Tải bản đầy đủ (.pdf) (213 trang)

Biện chứng giữa kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 213 trang )

-0-NH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------------------------------

ĐOÀN THẾ HÙNG

BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
VỚI ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : CNDVBC & CNDVLS
Mã số : 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN QUANG ĐIỂN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008


-1-

MỤC LỤC

trang

Mở đầu

1



1. Lý do nghiên cứu đề tài....................................................................

1

2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu..................................................

3

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án.................

6

4. Phương pháp nghiên cứu của luận án...............................................

7

5. Đóng góp mới của luận án...............................................................

8

6. Kết cấu của luận án.........................................................................

8

7. Ý nghóa của luận án.........................................................................

8

Chương 1 : Cơ sở của sự tồn tại nền kinh tế thò trường

đònh hướng xã hội Chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay............

10

1.1. Kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện
nay - những khái niệm, thuật ngữ cơ bản .................................

10

1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự tồn tại nền kinh tế thò trường
đònh hướng xã hội chủ nghóa ở việt nam hiện nay................

Chương 2 : Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa kinh tế thò
trường và đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam……………

25
70

2.1. Đặc trưng, bản chất của kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa ở Việt Nam hiện nay..........................................................

70

2.2. Sự mâu thuẫn giữa kinh tế thò trường và đònh hướng xã hội chủ
nghóa ở ViệtNam...........................................................................

78

2.3. Sự thống nhất giữa kinh tế thò trường và đònh hướng chủ nghóa
xã hội ở Việt Nam......................................................................


Chương 3 : Những nguyên tắc và giải pháp cơ bản để
phát triển nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ

105


-2-

nghóa ở việt nam hiện nay..................................................... 121
3.1. Những nguyên tắc phương pháp luận để hoàn thiện và phát triển
kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện
nay……………………………………………………………………………………………………………………….

122

3.2. Những giải pháp cơ bản để hoàn thiện và phát triển nền kinh tế
thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện
nay...................................................................................
3.2.1 Những giải pháp nhằm giải quyết sự phân hóa giàu - nghèo

139

trong phát triển kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt
Nam hiện nay .......................................................................................

139

3.2.2. Biện chứng giữa kinh tế thò trường với đònh hướng xã hội
chủ nghóa thực chất là gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công

bằng xã hội...............................................................................
3.2.3. Phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong nền kinh tế thò

148

trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ..................................................

157

Kết luận.................................................................................
Các công trình tác giả đã công bố.......................................
Phụ lục...................................................................................
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................

185
192
193
201


-1-

MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Kinh tế thò trường với chủ nghóa xã hội không những là một trong
những vấn đề lớn, là điểm then chốt trong đổi mới tư duy lý luận về chủ
nghóa xã hội, mà còn có ý nghóa thực tiễn rất quan trọng đối với sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế
kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang thể chế kinh tế thò

trường đònh hướng xã hội chủ nghóa.
Trong thời kỳ đổi mới, tư duy về kinh tế thò trường đã trải qua một
quá trình hình thành và phát triển.
Nếu ở Đại hội VI khẳng đònh sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng
hóa - tiền tệ dưới chủ nghóa xã hội, thì đến Đại hội VII và VIII đã khẳng
đònh cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước theo đònh hướng xã hội
chủ nghóa.
Đến Đại hội IX, một bước tiến trong nhận thức của Đảng là xác đònh
phát triển nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa và coi đó là
mô hình tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội X làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của việc tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa.
ðường lối đổi mới của ðảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp
luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội
chủ nghóa hình thành và phát triển. Chế độ sở hữu và cơ cấu các thành
phần kinh tế được đổi mới cơ bản từ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể là chủ yếu sang nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế đan xen hỗn hợp, trong đó kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo, tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho khai thác tiềm


-2-

năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội. Các loại thò
trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước,
gắn với thò trường khu vực và thế giới.
Cơ chế thò trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống,
doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành
mạnh để phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp
trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh

chuyển sang quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các công cụ điều tiết vó mô khác. Việc
gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm
nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa còn chậm, chưa theo kòp yêu cầu của công cuộc đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Thực tế ấy có nguyên nhân do việc
xây dựng nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta là
hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lòch sử. Nhận thức về kinh tế thò
trường đònh hướng xã hội chủ nghóa và thể chế kinh tế thò trường đònh
hướng xã hội chủ nghóa còn nhiều hạn chế. Lý luận về kinh tế thò trường
đònh hướng xã hội chủ nghóa chưa theo kòp đòi hỏi của thực tiễn trong nước
cũng như thế giới.
Vì vậy, cần tiếp tục khái quát kinh nghiệm thực tiễn, phát triển lý luận
về kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa. Từ đó hoàn thiện thể
chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa phù hợp với những
nguyên tắc cơ bản của kinh tế thò trường nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ
vững đònh hướng xã hội chủ nghóa, thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghóa.


