Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Khóa luận Thực trạng và giải pháp về trục lợi bảo hiểm tại prudential.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.51 KB, 69 trang )

CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM
1) Khái quát về bảo hiểm
1.1) Bản chất và định nghĩa về bảo hiểm
a) Bản chất của bảo hiểm
Trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt động kinh tế con người
thường có những tai họa, tai nạn, sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra, gây ra
thiệt hại về người và tài sản. Những rủi ro như vậy có thể ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của các cá nhân hoặc tổ chức. Có nhiều cách để phòng
tránh được con người sử dụng để đối phó với rủi ro, nhưng được sử dụng
nhiều nhất, đơn giản nhất, liên quan đến nhiều ngành nhất đó là việc
chuyển nhượng rủi ro. Một cá nhân hay công ty khi tự mình không thể
chịu đựng được một hoặc nhiều rủi ro lớn, có tính chất thảm họa phải tìm
cách san sẻ bằng cách chuyển nhượng rủi ro cho các công ty khác. Khi đã
chấp nhận rủi ro, các công ty khác đó phải bồi thường những thiệt hại rủi
ro đã thỏa thuận còn người chuyển nhượng rủi ro phải trả một khoản tiền.
Thực chất của việc bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một
người hoặc một số người cho tất cả những người tham gia cùng chịu.
Trong số những người tham gia bảo hiểm, thực tế chỉ có một vài người bị
tổn thất thực sự, những người còn lại chỉ bị mất phí bảo hiểm. Từ đó
chúng ta có thể hiểu được cơ chế hoạt động của bảo hiểm dựa trên cơ sở
luật số đông. Càng có nhiều người tham gia bảo hiểm thì xác suất rủi ro
đối với từng người càng nhỏ và sự phân tán hậu quả tài chính của những
vụ tổn thất càng hiệu quả.
Tuy nhiên có những quan niệm hiện đại về bản chất của bảo hiểm
khi nền tài chính của một quốc gia phát triển cao, người ta cho rằng mối
quan hệ trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ của việc
chuyển nhượng rủi ro, giữa tổ chức bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm. Nó còn thể hiện tổng thể các mối quan hệ giữa những người tham
gia bảo hiểm trong cùng một cộng đồng bảo hiểm xoay quanh việc hình
thành và sử dụng quỹ bảo hiểm – một hình thức hoàn trả có điều kiện của
các khoản dự trữ bẳng tiền. Vì vậy mối quan hệ giữa người bảo hiểm và


người tham gia bảo hiểm còn thể hiện ở quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm.
Quỹ bảo hiểm trước hết và chủ yếu được sử dụng đề bù đắp những tổn
thất cho người tham gia bảo hiểm khi xẩy ra các rủi ro được bảo hiểm
làm ảnh hưởng đến sự liên tục của đời sống xã hội, sinh họat và họat
động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế xã hội. Quỹ bảo hiểm còn
được sử dụng trang trải các chi phí họat động của chính người bảo hiểm,
tham gia vào các mối quan hệ, mang tính pháp định ( thuế, phí, lệ phí).
Hơn thế nữa nhằm sử dụng phí bảo hiểm có hiệu quả các công ty bảo
hiểm còn đầu tư vào các dự án hiệu quả cao. Ngoài ra để hạn chế xác suất
của rủi ro có thể xảy đến, người bảo hiểm có thể đầu tư vào các dự án
khác để kiểm soát tổn thất chung qua đó giảm thiểu rủi ro của người tham
gia bảo hiểm. Cuối cùng phần lãi của người bảo hiểm cho những thành
quả trong việc điều tiết nguồn tài chính này, sau khi hoàn thành hết các
nghĩa vụ trách nhiệm với người tham gia bảo hiểm và hưởng các quyền
lợi về đầu tư đem lại.
Do vậy, “Bản chất của bảo hiểm là hệ thống quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội dưới hính thái giá
trị nhằm hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn
thất do rủi ro bất ngờ gây ra cho bên được bảo hiểm, đảm bảo cho quá
trình tái sản xuất được thường xuyên và liên tục”.
b) Định nghĩa về bảo hiểm.
Do việc hiểu bản chất của bảo hiểm trong xã hội có nhiều điểm
khác nhau vì phải phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội vì vậy hầu như
không có một định nghĩa bảo hiểm nào mang tính chuẩn tắc trong tất cả
các xã hội. Trước hết muốn định nghĩa đúng và chính xác bảo hiểm cần
hiểu rõ rủi ro trong bảo hiểm. Trong bài khóa luận này chúng ta sẽ sử
dụng định nghĩa về rủi ro như sau: “ Rủi ro là một số hình thức không
chắc chắn về hậu quả của một tình huống nhất định trong xã hội”. Thêm
vào đó cần phải hiểu rủi ro được bảo hiểm là rủi ro đã thỏa thuận trong
hợp đồng. Người bảo hiểm chỉ bồi thường những thiệt hại do những rủi ro

đã thỏa thuận gây ra.
Trong cuốn “ Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh” của GS. Ts
Hoàng Văn Châu đã định nghĩa như sau bảo hiểm : “Bảo hiểm là một sự
cam kết bồi thường của người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về
những thiệt hai, mất mát của đối tượng bảo hiểm do một rủi ro đã thỏa
thuận gây ra, với điều kiện người bảo hiểm đã thuê bảo hiểm cho đối
tượng bảo hiểm đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm”.
Đây là định nghĩa có thể chính xác đối với trường hợp kinh doanh
bảo hiểm nhưng lại không khái quát được tất cả các hoạt động của người
bảo hiểm. Tuy nhiên về cơ bản thì nó đã hình dung lên được công việc
chủ yếu của người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Một định nghĩa khác của …..: “Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó,
một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả tiền gọi là phí bảo hiểm
thực hiện mong muốn để mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường
hợp xảy ra sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi bên
khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với
toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp thống kê”.
Về mặt cách hiểu thì định nghĩa này cũng không có nhiều điểm chú
ý so với định nghĩa được xác định ở trên, có nhiều chỗ không đầy đủ
bằng.
Các định nghĩa trên hoặc quá thiên về góc độ xã hội, hoặc thiên về
góc độ kinh tế cũng như kĩ thuật và ít nhiều có sự khiếm khuyết các yếu
tố cần thiết của một định nghĩa đầy đủ. Một định nghĩa phù hợp hơn đáp
ứng được thêm khía cạnh xã hội, được tham khảo trong sách “Nguyên lí
và thực hành bảo hiểm” của tác giả Nguyến Tiến Hùng:
“Bảo hiểm là một họat động qua đó một cá nhân có quyền được
hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc người thứ ba
trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ
chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo
các phương pháp thống kê”.

