- Quỹ bảo hiểm xã hội là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính bảo hiểm
xã hội.

-

Sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh

tế xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước.
Quốc gia nào có nền kinh tế xã hội càng phát triển thì quốc gia đó có càng nhiều điều kiện
để thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu về BHXH đối với

3


NLĐ, đồng thời, NLĐ và NSDLĐ có thu nhập cao hơn nên họ có nhiều điều kiện tham gia
đóng góp bảo hiểm xã hội
I.3. Nguồn hình thành quỹ
- Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc:
Do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp, Nhà nước đóng góp hoặc
hỗ trợ, các nguồn khác như các cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ hoặc lãi từ đầu tư vốn
nhàn rỗi.
Quỹ BHXH bắt buộc được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của NLĐ và
NSDLĐ. Nguồn này quyết định độ lớn của quỹ BHXH. NLĐ đóng góp thể hiện sự tự chịu
trách nhiệm với biến cố xảy ra, NSDLĐ đóng góp thể hiện sự chịu trách nhiệm với người
lao động mà mình sử dụng. Điều này cho thấy rõ sự gắn bó về lợi ích giữa cả 2 bên.
Ngoài sự đóng góp của NLĐ và NSDLĐ, quỹ BHXH còn được NSNN có chức
năng bù vào khảon chi trả khi quỹ BHXH thiếu tiền, thu không đủ chi. Ngoài ra, quỹ còn
được NSNN hỗ trợ định kỳ. Đặc biệt, NSNN đảm nhiệm nhiệm vụ chi trả BHXH cho
những người đang nghỉ hưu, hưởng BHXH trước ngày 1/1/1995 vì tại 1/1/1995, BHXH
Việt Nam chưa ra đời.
Góp phần không nhỏ vào quỹ BHXH đó là tiền sinh lời của hoạt động đầu tư tài
chính. Nhờ đó quỹ BHXH luôn có 1 số dư tạm thời để đảm bảo cho các khoản chi trong
tương lai.

-

Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện: Do người lao động đóng góp, Nhà nước hỗ

trợ, các nguồn thu khác.
I.4. Mục đích sử dụng quỹ
- Chi trả trợ cấp cho các chế độ bảo hiểm xã hội: Đây là khoản chi lớn nhất và
quan trọng nhất, được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng
hệ thống bảo hiểm xã hội.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý bảo hiểm xã hội: Là chi phí cho bộ máy quản lý
để tổ chức bảo hiểm xã hội chuyên trách thực hiện các nghiệp vụ của mình như: Chi lương
và các khoản mang tính chất lương cho lao động làm việc trong ngành bảo hiểm xã hội, chi
nghiệp vụ chuyên môn, chi quản lý hành chính, chi mua sắm, sửa chữa tài sản cố định...
- Chi đầu tư: Các khoản chi đầu tư được quản lý riêng, chặt chẽ theo quy định,
được lấy từ khoản chênh lệch thu – chi quỹ bảo hiểm xã hội và từ lợi nhuận do đầu tư quỹ.
4


Khoản đầu tư gồm vốn gốc, nguồn bổ sung hàng năm và các chi phí khác để thực hiện đầu
tư.
-

Các khoản chi khác: Chi xây dựng cơ bản,...

II. Thực trạng thu chi quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
II.1.
Thực trạng thu chi quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
II.1.1.
Thực trạng thu bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
a, Mức thu BHXH ở nước ta

- Mức thu BHXH bắt buộc:
Là mức đóng hàng tháng của NLĐ và NSDLĐ bằng tỉ lệ phần trăm tiền lương,
tiền công tháng được ghi rõ trong quyết định số 1111/QĐ- BHXH ngày 25/10/2011 của
tổng giám đốc BHXH Việt Nam về quản lý thu BHXH, BHYT, quản lý sổ BHXH, thẻ
BHYT như sau:
+ Từ 1/1/2010 đến 31/12/2011: bằng 22% trong đó NLĐ đóng 6%, NSDLĐ đóng
16%
+ Từ 1/1/2012 đến 31/12/2013: bằng 24% trong đó NLĐ đóng 7%, NSDLĐ đóng
17%
+ Từ 1/1/2014 trở đi: bằng 26% trong đó NLĐ đóng 8%, NSDLĐ đóng 18%
- Mức thu BHXH tự nguyện:
Mức đóng hàng tháng của người tham gia BHXH tự nguyện như sau:
Mức đóng hàng = tỷ lệ % đóng BHXH * mức thu nhập tháng người tham gia
Tháng
tự nguyện
BHXH lựa chọn
b, Kết quả thu BHXH nước ta
- Trong bối cảnh tình hình kinh tế xã hội đất nước gặp nhiều khó khăn, lạm phát
tăng cao, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đời sống
nhân dân và cán bộ, công chức viên chức, tác động trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của ngành BHXH.
Số thu BHXH qua các năm

STT

Năm

Kế
hoạch giao ( tỷ
đồng)