-3-

2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Từ khi thừa nhận phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thò trường, có sự quản lý của nhà nước theo đònh hướng
xã hội chủ nghóa đến nay, vấn đề về kinh tế thò trường đònh hướng xã hội
chủ nghóa ở Việt Nam được nhận thức từ nhiều góc độ khác nhau, đã có

nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo khoa học bàn về vấn đề
này. “Chủ nghóa xã hội và kinh tế thò trường. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Kinh nghiệm của Việt Nam” đó là chủ đề của cuộc hội thảo giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 2004 [35].
Cũng vào năm này, Tạp chí Lý luận Chính trò đã tổ chức hội thảo khoa học
tại Học viện Chính trò quốc gia Hồ Chí Minh với chủ đề: ''Xây dựng thể chế
kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn''. Nhiều ý kiến sâu sắc đã được thể hiện trong các tham
luận. Khẳng đònh việc lựa chọn kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa ở Việt Nam là hợp với quy luật khách quan được trình bày trong các
tham luận của GS.TS. Chu Văn Cấp, GS.TS. Hồ Văn Vónh, GS.TS.
Nguyễn Cúc. Theo GS.TS. Chu Văn Cấp, nói tới chế độ kinh tế, người ta
nói tới quan hệ sản xuất đang chiếm đòa vò thống trò trong xã hội chẳng hạn
như chế độ kinh tế tư bản chủ nghóa, chế độ kinh tế xã hội chủ nghóa [6].
Kinh tế thò trường là trình độ phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thò
trường ra đời và phát triển khi thò trường phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và
các quan hệ thò trường phát triển tương đối hoàn thiện, với bốn đặc trưng
chung, phổ biến là: tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh theo pháp luật; thò
trường là một trong những cơ sở để phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của xã hội; cạnh tranh là môi trường và động lực phát triển kinh
tế; các chủ thể tham gia thò trường hướng vào việc tối đa hóa lợi nhuận [6].
Theo GS. Chu Văn Cấp, thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ


-4-

nghóa là loại hình thể chế kinh tế trong đó có sự thống nhất biện chứng
giữa cái chung là kinh tế thò trường với cái đặc thù làø đònh hướng xã hội
chủ nghóa.
Vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thò trường đònh hướng

xã hội chủ nghóa ở Việt Nam được tác giả Trần Thò Minh Châu đề cập
trong bài viết “Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt Nam” trên tạp chí Cộng sản. Trong cuốn "Đặc trưng
của nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam" [3]
GS.TS. Vũ Đình Bách khẳng đònh: Học thuyết mácxít về các hình thái kinh
tế - xã hội vẫn là cơ sở nhận thức tiến hóa của xã hội loài người; đònh
hướng xã hội chủ nghóa là xu hướng phát triển chung cho mọi quốc gia,
mọi hệ thống kinh tế trong thời đại ngày nay và nên gọi mô hình kinh tế
thò trường của Việt Nam hiện nay là mô hình kinh tế thò trường đònh hướng
xã hội chủ nghóa Việt Nam.
Trong cuốn sách “Phân phối trong nền kinh tế thò trường đònh hướng
xã hội chủ nghóa” [79], tập thể tác giả đã làm rõ một số vấn đề về phân
phối trong học thuyết kinh tế, trình bày các vấn đề về tăng trưởng kinh tế
và công bằng xã hội, về mô hình phân phối trong hệ thống kinh tế và kinh
nghiệm của một số nước trong hoạch đònh và thực hiện chính sách phân
phối. Đồng thời, các tác giả cũng đề xuất mô hình và các giải pháp phân
phối trong điều kiện kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt
Nam.
Nghiên cứu vấn đề sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở nước ta, Nhà
xuất bản Chính trò quốc gia xuất bản cuốn sách “Sở hữu tư nhân và kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt
Nam” [108] của tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Thanh Tuyền chủ biên.
Các tác giả khẳng đònh rằng, sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nền


-5-

kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng
góp của kinh tế tư nhân. Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần
quan trọng trong việc huy động các nguồn lực của xã hội vào sản xuất,

kinh doanh, tạo thêm việc làm, tăng thu cho ngân sách nhà nước, cải thiện
đời sống nhân dân, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dòch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
GS.TS. Lê Hữu Nghóa có nêu lên các giải pháp cơ bản [76],[77] nhằm tiếp
tục đổi mới tư duy lý luận trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thò trường xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay.
Bàn về hệ thống kinh tế dành cho các nước đang phát triển, Winfried
Jung và nhiều tác giả có đề cập mô hình kinh tế thò trường xã hội. Tập hợp
những bài viết về nội dung này được biên tập thành cuốc sách: Kinh tế thò
trường xã hội – Hệ thống kinh tế dành cho các nước đang phát triển.
Khi nhấn mạnh tới sự tác động của bộ ba yếu tố kinh tế thò trường, nhà
nước và xã hội công dân, GS.TS Trần Ngọc Hiên, cho rằng : “Sự ra đời
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự là kết quả tất yếu do nghiên cứu
phát triển của kinh tế thò trường. đâu có kinh tế thò trường thì ở đó phải
có Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Ba bộ phận đó cấu thành hệ
thống của một thể chế kinh tế chính trò, mà sự hoàn thiện của hệ thống thể
chế hoàn toàn chỉ dựa vào sự liên hệ tương tác với nhau giữa ba bộ phận.
Đó chính là quá trình phát triển chế độ dân chủ. Không hình thành hệ
thống với ba bộ phận và không có quy chế liên hệ tương tác thì thể chế
kinh tế chính trò chỉ dừng lại ở mong muốn chủ quan, kinh tế thò trường sẽ
trở nên hoang dại. Thể chế Nhà nước sẽ sa vào quan liêu, tham nhũng
nặng nề” [28]