Tuy nhiên khi tham khảo một số tài liệu chuyên ngành bảo hiểm có
tính chuẩn tắc cao hầu như không thấy một định nghĩa về bảo hiểm một
các rõ ràng. Chẳng hạn như trong luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam số
24 – 2000 hay như luật kinh doanh bảo hiểm số 61 – 2010 sửa đổi luật
trên cũng không hề nhắc đến định nghĩa về bảo hiểm, hầu như chúng chỉ
tập trung vào vấn đề kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên nó có rất nhiều định
nghĩa về các khái niệm có liên quan:
1. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro
của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo
hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức
và hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm.
3. Hoạt động đại lý bảo hiểm là hoạt động giới thiệu, chào bán bảo
hiểm, thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và các công việc khác
nhằm thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo uỷ quyền của doanh nghiệp bảo
hiểm.
4. Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn
cho bên mua bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức
phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các công việc liên quan đến việc
đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên
mua bảo hiểm.
5. Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo
hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo
hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
6. Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm
dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được
bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng.

7. Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ
định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người.
8. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp
dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
9. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận
hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo
hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm.
10. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng
cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thoả
thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
1.2) Các nguyên tắc cơ bản trong bảo hiểm
Hoạt động bảo hiểm được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc
cơ bản sau đây:
a) Bảo hiểm một rủi ro chứ không bảo hiểm một sự chắc chắn:
Người bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm một rủi ro tức là bảo hiểm một
sự cố, một tai nạn, xảy ra một cách bất ngờ, nhẫu nhiên, ngoài ý muốn
của con người chứ không bảo hiểm một cái chắc chắn xảy ra, đương
nhiên xảy ra, cũng như chỉ bồi thường những thiệt hại, mất mát do rủi ro
gây ra chứ không phải bồi thường cho những thiệt hại chắc chắn xảy ra,
đương nhiên xảy ra.
b) Nguyên tắc trung thực tuyệt đối
Theo nguyên tắc này, hai bên của mối quan hệ bảo hiểm người bảo
hiểm và người được bảo hiểm – phải tuyệt đối trung thực với nhau, tin
tưởng nhau, không được lừa dối nhau. Nếu một bên vi phạm thì hợp đồng
bảo hiểm trở nên không có hiệu lực. Nguyên tắc này thể hiện:
- Người bảo hiểm phải công khai tuyên bố những điều kiện,
nguyên tắc, thể lệ, giá cả bảo hiểm cho người được bảo hiểm
biết; không được nhận bảo hiểm khi biết đối tương bảo hiểm đã

đến nơi an toàn.
- Người được bảo hiểm phải khai báo chính xác các chi tiết liên
quan đến đối tượng bảo hiểm; phải thông báo kịp thời những
thay đổi về đối tượng bảo hiểm, về rủi ro, về những mối đe dọa
nguy hiểm hay làm tăng thêm rủi ro … mà mình biết được hoặc
đáng lẽ phải biết, cho người bảo hiểm, không được mua bảo
hiểm cho đối tương bảo hiểm khi biết đối tượng bảo hiểm đó đã
bị tổn thất.
c) Nguyên tắc lợi ích bảo hiểm
Theo nguyên tắc này, người được bảo hiểm muốn mua bảo hiểm
phải có lợi ích bảo hiểm. Lợi ích bảo hiểm có thể là quyền lợi đã có hoặc
sẽ có ở trong đối tượng bảo hiểm. Trong bảo hiểm hàng hải lợi ích bảo
hiểm không nhất thiết phải có khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhưng nhất
thiết phải có khi xảy ra tổn thất.
Lợi ích bảo hiểm là lợi ích hoặc quyền lợi liên quan đến, gắn liền
với hay phụ thuộc vào, sự an toàn hay không an toàn của một đối tượng
bảo hiểm. Người nào đó có lợi ích bảo hiểm ở trong một đối tượng bảo
hiểm nào đó có nghĩa là quyền lợi của người đó sẽ được đảm bảo nếu đối
tượng bảo hiểm đó an toàn và ngược lại, quyền lợi của người đó sẽ bị
phương hại nếu đối tượng bảo hiểm đó được đảm bảo nếu đối tương bảo
hiểm đó an toàn và ngược lại, quyền lợi của người người đó sẽ bị phương
hại nếu đối tương bảo hiểm đó gặp nạn. Hay nói cách khác, người có lợi
ích bảo hiểm là người bị thiệt hại về tài chính khi đối tượng bao rhiểm
gặp rủi ro. Người có lợi ích bảo hiểm thông thường là người chủ sở hưu
về đối tượng bảo hiểm đo, người chịu trách nhiệm quản lý tài sản hoặc
người nhận cầm cố tài sản. Lợi ích bảo hiểm có ý nghĩa to lớn trong bảo
hiểm. Có lợi ích bảo hiểm mới được kí kết hợp đồng bảo hiểm. Khi xảy
ra tổn thất, người được bảo hiểm đã phải có lợi ích bảo hiểm rồi mới
được bồi thường.
d) Nguyên tắc bồi thường.