Số thu
BHXH

%
hoàn thành kế
hoạch

5


1

2007

22536,
0

2

2008

23754,6
28491,

0
3

2009


36178,

2010

49663,

2011

108,14

37355,

103,25

49549,

99,77

6115,6

105,7

1

9
5

30810,
2


0
4

105,41

2
57819,

0
( Nguồn: Vụ BHXH Việt Nam)
Như vậy, qua các năm , công tác thu BHXH bắt buộc luôn vượt mức kế hoạch
được giao. Đặc biệt, trong năm 2008, số thu BHXH bắt buộc cao hơn so với dự kiến thu là
108,14%. Nguyên nhân là do năm 2008 là năm thứ 2 luật BHXH được đưa vào thực hiện
nên những hạn chế từ năm đầu triển khai đã được khắc phục một phần cho tới năm 2008.
Hơn nữa, hệ thống các văn bản hướng dẫn luật BHXH nhìn chung đã được ban hành kịp
thời, tương đối đầy đủ, đảm bảo chất lượng, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện chế
độ chính sách BHXH. Mặt khác, hoạt động tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách pháp
luật về BHXH đã được đẩy mạnh hơn từ trung ương đến địa phương với nhiều hình thức,
bước đầu tạo ra sự chuyển biến nhận thức của NLĐ và NSDLĐ. Hoạt động thanh tra, kiểm
tra, giám sát cũng được triển khai đặc biệt tại các thành phố lớn, các khu công nghiệp.
Nhưng bắt đầu từ năm 2009, nước ta bị ảnh hưởng của lạm phát nên tốc độ hoàn
thành kế hoạch có xu hướng giảm tới năm 2010 thì phần trăm hoàn thành kế hoạch chỉ còn
99,77% thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Lý do chủ yếu là nhiều công ty lâm vào
tình trạng khủng hoảng tài chính trầm trọng không có khả năng đóng BHXH cho NLĐ,
trong đó tiêu biểu là tậ đoàn công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam Vinashin đã khiến cho việc
thu BHXH tuy vượt mức kế hoạch được giao nhưng tỷ lệ hoàn thành kế hoạch lại thấp hơn
những năm trước đó. Tới năm 2011, nền kinh tế nước ta có chiều hướng khả quan hơn nên
tốc độ tăng phần trăm hoàn thành kế hoạch dần trở lại chu kì như ban đầu.
6



Tuy nhiên, số thu BHXH có chiều hướng tăng dần qua các năm.
+ Năm 2007, số thu từ đóng góp của NLĐ và NSDLĐ vào quỹ BHXH đạt gần
23,755 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2006 và 5,4% so với chỉ tiêu giao dự toán thu BHXH
của thủ tướng Chính phủ. Trong đó, thu quỹ ốm đau thai sản là 3.553 tỷ, thu quỹ TNLĐBNN là gần 1.188 tỷ, thu quỹ hưu trí và tử tuất gần 19.004 tỷ.
+ Năm 2008, số thu từ đóng góp của NLĐ và NSDLĐ vào quỹ BHXH gần
30.810 tỷ, tăng 27% so với năm 2007 và tăng 8% so với chỉ tiêu dự toán thu BHXH năm
2008 của thủ tướng Chính phủ. Trong đó, thu quỹ ốm đau thai sản là 4533 tỷ, thu quỹ
TNLĐ-BNN là 1511 tỷ, thu quỹ hưu trí và tử tuất là trên 24766 tỷ.
+ Năm 2009, nước ta chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng toàn cầu
2008. Nhận thức được tình hình thực tế, thanh tra bộ Lao động thương binh và xã hội đã
tiến hành thanh tra việc thực hiện luật BHXH tại 3 tỉnh Phú Thọ, Cà Mau, Quảng Ninh. Tại
3 tỉnh đã thanh tra 9 cơ quan BHXH( 3 cơ quan BHXH tỉnh, 6 cơ quan BHXH cấp huyện)
và 88 doanh nghiệp trên địa bàn. Qua đó, trong năm 2009, số thu BHXH đạt 49549 tỷ
đồng, tăng 21,24 % so với năm 2008, tăng 3,25% so với dự toán thu.
+ Năm 2010, số thu từ NLĐ và NSDLĐ là 49.549 tỷ đồng, tăng 32,6% so với
năm 2009 và thấp hơn dự toán thu là 0,23%. Trong đó, thu từ quỹ ốm đau thai sản là 6655
tỷ đồng, quỹ TNLĐ-BNN là 2.256 tỷ đồng, quỹ hưu trí tử tuất là 40.718 tỷ đồng.
+ Năm 2011, thu vào quỹ BHXH bắt buộc: 61.116 tỷ đồng, tăng 23,3% tương
ứng 11.567 tỷ đồng so với năm 2010 trong đó thu vò quỹ ốm đau thai sản là 8.334 tỷ đồng,
quỹ TNLĐ- BNN là 2.778 tỷ đồng, quỹ hưu trí, tử tuất là 50.004 tỷ đồng.
Tóm lại, trong những năm vừa qua, số thu từ nguồn BHXH bắt buộc có chiều
hướng tăng qua các năm tuy nhiên tốc độ tăng vẫn thấp hơn tốc độ điều chỉnh tăng mức
lương tối thiểu và tổng số đối tượng tăng thêm.
- Tình trạng trốn tham gia, trốn đóng, nợ đọng phí bảo hiểm xã hội còn phổ
biến
Tổng số nợ đóng, chậm đóng BHXH và bảo hiểm thất nghiệp năm 2012 là 4.639
tỉ đồng (trong đó: Nợ BHXH bắt buộc là 4.274 tỉ đồng, nợ bảo hiểm thất nghiệp là 365 tỉ
đồng). Tuy con số này đã giảm 232 tỉ đồng (4,76%) so với năm 2011 nhưng vẫn còn ở mức
cao. Trong số này nợ từ trên 6 tháng khoảng 2.300 tỉ đồng, chủ yếu là của các doanh