-6-

Kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam là vấn đề
lớn. Về mặt lý luận và thực tiễn của mô hình kinh tế thò trường đònh hướng
xã hội chủ nghóa chúng ta đã có những thành tựu đáng trân trọng. Tuy vậy,
nền kinh tế nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế: quy mô nhỏ, vốn ít, công

nghệ sản xuất chưa hiện đại, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, còn nhiều
vướng mắc về nhận thức và lúng túng về thực tiễn do nhiều vấn đề lý luận
về kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa vẫn chưa được làm sáng
tỏ về mặt lý luận. Đặc biệt, chưa làm rõ biện chứng giữa nền kinh tế thò
trường với đònh hướng xã hội chủ nghóa là cơ sở phương pháp luận cho việc
từng bước hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay. Vì thế chúng tôi lựa chọn “biện chứng
giữa kinh tế thò trường với đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện
nay” làm đối tượng nghiên cứu của Luận án.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa
kinh tế thò trường với đònh hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta – đây là mối
quan hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa lónh vực kinh tế và lónh vực chính trò
– xã hội, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với đảm bảo công bằng, tiến bộ
xã hội và ổn đònh, phát triển chế độ chính trò, tất cả vì mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
3.2. Nhiệm vụ của luận án
Để thực hiện mục đích đó, luận án đặt ra nhiệm vụ:
- Nghiên cứu về kinh tế thò trường nói chung, những điều kiện hoạt
động, tính quy luật và nguyên tắc vận hành của nó. Từ cái phổ biến đó,
nghiên cứu cái đặc thù của kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa
ở Việt Nam, tìm hiểu những đặc trưng của nó.
- Nghiên cứu về những nguyên tắc, yêu cầu của đònh hướng xã hội


-7-

chủ nghóa, đặc biệt trong lónh vực xã hội – chính trò.
- Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế thò trường và đònh

hướng xã hội chủ nghóa.
- Đề xuất kiến nghò và những giảp pháp có tính chất nguyên tắc để
hoàn thiện thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt
Nam hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay
là một vấn đề rộng lớn. Tiếp cận nó là nhiệm vụ của nhiều ngành, nhiều
lónh vực khoa học. Luận án chỉ tiếp cận xem xét vấn đề từ phương diện
của triết học: Biện chứng giữa kinh tế thò trường với đònh hướng xã hội chủ
nghóa ở Việt Nam hiện nay, làm rõ hơn nữa những nội dung của đònh hướng
xã hội chủ nghóa, thực trạng và những giải pháp có tính thực tiễn nhằm
hoàn thiện và phát triển nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa
ở Việt Nam hiện nay.
Luận án lấy thực tiễn Việt Nam hiện nay là đối tượng nghiên cứu,
trong phạm vi cần so sánh, có đề cập đến những đặc điểm của kinh tế thò
trường hiện đại trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế thế giới mà Việt Nam
đang chủ động và tích cực hội nhập. Luận án cũng tham khảo kinh nghiệm
của Trung Quốc trong quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường xã hội chủ
nghóa.
Những số liệu thống kê mà luận án sử dụng giới hạn trong khoảng
thời gian từ tháng 2 năm 2008 trở về trước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích và giải quyết nhiệm vụ trên, luận án sử
dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghóa duy vật biện chứng và chủ
nghóa duy vật lòch sử là phương pháp luận của việc triển khai luận án.


-8-

Đồng thời, luận án có sử dụng các phương pháp cụ thể khác như :

Phân tích và tổng hợp; so sánh, khái quát hóa, tổng hợp hóa; phương pháp
lôgíc và lòch sử. Việc thu thập và xử lý thông tin được thực hiện thông qua
phương pháp nghiên cứu lý thuyết nhằm làm rõ một số khái niệm, phạm
trù có liên quan và nghiên cứu tư liệu; phương pháp so sánh để thấy được
nét tương đồng và dò biệt giữa các mô hình kinh tế thò trường trên thế giới
với kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam; phương
pháp lấy ý kiến của các chuyên gia để tập hợp và đánh giá công trình
trước khi báo cáo khoa học.
5. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, thể hiện biện chứng giữa kinh tế thò trường với đònh hướng
xã hội chủ nghóa dưới góc độ triết học.
Thứ hai, làm sáng tỏ nội dung đònh hướng xã hội chủ nghóa; đặc
trưng bản chất của kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt
Nam hiện nay; mâu thuẫn, sự thống nhất giữa kinh tế thò trường và đònh
hướng xã hội chủ nghóa.
Thứ ba, đề xuất những kiến nghò và giải pháp có tính nguyên tắc
nhằm phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội
chủ nghóa ở Việt Nam hiện nay. Gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết
công bằng xã hội; giải quyết tình trạng phân tầng xã hội, phân hóa giàu –
nghèo; Vận hành hiệu quả bộ ba: kinh tế thò trường, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghóa và xã hội dân sự.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài mở đầu và kết luận, danh mục công trình công bố của tác giả,
phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có ba chương, 7 tiết.
7. Ý nghóa của luận án
Ý nghóa lý luận và thực tiễn của công trình này là cung cấp cho các


-9-


nhà nghiên cứu, các chuyên gia hoạch đònh chính sách kinh tế - xã hội và
bạn đọc những thông tin tham khảo cần thiết. Kết quả nghiên cứu của đề
tài này sẽ góp thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch đònh các chính sách
kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước; luận án cũng có thể làm tài liệu
tham khảo cho các đồng nghiệp khi giảng dạy các môn khoa học Mác Lênin và lý luận chính trò.