Theo nguyên tắc này, khi có tổn thất xảy ra người bảo phải bối
thương như thế nào để đảm bảo cho người được bảo hiểm có vị trí tài
chính như trước khi tổn thất xảy ra, không hơn không kém. Các bên
không được lợi dụng bảo hiểm để trục lợi
e) Nguyên tắc thế quyền.
Theo nguyên tắc này, người bảo hiểm , sau khi bồi thường được
bảo hiểm, có quyền thay mặt người được bảo hiểm để đòi người thứ ba có
trách nhiệm, bồi thường cho mình. Để thực hiện được nguyên tắc, người
được bảo hiểm phải cung cấp các bằng chứng như biên bản, giấy tờ,
chứng từ, thư từ…. cần thiết cho người bảo hiểm.
1.3) Phân loại bảo hiểm
Có nhiều cách phân loại bảo hiểm dựa trên các căn cứ khác nhau
nhưng phổ biến nhất là phân loại theo cơ chế hoạt động, theo tính chất
của hoạt động, và theo đối tượng bảo hiểm.
a) Căn cứ vào cơ chế hoạt động của bảo hiểm có thể phân ra:
- Bảo hiểm xã hội: Là chế độ bảo hiểm của nhà nước, của đoàn
thể xã hội hoặc của các công ty nhằm trợ cấp các viên chức, nhà
nước, người làm công … trong trường hợp ốm đau, bệnh tật, bị
chết hoặc bị tai nạn trong khi làm việc, về hưu. Bảo hiểm xã hội
có đặc điểm: có tính chất bắt buộc; theo những luật lệ quy định
chung; không tính đến những rủi ro cụ thể, không nhằm mục
đích kinh doanh.
- Bảo hiểm thương mại: Là loại hình bảo hiểm mang tính chất
kinh doanh, kiếm lời. Loại bảo hiểm này có đặc điểm: không
bắt buộc, có tình đến từng đối tượng, từng rủi ro cụ thể; nhằm
mục đích kinh doanh.
b) Căn cứ vào tính chất của bảo hiểm:
- Bảo hiểm nhân thọ: là bảo hiểm tính mạng hoặc tuổi thọ của
con người nhằm bù đắp cho người được bảo hiểm một khoản tiền khi hết
thời hạn bảo hiểm hoặc khi người được bảo hiểm bị chết hoặc bị thương

tật toàn bộ vĩnh viễn.
- Bảo hiểm phi nhân thọ: là những hình thức bảo hiểm khác mà
không thuộc lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ.
c) Căn cứ theo đối tượng bảo hiểm:
- Bảo hiểm tài sản: Đối tượng bảo hiểm là tài sản, của tập
thể cá nhân bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ có giá… Thiệt hại được bồi
thường trong loại hình bảo hiểm này mang tính vật chất.
- Bảo hiểm trách nhiệm: đối tượng bảo hiểm trong loại hình
này là trách nhiệm dân sự của người bảo hiểm đối với người thứ ba hay
đối với sản phẩm
- Bảo hiểm con người: đối tượng bảo hiểm là con người hay
các bộ phận của cơ thể cong người hay các vấn đề có liên quan như tuổi
thọ, tính mạng, sức khỏe, tai nạn….
2) Khái quát về trục lợi bảo hiểm
2.1) Khái niệm về trục lợi bảo hiểm
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về bảo hiểm, hầu như
không có một khái niệm mang tính học thuật đề cập đến vấn đề trục lợi
bảo hiểm cả trong giáo trình nào. Tuy nhiên cụm từ “trục lợi bảo hiểm”
được nhắc rất nhiều đến trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Theo quy dịnh
tại thông tư 31/2004/TTC-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
nghị định 118 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ chức, cá nhân nhằm
thu lời bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, trả tiền bảo
hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm.”
Bên cạnh đó khái niệm này có rất nhiều sự thiếu sót và sự công
bằng trong hoạt động bảo hiểm. Đầu tiên là sự thiếu sót về hành vi trục
lợi bảo hiểm, chúng ta đều biết rằng hành vi trục lợi bảo hiểm có thể đến
từ nhiều nguyên nhân, lí do khác nhau đôi khi chỉ là hành vi vô ý do
thông tin bất cân xứng thường xuyên xảy ra, hoặc chỉ có thể là hành vi sai
sót do việc cam kết hợp đồng không rõ ràng. Tiếp theo là sự công bằng

trong việc trục lợi bảo hiểm giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm. Trên khái niệm của bộ tài chính cũng không đề cập đến trách
nhiệm của người bảo hiểm.
Trong nhiều tài liệu học thuật của các nước Anh, Mỹ thì quyền lợi
của người bảo hiểm thường được bảo vệ hơn so với người tham gia bảo
hiểm. Cụ thể là trong việc khai báo thông tin trong hợp đồng bảo hiểm
trong giáo trình “Bảo hiểm và Nguyên tắc thực hành” của TS. David
Bland thì người tham gia bảo hiểm chịu trách nhiệm hoàn toàn “All
business transactions should be undertaken in good fail. It effect that is
saying that there should be an absense of fraud or frauduienr intenrt. This
does not mean that the seller is under any duty to point out the defects in
the goods he is selling”.
Tuy nhiên theo Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam thì lại có
sự công bằng giữa người bảo hiểm và tham gia bảo hiểm trong trường
hợp kí kết và giải thích hợp đồng . Cụ thể, Tại Điểm a, Khoản 2 Điều 17
Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật KDBH) quy định: Doanh nghiệp bảo
hiểm có nghĩa vụ giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều
khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. Khoản 1 Điều
19 Luật KDBH cũng quy định: Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến
hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho
bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về tính
chính xác, trung thực của thông tin đó. Ngược lại, bên mua bảo hiểm khi
tham gia quan hệ bảo hiểm cũng phải công bố các thông tin liên quan đến
tài sản mà mình mua bảo hiểm. Theo quy định tại Điểm b, Khoản 2 Điều
18, Luật KDBH thì: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ,
trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu
của doanh nghiệp bảo hiểm”. Và để đảm bảo nguyên tắc trung thực tuyệt
đối của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bên mua bảo hiểm cũng phải
chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của những thông tin mà họ