7


nghiệp bị phá sản, dừng hoạt động, chủ bỏ trốn,doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất,
kinh doanh do tác động của suy giảm kinh tế.
Cụ thể là tình trạng nợ đóng BHXH, BHYT vẫn còn diễn ra phổ biến:
Ngày 31/10/2012, BHXH Việt Nam có văn bản số 4413/BC-BHXH báo cáo Thủ
tướng Chính phủ về tình hình nợ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế.
Báo cáo cho biết, thời gian qua BHXH Việt Nam đã tích cực triển khai, tổ chức
thực hiện chính sách BHXH, BHYT, luôn coi nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và
giảm nợ tiền đóng BHXH, BHYT là nhiệm vụ hàng đầu của Ngành. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao, BHXH Việt Nam đã ký Quy chế phối hợp với Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Tổng cục Cảnh sát phòng,
chống tội phạm thuộc Bộ Công An trong việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT; Phối
hợp với UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là UBND tỉnh) chỉ đạo
các đơn vị trong Ngành tiến hành nhiều giải pháp như: phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
chức năng trên địa bàn đôn đốc, kiểm tra, chấn chỉnh các đơn vị cố tính né tránh việc tham
gia BHXH, BHYT đối với người lao động, khởi kiện các đơn vị nợ, đưa danh sách các đơn
vị nợ lên các phương tiện thông tin đại chúng và đề nghị không tôn vinh, khen thưởng các
đơn vị còn nợ BHXH, BHYT.
Mặt khác, các bộ, ngành cũng đã có văn bản đề nghị UBND tỉnh tăng cường công
tác quản lý nhà nước về BHXH, BHYT trên địa bàn như Công văn số 2238/LĐTBXHBHXH ngày 04/7/2012 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về việc tăng cường quản
lý nhà nước về BHXH, Công văn 2728/BYT-BH ngày 08/5/2012 của Bộ Y tế về việc tăng
cường chỉ đạo thực hiện BHYT; UBND các tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo trong việc
thực hiện chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn.
Tính đến hết tháng 9/2012, kết quả thu BHXH, BHYT như sau:
- Số người tham gia BHXH, BHYT đạt trên 59,2 triệu người (trong đó số người
tham gia BHXH, BHYT bắt buộc 10,2 triệu người, tăng 0,4 triệu người), tăng 4,1 triệu
người (7,4%) so với cùng kỳ năm 2011.
- Số thu BHXH, BHYT đạt trên 93.757 tỷ đồng, bằng 77,8% so với kế hoạch Thủ

tướng giao, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2011.
8


- Số tiền nợ là 7.680 tỷ đồng, bằng 6,99% kế hoạch giao thu, tăng 1.830 tỷ đồng so
với cùng kỳ năm 2011, trong đó: nợ BHXH 5.654 tỷ đồng; nợ BHTN 396 tỷ đồng trong đó
ngân sách địa phương nợ 284 tỷ đồng chiếm 71% tổng số nợ BHTN; Nợ BHYT 1627 tỷ
đồng, trong đó ngân sách địa phương nợ 962 tỷ đồng, chiếm 59,1% tổng số nợ BHYT.
Trong tổng số nợ BHXH nêu trên có:
+ 273 tỷ đồng là số tiền nợ BHXH, BHYT của các đơn vị thuộc Tập đoàn Vinashin.
+ 518 tỷ đồng là số nợ của doanh nghiệp bị phá sản (39 tỷ đồng); doanh nghiệp
dừng hoạt động do bị rút giấy phép kinh doanh (8 tỷ đồng), doanh nghiệp do cơ quan
BHXH khởi kiện đã được tòa án xét xử và thi hành án nhưng chưa thu hồi được nợ (196 tỷ
đồng), doanh nghiệp không còn giao dịch, quan hệ với cơ quan BHXH (275 tỷ đồng);
Đặc biệt, có nhiều đơn vị để nợ đọng trong thời gian dài, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của
người lao động. Không ít trường hợp chủ doanh nghiệp trích tiền lương của người lao động
để đóng BHXH, BHYT nhưng không nộp hoặc khi các cơ quan thanh tra, xử lý thì doanh
nghiệp mới chịu nộp. Một số trường hợp Thanh tra lao động ra quyết định xử phạt hành
chính về nợ tiền đóng BHXH, BHYT nhưng doanh nghiệp không nộp phạt. Thậm chí, một
số doanh nghiệp bị kiện ra Tòa về việc chậm đóng BHXH, BHYT nhưng vẫn không chấp
hành các phán quyết của Tòa.
- Trong khi cân đối thu – chi quỹ hưu trí, tử tuất ngày càng thu hẹp thì quỹ ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp vẫn dư khá lớn.
Tại báo cáo do ILO (tổ chức lao động Quốc tế) công bố tại hội thảo “Đánh giá tài
chính Quỹ Hưu trí ở Việt Nam - Kết quả dự báo và những khuyến nghị” do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) cùng ILO vừa tổ chức tại Hà Nội, ILO đã khuyến
nghị: Quá trình lão hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra rất nhanh và một tỷ trọng lớn dân
số sẽ không còn được hưởng trợ cấp xã hội trong tương lai. Với các điều kiện hiện tại, dự
báo quỹ lương hưu sẽ cạn kiệt vào năm 2029.
Theo báo cáo của ILO, chỉ khoảng 20% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã
hội ở Việt Nam (theo số liệu năm 2009, có 9,3 triệu người đóng góp cho quỹ hưu trí và tử

tuất trong tổng số 48,5 triệu người trong độ tuổi lao động). Tỷ lệ này có thể tăng trong thời
9


