Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

Đạo cao đài hiện nay và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người việt vùng đông nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 184 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo không chỉ có gốc rễ trong xã hội và nhận thức của con người,
mà nó còn là nhu cầu tâm linh của các tầng lớp, cộng đồng dân cư. Ảnh hưởng
của tôn giáo có tác động rất lớn đến sự tồn tại hoặc suy vong quyền lực của các
thể chế chính trò nhất đònh. Bởi thế, trong xã hội có đối kháng giai cấp, bất kỳ
Nhà nước nào cũng quan tâm đến tín ngưỡng tôn giáo và các hoạt động tôn giáo
chí ít là trong phạm vi đất nước mình. Vì lợi ích cụ thể của mỗi Nhà nước, mỗi
thế lực cầm quyền mà tôn giáo được sử dụng theo những phương thức và thủ
đoạn khác nhau. Các Nhà nước của giai cấp bốc lột đã sử dụng tôn giáo vào mục
đích cai trò, xâm lược, ru ngủ quần chúng tín đồ, dập tắt sự đấu tranh của họ,
phục vụ cho lợi ích chính trò của mình. Các Nhà nước Xã hội Chủ nghóa với cách
nhìn nhận khách quan và khoa học về tôn giáo luôn phấn đấu để loại bỏ yếu tố
chính trò, phản động trong tôn giáo, vạch ra những điểm tương đồng, phù hợp
giữa tôn giáo và Chủ nghóa Xã hội, đưa tôn giáo hội nhập vào sự phát triển của
Quốc gia, dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản
Việt Nam chỉ rõ: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài, tín ngưỡng tôn giáo là
nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới [42,128].
Việt Nam là nước có nhiều tôn giáo, các tôn giáo ở Việt Nam có khả
năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần và có ý nghóa nhất
đònh về giáo dục ý thức cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống của một bộ
phận nhân dân. Nhưng trong lòch sử, các tôn giáo ở Việt Nam cũng đã từng bò
các thế lực thù đòch, xâm lược, các tập đoàn chính trò phản động lợi dụng, sử
dụng vào mưu đồ chính trò. Cao Đài là một trong hai tôn giáo do người Việt Nam


2



sáng lập, ra đời vào những năm 30 của thế kỷ XX, khi Thực dân Pháp đang đô
hộ, xâm lược nước ta nên cũng không tránh khỏi quy luật đó. Trong lòch sử, Đạo
Cao Đài vừa mang tính chất đạo, vừa mang tính chất tôn giáo, vừa mang tính
chất văn hóa và màu sắc chính trò. Vì vậy, nó là một tôn giáo không thuần nhất
và có những biến đổi phức tạp. Song, bản thân Đạo Cao Đài vẫn còn những chức
năng xã hội cần thiết mà những nhân tố và tổ chức xã hội khác không thể thay
thế được. Chính vì vậy, Đạo Cao Đài còn tồn tại và sẽ tồn tại lâu dài trong xã
hội chúng ta. Hiện tại, Đạo Cao Đài có mặt ở 34 tỉnh, thành phố với khoảng 2,5
triệu tín đồ, hàng ngàn chức sắc, chức việc, hàng ngàn nơi thờ tự và cơ sở tôn
giáo.
Trong xu thế đổi mới của đất nước, việc nghiên cứu đánh giá thực trạng
của các tôn giáo ở Việt Nam và xây dựng chính sách tôn giáo đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về tôn giáo trở thành căn cứ luận khoa học cho các chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua. Riêng Đạo Cao Đài, cho đến
nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng
hầu như các công trình nghiên cứu còn mang tính riêng lẻ, chưa toàn diện, sâu
sắc về những vấn đề có tính quy luật của Đạo Cao Đài, từ lòch sử hình thành
cũng như khuynh hướng phát triển của nó đến việc xác đònh thực trạng và mức
độ ảnh hưởng của Đạo Cao Đài đến đời sống văn hóa tinh thần của một bộ phận
nhân dân, chưa được đầu tư nghiên cứu, nhất là sau hơn 30 năm giải phóng Miền
Nam, mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng thay đổi. Đặc biệt, đất nước đang
bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập
vào xu thế toàn cầu hóa, bản thân Đạo Cao Đài có những thay đổi nhất đònh cả
về nội dung lẫn hình thức. Trong khoảng thời gian gần 30 năm tự điều chỉnh, các
yếu tố phi tôn giáo của Đạo Cao Đài đã bò loại bỏ, Cao Đài hiện nay đã trở