đưa ra. Tuy nhiên, như đã trình bày, chỉ có doanh nghiệp bảo hiểm là
người biết rõ nhất sản phẩm bảo hiểm mà mình thiết kế, bao gồm những
thông tin nào là cần thiết cho việc hình thành nên quan hệ hợp đồng bảo
hiểm, do vậy, pháp luật cho phép bên mua bảo hiểm chỉ phải cung cấp
các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh
nghiệp bảo hiểm mà thôi. Như vậy, nếu việc không cung cấp thông tin từ
phía bên mua bảo hiểm là do doanh nghiệp bảo hiểm không yêu cầu, thì
doanh nghiệp bảo hiểm cũng không được áp dụng trường hợp này để đơn
phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại Khoản 2 Điều 19,
Luật KDBH về trách nhiệm cung cấp thông tin.
Một định nghĩa công bằng hơn và bao hàm hơn để tham khảo cho
bài khóa luận này được nêu ra dưới đây.
“Trục lợi bảo hiểm là các hành vi vi phạm các nguyên tắc bảo hiểm
của các chủ thể tham gia trong hợp đồng bảo hiểm nhằm giành được
những quyền lợi riêng”
2.2) Đặc điểm về trục lợi bảo hiểm
Theo định nghĩa về bảo hiểm ở phần 1, thì bảo hiểm thể hiện là
một nhánh nhỏ trong hệ thống tài chính, do vậy trục lợi bảo hiểm cũng
mang hai đặc điểm cơ bản về sự thất bại trong hệ thống tài chính do thông
tin bất cân xứng đó là lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
- Lựa chọn đối nghịch: là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo
ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra
trên các thị trường trào chính khi những người đi vay có khả
năng tạo ra một kết cục không mong muốn – tức là rủi ro không
hoàn thành trách nhiệm theo hợp đồng. Trong việc trục lợi bảo
hiểm thì lựa chọn đối nghịch được thể hiện khi mà người tham
gia bảo hiểm kê khai về đối tượng bảo hiểm một cách không
trung thực nhằm giảm phí bảo hiểm xuống mức thấp nhất, mặc
dù người bảo hiểm đã kiểm tra nhưng không đánh giá hết được
những gian lận này. Đôi khi , trong bảo hiểm điều này diễn ra

ngược lại, chẳng hạn như người tham gia bảo hiểm không có
hiểu biết về bảo hiểm nhưng lại tham gia bảo hiểm, mặc dù
không có nhu cầu rõ ràng. Tuy nhiên trong một số nước ở Anh,
Mĩ thì việc chọn lựa đối nghịch được quy định rõ là chịu trách
nhiệm của người tham gia bảo hiểm vì không ai hiểu nhu cầu
bảo hiểm hơn người tham gia bảo hiểm, mặc dù sản phẩm bảo
hiểm lại do người bảo hiểm cung cấp.
Rủi ro đạo đức: là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra
sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức trong các thị trường tài
chính xảy ra khi một trong hai bên phải chịu một rủi ro là phía đối tác có
ý muốn thực hiện những họat động không đúng mục đích của bên còn lại.
Đây là loại rủi ro phát sinh khi ý thức chủ thể tham gia họat động tài
chính bị suy thoái. Trong bảo hiểm thì rủi ro đạo đức xảy ra một cách tinh
vi hơn với sự trợ giúp của một bên liên quan nào đấy, thường là bên giám
định tổn thất bảo hiểm. Tuy vậy trong một vài trường hợp trong bảo hiểm
thì rủi ro đạo đức được chuẩn bị rất lâu trước khi kí kết hợp đồng với sự
tham gia của nhiều bên tham gia, từ nhân viên môi giới, bên giám định
tổn thất, người tham gia bảo hiểm. Vì vậy trong bảo hiểm nói riêng phải
hiểu rủi ro đạo đức là trường hợp đặc biệt hơn, xảy ra do sự tìm kiếm
những lợi ích riêng của người thiếu đạo đức.
2.3) Phân loại các hình thức về trục lợi bảo hiểm
Căn cứ để phân lọai trục lợi bảo hiểm thường được phân loại theo
các tiêu chí là: Hình thức trục lợi, đặc điểm của trục lợi và lĩnh vực trục
lợi.
a) Căn cứ vào lĩnh vực trục lợi:
- Trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Là hình thức trục lợi
bảo hiểm liên quan đến sức khỏe, tuổi thọ và tài chính của con
người. Đối tượng bảo hiểm khó có thể đánh giá tổn thất một
cách chính xác và có nhiều trường hợp đặc biệt trong hợp đồng.
Hình thức trục lợi bảo hiểm thường thường không được rõ ràng

rất khó phân xử.
- Trục lợi trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ: là tất cả các hình
thức trục lợi bảo hiểm còn lại, có một đối tượng bảo hiểm rõ
ràng, có thể đánh giá được tổn thất một cách khách quan.
b) Căn cứ vào đặc điểm trục lợi:
- Trục lợi do lựa chọn đối nghịch: là hình thức trục lợi xảy ra
trong việc kê khai trong quá trình bảo hiểm không đúng với sự
thật của các chủ thể bảo hiểm. Đôi khi những vụ trục lợi bảo
hiểm do thông tin bất đối xứng chỉ là do vô ý hoặc thiếu hiểu
biết về bảo hiểm, tuy nhiên khi sự việc xảy ra thì đây không
phải là lí do được chấp nhận.
- Trục lợi do rủi ro đạo đức: là hình thức trục lợi dựa trên sự hiểu
biết sâu sắc về chính sách bảo hiểm của công ty cũng như luật
pháp bảo hiểm và môi trường kinh doanh bảo hiểm. Trục lợi
bảo hiểm theo hình thức này thường được chuẩn bị kĩ lưỡng với
các tình tiết và kịch bản lên sẵn. Do vậy rất khó khăn để phát
hiện và xử lí triệt để.
c) Căn cứ theo hình thức trục lợi bảo hiểm:
- Trục lợi do khai tăng giá trị tổn thất: là hình thức trục lợi
phổ biến nhất, đa dạng nhất và đứng đầu trong danh sách các hình thức
trục lợi bảo hiểm, khi mà người trục lợi tận dụng những tổn thất có thật
để thổi phồng khiếu nại nhằm hưởng chênh lệch. Để thực hiện loại trục
lợi này, có thể khách hàng độc lập hoặc có bắt tay với nhân viên bảo hiểm
để tiến hành rồi sau đó “ăn chia” theo một tỷ lệ đã thỏa thuận.
- Trục lợi do mua bảo hiểm sau khi có tổn thất: Đối tượng
bảo hiểm đã bị tổn thất tức là sự kiện bảo hiểm đã xảy ra, bên mua bảo
hiểm mới đi giao kết hợp đồng bảo hiểm để được bồi thường hoặc trả tiền
bảo hiểm. Đúng ra những hợp đồng BH này vô hiệu bởi vì sự kiện BH đã
xảy ra, đối tượng BH không còn tồn tại (Điều 22, Luật Kinh doanh BH).
Trên thực tế, hầu hết những vụ TLBH này, bên được bảo hiểm chỉ có thể