-10-

Chương 1
CƠ SỞ CỦA SỰ TỒN TẠI NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam
hiện nay - những khái niệm, thuật ngữ cơ bản
Luận giải về tính tất yếu của nền kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt Nam đòi hỏi chúng ta làm rõ các khái niệm, thuật ngữ
trong kinh tế thò trường và kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ở
Việt Nam hiện nay.
1.1.1. Khái niệm sở hữu, sản xuất hàng hóa, kinh tế hàng hóa,
thành phần kinh tế và kinh tế nhiều thành phần
Quan hệ giữa người với người trong sản xuất dựa trên các hình thức
sở hữu về tư liệu sản xuất từ đó tạo ra cơ sở vật chất khách quan của sự
phân công lao động xã hội. Lao động sản xuất hàng hóa có tính chất hai
mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể sản xuất ra
giá trò sử dụng của hàng hóa mang tính chất tư nhân. Bởi vì sản xuất cái gì,
sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai là do từng người sản xuất tự quyết
đònh. Nhưng giá trò sử dụng của hàng hóa lại là giá trò sử dụng cho người
khác, tức là giá trò sử dụng xã hội. Muốn lấy được tiền trong túi những
người chủ tiền thì giá trò sử dụng phải đáp ứng nhu cầu và thò hiếu của họ,
nên lao động tư nhân này phải là một khâu của lao động tổng thể, là một

khâu của hệ thống phân công lao động xã hội. Mặt khác, mỗi loại lao động
tư nhân, có ích và đặc thù này có thể trao đổi với bất kỳ loại lao động tư
nhân, có ích và đặc thù khác, do đó, được coi là ngang với thứ lao động tư
nhân đó. Sự ngang giá ấy chỉ có thể thấy được khi ta quy các lao động tư
nhân, cụ thể đó thành tính chất chung của chúng là sự tiêu phí sức lao động
của con người, này lào động trừu tượng của con người. Bởi vậy, lao động


-11-

trừu tượng mang tính chất xã hội.
Như vậy, không chỉ những cá nhân hay đơn vò sản xuất dựa trên chế
độ sở hữu tư nhân, mà cả những doanh nghiệp dựa trên chế độ sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất, nếu tự chủ về kinh tế và độc lập, không phụ
thuộc vào nhau, thì sản phẩm của họ cũng phải đối diện với nhau như là
hàng hóa.
Để làm rõ sản xuất hàng hóa - cơ sở cho ta hiểu được kinh tế thò
trường và các thuật ngữ liên quan khác - chúng tôi tiếp cận xem xét các
khái niệm: sở hữu, chế độ sở hữu...
Cụm từ “sở hữu” có thể được hiểu theo chia tách nó ra thành các
thành tố. " Sở " là chỉ nơi chốn, đòa điểm hay sự vật, hiện tượng đó đang
nằm ở đâu. " Hữu " nghóa là : có, thuộc về ai. Vậy, " sở hữu " là của cải vật
chất đó thuộc về ai, nằm ở đâu. Dưới góc độ là quan hệ sở hữu, theo nhà
kinh tế học Lốc Cơ, cái mà con người lấy được từ vật phẩm do thiên nhiên
tạo nên và cung cấp cho anh ta, thì anh ta đã đem nhập làm một với lao
động của mình, đem nhập với một cái gì thuộc của anh ta, không thể tách
rời ra được. Và do đó anh ta đã biến cái ấy thành sở hữu của mình. Theo
nghóa đó, sở hữu là mối quan hệ giữa người và người đối với việc chiếm hữu
của cải vật chất. Sở hữu không chỉ là tiền đề, là điều kiện mà còn là kết
quả của quá trình sản xuất. Trong toàn bộ quan hệ sở hữu về của cải nói

chung, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất và giữ vai trò
quyết đònh quá trình sản xuất. Bởi vì, khi tư liệu sản xuất trong tay ai thì
người đó trực tiếp tổ chức quá trình quản lý sản xuất và trực tiếp chi phối
sản phẩm.
Cách nói “hình thức sở hữu” hoặc “chế độ sở hữu” có nội dung giống
nhau, nghóa là đều muốn nói cái cốt lõi : ai làm chủ tư liệu sản xuất. Tuy
nhiên, khi cần thiết thì cụm từ “chế độ sở hữu” được sử dụng để chỉ hình


-12-

thức sở hữu phổ biến, thống trò trong xã hội, còn cụm từ “hình thức sở
hữu” dùng để chỉ hình thức biểu hiện cụ thể của chế độ sở hữu.
Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là chế độ quy đònh quan hệ cơ bản
nhất giữa người với người. Chế độ sở hữu được hình thành khi mỗi người
đều biết rõ những tư liệu sản xuất mà mình được hoặc không được quyền
sở hữu, đồng thời tôn trọng quyền sở hữu của những người khác.
Chế độ sở hữu có hai loại là chế độ tư hữu và chế độ công hữu. Trong
mỗi chế độ sở hữu rất khái quát đó lại bao gồm các chế độ sở hữu cụ thể
hoặc có thể gọi là các hình thức sở hữu cụ thể. Hình thức sở hữu thể hiện
đặc điểm quan trọng và cơ bản của một kiểu quan hệ giữa người và người
trong việc nắm giữ tư liệu sản xuất hay của cải vật chất. Hình thức sở hữu
tư liệu sản xuất phản ánh đặc trưng của một kiểu quan hệ sản xuất. Lòch sử
xã hội loài người đã chứng kiến sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội
khác nhau ứng với sự thay thế các chế độ và hình thức sở hữu khác nhau.
Chế độ sở hữu bao gồm các quyền cụ thể gắn với lợi ích kinh tế,
trong đó có các quyền cơ bản là quyền sở hữu pháp lý, quyền chiếm hữu
thực tế và quyền sử dụng. Trong sản xuất hàng hóa nhỏ, có thể những
quyền nói trên thuộc về cùng một chủ thể (người tiểu nông, thợ thủ công
hay người làm dòch vụ cá thể). Nhưng xu hướng chung là quyền chiếm hữu