3


thành một tôn giáo thuần túy. Song, trong quá trình biến đổi bản thân Đạo Cao
Đài vẫn còn nhiều phức tạp, đó là những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu. Đồng
thời trong các hệ phái của Đạo Cao Đài, Cao Đài Tây Ninh là một phái lớn nhất,
có các hoạt động tôn giáo và chính trò phức tạp nhất, để lại trong nhận thức và
đánh giá khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu Đạo Cao Đài nói chung, phái Cao Đài
Tây Ninh nói riêng dưới góc độ triết học, làm rõ diện mạo của Đạo Cao Đài
hiện nay và ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân
vùng Đông Nam Bộ để góp phần xác lập cơ sở khoa học, nhằm phát triển và
hoàn thiện chính sách tôn giáo của Đảng là việc làm cần thiết và hữu ích.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài: “Đạo Cao
Đài hiện nay và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hoá, tinh thần của cộng
đồng người Việt vùng Đông Nam Bộ” làm luận án Tiến só khoa học triết học
của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đạo Cao Đài chính thức ra đời năm 1926, từ một hiện tượng tín ngưỡng
mang màu sắc chính trò, Đạo Cao Đài phát triển thành một tôn giáo và tồn tại
cho đến ngày nay. Quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của Đạo Cao Đài ảnh
hưởng rất lớn đến đời sống chính trò , văn hoá, xã hội và tư tưởng của một bộ
phận nhân dân ở nước ta. Chính vì vậy, từ lâu Đạo Cao Đài là đề tài được nhiều
nhà nghiên cứu trong nước và ngoài nước, trong Đạo và ngoài Đạo quan tâm.
Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Đạo Cao Đài dưới góc độ
lòch sử, tư tưởng, chính trò, xã hội được công bố. Song, các tác giả tiếp cận Đạo
Cao Đài ở nhiều góc độ khác nhau, với những quan điểm khác nhau, nên việc lý
giải, đánh giá về sự ra đời và những hoạt động của Đạo Cao Đài cũng khác
nhau. Có thể phân thành một số nhóm nghiên cứu như sau:


4


Nhóm tác giả nhiên cứu về lòch sử, năm 1929 ông Đào Trinh Nhất, sau
thời gian cộng tác với Tòa Thánh Tây Ninh trong việc dòch thuật kinh sách Cao
Đài ra tiếng Hán đã viết “Cái án Cao Đài” (Imprimerie Commereial, Sài Gòn
năm 1929) nói về nguồn gốc ra đời, giáo lý sự thờ phụng , cách thức hành đạo
của Cao Đài, về tổ chức và hoạt động của các chức sắc Cao Đài. Qua mấy lời
nói đầu của tác giả được biết cuốn sách đã đăng trên báo công luận năm 1928
dưới bút danh là Trương Văn Thu. Về nguồn gốc của Cao Đài, Đào Trinh Nhất
không phân tích hoàn cảnh, điều kiện xã hội ở Nam Bộ mà miêu tả các hoạt
động Cơ bút của một số nhà tư sản, đòa chủ và công chức của Pháp dẫn đến việc
ra đời Đạo Cao Đài. Ông cho rằng những người sáng lập Đạo Cao Đài đã lấy tín
ngưỡng Cầu Tiên của Á Đông đem trộn với thuật chiêu hồn Phương Tây theo
công thức tổ chức của Tòa Thánh Vatican, cộng thêm với mũ mão cân đai của
hát bội nữa là ra Cao Đài. Là một trí thức duy lý, bảo vệ giá trò văn hoá truyền
thống, sau khi nghiên cứu giáo lý “Tam giáo”, “Ngũ chi”, “Tam Kỳ Phổ Độ”,
nhất là mối quan hệ giữa “Jésus và Đạo Cao Đài”, giữa “Lão Tử và Đạo Cao
Đài”, giữa “Phật Thích Ca và Đạo Cao Đài”, giữa “Khổng Tử và Đạo Cao Đài”,
giữa “Lý Thái Bạch và Đạo Cao Đài”, giữa “Quan Công, Khương Tử Nha và
Đạo Cao Đài”, ông Đào Trinh Nhất phê phán Đạo Cao Đài là tà giáo. Về sự
phát triển của Đạo Cao Đài, ông Đào Trinh Nhất thừa nhận rằng Đạo Cao Đài
phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, về ảnh hưởng của Đạo Cao Đài, ông cho rằng
Đạo Cao Đài “ngăn trở sự tiến hoá, có hại cho sinh hoạt dân gian và đào sâu hố
phân cách giữa giai cấp này với giai cấp kia” [97, 155]. Do đó, theo ông phải tẩy
chay Đạo Cao Đài.
Sau khi “Cái án Cao Đài” ra đời, ông Băng Thanh đã viết “Cải án Cao
Đài” để phản biện lại quan điểm của Đào Trinh Nhất. Cuốn sách này, mặc dù
không rõ năm ấn hành, nhưng có lẽ được xuất bản năm 1930 ngay sau khi “Cái