lừa dối thành công khi có sự tiếp tay của một số cán bộ, nhân viên làm
việc trong công ty bảo hiểm. Hình thức gian lận TLBH này thường được
biểu hiện ra ngoài thông qua việc lập hồ sơ, hiện trường giả.
- Trục lợi do bảo hiểm trùng: là việc bên mua bảo hiểm giao
kết hợp đồng bảo hiểm với hai DNBH trở lên để bảo hiểm cho cùng một
đối tượng, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. Pháp luật không cấm
người mua bảo hiểm trùng cho tài sản bởi vì đây là quyền định đoạt của
chủ sở hữu với tài sản tức là chủ tài sản có quyền mua bảo hiểm cho tài
sản tại nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau với cùng điều kiện và sự
kiện bảo hiểm nhằm bảo vệ hợp pháp của mình đối với tài sản. Tuy
nhiên, số người mua bảo hiểm trùng vì muốn bảo vệ tài sản không nhiều
mà hầu hết ham gia nhiều hợp đồng bảo hiểm ở nhiều công ty bảo hiểm,
đại diện bảo hiểm khác nhau khi đã biết trước rủi ro khác nhau. Do đó
nếu xảy ra tổn thất cho tài sản mà rủi ro mà rủi ro gây ra tổn thất thuộc
phạm vi bảo hiểm và trong thời gian hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm, mà
các DNBH không biết bên mua bảo hiểm nên cùng trả tiền bảo hiểm dẫn
đến kết quả là bên mua bảo hiểm được bồi thường gấp nhiều lần số tiền
được bảo hiểm. Đặc biệt bảo hiểm trùng không phù hợp với bảo hiểm
nhân thọ.
- Trục lợi do cố ý gây tổn thất với đối tượng bảo hiểm: trong đó
người tiến hành trục lợi có kiến thức cao về nghiệp vụ bảo hiểm, hành vi
được chuẩn bị kỹ lưỡng, số tiền bảo hiểm thường lớn, rất khó điều tra
hoặc tìm ra được sự thật thì tốn kém nhiều công sức và tiền của. Một cách
khá phổ biến là tìm cách hủy hoại tài sản trong một hoàn cảnh được dàn
dựng. Ví dụ như cố ý đánh đắm tàu biển trong một tình huống được tạo ra
rất “hợp lý” (thời tiết xấu, hỏng máy, cố ý đâm va…). Tất nhiên là người
trục lợi nắm vững mọi điều khoản điện kiện của hợp đồng bảo hiểm để
chắc chắn rủi ro không nằm trong rủi ro bị loại trừ để không bị từ chối bồi
thường.
- Trục lợi do khai ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm trước thời hạn

hợp đồng: Hợp đồng bảo hiểm phải có thời hạn bảo hiểm, có nghĩa
DNBH phải có trách nhiệm nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra trong một
khoảng thời gian nào đó. Vậy nên để đưa những tổn thất xảy ra bên ngoài
thời hạn bảo hiểm vào thời hạn được bảo hiểm, nhiều khách hàng đã tự ý
hoặc liên kết với các bên cơ quan chức năng để ghi lùi ngày hoặc đẩy
ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm
- Trục lợi do lập hồ sơ giả: bằng cách sử dụng những thông tin
chính thống của bệnh nhân hoặc ăn trộm thông tin nhận diện để làm giả
hoàn toàn một bộ hồ sơ khiếu nại hoặc tiếp tay cho các khiếu nại với chi
phí cho các thủ tục và dịch vụ không hề xuất hiện. Hình thức trục lợi này
là một trong những hình thức nghiêm trọng song lại phổ biến nhất và tinh
vi nhất bởi những người thực hiện rất am hiểu nghiệp vụ và quy trình thủ
tục đòi quyền lợi bảo hiểm.
3) Khái quát về bảo hiểm nhân thọ.
3.1) Khái niệm về bảo hiểm nhân thọ
Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng có nhiều khái niệm
về bảo hiểm nhân hạn. Chẳng hạn trong luật kinh doanh bảo hiểm số 24 –
2000 , điều 3 khoản 12 có quy định về bảo hiểm như thọ như sau: “Bảo
hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo
hiểm sống hoặc chết”.
Trong cuốn giáo trình “Nguyên lí và thực hành bảo hiểm nhân thọ”
của tác giả Nguyễn Tiến Hùng định nghĩa về bảo hiểm nhân thọ như sau:
Bảo hiểm nhân thọ là một nghiệp vụ qua đó để nhận được phí bảo
hiểm của người tham gia bảo hiểm ( kí kết hợp đồng), người bảo hiểm cam
kết sẽ trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền nhất
định (trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong) hoặc trả người
được bảo hiểm khi họ sống đến một thời điểm đã được ghi rõ trên hợp
đồng.
Tuy nhiên dù diễn đạt theo cách nào về bảo hiểm nhân thọ thì vẫn
có thể hiểu bảo hiểm nhân thọ một cách đơn giản là bảo hiểm cho trường

hợp sống hoặc chết của một người nào đó thông qua một cam kết phụ
thuộc vào tuổi thọ hoặc sức khỏe của từng người.
3.2) Đặc điểm về bảo hiểm nhân thọ
Qua khái niệm trên chúng ta có thể hiểu được mục đích của hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong khi tất cả các loại bảo hiểm phi nhân thọ
có một mục đích là nhằm bồi thường cho những hậu quả của một sự cố
thì bảo hiểm nhân thọ có thể có rất nhiều mục đích khác nhau. Từng loại
hợp đồng bảo hiểm nhân thọ sẽ đáp ứng một nhu cầu nhất định. Chẳng
hạn hợp đồng bảo hiểm hưu trí lập ra một khoản tiền lương hưu cho
người được bảo hiểm; hợp đồng bảo hiểm tử vong sẽ giúp người được
bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền bảo hiểm trong trường hợp người
được bảo hiểm đi vay vốn, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một tài sản thế
chấp trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết.
Thêm vào đó chúng ta phải biết mối quan hệ giữa người kí kết hợp
đồng, những người được bảo hiểm và những người thụ hưởng là mối
quan hệ phức tạp. Đối với hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ nhằm chống
lại các hậu quả của một biến cố bất lợi, người ta biết khá rõ người thụ
hưởng bảo hiểm. Chẳng hạn nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp của một sự
cố. Nhưng đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, điều này hoàn toàn
không phải là như vậy. Trong các bảo hiểm trong trường hợp tử vong,
người thụ hưởng bảo hiểm không phải là nạn nhân của biến cố. Người
được bảo hiểm chết song người thụ hưởng bảo hiểm là những người thân
thuộc có mối quan hệ gần gũi với người được bảo hiểm, ví dụ như vợ
chồng, con cái, của người bảo hiểm. Điều này làm hạn chế sự tự do của
người được bảo hiểm. Người được bảo hiểm không phải lúc nào cũng tự
do thay đổi người thụ hưởng. Ngoài ra chưa kể đến tính chất của hợp
đồng bảo hiểm này, đôi khi dẫn tới những vụ án hình sự về các hành động
phạm tội của người thụ hưởng.
Phí bảo hiểm nhân thọ chịu sự tác động kết hợp của hai yếu tố “
tuổi thọ con người” và “ tài chính”. Xem xét yếu tố phí trong bảo hiểm