gian trước mắt khi Việt Nam đang bước vào “thời kỳ dân số vàng” với số người trong độ
tuổi lao động (từ 15 tuổi trở lên) chiếm tới 58,5% cơ cấu dân số (số liệu năm 2010). Tuy
nhiên, quá trình lão hóa dân số ở Việt Nam đang diễn ra rất nhanh và một tỷ trọng lớn dân
số sẽ không còn được hưởng trợ cấp xã hội trong tương lai.
Chế độ hưu trí hiện tại được đánh giá còn nhiều bất cập, thể hiện ở tuổi về hưu
tương đối sớm, đặc biệt là đối với nữ giới, và một bộ phận người lao động được phép về
hưu trước tuổi quy định, trong bối cảnh tuổi thọ trung bình được nâng cao và tỷ lệ sinh
giảm rõ rệt.
Ngoài ra, số đối tượng hưởng BHXH một lần năm 2012 là 601.020 người, tăng
26% so với năm 2011 và có xu hướng năm sau đều tăng so với năm trước.
Trong khi đó, quỹ ốm đau thai sản vẫn còn dư khá lớn, theo thống kê của BHXH
Việt Nam thì số tiền dư từ Quỹ ốm đau và thai sản tính đến cuối năm 2010 (kể cả lãi đầu
tư) vẫn còn hơn 7,1 nghìn tỷ đồng. Trong đó, từ năm 2007 - 2010, đã thu được 19,8 nghìn
tỷ đồng cho quỹ do người sử dụng lao động đóng bằng 3% quỹ tiền lương, tiền công. Số
tiền chi cho chế độ ốm đau, thai sản và dưỡng sức chỉ 68,07% (trợ cấp sinh con và nuôi
con chiếm 46% trong số này).
- Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, đây là hoạt động có vai
trò quan trọng, không những làm tăng thu mà còn đảm bảo khả năng chi trả của quỹ bảo
hiểm xã hội, ngoài ra các dự án đầu tư còn mang đến việc làm cho người lao động, giảm
gánh nặng thất nghiệp cho xã hội.
Do đặc thù người tham gia BHXH đóng phí trong một thời gian dài và thường là
rất lâu sau họ mới được hưởng các chế độ trợ cấp dài hạn (như hưu trí, tử tuất...), đồng thời
số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời điểm có chênh lệch dương nên quỹ
BHXH tại một thời điểm nhất định có số tiền kết dư khá lớn. Mặt khác, quỹ BHXH cũng
phải đối mặt với những nguy cơ rủi ro, như việc tính toán mức đóng - mức hưởng của đối
tượng không khoa học, những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ, bị giảm

giá trị do lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị,xã
hội trong nước và nước ngoài tác động...
10


Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt động đầu tư
tăng trưởng để tránh bị bội chi. Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH là một
đặc trưng cơ bản của hoạt động BHXH trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động đầu tư quay
vòng vốn để đảm bảo và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH là một yêu cầu nhất thiết khách
quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và phát huy tác dụng của chính sách BHXH trong
việc bảo đảm ASXH và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Chủ trương cho vay đầu tư là theo luật định và có sự chỉ đạo của Hội đồng quản lý
quỹ, tuy nhiên tỉ lệ cho ngân sách vay và mua trái phiếu Chính phủ chiếm hơn 70% là chưa
thật hợp lý. Vì lãi suất thấp hơn so với đầu tư cho ngân hàng thương mại và các hình thức
đầu tư khác với mức lãi suất cao hơn.
Tuy nhiên, năm 2012 hoạt động đầu tư quỹ là bảo đảm an toàn và có tăng trưởng
với lãi suất bình quân cả năm đạt 10,4%, số lãi thu được là: 18.000 tỷ đồng, tăng 21,6% so
với kế hoạch được giao, trong khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) chỉ tăng 6,8%/năm.
Việc đầu tư cho vay quỹ BHXH đều thông qua các hợp đồng cho vay giữa BHXH
Việt Nam và các cơ quan trong đó các ngân hàng thương mại đều có khế ước bảo lãnh.
Điều này cũng thể hiện sự công khai, minh bạch và bảo đảm được độ an toàn của quỹ.
-

Các doanh nghiệp hiện nay trong việc đóng phí bảo hiểm xã hội vẫn diễn ra

tình trạng khai giảm quỹ lương của doanh nghiệp để trốn đóng.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có 80% doanh nghiệp với 73% lao động khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh thuộc diện BHXH bắt buộc nhưng vẫn chưa tham gia. Ở hầu hết
các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, tình trạng man trá trong thu chi BHXH
xảy ra khá phổ biến. Hình thức chủ yếu vẫn là giả mạo hồ sơ hoặc khai không đúng tuổi

đời, năm công tác, mức lương để hưởng chế độ BHXH; chậm cắt giảm đối tượng hưởng
chế độ mất sức lao động khi hết thời hạn được hưởng ở một số địa phương, tình trạng cắt
chậm từ 1-6 tháng là phổ biến, việc cắt giảm định suất tuất khi hết hạn hưởng cũng xảy ra
tương tự; lập chứng từ giả hoặc khai không đúng thời gian để thanh toán chế độ ốm đau
11


thai sản, vừa hưởng tiền từ quỹ BHXH vừa hưởng tiền lương từ ngân sách; trốn tránh
nghĩa vụ đóng BHXH hoặc khai giảm số lao động và quỹ tiền lương làm căn cứ đóng
BHXH...
Nhiều doanh nghiệp khai báo tiền lương trả cho người lao động để làm căn cứ
đóng BHXH thấp hơn nhiều so với thực tế cũng làm giảm thu đối với Quỹ BHXH. Đó là
chưa kể tới không ít doanh nghiệp không nộp đủ hoặc nợ BHXH.
II.1.2.
Thực trạng chi bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Theo Luật Bảo hiểm xã hội ban hành ngày 29/6/2006, quỹ Bảo hiểm xã hội hiện
chi trả cho sáu chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử
tuất.
Chế độ ốm đau:
+ Đối tượng hưởng chế độ ốm đau: Người lao động hưởng chế độ ốm đau khi
thuộc những trường hợp sau: Bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của
cơ sở y tế, có con dưới bảy tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác nhận
của cơ sở y tế.
+ Thời gian hưởng:
Trường hợp làm việc trong điều kiện bình thường (không tính ngày nghỉ lễ, Tết,
ngày nghỉ hàng tuần):
. 30 ngày nếu có đóng bảo hiểm xã hội <15 năm.
. 40 ngày nếu có đóng từ ≥15-30 năm.
. 60 ngày nếu có đóng từ ≥30 năm.
Trường hợp làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; nơi có phụ

cấp KV từ 0,7 trở lên (không tính ngày nghỉ lễ, Tết, ngày nghỉ hàng tuần):
. 40 ngày nếu có đóng bảo hiểm xã hội <15 năm.
. 50 ngày nếu có đóng từ ≥15-30 năm.
. 70 ngày nếu có đóng từ ≥30 năm.
+ Mức hưởng:

12


. 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi
nghỉ việc.
Hết thời hạn 180 ngày đối với trường hợp cần chữa trị dài ngày mức hưởng:
. 65% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi
nghỉ việc nếu có đóng bảo hiểm xã hội từ ≥30 năm.
. 55% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi
nghỉ việc nếu có đóng bảo hiểm xã hội từ ≥15-30 năm.
. 45% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi
nghỉ việc nếu có đóng bảo hiểm xã hội ≤15 năm.
Nếu thấp hơn mức lương tối thiểu chung thì được tính bằng mức lương tối thiểu
chung.
Trường hợp người lao động mắc bệnh cần chữa trị dài ngày:
. ≤180 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
. Sau 180 ngày mà vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với
mức thấp hơn.
Thời gian hưởng khi con ốm đau:
. ≤20 ngày/năm nếu con <3 tuổi.
. ≤15 ngày/năm nếu con ≥3-7 tuổi.
Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội, nếu một người đó hết
thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia được hưởng chế độ.
Chế độ thai sản

+ Đối tượng hưởng: Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
. Lao động nữ mang thai.
. Lao động nữ sinh con.
. Người lao động nhận nuôi con nuôi ≤4 tháng tuổi.
. Người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản.
13


Người lao động phải đóng bảo hiểm xã hội từ 6 tháng trở lên trong thời
gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
+ Thời gian hưởng:
Quỹ BHXH chi trả cho thời gian nghỉ của người lao động nghỉ hưởng trợ cấp thai
sản (kể cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần).
Trong thời gian mang thai được nghỉ việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một
ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình
thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.
Thời gian hưởng chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu:
. 10 ngày nếu thai <1 tháng.
. 20 ngày nếu thai từ ≥1- 3 tháng.
. 40 ngày nếu thai từ ≥3- 6 tháng.
. 50 ngày nếu thai từ ≥6 tháng.
Thời gian hưởng chế độ khi sinh con
. Điều kiện lao động bình thường: 4 tháng.
. Điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, làm 3 ca; phụ cấp KV hệ
số ≥0,7; lực lượng vũ trang: 5 tháng.
. Lao động tàn tận: 6 tháng
. Trường hợp sinh đôi trở lên từ con thứ 2, cứ mỗi con được nghỉ thêm 30 ngày.
Trường hợp sau khi sinh con mà con chết mẹ được nghỉ:
. <60 ngày tuổi được nghỉ việc 90 ngày tính từ ngày sinh con.

. ≥60 tuổi được nghỉ việc 30 ngày tính từ ngày con chết.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không vượt quá thời gian quy định.
Trường hợp nhận nuôi con nuôi <4 tháng tuổi thì được nghỉ việc hưởng chế độ
thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ đều
tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi
dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
14


Trường hợp thực hiện các biện pháp tránh thai:
. Khi đặt vòng tránh thai: 7 ngày.
. Khi thực hiện biện pháp triệt sản: 15 ngày
+ Mức hưởng:
Trợ cấp 1 lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi bằng 2 tháng lương tối thiểu
chung cho mỗi con.
Mức hưởng chế độ thai sản:
. Bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội
của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc của người mẹ.
Trường hợp chỉ có người cha tham gia BHXH hoặc cả cha cả mẹ tham gia nhưng
người mẹ chết sau khi sinh thì mức hưởng tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương, tiền
công tháng đóng BHXH của người cha; trường hợp chỉ có mẹ tham gia mà mẹ chết sau khi
sinh thì mức hưởng tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH
của người mẹ.
. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng bảo hiểm
xã hội. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng bảo
hiểm xã hội.
Chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp
+ Đối tượng hưởng:
Người lao động hưởng chế độ tai nạn lao động khi bị tai nạn:

Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc.
Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu
của người sử dụng lao động.
Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và
tuyến đường hợp lý.
Người lao động hưởng chế độ Bệnh nghề nghiệp khi:
Bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y tế và Bộ LĐTB XH ban
hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại.
15


Mức suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp.
+ Mức hưởng:
Trợ cấp một lần:
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%:
Mtrợ cấp= Lmin x [5+(m-5)x0.5] + Lg[0.5+(t-1)x0.3]
Trong đó:
o

Mtrợ cấp= mức trợ cấp.
o Lmin= lương tối thiểu chung.

o

Lg= tiền lương liền kề trước khi nghỉ.

o

m= tỷ lệ suy giảm khả năng lao động (m≥5).


o

t= số năm đóng BHXH (đủ 12 tháng).

Trợ cấp hàng tháng:
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên:
Mtrợ cấp= Lmin x [0.3+(m-31)x0.02] + Lg[0.005+(t-1)x0.003]
o

Mtrợ cấp= mức trợ cấp.

o

Lmin= lương tối thiểu chung.

o

Lg= tiền lương liền kề trước khi nghỉ.

o

m= tỷ lệ suy giảm khả năng lao động (m≥31).

o

t= số năm đóng BHXH (đủ 12 tháng).

Trợ cấp người phục vụ:
Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà bị liệt

cột sống hoặc mù hai mắt hoặc cụt, liệt hai
16


chi hoặc bị bệnh tâm thần thì được thêm trợ cấp hàng tháng bằng mức lương
tối thiểu chung.
Cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình:
Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà bị tổn thương
các chức năng hoạt động của cơ thể thì
được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt theo niên hạn và phù hợp với tình
trạng thương tật, bệnh tật như chân,
tay giả; mắt giả; răng giả; xe lăn, xe lắc, máy trợ thính…..
Chế độ hưu trí
+ Điều kiện hưởng lương hưu:
Nam ≥ 60 tuổi, nữ ≥ 55 tuổi. Thời gian tham gia BHXH ≥ 20 năm.
Tuổi đời được hưởng lương hưu trong một số trường hợp đặc biệt khác do
Chính phủ quy định.
Nam từ đủ 55 đến nhỏ hơn 60 tuổi (nữ từ đủ 50 tuổi đến < 55 tuổi)
Thời gian tham gia BHXH ≥ 20 năm. Trong đó có 15 năm làm nghề hoặc công
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,phụ cấp KV ≥ 0,7 trở lên.
Nam ≥ 50 tuổi, nữ ≥ 45 tuổi.
Thời gian tham gia BHXH ≥ 20 năm.
Suy giảm khả năng lao động ≥ 61% (GĐYK ≥ 61%).
Thời gian tham gia BHXH ≥ 20 năm.
Trong đó có ≥ 15 năm làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm. Suy giảm khả năng lao động ≥ 61% (GĐYK ≥ 61%).
Không phụ thuộc vào độ tuổi.
Đủ tuổi đời (Nam ≥ 50 tuổi, nữ ≥ 45 tuổi).
Suy giảm khả năng lao động ≥ 61% (GĐYK ≥ 61%).
17