5


án Cao Đài” của Đào Trinh Nhất ra đời. Ông Băng Thanh cho rằng Đạo Cao Đài
ra đời xét về mặt đạo đức là cần thiết. Ông Băng Thanh viết “Tương lai hiện
thời đã quá cùng, người đã hẳn đổi, cang thường đã nghiên ngửa, phong tục đã
suy đồi, … nói về sự loạn thì ngày nay hoá ra cực điểm vì thế mà bao nhiêu cái
tinh thần của Tam giáo và Gia giáo đều bò tay phàm đánh đổ cả…” nên “…lấy
theo cái lý mà suy thì thời kỳ này mà có nền Đạo Cao Đài xuất thế tưởng cũng
không quá đáng” [141, 11-27]. Khi phân tích về giáo lý, ông Băng Thanh nhấn
mạnh đến khía cạnh đạo đức của các tôn giáo mà Cao Đài tổng hợp, đến tư
tưởng Tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam mà Cao Đài kế thừa. Ông viết: “Đạo
Phật ví cũng như mặt Nhựt, Đạo Tiên cũng như mặt Nguyệt, Đạo Nho cũng như
Ngũ Tinh, bộ Nhựt – Nguyệt – Tinh, ba cái đó ở trên đời, thiếu một cũng không
đặng. Nho để trò phần đời, Tiên để trò phần xác thân, còn Phật để trò về phần cốt
tuỷ. Đó là cái ý cao thượng của Thượng đế đã sắp đặt trong nền Đạo Cao Đài
vậy” [141, 8-27].
Một nhà văn người Pháp – ông G. Gobron, sau khi trở thành một chức sắc
của Đạo Cao Đài, năm 1948, 1949 đã cho xuất bản tại Paris một số ấn phẩm về
Đạo Cao Đài: Lòch sử Đạo Cao Đài (Histoire do Caodaisme - Boudhisme
renové, Paris, Dervy, 1948), Lòch sử và triết lý Đạo Cao Đài (Histoire et Philoso
– phie du Caodaisme, Paris, Dervy, 1948), Lòch sử Đạo Cao Đài (Histoire du
Caodaisme, Paris, 20 Rue de la Trimolle, 1948). Gobron chỉ đề cập thoáng qua
về lòch sử Đạo Cao Đài và tập trung giới thiệu về giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ
chức Giáo hội của Đạo Cao Đài. Gobron cho rằng đặc điểm nổi bật của Đạo Cao
Đài là“tinh thần tổng hợp tôn giáo”, là “Thuật chiêu hồn Việt Nam”. Tuy nhiên,
khi xét Cao Đài trong mối quan hệ với Phật giáo, ông cho rằng Cao Đài là Đạo
Phật canh tân, giống như Đạo Tin lành với Đạo Công giáo. Xét về cách thức
hành đạo Gobron khen rằng Đạo Cao Đài là đạo đơn giản nhất ngày nay [177].


6


Tác giả Trần Văn Giàu trong công trình: sự phát triển của tư tưởng Việt
Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám đã dành 40 trang để lý giải
hiện tượng Cao Đài từ góc độ lòch sử tư tưởng với tựa đề: “Đạo Cao Đài”. Trong
phần này, sau khi điểm lướt những nhận đònh đánh giá về Đạo Cao Đài của tác
giả người Việt và người Pháp trước đó, ông Trần Văn Giàu đã nhấn mạnh “Đạo
Cao Đài chủ yếu bắt đầu từ tục đồng cốt Cầu Tiên, nhất là tư tưởng tín ngưỡng
và tư tưởng Tam giáo phổ biến ở Việt Nam từ lâu đời [48, 203-220]. Tác giả còn
nhấn mạnh đến nguyên nhân sự ra đời của Đạo Cao Đài là do các tôn giáo tại
chỗ bò sa sút, yếu kém đã không đáp ứng nổi nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Về thực chất của Đạo Cao Đài, tác giả thống nhất với cách đánh giá của một số
tác giả đi trước, rằng Đạo Cao Đài tổng hợp các tôn giáo theo cách “xào bần”.
Tác giả còn cho rằng: “Chẳng qua thû mới ra đời “quy nguyên phục nhứt”,
“góp hợp tất cả các đạo trên thế giới” là một cách nói nhằm làm dễ dàng cho
các tín đồ Phật giáo, Đạo giáo, Gia tô và những người dân thường vào Đạo Cao
Đài” [48, 203-220]. Tuy không kết luận Cao Đài là một tổ chức chính trò, nhưng
tác giả cho rằng: “Đạo Cao Đài là một tôn giáo vẫn không nhiều thì ít, không
trực tiếp thì gián tiếp mang màu sắc và ý nghóa chính trò [48, 203-220].
Năm 1993, trong sách Một số tôn giáo ở Việt Nam (Ban Tôn Giáo của
Chính phủ xuất bản, Hà Nội, 1993) có dành 30 trang viết về Đạo Cao Đài,
khẳng đònh Đạo Cao Đài ra đời là một điều kiện tất yếu trong điều kiện kinh tế,
chính trò, xã hội và tư tưởng ở Nam Bộ từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất
đến trước Cách mạng Tháng Tám. Đạo Cao Đài ra đời “còn là biểu hiện sự phản
ứng của nhân dân trước tình hình kinh tế, chính trò, xã hội đương thời, là phản
ứng mâu thuẫn tích tụ giữa các giai tầng trong xã hội với các chính sách cai trò
hà khắc của Pháp ”[165, 227]. Về sự phát triển của Đạo cao Đài đó là “quá trình
chia rẽ về mặt tổ chức và phân hoá về thái độ chính trò” [165, 227-253].