nhân thọ phụ thuộc vào bảng tỉ lệ tử vong và yếu tố tài chính. Do bảo
hiểm trong thời gian dài thường từ 5 năm trở lên, nên yếu tố tử vong đóng
vai trò quan trọng trong định phí bảo hiểm. Ngoài ra, do phí thu được
trong thời kì dài nên nhà bảo hiểm còn đầu tư khoản phí thu được đây
cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến mức phí bảo hiểm.
Bảo hiểm nhân thọ cho phép bảo hiểm trong cũng một hợp đồng
bảo hiểm cho hai sự kiện trái ngược nhau, đó là sự kiện “tử vong” và sự
kiện “ sống”. Bảo hiển cho hai trường hợp trái ngược nhau là trường hợp
duy nhất trong bảo hiểm. Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, người ta chỉ có
thể bảo hiểm cho hậu quả của các sự kiện được bảo hiểm chứ không bảo
hiểm cho việc nó không xảy ra. Ví dụ người ta bảo hiểm “cháy nhà” chứ
không bảo hiểm “ không cháy nhà”. Trái lại trong bảo hiểm nhân thọ
người ta có thể bảo hiểm: - Hoặc xảy ra của một biến cố tử vong (ví dụ,
nhà bảo hiểm trả một số tiền cho người thụ hưởng trong cùng trường hợp
người được bảo hiểm chết). Đó là hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp tử
vong.
- hoặc, không xảy ra của chính sự cố “tử vong” người bảo hiểm sẽ
trả tiền cho người được bảo hiểm khi anh ta còn sống đến hết hạn hợp
đồng. Đó là hợp đồng tbảo hiểm trong trường hợp sống
- Hoặc , đồng thời bảo hiểm cho cả hai sự kiện: tử vong và không
tử vong. Đó là các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp cho phép anh ta
lập ra một khoản tiền trợ cấp nếu còn sống sót đến hết hạn hợp đồng.
3.3) Phân loại các dạng bảo hiểm nhân thọ
a) Các loại bảo hiểm chính:
Theo các điều 3, điều 7, luật kinh doanh bảo hiểm số 24 – 2000 và
luật kinh doanh bảo hiểm số 61 – 2010 sửa đổi của luật kinh doanh bảo
hiểm số 24 – 2010 thì nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gồm có các loại hình
bảo hiểm sau đây: Bảo hiểm trọn đời; Bảo hiểm sinh kỳ; Bảo hiểm tử kỳ;
Bảo hiểm hỗn hợp; Bảo hiểm trả tiền định kỳ; Bảo hiểm liên kết đầu tư;
Bảo hiểm hưu trí; Trong đó việc giải thích từ ngữ được thể hiện như sau:

- Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được
bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo
hiểm.
- Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được
bảo hiểm chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh
kỳ và bảo hiểm tử kỳ.
- Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của
người đó.
- Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp
người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó
doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ
hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm hưu trí là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người
được bảo hiểm đạt đến độ tuổi xác định được doanh nghiệp bảo hiểm trả
tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm sức khoẻ là loại hình bảo hiểm cho trường hợp
người được bảo hiểm bị thương tật, tai nạn, ốm đau, bệnh tật hoặc
chăm sóc sức khỏe được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo
thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
- Bảo hiểm liên kết đầu tư hay có tên gọi bảo hiểm nhóm là hình
thức hợp đồng bảo hiểm đã được cung cấp tại các công ty bảo hiểm
nhân thọ ở Việt Nam từ lâu, nhưng hiện tại chưa có một định nghĩa rõ
ràng trong văn bản luật.
b) Các loại điều kiện bảo hiểm đặc biệt và bổ sung:

- Bảo hiểm nhân thọ và việc duy trì sức mua đồng tiền: Quy
định này nhằm thỏa mãn tâm lý người tham gia bảo hiểm muốn đảm bảo
sức mua đồng tiền (chống lạm phát, mất giá trị đồng tiền) trong khoảng
thời gian hợp đồng có hiệu lực. Để giải quyết vấn đề này, trong hợp đồng
có thể bổ sung quy định về việc số tiền bảo hiểm tăng lên tương ứng với
tỷ lệ mất giá của đồng tiền.
- Duy trì sự công bằng trung thực giữa người bảo hiểm và
người được bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: Trong suốt
qua trình thực hiện hợp đồng, việc thiết lập và duy trì sự công bằng trung
thực giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm hoặc người được
bảo hiểm hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là hết sức quan
trọng. Trong thực tế, mỗi đối tượng trên đều tự hiểu rõ nhất về điều kiện
kinh tế, tài chính và sức khỏe của mình, nhưng đối tác có thể không biết.
Chính lí do này, cần có biện pháp đề đảm bảo hợp đồng được ký kết và
thực hiện công băng, trung thưc, không có các trường hợp trục lợi xảy ra.
Để giải quyết vấn đề này, người ta có thể áp dụng hai biện pháp. Một là
định phí bảo hiểm cho những rủi ro trầm trọng tăng thêm. Theo đó, người
tham gia bảo hiểm sẽ phải đóng một khoản phí bảo hiểm cao hơn bình
thường nếu người được bảo hiểm có tình trạng sức khỏe, hoặc điều kiện
làm việc, hoặc thói quen sinh hoạt, … ẩn chứa nguy cơ cao hơn bình
thường . Hai là người bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp thông tin một cách
chính xác và đầy đủ cho bên ký kết hợp đồng bảo hiểm. Bên mua bảo
hiểm phải cung cấp thông tin đấy đủ và hợp lí vào thời điểm đàm phám,
ký kết hợp đồng và suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng.
- Hoàn phí bảo hiểm: là đảm bảo hoàn lại một phần phí
bảo hiểm trong trường hợp không phát sinh rủi ro bảo hiểm. Điều này chỉ
là một sự dự kiến đưa vào hợp đồng mang tính chủ quan, chứ không tạo
ra từ một sự chắc chắn của việc thanh toán. Một số hợp đồng bảo hiểm
của Việt Nam cũng đã áp dụng điều khoản hoàn phí bảo hiểm.
- Miễn thanh toán phí bảo hiểm: Một số hợp đồng bảo