Có thời gian đóng BHXH ≥ 19 năm 6 tháng đóng BHXH được đóng 1
lần cho đủ 20 năm (Điều 9 khoản 1, Điều
58 - NĐ 152). Thời điểm hưởng lương hưu từ tháng sau liền kề tháng
đóng đủ 20 năm.
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc có thời gian đóng BHXH từ 19 năm 6 tháng
trở lên khi đủ tuổi đời nam 50, nữ 45 tuổi được đóng BHXH 1 lần cho đủ 20 năm (Điều 9
khoản 1, Điều 58 - NĐ 152). Thời điểm hưởng lương hưu từ tháng sau liền kề tháng đóng
đủ 20 năm.
+ Mức hưởng Hưu hàng tháng:
Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu.
Nam có ≥ 30 năm; nữ ≥ 25 năm đóng BHXH.
Từ năm thứ 31 trở đi với nam và 26 năm với nữ:
TC lần đầu = 0.5 x n x Lg
Lương hưu hằng tháng:
15 năm đóng BHXH Tỷ lệ = 45%.
Lương hưu = Tỉ lệ % x Lương bình quân.
Từ năm thứ 16 trở đi Nam tính thêm 2%/1 năm đóng BHXH, Nữ 3%/ 1
năm đóng BHXH; Cao nhất bằng 75%.
Tỷ lệ tối đa không vượt quá 75%.
Điều chỉnh trợ cấp hằng tháng được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ
số giá sinh hoạt và tăng trưởng kinh tế. Mức điều chỉnh cụ thể do Chính phủ quy định.
Chế độ tử tuất
Người đang hưởng lương hưu khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp
mai táng. Mức trợ cấp mai táng bằng 12 tháng lương tối thiểu chung.

18



Người đang hưởng lương hưu khi chết, thân nhân của họ được hưởng trợ cấp tuất
hằng tháng, bao gồm:
“. Con chưa đủ mười lăm tuổi; con chưa đủ mười tám tuổi nếu còn đi học; con từ
đủ mười lăm tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
. Vợ từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ sáu mươi tuổi trở lên; vợ
dưới năm mươi lăm tuổi, chồng dưới sáu mươi tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ
81% trở lên; những thân nhân trường hợp này phải không có thu nhập hoặc có thu nhập
hàng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
. Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà
đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ sáu mươi tuổi trở lên đối với nam, từ đủ
năm mươi lăm tuổi trở lên đối với nữ; những thân nhân trường hợp này này phải không có
thu nhập hoặc có thu nhập hàng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
. Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà
đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới sáu mươi tuổi đối với nam, dưới năm
mươi lăm tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương tối thiểu
chung; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất
hằng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung.
Thời điểm hưởng trợ cấp tuất hằng tháng được thực hiện kể từ tháng liền kề sau
tháng mà người hưởng lương hưu chết.
Đối tượng hưởng trợ cấp tuất một lần người đang hưởng lương hưu khi chết, nếu
không có thân nhân hưởng tiền tuất hằng tháng theo quy định nêu trên, thì thân nhân được
hưởng trợ cấp tuất một lần.
19


Mức trợ cấp tuất một lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết
được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu
thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng
thêm một tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu, mức thấp nhất

bằng 3 tháng lương hưu đang hưởng.
-

Số tiền chi trả BHXH ở Việt Nam tăng lên qua các năm do số lượng đối tượng

hưởng các chế độ BHXH trong thời gian qua tăng lên nên số tiền chi trả cho các đối tượng
hưởng cúng tăng theo. Hơn nữa, Nhà nước đã có những chính sách tiền lương, nâng mức
tiền lương tối thiểu, thang bậc lương, bảng lương nên mức BHXH cũng từ đó được điều
chỉnh cao hơn trước. Sự thay đổi khu vực hành chính, mở rộng thêm địa bàn dân cư cũng
làm tăng số đối tượng hưởng BHXH qua đó làm tăng số tiền chi trả BHXH.
Tình hình chi trả các chế độ BHXH bắt buộc ở Việt Nam từ 2006-2010
Đơn vị: tỷ đồng
S Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

33780,829

44870,744

54880,846 64044,27


15401

19315,952

23510,793

26461,486 28881,556

10933

14464,877

21359,949

28419,360 35162,714

TT
1 Chi trả các chế 26334
độ
2 Chi nguồn
ngân sách đảm
bảo
3 Chi từ nguồn
quỹ BHXH
đảm bảo

nguồn: BHXH Việt Nam
20



Quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ trọng chi từ quỹ bảo hiểm xã hội tăng,
giảm tỉ trọng chi từ ngân sách Nhà nước. Quỹ bảo hiểm xã hội được giao 1 phần quyền
quản lý cho công đoàn cơ sở sử dụng có hiệu quả hơn như hạn chế sinh con thứ 3, tăng
cường bảo hiểm an toàn lao động. Nhà nước còn thực hiện phương thức uỷ quyền cho
ngành tài chính các tỉnh, thành phố cấp phát cho cơ quan Lao động - Thương binh và xã
hội ở địa phương để trả lương hưu và trợ cấp cho cán bộ công nhân viên về hưu và các đối
tượng chính sách trên địa bàn.
Tình hình chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam từ 2006-2010
Năm