7


Vào những năm 1990, một công trình nghiên cứu quan trọng về Đạo Cao
Đài của tập thể tác giả Viện nghiên cứu tôn giáo do Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn
chủ biên được công bố với tựa đề “Bước đầu tìm hiểu về Đạo Cao Đài”, với độ
dài 422 trang, sách gồm 5 phần của 5 tác giả về Đạo Cao Đài.
Đây là một công trình nghiên cứu với quy mô lớn về Đạo Cao Đài không
chỉ thời gian tiến hành mà lực lượng tham gia cũng khá đông, đúng như lời giới
thiệu của cuốn sách: “Đó là kết quả của hai năm nghiên cứu trên sách vở, khảo
sát ở các đòa phương khác nhau, đặc biệt ở Tây Ninh, Bến Tre và các tỉnh Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Cuốn sách đề cập đến hoàn cảnh ra đời, quá trình hình
thành, sự cấu thành nội dung, tổ chức, nghi thức của Đạo Cao Đài nói chung, các
giáo phái nói riêng [160, 11-71].
Trong công trình này, đánh giá về Đạo Cao Đài, giáo sư Đặng Nghiêm
Vạn khẳng đònh Đạo Cao Đài là một thực thể khách quan, một thế ứng xử của
người dân Nam Bộ. Tác giả cho rằng, sở dó Đạo Cao Đài thành công được vì nó
là một tôn giáo nhập thế, hiểu được tâm lý xã hội của nông dân đương thời:
“Cao Đài mang tính thực hành, một Đạo chú trọng đến việc thu hút quần chúng
bằng cách đưa cho người dân đương thời món ăn tinh thần, trộn cái đời thường
với cái siêu hình, muốn tìm cho họ con đường giải thoát ức chế của cuộc sống
thường ngày” [160, 11-71].
Nhóm tác giả nghiên cứu về văn hoá, tư tưởng, năm 1929, một học giả
người Pháp – ông G. Coulet đã từng làm thầy giáo ở Trường Pétrus Ký (Sài
Gòn) khi nghiên cứu về văn hoá, tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam đã đề cập đến
Đạo Cao Đài. Trong sách “Thờ cúng và tôn giáo ở các xứ Việt Nam trong Đông
Dương” (Cultes et Religions de l’Indochine An-namite) xuất bản năm 1929 ở Sài
Gòn, G.Coulet đã cho rằng sỡ dó Đạo Cao Đài ra đời được là do người Việt Nam
có đức tín khoan dung tôn giáo, và nhất là truyền thống Tam giáo (Phật, Lão,


8


Nho) từ lâu đời. Tuy nhiên, G. Coulet lại cho rằng tinh thần khoan dung tôn giáo
của người Việt Nam đã dẫn đến sự pha trộn văn hoá tín ngưỡng một cách không
lựa chọn. Sau khi xem xét thấy yếu tố Thuật chiêu hồn của Phương Tây trong
Đạo Cao Đài và nhất là đa số những người sáng lập Đạo Cao Đài là những công
chức của chính quyền thuộc đòa, G.Coulet đã nhận đinh rằng: “Đạo Cao Đài là
một linh hồn Pháp – Việt mà chính phủ ta (chính phủ Pháp) đã đào tạo từ 60
năm nay” [175]. Tuy không kết luận dứt khoát Cao Đài là tổ chức hội kín nhưng
trong sách Tổ chức hội kín ở Việt Nam (Les Socétés secrètes en Tèrred’
Annam), xuất bản năm 1929 ở Sài Gòn, G. Coulet đã cho rằng hoạt động chính
trò ở Nam Kỳ thời kỳ này gồm ba khía cạnh chính không thể tách rời nhau được
là: phép thuật (dựa vào sức mạnh siêu nhiên), tôn giáo (để vận động quần
chúng) và tổ chức trần tục (hoạt động kinh doanh, đóng góp, tương trợ lẫn nhau).
Sau khi nhận đònh như vậy, G. Coulet đưa ra kết luận: “không thể đơn giản dùng
bạo lực, biện pháp hành chánh Pháp luật để đối phó tiêu diệt những tổ chức
chính trò mang màu sắc tôn giáo, hay những tôn giáo mang màu sắc chính trò như
thấy ở Nam Kỳ” [176, 15].
Năm 1999, Viện nghiên cứu Đông Phương, Matxcơva cho xuất bản công
trình nghiên cứu của Sergei Blagov với tựa đề “Đạo Cao Đài: một phong trào
tôn giáo mới” (The Caodai: A new religious movement (1999), Moscow, The
Insti – tute of Oriantal Studies – 168.PP). Thực ra chuyên khảo này là sự mở
rộng luận văn Phó Tiến só ngành Dân tộc học với đề tài: “Đạo Cao Đài ở Việt
Nam” năm 1991 của tác giả tại Phân viện Dân tộc học Michicô Mắclai thuộc
Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô. Qua nội dung bản tóm tắt, tác giả Blagov cho
rằng “điều kiện tiên quyết cho việc xuất hiện Đạo Cao Đài chính là sự kết hợp
chặt chẽ giữa phong trào chính trò tôn giáo với các tư tưởng truyền thống biểu
hiện qua các giáo phái không chính thống” [13, 6-22]. Đạo Cao Đài trong chừng