thực tế và quyền sử dụng ngày càng tách rời quyền sở hữu pháp lý.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó có những
người sản xuất ra sản phẩm không phải để tiêu dùng cho mình mà để bán
ra trên thò trường.
Sản xuất hàng hóa khác với kinh tế tự cấp, tự túc, do sự phát triển của
phân công lao động xã hội làm cho sản xuất được chuyên môn hóa ngày
càng cao, thò trường ngày càng mở rộng, mối liên hệ giữa các ngành, các
vùng ngày càng chặt chẽ. Sản xuất hàng hóa càng phát triển thì nó càng


-13-

xóa bỏ tính bảo thủ, trì trệ của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình xã hội hóa
sản xuất. Mục đích của sản xuất hàng hóa là để thoả mãn nhu cầu của
người khác, của thò trường .
Xem xét sản xuất hàng hóa có thể thích ứng với cả chế độ tư hữu và
chế độ công hữu khi xét về quyền sở hữu pháp lý đối với tư liệu sản xuất
dưới góc độ của triết học biện chứng duy vật, thì cách mà chủ thể người
trong sản xuất hàng hóa tồn tại được là hướng đến vì sự tồn tại của người
khác, vì xã hội. Tuỳ theo quan hệ này được thực hiện đến đâu thì cá nhân
của người sản xuất được nâng lên một cách tương ứng đến đấy. Chính mức
độ cạnh tranh gay gắt đã làm cho mỗi chủ thể tham gia vào sản xuất hàng
hóa phải thực sự năng động trong sản xuất, kinh doanh, thường xuyên cải
tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, qua
đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngoài ra, sự giao lưu về mặt
kinh tế, văn hóa, chính trò … giữa các đòa phương cũng như trên toàn thế
giới trong sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa tạo ra những điều kiện để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của chủ thể trong sản xuất hàng
hóa, của nhân dân lao động.
Sự tác động biện chứng giữa các hình thức sở hữu cụ thể là nhân tố

quyết đònh sự hình thành phức hợp của các kiểu giải quyết lợi ích kinh tế
giữa người với người qua đó tạo nên nền tảng kinh tế của xã hội là nền
kinh tế với nhiều tổ chức kinh tế, hình thức kinh tế. Thành phần kinh tế là
thuật ngữ được dòch từ thuật ngữ tiếng Nga “Êkônômitreski Uklad”. Thuật
ngữ “Êkônômitreski Uklad” được V.I. Lênin sử dụng để chỉ kết cấu của
nền kinh tế nước Nga trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghóa xã hội. Nó
bao gồm các “mảnh” các “bộ phận” khác nhau. Sau Cách mạng tháng
Mười, V.I. Lênin chỉ ra kết cấu kinh tế xã hội nước Nga lúc bấy giờ có
năm bộ phận sau :


-14-

a. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, phần lớn có tính chất tự nhiên;
b. Kinh tế hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nông dân bán
lúa mì);
c. Chủ nghóa tư bản tư nhân;
d. Chủ nghóa tư bản Nhà nước;
e. Chủ nghóa xã hội.
Như vậy, các thành phần kinh tế (Êkônômitreski Uklad) được phân
chia dựa trên sự phân chia các hình thức sở hữu, các kiểu quan hệ sản xuất,
tương ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của sản xuất hàng
hóa. V.I. Lênin chia nền kinh tế nước Nga thành năm thành phần kinh tế là
dựa trên sự khác biệt về kinh tế mà không bao hàm sự phân biệt về chính
trò.
Từ các góc độ xem xét khác nhau, nhất là từ yêu cầu tổ chức thực
tiễn, có thể có nhiều cách phân chia các bộ phận của nền kinh tế quốc dân.
Chẳng hạn, có sự phân chia nền kinh tế quốc dân theo ngành (công
nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp và dòch vụ …), hoặc phân chia nền
kinh tế quốc dân theo các vùng (vùng đồng bằng sông Hồng, vùng trung du

và miền núi Bắc Bộ, vùng duyên hải Trung Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng
Đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long). Lại có cách phân chia
các bộ phận của nền kinh tế quốc dân theo hình thức sở hữu, mà chúng ta
thường gọi là các thành phần kinh tế.
Vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin, của Hồ Chí Minh, từ Đại hội
Đảng lần thứ IV đến Đại hội X, trong các văn kiện của Đảng đều chia nền
kinh tế nước ta ra thành các “mảnh” các “bộ phận” khác nhau và thuật
ngữ dùng để chỉ các “mảnh” các “bộ phận” của nền kinh tế gọi là “thành
phần kinh tế”. Việc phân chia các thành phần kinh tế một cách cụ thể,
giúp cho việc hoạch đòch chính sách cụ thể, đầy đủ, sát đúng với mỗi thành