tổng chi

Ốm đau, thai sản

Tai nạn lao động,

Hưu trí, tử tuất

số tiền (tỷ tỷ trọng

bệnh nghề nghiệp
số tiền (tỷ tỷ trọng

số tiền (tỷ

tỷ trọng

(%)
17,01


đồng)
71

(%)
0,65

đồng)
8992

(%)
81,8

2006

10993

đồng)
1870

2007

14464.877

2114,913

14,62

106,246

0,73


12243,718 84,65

2008

21359.946

2979,111

13,95

144,948

0,68

18235,88

85,37

7
2009

28418,762

3716,100

13,08

180,517


0,64

24522,145 86,29

2010

36710,656

4762,718

12,97

246,711

0,67

31701,227 86,35

Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Qua bảng trên ta thấy, số tiền chi trả trợ cấp cho các chế độ đều tăng dần qua các
năm. Trong đó, số tiền chi trả cho chế độ lương hưu tử tuất chiếm tỷ trọng cao nhất do dân
21


số Việt Nam có xu hướng già hoá, số người về hưu ngày càng tăng nên việc chi trả bảo
hiểm xã hội cho những đối tượng này cũng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, khác với việc chi
trả trợ cấp ốm đau, thai sản; TNLĐ – BNN chỉ xảy ra khi có rủi ro, tai nạn bất ngờ thì việc
chi trả BHXH cho những đối tượng hưu trí lại có tính chất thường xuyên, định kỳ.
Vì những lý do trên, số tiền chi trả cho lương hưu trong các năm đều chiếm tỷ
trọng cao so với việc chi trả trợ cấp ốm đau thai sản, TNLĐ – BNN. Cụ thể, năm 2006, tỷ

trọng chi trả cho lương hưu là 81,8 % gấp 4,78 lần tỷ trọng chi trả cho trợ cấp ốm đau thai
sản và gấp 125,84 lần tỷ trọng chi trả trợ cấp TNLĐ – BNN. Năm 2007 tỷ trọng chi trả
BHXH cho lương hưu là 84,65 % gấp 5,7 lần tỷ trọng chi trả cho trợ cấp ốm đau thai sản
và gấp 115,95 lần tỷ trọng chi trả trợ cấp TNLĐ – BNN. Năm 2008, tỷ trọng chi trả BHXH
cho lương hưu là 85,37 % gấp 6,1 lần tỷ trọng chi trả trợ cấp ốm đau thai sản và gấp
125,54 lần tỷ trọng chi trả trợ cấp TNLĐ – BNN. Năm 2009, tỷ trọng chi trả BHXH cho
lương hưu là 86,29 % gấp 6,5 lần tỷ trọng chi trả trợ cấp ốm đau thai sản và gấp 134,82 lần
tỷ trọng chi trả trợ cấp TNLĐ – BNN. Năm 2010, tỷ trọng chi trả BHXH cho lương hưu là
86,35% gấp 6,5 lần tỷ trọng chi trả trợ cấp ốm đau thai sản và gấp 128,88 lần tỷ trọng chi
trả trợ cấp TNLĐ – BNN.
-

Chi phí cho hoạt động quản lý quỹ BHXH còn quá cao.

Thu nhập của lao động trong ngành BHXH cao hơn từ 2 đến 3 lần so với công
chức hành chính sự nghiệp. Rất nhiều ý kiến không đồng tình với việc sử dụng 3% tiền
sinh lời do đầu tư quỹ để chi phí cho công tác quản lý quĩ BHXH. Bổ sung dự toán chi
quản lý bộ máy năm 2012 của BHXH Việt Nam 696.264 triệu đồng để thực hiện Nghị định
số 31/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012/QĐ-TTg quy định mức lương tối thiểu chung và Quyết
định số 37/2012/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện thí điểm
mức chi tiền lương, thu nhập đối với ngành BHXH Việt Nam giai đoạn 2012 - 2015. Việc
quản lý và sử dụng số kinh phí bổ sung thực hiện theo quy định hiện hành.
Trước đó, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thực hiện thí điểm mức chi tiền
lương, thu nhập đối với ngành BHXH Việt Nam giai đoạn 2012 - 2015. Đối tượng thí điểm
22


mức chi tiền lương gồm công chức, viên chức và người làm việc theo chế độ hợp đồng lao
động trong các đơn vị thuộc BHXH Việt Nam; người làm việc theo chế độ hợp đồng lao
động đã được xếp lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính

phủ làm việc trong các tổ chức BHXH được thành lập theo quy định tại Khoản 1 Điều 48
Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007; công chức, viên chức và người làm việc
theo chế độ hợp đồng lao động trong các đơn vị thuộc ngành lao động được giao tổ chức
thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại Nghị định 127/2008/NĐ-CP
ngày 12/12/2008. Đồng thời, bổ sung thu nhập từ nguồn kinh phí tiết kiệm hoạt động quản
lý theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Quyết định số 04/2011/QĐ-TTg ngày 20/1/2011. Cụ
thể, đối với 3 đối tượng được thí điểm mức chi tiền lương nêu trên, mức chi bình quân toàn
ngành không vượt quá 0,2 lần so với chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên
chức do Nhà nước quy định (lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp, trừ phụ cấp
làm đêm, làm thêm giờ).
Đối tượng thí điểm mức chi bổ sung thu nhập gồm các đối tượng được thí điểm
mức chi tiền lương nêu trên; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ và
người làm việc hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân làm việc trong các
tổ chức bảo hiểm xã hội được thành lập theo quy định tại Khoản 1 Điều 48 Nghị định
68/2007/NĐ-CP. Trên cơ sở số biên chế và dự toán chi hoạt động quản lý được giao, mức
chi tiền lương đối với 3 đối tượng được thí điểm mức chi tiền lương nêu trên bằng 1,8 lần
so với chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quy định
(lương ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp, trừ phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ).
Đối với đối tượng thí điểm mức chi bổ sung thu nhập là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
hạ sĩ quan, chiến sĩ..., mức chi bình quân trong đơn vị không vượt quá 1 lần so với chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức do Nhà nước quy định (lương ngạch, bậc,
chức vụ và các khoản phụ cấp, trừ phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ).
II.1.3.