9


mực nào đó “là sự phản ánh quá trình tiếp biến văn hoá diễn ra khá phức tạp ở
Miền Nam Việt Nam” [13, 6-22], do đó, có thể xem “Đạo Cao Đài như một thử
nghiệm hoà giải mâu thuẫn giữa sự sùng bái những giá trò truyền thống với nền
văn minh Phương Tây” [13, 6-22]. Nghiên cứu sự phát triển của Đạo Cao Đài, S.
Blagov cho rằng: “khuynh hướng biệt lập trong Đạo Cao Đài đã quy đònh tính
đặc thù của tôn giáo này như một tổ chức chính trò xã hội” [13, 6-22].
Nhóm tác giả nghiên cứu về chính trò, trong những tài liệu của chính
quyền Pháp về Đạo Cao Đài có nhiều bản báo cáo quan trọng có giá trò như
những nghiên cứu khoa học. Đó là tập báo cáo số 7 năm 1934 mang tựa đề Le
Caodaisme (1925 – 1934) của Louis Matry, Giám đốc Phòng II – Phòng Chính
trò và an ninh chung - thuộc Phủø Toàn quyền Đông Dương; tập báo cáo năm
1933 cũng mang tự đề Le Caodaisme của Lalaurette, Thanh tra Chính trò sự vụ
và hành chính Nam Kỳ (L’impecteur des Affaires politiques et Administratives
de la Cochinchine ) và Vilmont, Tham biện chủ tỉnh Tây ninh (L’Ad-ministrateur
eds Services Civilas chef de la province de Tây Ninh).
Tập báo cáo số 7 của Louis Matry gửi Toàn quyền Đông Dương, sau khi
đề cập nguồn gốc và giáo lý của Đạo Cao Đài là liên quan đến Phật, Lão, Nho,
Louis Matry có nhận đònh tương tự như Đào Trinh Nhất và Trần Huy Liệu – chủ
bút tờ “Đông Dương thời báo”, rằng: “Đạo Cao Đài không phải là tôn giáo, cũng
chẳng phải là chính trò… Đạo cao Đài chỉ là một công cuộc làm ăn để khai thác
tính nhẹ dạ của những kẻ ngây thơ”, “… và về phương diện xã hội ảnh hưởng của
nó rất phiến diện, như một thời trang sẽ qua đi” [180, 17].
Tập Le Caodaisme của Lalaurette và Vilmont thực ra là hai bản báo cáo
của Lalaurette đề ngày 01 tháng 6 năm 1931 gửi Thống Đốc Nam Kỳ.
Với phương pháp nhìn nhận khá khoa học và khách quan, hai ông
Lalaurette và Vilmont đã phân tích môi trường xã hội Nam Kỳ lúc Đạo Cao Đài


10


ra đời, trong đó có nhấn mạnh yếu tố văn minh Châu Âu (hay phong trào Âu
hoá) diễn ra hàng ngày và đang tác động đến cuộc sống của từng gia đình, nhất
là các vùng đô thò và ven đô. Hai ông cho rằng các tôn giáo, tín ngưỡng đương
thời tỏ ra mệt mỏi và lỗi thời trước sự phát triển của khoa học hay nói cách khác
là sự thay đổi về mặt xã hội ở Nam Kỳ đã tạo ra một hố ngăn cách giữa văn hoá
tín ngưỡng tôn giáo truyền thống với lối sống mới. Và đã đến lúc, như tác giả đã
nhận xét: “Con người ở Nam Kỳ mong ước có một tôn giáo ít tà ma quỷ quái hơn
và thích hợp với tiến bộ vật chất và xã hội mới hơn” [191, 3]. Về hoạt động của
Đạo Cao Đài, cùng với thái độ của chính quyền Pháp ở Nam Kỳ và nhà vua
Campuchia đối với Đạo Cao Đài thời kỳ đầu, hai ông cho biết thái độ của Thực
dân Pháp là đi từ thiện cảm ban đầu đến nghi ngờ và hạn chế. Mặc dù hai ông
đều cho rằng ngoài yếu tố chính trò, xã hội và tư tưởng ở Nam Kỳ để xuất hiện
Đạo Cao Đài, còn yếu tố quan trọng là chế độ trực trò của Pháp ở Nam Kỳ “cởi
mở” hơn so với Trung Kỳ và Bắc Kỳ đã giúp Cao Đài ra đời, tồn tại và phát
triển được.
Năm 1981, bà Jayne Susan Werner, một nhà nghiên cứu người Mỹ tại
Trung tâm Nghiên cứu Nam Á thuộc Viện Đại học Yale, bang Connecticut (Mỹ),
công bố chuyên khảo với chủ đề “Chính trò nông dân và giáo phái: nông dân và
chức sắc trong Đạo Cao Đài ở Việt Nam” (Peasant Politics and Priest in the
Caodaisme in Vietnam). Trong chuyên khảo này, tác giả J. S. Werner đánh giá
Đạo Cao Đài là một phong trào nông dân lớn nhất Việt Nam thời Pháp thuộc,
xuất hiện khoảng năm 1925 ở miền Nam Việt Nam (Nam Kỳ thuộc Pháp). Đạo
Cao Đài cho đến năm 1950 đã thu hút tín đồ nhiều hơn bất cứ các nhóm nông
dân nào khác ở miền Nam. Đạo Cao Đài đã có ảnh hưởng đáng kể đối với nền
chính trò miền Nam trong hơn nữa thế kỷ. Tác giả viết: “Thực vậy, trong số ba
phong trào quần chúng lớn ở miền Nam thời thuộc Pháp, Đạo Cao Đài được tổ