hiểm nhân thọ có đưa ra điều khoản về miễn thanh toán phí bảo hiểm bắt
đầu từ một số ngày sau khi một sự kiện nào đó xảy ra. Quy định này có
thể được đưa vào hợp đồng, có thể được bổ sung dưới dạng một sửa đổi
bổ sung (hoặc điều khoản riêng), kèm theo hợp đồng.
- Bảo hiểm trong trường hợp thương tật vĩnh viễn: là
trường hợp người bảo hiểm bị bảo hiểm bị thương tật vĩnh viễn do sự cố
thuộc phạm vi bảo hiểm, người bảo hiểm có thể trả một khoản tiền cho
người được bảo hiểm đó. Đôi khi, điều khoản này được đi kèm với điều
khoản miễn thanh toán phí bảo hiểm.
- Tăng số tiền bảo hiểm tử vong trong trường hợp tai nạn:
là trường hợp một số hợp đồng bảo hiểm, nhất là hợp đồng hỗn hợp và
hợp đồng tử kì có bổ sung quy định về số tiền giải quyết quyền lợi tăng
lợi tăng lên nếu người được bảo hiểm qua đời do nguyên nhân tai nạn
được bảo hiểm.
- Hoàn trả chi phí điều trị: là trường hợp để tăng tiện ích
cho loại bảo hiểm nhân thọ, vài hợp đồng, ngoài đưa thêm các bảo đảm
trên, còn dự kiến mở rộng phạm vi bằng điều khoản hoàn trả chi phí điều
trị cho người được bảo hiểm.
3.4) Tổng quan thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam năm 2010
a) Số lượng hợp đồng bảo hiểm
Tổng số hợp đồng bảo hiểm khai thác mới toàn năm 2010 đạt 822.946
hợp đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2009. Tổng số hợp đồng bảo
hiểm hết hiệu lực trong năm là 634.865 hợp đồng, tăng 16% so với năm
2009. Tỉ trọng số lượng hợp đồng khai thác mới như sau: 39,9% sản
phẩm hỗn hợp, 32,4% sản phẩm tử kỳ, 26,5% sản phẩm đầu tư, các sản
phẩm còn lại chiếm 1%.
Tổng số hợp đồng có hiệu lực đến cuối kì đạt 4.2941.040 hợp đồng, tăng
5%. Các doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều hợp đồng bảo hiểm tính theo
sản phẩm chính bao gồm Prudential 1.808.442 hợp đồng, Bảo Việt
1.372.778 hợp đồng và Manulife 342.660 hợp đồng. Cơ cấu tổng số

lượng hợp đồng theo loại nghiệp vụ như sau: 76,1% sản phẩm hỗn hợp,
12,1% sản phẩm tử kỳ, 9,8% sản phẩm đầu tư, các sản phẩm còn lại
chiếm 2%. Với nỗ lực đa dạng hóa sản phẩm cung cấp ra thị trường của
các doanh nghiệp bảo hiểm, cơ cấu sản phẩm đã và đang dịch chuyển dần
sang các nhóm sản phẩm khác thay vì tập trung vào nhóm sản phẩm hỗn
hợp như trước kia.
b. Số tiền bảo hiểm
Tổng mức trách nhiệm mà các DNBH Nhân thọ đang nắm giữ là 367.348
tỉ đồng, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước, trong đó mức trách nhiệm
của các sản phẩm chính đạt 254.076 tỉ đồng, tăng 34,6%; mức trách
nhiệm của các sản phẩm phụ đạt 113.272 tỉ đồng, tăng 22%.
Các doanh nghiệp có tổng mức trách nhiệm cao trên thị trường bảo hiểm
là Prudential 119.785 tỉ đồng, Bảo Việt 76.407 tỉ đồng và ACE Life
53.851 tỉ đồng.
c. Doanh thu phí bảo hiểm
Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường nhân thọ năm 2010 đạt
13.792 tỉ đồng, tăng 16,5%. Dẫn đầu là Prudential 5.374 tỉ đồng, Bảo
Việt 4.023 tỉ đồng, Manulife 1.460 tỉ đồng.
Tương ứng với tỉ trọng số lượng hợp đồng bảo hiểm lớn, phí bảo
hiểm sản phẩm hỗn hợp vẫn chiếm tỉ trọng cao trong tổng số phí bảo
hiểm. Cơ cấu tổng doanh thu phí theo loại hình nghiệp vụ như sau: 75,9%
sản phẩm hỗn hợp, 16,5% sản phẩm đầu tư, các sản phẩm còn lại chiếm
7,6%. Mặc dù vẫn chiếm tỉ trọng cao trong tổng doanh thu phí của toàn
thị trường song tỉ trọng phí của sản phẩm hỗn hợp đã giảm hơn so với
cùng kỳ năm trước cùng với đó là sự vươn lên mạnh mẽ của sản phẩm
đầu tư.
Doanh thu phí bảo hiểm khai thác mới đạt 3.743 tỉ đồng, tăng 28%,
trong đó dẫn đầu về phí bao gồm Prudential 1.158 tỉ đồng, Bảo Việt 826
tỉ đồng và ACE life 439 tỉ đồng.
Doanh thu phí bảo hiểm tái tục 10.049 tỉ đồng, tăng 11,3% so với