-15-

phần và toàn bộ nền kinh tế .
Thành phần kinh tế là kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức
sở hữu nhất đònh về tư liệu sản xuất.
Những thành phần kinh tế tác động biện chứng với nhau tạo nên cơ
cấu kinh tế trong đó thành phần kinh tế được hình thành từ quan hệ sản
xuất thống trò giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế.
Sự tác động qua lại của các thành phần kinh tế trên cơ sở thực tế mà
các thành phần kinh tế đang tồn tại tạo thành cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là khái niệm phản ánh quan hệ tỷ lệ về lượng và mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận cấu thành của nền
kinh tế.
Nó được xem xét nhiều góc độ :
Về nội dung cơ cấu kinh tế được xem xét dưới ba góc độ chủ yếu cấu
thành nền kinh tế :
- Cơ cấu các ngành kinh tế và mối quan hệ tương tác giữa các ngành
kinh tế ;

- Cơ cấu các vùng kinh tế và mối quan hệ tương tác giữa các vùng
kinh tế ;
- Cơ cấu các thành phần kinh tế và mối quan hệ tương tác giữa các
thành phần kinh tế .
Về các yếu tố của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế được xem xét theo
nhiều góc độ : cơ cấu lao động, cơ cấu nguồn đầu tư, cơ cấu đất đai, cơ cấu
thu – chi ngân sách …
Về phạm vi, cơ cấu kinh tế được xem xét ở các cấp độ : cơ cấu kinh
tế của quốc gia, của một vùng lãnh thổ, một đòa phương (tỉnh, thành phố,
quận, huyện), của một ngành, một lónh vực...
Cơ cấu kinh tế là vấn đề có tính lòch sử và không ngừng biến đổi. Sự


-16-

hình thành và biến đổi của cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào trình phát triển
của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế và các thành phần kinh tế, vào các
điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế và xã hội của quốc gia, của các vùng,
các đòa phương ở từng thời kỳ. Đặc biệt là, Nhà nước với chức năng quản
lý kinh tế vó mô có vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành và biến
đổi của cơ cấu kinh tế .
Phương thức tồn tại của một cơ cấu kinh tế là cơ chế kinh tế. Vậy cơ
chế kinh tế là gì ?
Trong kỹ thuật cơ chế là thuật ngữ được dùng để chỉ một kết cấu chặt
chẽ về mặt tổ chức gồm nhiều bộ phận khác nhau và những quy trình, quy
tắc để vận hành toàn bộ kết cấu ấy nhằm đạt tới một mục tiêu nhất đònh.
Cũng có thể nói một cách đơn giản hơn : cơ chế là hình thái tồn tại của sự
vật đang vận động, là mắt xích trong quy trình vận động của sự vật. Trong
lónh vực kinh tế “cơ chế kinh tế” là thuật ngữ phản ánh tổng thể các yếu tố
có mối quan hệ chế ước và tác động qua lại lẫn nhau giữa các bộ phận cấu

thành của hệ thống kinh tế, tạo thành động lực điều tiết dẫn dắt nền kinh tế
phát triển. Cơ chế kinh tế là thuật ngữ được sử dụng tương đối phổ biến.
Lợi ích kinh tế là cơ chế tác động của các quy luật kinh tế, cạnh tranh là cơ
chế vận động của thò trường, và thò trường là cơ chế của kinh tế hàng hóa …
Cơ chế kinh tế được xem xét với những cấp độ khác nhau :
- Cơ chế kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thuộc cấp độ này là cơ chế chung điều tiết toàn bộ các hoạt động
trong nền kinh tế như : cơ chế tự cấp tự túc, cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
cơ chế thò trường …
- Cơ chế kinh tế điều tiết riêng biệt từng bộ phận, từng yếu tố, từng
lónh vực của nền kinh tế như : cơ chế điều tiết phân phối thu nhập, cơ chế
lãi suất, cơ chế cạnh tranh, cơ chế cung cầu …


-17-

Sự phân biệt cấp độ trên đây chỉ là tương đối. Cơ chế kinh tế nào
cũng quan trọng, một mặt nó có tính khách quan, mặt khác lại được con
người nắm lấy để vận hành nền kinh tế, khi ấy thường được gọi là cơ chế
vận hành. Nói cơ chế vận hành hoặc nói cơ chế quản lý kinh tế thì về đại
thể là giống nhau. Một cơ chế vận hành đúng là sự thống nhất giữa nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan, có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển,
ngược lại nếu cơ chế vận hành bất hợp lý sẽ làm thui chột và mất đi các
động lực phát triển kinh tế .
Cần phân biệt cơ chế kinh tế với thể chế kinh tế. Trong Văn kiện Đại
hội IX, thể chế kinh tế được sử dụng với nghóa rộng và nghóa hẹp. Theo
nghóa rộng thì thể chế kinh tế nói về một chế độ kinh tế, một kiểu loại kinh
tế, như nói thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa. Theo
nghóa hẹp thì cụm từ “thể chế kinh tế” muốn nói đến hệ thống những văn
bản pháp luật quy đònh về kinh tế .