11


chức tốt nhất và thành công nhất” [171, 1]. Về cơ bản, tác giả thống nhất với
ông Trần Văn Giàu trong cách lý giải sự ra đời của Đạo Cao Đài. Tuy nhiên, tác
giả nhấn mạnh đến nguyên nhân chính trò, kinh tế, xã hội qua mối quan hệ giữa
nông dân (là tín đồ) với đòa chủ, tư sản (là chức sắc). Tác giả đã thể hiện quan
điểm này trong phần kết luận, rằng: “Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng nông dân
theo Đạo Cao Đài vì những lý do chính trò và kinh tế, xã hội” [171, 55-56]. Xét
về mặt tư tưởng – ý thức hệ, tác giả cho rằng “Đạo Cao Đài có được một điều gì
đó giành cho mọi người. Sự khéo léo tổng hợp truyền thống Tam giáo và sự diễn
giải minh bạch, chính xác truyền thống Tam giáo, không những tạo ra sức hút
văn hoá mãnh liệt và hẳn còn sinh lực. Đạo Cao Đài còn là sự phản ứng lại sự
quyết liệt truyền Đạo Công Giáo của người Pháp, vì nhiều người Việt Nam coi
Đạo ấy là Đạo của quân xâm lược. Nền cai trò của Pháp nghèo nàn về ý thức hệ
cùng với hoàn cảnh kinh tế, xã hội tuyệt vọng, đã tạo ra môi trường văn hoá
thuận lợi cho Đạo Cao Đài” [171, 55, 56].
Ngoài những nội dung nêu trên, tác giả còn đề cập đến mối quan hệ giữa
Đạo Cao Đài với cách mạng (được gọi là Việt minh, Cộng sản), chủ yếu dựa
trên hai phương diện ý thức hệ và vấn đề quần chúng.
Nói tóm lại, đây là một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu và có
giá trò nhiều mặt. Tuy nhiên, tác giả chú trọng nhiều đến cơ sở xã hội và tư
tưởng của sự ra đời Đạo Cao Đài, về giáo thuyết Cao Đài. Tác giả chưa có dòp
đề cập nhiều đến những diễn biến của Đạo Cao Đài qua các giai đoạn lòch sử,
về sự chia rẽ của Đạo Cao Đài và về những ảnh hưởng của Đạo Cao Đài.
Năm 2001, Nhà xuất bản Trẻ – Thành phố Hồ Chí minh, xuất bản tập
sách: Cao Triều Phát – Nghóa khí Nam Bộ của tác giả Phan Văn Hoàng.Với độ
dài 240 trang, nội dung của cuốn sách chủ yếu giới thiệu về cuộc đời, thân thế
và sự nghiệp của cụ Cao Triều Phát – Chưởng quản Cao Đài Minh Chơn Đạo