Đầu tư tăng trưởng quỹ
23


Hoạt động đầu tư trước hết giúp mang lại lợi ích cho chính quỹ BHXH. Thông
qua hoạt động đầu tư quỹ BHXH vào các lĩnh vực có khả năng sinh lời của nền kinh tế,

nguồn tài chính nhàn rỗi từ quỹ BHXH có thể tạo ra một nguồn tài chính tương đối lớn bổ
sung vào quỹ, từ đó tăng quy mô và sức mạnh cho quỹ BHXH. Mặt khác, quy mô số người
tham gia BHXH ngày càng tăng cũng tạo nên sự tăng trưởng cho quỹ, đảm bảo khả năng
chi trả thường xuyên cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH.
Đối với nền kinh tế, nguồn vốn lớn có được từ tín dụng quỹ BHXH sẽ hỗ trợ quan
trọng để đầu tư phát triển một số dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, giúp thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế đang phát triển,
nhu cầu vốn cho đầu tư không ngừng tăng nhanh thì bên cạnh việc thu hút các nguồn vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài, việc cung ứng vốn từ nền kinh tế thông qua các tụ điểm
tài chính như quỹ BHXH có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là tạo ra sự tự chủ và thế chủ động
trong việc phát triển kinh tế đất nước.
Mặt khác, thông thường Nhà nước phải hỗ trợ một phần ngân sách Nhà nước để
cân bằng thu - chi quỹ BHXH. Quỹ BHXH đầu tư hiệu quả, đem lại một nguồn tài chính
không nhỏ sẽ giúp ngân sách nhà nước giảm gánh nặng bù đắp cho quỹ BHXH.
Hiện nay, quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh vực như: mua các loại trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết kiệm ở ngân hàng,
mua kỳ phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay vốn; trực tiếp liên doanh hoặc
uỷ thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó, mua trái phiếu chính phủ và gửi
ngân hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết các nước áp dụng.
Những năm qua, hình thức đầu tư từ quỹ BHXH Việt Nam chủ yếu cho ngân sách
nhà nước (NSNN), các ngân hàng thương mại của nhà nước vay và mua trái phiếu Chính
phủ. Trong đó, hình thức đầu tư cho NSNN vay có xu hướng tăng dần và hình thức cho các
ngân hàng thương mại của nhà nước vay lại có xu hướng giảm. Ví dụ, từ năm 2008 đến
năm 2011, tỷ lệ vốn đầu tư cho NSNN vay tăng 27,08%. Riêng năm 2011 đã thực hiện cho
Thủy điện Lai Châu vay 1500 tỷ đồng.
24


Theo báo cáo của BHXH VN, trong năm 2012 đã đầu tư 199,5 tỉ đồng, thu hồi
148 tỉ đồng, tổng số dư nợ đầu tư đến cuối năm 2012 là 233.611 tỉ đồng. Tăng 52.649 tỉ

đồng (29%) so với năm 2012. Cụ thể: Mua trái phiếu chính phủ là: 42.500 tỉ đồng (18,2%);
cho ngân sách nhà nước vay: 129.000 tỉ đồng (55,2%); cho các ngân hàng thương mại của
Nhà nước, Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội vay: 58.363 tỉ
đồng (25%); cho vay đầu tư xây dựng Thủy điện Lai Châu: 3.748 tỉ đồng (1,6%). Các
khoản vay này đã có số tiền sinh lời là 18.000 tỉ đồng.
Tuy nhiên, mặc dù BHXH Việt Nam đã có sự nỗ lực trong việc đầu tư quỹ, được quản lý
một cách cẩn trọng nhưng thực tế, giá trị của quỹ đã giảm vì trong những năm qua cho
thấy, lãi suất bình quân thường thấp hơn tỷ lệ lạm phát bình quân trong năm. Lợi nhuận
đầu tư thực tế của quỹ chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong nước,
không theo kịp tốc độ tăng trưởng GDP. Ông Đặng Như Lợi (nguyên Phó chủ nhiệm UB
các vấn đề xã hội Quốc hội) dẫn chứng: “Chẳng hạn, tỷ lệ lãi đầu tư cho vay quỹ kết dư từ
năm 2007- 2010 sau khi trừ chi phí quản lý còn khoảng 5,6%- 9,7%, trong khi chỉ số giá cả
hàng tiêu dùng tăng từ 6,5%- 20%”.
Với tỷ suất sinh lời thấp như hiện nay, quỹ sẽ không được bảo toàn, không có khả năng chi
trả dài hạn trong tương lai cũng như ứng phó được với xu hướng già hóa dân số, lạm phát,
thất nghiệp,… Trong báo cáo của Chính phủ về tình hình quản lý và sử dụng Qũy BHXH
năm 2011 cũng đã dự báo cho thực trạng này: “Sau năm 2023, số thu bằng số chi. Từ năm
2024 trở đi, để đảm bảo chi chế độ hưu trí và tử tuất ngoài số thu trong năm, phải trích
thêm từ số dư của quỹ. Năm 2027, nếu không có chính sách và biện pháp tăng thu hoặc
giảm chi thì số thu BHXH trong năm và số dư tồn tích bắt đầu không đảm bảo khả năng
chi trả”.
Nguyên nhân dẫn đến mất cân đối này là do lương thấp, chênh lệch lương của NLĐ đang
làm việc và nghỉ hưu ngay từ đầu khi hoạch định chính sách BHXH dài hạn đã tính toán
25


×