Chuyển dòch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi các quan hệ tỷ lệ về
lượng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh
tế.
Ngày nay sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi vùng,
mỗi đòa phương đều không tách rời vai trò chủ động và sự điều tiết của
Nhà nước. Nhà nước với chức năng quản lý kinh tế vó mô, luôn chủ động
xác đònh phương hướng, mục tiêu chuyển dòch cơ cấu kinh tế và tạo các
điều kiện, thực hiện các biện pháp thích hợp để thúc đẩy cơ cấu kinh tế
chuyển dòch theo hướng tích cực, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế
xã hội trong từng thời kỳ.
Kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thò trường phát triển đến
trạng thái hoàn chỉnh với những nhân tố cốt lõi của nó sẽ tạo ra nền kinh
tế thò trường mà trong đó thò trường là một yếu tố cơ bản có chức năng điều


-18-

chỉnh nền kinh tế, điều chỉnh sản xuất. Vì thế, chúng ta cần tiếp tục làm rõ
các nội dung: thò trường, kinh tế thò trường và cơ chế thò trường.
1.1.2. Khái niệm thò trường, kinh tế thò trường, cơ chế thò trường
Thò trường là lónh vực trao đổi hàng hóa, đồng thời là một trong
những hình thức biểu hiện quan hệ sản xuất của những người sản xuất
hàng hóa, nên thò trường có thể mang bản chất xã hội - kinh tế khác nhau,
phụ thuộc vào tính chất của quan hệ sản xuất, trước hết vào chế độ sở hữu
thống trò trong từng chế độ xã hội cụ thể.
Kinh tế thò trường (thực chất là tên gọi của kinh tế hàng hóa phát
triển cao) là thể thống nhất của các quan hệ kinh tế dựa vào thò trường để
vận động và phát triển.
Như vậy, kinh tế thò trường hay kinh tế tiền tệ là phương thức kinh tế
đối lập với kinh tế tự nhiên, trong đó các sản phẩm xã hội được trao đổi

thông qua vật trung gian là tiền tệ. Nó là một hệ thống kinh tế tồn tại
khách quan trên một trình độ phát triển tương ứng của lực lượng sản xuất
và trở thành một bộ phận quan trọng của quan hệ sản xuất tương ứng. Nó
không phải là một kiểu tổ chức kinh tế do con người tạo ra bằng ý chí chủ
quan của mình, mà hình thành một cách khách quan.
Cơ cấu kinh tế thò trường là tổng thể các thành phần kinh tế cùng
tồn tại trong môi trường chung là thò trường theo nguyên tắc hợp tác và
cạnh tranh.
Do thành phần kinh tế tồn tại ở những tổ chức kinh tế nhất đònh những đơn vò, tổ chức pháp nhân có thực mà ở đó các thành phần kinh tế
được thực hiện - nên có thể nói nền kinh tế thò trường là một thể chế kinh
tế mà trong đó những tổ chức, đơn vò pháp nhân qui đònh lẫn nhau, tác
động qua lại và chuyển hóa cho nhau trong thò trường chung để thúc đẩy
nền kinh tế phát triển.


-19-

Cơ chế thò trường, hay cơ chế kinh tế thò trường không đồng nhất với
kinh tế thò trường. Cơ chế kinh tế thò trường hay cơ chế thò trường là guồng
máy vận hành của nền kinh tế thò trường. Cơ chế thò trường tuy phụ thuộc
vào tính chất và yêu cầu khách quan của kinh tế thò trường, song nó bò chi
phối bởi yếu tố chủ quan, do con người thiết lập trên cơ sở nắm bắt các
quy luật phát triển khách quan. Nó phản ánh sự vận dụng của con người
bằng việc tổ chức ra guồng máy kinh tế "tự do" hay có điều tiết của nhà
nước theo yêu cầu vận động khách quan của nền kinh tế thò trường trong
các giai đoạn phát triển khác nhau. Cơ chế thò trường vận động có sự tham
gia của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật nhất là quan hệ cung - cầu và giá cả.
Bản chất sâu xa của cơ chế thò trường là cơ chế vận hành theo sự chi phối
của quy luật giá trò. Tuy vậy, trong một nền kinh tế hàng hóa cụ thể, sự
vận động chung còn tuỳ thuộc vào chế độ sở hữu thống trò, chòu sự tác

động qua lại với các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ
đạo, hơn nữa còn chòu sự chi phối của quy luật kinh tế chủ đạo trong
phương thức sản xuất đó.
Như vậy, cơ chế thò trường là cơ chế điều chỉnh các cân đối của nền
kinh tế theo yêu cầu của các quy luật giá trò, qui luật cung - cầu, giá cả
cạnh tranh, lưu thông tiền tệ, là guồng máy để vận hành nền kinh tế hàng
hóa phát triển với dấu hiệu đặc trưng là cơ chế hình thành giá cả tự do.
Kinh tế thò trường thực thể kinh tế lấy thò trường là căn cứ để xây dựng và
kiểm tra các kế hoạch kinh tế. Song thò trường với tính tự phát của nó tất
yếu dẫn tới phải có một sự kết hợp giữa thò trường với sự quản lý có kế
hoạch từ chủ thể sản xuất, kinh doanh cũng như chủ thể quản lý ở tầm vó
mô của nền kinh tế. Chỉ như vậy mới giải quyết được những mặt tiêu cực
của cơ chế thò trường đẻ ra như : sự mất cân đối của cơ cấu kinh tế; khủng
hoảng kinh tế chu kỳ; thất nghiệp; phân cực giàu nghèo quá mức; tâm lý