12


Hậu Giang, Chủ tòch Cao Đài cứu quốc mười hai phái thống nhất, Giáo Tông Hội
Thánh duy nhất Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Thông qua việc giới thiệu
chân dung só khí Nam bộ Cao Triều Phát, tác giả Phan Văn Hoàng đã công bố
những tư liệu rất quý về cụ Cao Triều Phát, về chi phái Cao Đài Minh Chơn
Đạo, về những hoạt động yêu nước của đồng bào theo Đạo Cao Đài trong kháng
chiến chống Pháp qua tổ chức Cao Đài cứu quốc 1947 – 1954. Đối với cụ Cao
Triều Phát, tác giả làm rõ hình ảnh một lãnh tụ phong trào Cao Đài yêu nước –
người đã kết hợp một cách xuất sắc giữa đạo với đời, giữa đạo với dân tộc và
cách mạng. Tác giả đã dẫn câu nói nổi tiếng của cụ Cao Triều Phát về trách
nhiệm của người tín đồ tôn giáo khi Tổ quốc lâm nguy, rằng: “Bàn thờ tôn giáo
thì nhiều, nhưng bàn thờ tổ quốc chỉ có một” [55, 164].
Trong quá trình vận động và lãnh đạo cách mạng ở miền Nam, một số
nhà hoạt động chính trò đã nghiên cứu về Đạo Cao Đài. Ông Lê Duẩn khi là Bí
thư Xứ Uỷ Nam Bộ trong báo cáo tình hình chung ở Nam Bộ (1949) đã nhận
đònh Đạo cao Đài phần nào có tính chất phản đế, nhưng lại là một tôn giáo hỗn
hợp, vừa phản ánh ý thức giai cấp tư sản, muốn xây dựng lực lượng tập trung
thống nhất, vừa mang tính hình thức cát cứ đòa phương của đòa chủ phong kiến
xen lẫn hình thức sản xuất nhỏ phân tán của tiểu tư sản, trên nền tảng một thứ
văn hoá suy đồi, không Cổ, không Kim, không Âu, không Á, dưới sự lũng đoạn
của Đế quốc Pháp. Do đó, theo ông: “Ở Nam Bộ, bên cạnh sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân, của Đảng Cộng Sản là chủ yếu, còn tồn tại song song một “hình
thức lãnh đạo”, nếu có thể gọi như vậy của giai cấp tư sản, điạ chủ trong tôn
giáo Cao Đài với màu sắc quốc gia nông nổi thần bí, và đã là thần bí thì nó cũng
có thể có một sức mạnh nào đó” [33, 42].
Những công trình công bố đã nghiên cứu nói trên đều mang tính chất giới
thiệu về lòch sử và tôn giáo của Đạo Cao Đài. Đó là những tư liệu rất quý và


13


sinh động mà tác giả luận án sẽ chọn lọc kế thừa khi thực hiện luận án của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án tập trung làm rõ nguồn gốc, đặc trưng của Đạo Cao Đài, phân
biệt thực trạng và quá trình biến đổi của phái Cao Đài Tây Ninh qua hai giai
đoạn (từ 1926 – 1975), (từ 1975 – 2007) và những khuynh hướng của phái Cao
Đài Tây Ninh. Đồng thời, làm rõ ảnh hưởng của Đạo Cao Đài Tây Ninh hiện
nay đến đời sống văn hoá, tinh thần của cộng đồng người Việt ở Đông Nam Bộ.
Phân biệt rõ vai trò xã hội của Đạo Cao Đài Tây Ninh ở hai giai đoạn trước kia
và hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Nghiên cứu, trình bày nguồn gốc kinh tế- xã hội, nguồn gốc nhận thức
và nguồn gốc tâm lý của Đạo Cao Đài, vạch ra đặc trưng và lòch sử phát triển
của Đạo Cao Đài.
- Bối cảnh lòch sử Việt Nam sau năm 1975, những thay đổi về giáo lý,
nghi lễ, tổ chức Giáo hội và các hoạt động chính trò của Cao Đài Tây Ninh.
- Cao Đài Tây Ninh hiện nay – ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa
tinh thần của cộng đồng người Việt ở Đông Nam Bộ.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở Cao Đài Tây Ninh đối với đời
sống văn hoá tinh thần của cộng đồng người Việt ở Đông Nam Bộ. Bởi lẽ, trong
các hệ phái của Cao Đài, Cao Đài Tây Ninh là hệ phái lớn nhất, có số lượng tín
đồ đông nhất, có mặt ở tất cả các tỉnh ở Nam Bộ, và những hoạt động tôn giáo
của Cao Đài Tây Ninh mang tính chất tiêu biểu.


14

5. Cái mới của luận án

- Trên góc độ Triết học tôn giáo làm rõ nguồn gốc và những đặc trưng cơ
bản của Đạo Cao Đài và những thay đổi về giáo lý, nghi thức thờ cúng, tổ chức
Giáo hội phái Cao Đài Tây Ninh.
- Khảo sát đời sống tôn giáo của cộng đồng tín đồ Cao Đài Tây Ninh và
những ảnh hưởng của Đạo Cao Đài Tây Ninh đến đời sống văn hoá tinh thần của
cộng đồng người Việt vùng Đông Nam Bộ hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghóa duy
vật biện chứng, Chủ nghóa duy vật lòch sử và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta
về vấn đề tôn giáo. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp triết học
tôn giáo, xã hội học, tâm lý học, văn hoá học, nhân học, phương pháp phân tích,
tổng hợp, thống kê… và một số biện pháp kỹ thuật như: chụp ảnh, phỏng vấn sâu
để phục vụ luận án.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án chia làm 3 chương, 12 tiết.


15

CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, NGUỒN GỐC, ĐẶC TRƯNG
VÀ NỘI DUNG GIÁO LÝ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI

1.1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Đạo Cao Đài là tôn giáo của người Việt Nam, ra đời ở Nam Bộ. Quá trình
lập Đạo Cao Đài diễn ra trong khoảng thời gian từ những năm 1920 đến cuối
năm 1926, gắn liền với một số nhân vật giữ vai trò quan trọng, trong đó có
những người có tinh thần yêu nước, những người có chân tu, đồng thời cũng có
những người muốn được vươn lên trong kinh doanh, muốn có đòa vò chính trò….