cùng kỳ năm ngoái.
d) Trả tiền bảo hiểm
Năm 2010, tổng số trả tiền bảo hiểm đạt 4.718 tỉ đồng, tăng 15,4%
so với năm 2009.
Chi trả quyền lợi bảo hiểm là 2.801 tỉ đồng, tăng 10,8%, trong đó
Bảo Việt 1.175 tỉ đồng, Prudential 1.053 tỉ đồng, Manulife 473 tỉ đồng.
Chi trả giá trị hoàn lại là 1.396 tỉ đồng, tăng 10,9% so với năm
2009.
e. Số lượng đại lý
Số lượng đại lý bảo hiểm (cá nhân kinh doanh) tính đến cuối kì là
162.423 người tăng 32%, trong đó Prudential 82.539 người, Bảo Việt
19.999 và AIA 15.294 người.
Số lượng đại lý mới tuyển dụng trong năm là 108.092 người, tăng
48%, trong đó Prudential 40.727 người, AIA 15.514 người và Dai-ichi
Life 11.883 người.
Hiện nay, với sự phát triển của mô hình tổng đại lý, trong đó tổng
đại lý được chủ động trong quản lý chi phí và tuyển dụng đại lý bảo hiểm
nên việc tăng nhanh số lượng đại lý cá nhân so với năm 2009 là tất yếu.
f. Năng lực tài chính
Vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp bảo hiểm đạt 10.602 tỉ đồng,
trong đó Bảo Việt là 1.528 tỉ đồng, Prudential 1.136 tỉ đồng. Tổng số vốn
điều lệ là 9.993 tỉ đồng, trong đó, Bảo Việt là 1.500 tỉ đồng và Dai-ichi
Life 1.141 tỉ đồng.
g. Đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Tổng số tiền đầu tư của bảo hiểm nhân thọ là 54.506 tỉ đồng, tăng
14,5% so với 2009, trong đó đáng kể nhất là Prudential với 19.492 tỉ
đồng, Bảo Việt Nhân thọ đạt 18.376 tỉ đồng và Manulife 5.477 tỉ đồng.
Đóng góp ngân sách từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và đầu
tư trong năm 2009 của các DNBH Nhân thọ đạt 724 tỉ đồng.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM TẠI

PRUDENTIAL.
1.Giới thiệu về công ty bảo hiểm Prudential
1.1)Lịch sử hình thành và thành tựu của Prudential
a) Lịch sử hình thành
Prudential hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, là một trong những
tên tuổi chủ chốt của việc cung cấp các chế độ hưu trí xã hội của Anh ở
các mặt trợ cấp cho người cao tuổi, bảo hiểm nhân thọ, đầu tư và trái
phiếu.
Trong lĩnh vực hoạt động của mình, Prudential có rất nhiều đối thủ lớn
như Standard Life, Aviva, HBOS Group, Lloyd TSB, Legal & General,
AEGON, AXA, ZFS và Abbey. (Theo nguồn Datamonitor, 2003.)
Prudential có đến hơn 150 năm tuổi đời. Vào năm 1848, Prudential được
thành lập dưới tên Prudential Mutual Assurance Invesment and Loan
Association tại Hatton Garden, London, Anh quốc, cung cấp các khoản
vay và bảo hiểm nhân thọ cho giới trí thức tư sản.
Sau đó 6 năm, chế độ bảo hiểm nhân thọ cho công nhân ra đời. Tiếp theo
đó vào năm 1856, Prudential đi đầu trong việc đề ra các chính sách bảo
hiểm cho trẻ em dưới 10 tuổi.
Những năm tiếp theo đó là hàng loạt những bước cải tiến đáng ghi nhận
của Prudential. 1871, Prudential là công ty đầu tiên tại London thuên nữ
nhân viên văn phòng, cùng trong năm này là sự ứng dụng của máy tính,
giúp tiết kiệm thời gian trong việc xử lý những hợp đồng và con số tính
toán đang càng ngày càng tăng nhanh.
Cuối những năm 1870, Prudential chuyển địa điềm sang Holborn Bars,
một khu liên hợp văn phòng do Alfred Waterhouse thiết kế. Toà nhà này
nhanh chóng trở thành một địa danh nổi tiếng và cho đến ngày nay vẫn
còn giữ một vị trí trong danh mục tài sản của Prudential.
Sau khi chuyển văn phòng, Prudential tiếp tục phát triển và cho đến năm
1900, hơn 1/3 dân số Anh tham gia chế độ bảo hiểm của Prudential. Tài
sản ngày nay của Prudential lên đến 40 triệu Bảng, khẳng định vị trí vững

vàng của tên tuổi Prudential.
Khi đạo luật Bảo hiểm quốc gia được ban hành, Prudential nhanh chóng
hợp tác với chính phủ trong việc xây dựng Approved Societies, cung cấp
chế độ phúc lợi cho khoảng 5 triệu người dân bị bệnh hoặc thất nghiệp.
Vào đầu thập niên 20, chi nhánh nước ngoài đầu tiên của Prudential được
mở tại Ấn Độ và hợp đồng đầu tiên được bán cho một chủ đồn điền trà tại
Assam. Thời điểm này, cổ phiếu của Prudential cũng tăng vọt trên sàn
giao dịch chứng khoáng London song song với sự ra đời của Group
Pensions, đựơc thiết kế dựa trên kế hoạch lương hưu dành riêng cho các
nhân viên của Prudential.
Một phát triển quan trọng trong việc chuẩn hoá thương hiệu Prudential
được tiến hành năm 1986 với hình ảnh Prudence, vị thần cẩn trọng màu
đỏ thắm và là biểu tượng của sự thống nhất và bảo đảm trong các dịch vụ
Prudential từ năm 1848, được cải tiến lại để theo kịp thời đại và trở thành
tâm điểm cho một hệ thống nhận diện mới của tập đoàn.
Tầm hoạt động của Prudential ngày càng được mở rộng. Đáng chú ý là
sự kiện Prudential mua lại Amicable Life của Scotland để củng cố sức
mạnh của mình tại thị trường IFA. Năm kế tiếp Egg đựơc thành lập như
một công ty dịch vụ tài chính online và ngày càng lớn mạnh hơn.
Năm 1999, Prudential mua lại M&G và năm sau đó Prudential plc được
cổ phần hoá trên Thị trường chứng khoán New York.
Năm 2000, Prudential nghiên cứu quan điểm của khách hàng vể dịch vụ
tài chính và bắt đầu chiến dịch “The Plan from the Pru” tại Anh. Một
chiến dịch quảng cáo mới mô tả tầm quan trọng của việc hoạch định tài

×