-20-

sùng bái đồng tiền và chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm; làm cạn kiệt tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường sinh thái .
1.1.3. Khái niệm đònh hướng xã hội chủ nghóa và kinh tế thò trường
đònh hướng xã hội chủ nghóa
Có những nhà nghiên cứu cho rằng : Trong nền kinh tế thò trường đònh
hướng xã hội chủ nghóa của Việt Nam thì kinh tế thò trường là cái phổ biến
toàn thế giới, với những nét tương đồng giữa kinh tế kinh tế Việt Nam với
mọi nền kinh tế thò trường khác, và đònh hướng xã hội chủ nghóa là cái đặc
thù Việt Nam theo theo cách hiểu về chủ nghóa xã hội của Việt Nam .
Ngược lại, có những nhà nghiên cứu cho rằng : Kinh tế thò trường Việt
Nam có đònh hướng xã hội chủ nghóa, cũng như đònh hướng xã hội chủ
nghóa về kinh tế của Việt Nam có kinh tế thò trường, về lý luận và thực

tiễn đều không thể tách riêng kinh tế thò trường và đònh hướng xã hội chủ
nghóa.
Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Quang, vào những năm 60 của thế kỷ XX
từ giác độ chính trò, thuật ngữ “đònh hướng xã hội chủ nghóa” dùng để chỉ
các nước thuộc khu vực các nước thế giới thứ ba phát triển theo đònh hướng
xã hội chủ nghóa như: Môdămbích, Êtiôpia, Ănggôla...Đây là những nước
vừa thoát khỏi chế độ thực dân cũ đang lựa chọn con đường phát triển phi
tư bản chủ nghóa nhưng chưa bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghóa xã hội.
Đại hội lần thứ VI và VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục
khẳng đònh, mục tiêu của cách mạng nước ta là xây dựng chủ nghóa xã hội.
Theo mục tiêu đó, sự nghiệp đổi mới mà chúng ta thực hiện không phải từ
bỏ mục tiêu mà là tìm ra phương thức, con đường đúng đắn hơn, có hiệu
quả hơn để đi đến mục tiêu. Trên nguyên tắc đổi mới toàn diện, trong lónh
vực kinh tế, chúng ta đẩy mạnh quá trình chuyển nền kinh tế tập trung,
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động


-21-

theo cơ chế thò trường. Trong quá trình này những thành tựu đạt được của
đời sống kinh tế- xã hội ở nước ta là rất lớn, nhưng thực tiễn phát triển cho
thấy những yếu tố tiêu cực, trái với mục tiêu chủ nghóa xã hội đã nảy sinh
không chỉ trên lónh vực kinh tế mà còn ở các lónh vực tư tưởng, đạo đức, lối
sống....Trong bối cảnh đó ở nước ta xuất hiện thuật ngữ “đònh hướng xã hội
chủ nghóa” và “giữ vững đònh hướng xã hội chủ nghóa”.
Theo Văn kiện Hội nghò Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII,
“đònh hướng xã hội chủ nghóa” có nghóa là phấn đấu thực hiện 6 đặc trưng
của chủ nghóa xã hội mà Đại hội VII thông qua. Trong Văn kiện có viết : “
Đại hội VII đã nêu lên sáu đặc trưng của chủ nghóa xã hội mà nhân dân ta
xây dựng. Đại hội cũng đã chỉ rõ bảy phương hướng cơ bản để từng bước

thực hiện trong thực tế các đặc trưng ấy. Đó chính là đònh hướng xã hội
chủ nghóa mà các Hội nghò Trung ương (khóa VII) đã cụ thể hóa để chỉ
đạo thực hiện” [91,tr.23-24].
Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổng kết thành tựu thực
tiễn và kết quả nghiên cứu lý luận, đã xác đònh rằng nền kinh tế thò trường
đònh hướng xã hội chủ nghóa là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam,
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghóa xã hội và vạch rõ những đặc trưng
của nền kinh tế ấy, tóm tắt như sau :
1. Mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cân bằng dân chủ, văn
minh”.
2. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.
3. Xây dựng quan hệ sản xuất có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền kinh tế vững chắc.
4. Phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng
thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác bỏ vào hoạt


-22-

động sản xuất kinh doanh thông qua phúc lợi xã hội.
5. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội, cân bằng xã hội và
giữ gìn môi trường.
6. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục.
7. Nhà nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý thoả đáng nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa.
Theo chủ trương gồm 7 điểm trên đây, nền kinh tế thò trường đònh
hướng xã hội chủ nghóa của Việt Nam không chỉ được quyết đònh do những
nhân tố kinh tế đơn thuần, mà do sự hợp lực một tổng thể các nhân tố kinh

tế – chính trò – văn hóa - xã hội – môi trường.
Việc Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt
là Việt Nam trở thành một thành viên của WTO, những cơ hội và thách
thức mới, những lợi ích và nghóa vụ mới, những quyền hạn và cam kết mới,
nói chung là thuận lợi cho công cuộc đổi mới của Việt Nam, đang thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa.
Tháng 4 năm 2006, Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
nhận và khẳng đònh một lần nữa 7 điểm về mục tiêu và 8 đặc trưng của
chủ nghĩa xã hội chủ nghóa ở Việt Nam là:
1. Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Do nhân dân làm chủ.
3. Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
4. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.


×