Xin giới thiệu 13 môn đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài:
Ông Ngô Minh Chiêu (còn gọi là Ngô Văn Chiêu) (1878 – 1934) là người
đầu tiên khai sinh ra Đạo Cao Đài. Ông đậu bằng Thành chung của Pháp, từng
làm việc cho Pháp qua các chức vụ: 01.01.1903: làm thư ký Dinh Thống đốc
Nam Kỳ, 01.05.1909: Thư ký Toà bố tỉnh Long An, 1917: thi đậu ngạch Tri
huyện, làm chủ quận Tân An, 01.03.1920: Làm việc ở Hà Tiên, 26.10.1920: đổi
đi Phú Quốc, 29.07.1924: rời Phú Quốc về Sài Gòn, làm việc ở Dinh Thống đốc
như trước và sau đó lên ngạch Tri phủ.
Trong cuộc đời làm quan, ông luôn chọn một nếp sống kín đáo, dè dặt,
không dính líu vào chính trò, và cũng không để chính quyền thuộc đòa lợi dụng.
Ông là vò quan thanh liêm, yêu nước, thương dân; ông càng được lòng dân đòa
phương, thì chính quyền thuộc đòa lại càng không hài lòng và để tâm ngờ vực.
Đó cũng là lý do Thực dân Pháp đã liên tục thuyên chuyển ông đi hết nơi này
đến nơi khác. [30, 55-56]
Vốn theo tín ngưỡng Đạo giáo, ông Chiêu từng ngồi đàn cầu cơ từ năm 24
tuổi. Năm 1920, tại một đàn cầu cơ ở Đảo Phú Quốc ông đã nhận được điềm linh


16

ứng của Đạo Cao Đài, đưa ra biểu tượng Thiên Nhãn và thờ “Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”.
Lê Văn Trung (1875 – 1934) tốt nghiệp Thành chung, làm thư ký Dinh
Thống đốc Nam Kỳ, Uỷ viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ, sau đó là Nghò viện
Hội đồng Thượng Nghò Viện Đông Dương, kinh doanh thương nghiệp, bò Pháp
chèn ép, sau khi thất bại trong kinh doanh, ông thường ngồi đàn cầu cơ và
chuyển sang hoạt động Đạo Cao Đài. [126, 12-14].
Phạm Công Tắc (1893 – 1959), vốn theo Đạo Kitô, đậu bằng Thành
chung, làm việc ở Sở Thương chính Sài Gòn vì bò chèn ép ông bỏ việc đi theo
Đạo Cao Đài với chức Hộ pháp, đứng đầu Hiệp Thiên Đài [126, 114].

Cao Quỳnh Cư (1888 – 1929) làm thư ký ở Sở Hoả Xa Sài Gòn, ham thích
Thông linh học Phương Tây, thường tổ chức xây bàn nói chuyện với người đã
chết. Theo tài liệu của Tòa Thánh Tây Ninh “ngày 26 – 4 – 1926, ông được Đức
Chí Tôn phong làm Tá cơ Tiên hạc Đạo só, sau đó giữ chức vụ Thượng phẩm của
Hiệp Thiên Đài” [126, 155].
Cao Hoài Sang (1901 – 1971) đậu bằng Thành chung, làm việc ở Sở
Thương chính Sài Gòn, thăng ngạch Tham tá. Ông cũng thường tổ chức xây bàn,
làm thơ đoán mệnh; ông được phong chức Thượng sanh, chưởng quản chi Thế
Hiệp Thiên Đài [126, 181].
Nguyễn Trung Hậu (1892 – 1961) là nhà giáo tốt nghiệp Trường École
Normale de Gia Dinh (1911). Năm 1922, lãnh đạo Trường Sơ học nội trú
Internat Primaire de Dakao. Ông được phong làm Tiên đạo Phò cơ Đạo só, sau
đó được phong phẩm Bảo pháp Hiệp Thiên Đài [126, 197].
Đoàn Văn Bản (tự là Văn Long), người làng Tân Uyên – tỉnh Biên Hoà,
học Trường Sư phạm (sơ tiểu) tại Gia Đònh ; ông đi dạy nhiều nơi, sau cùng về


17

làm Đốc học (Hiệu trưởng) Trường tiểu học Cầu Kho, nên người ta gọi là ông
Đốc Bản [30, 118].
Vương Quan Kỳ (1988 – 1940), người tỉnh Chợ Lớn, ông đậu Diplôme,
cùng làm việc với ông Chiêu ở Dinh Thống đốc Nam Kỳ, ngạch Tri phủ [30,
119].
Lê Văn Giảng, thư ký hãng Hippolito Sài Gòn ; Võ Văn Sang (tức Phán
Sang); Nguyễn Văn Hoài (tức Phán Hoài); Lý Trọng Quý; Trương Hữu Đức [30,
118].
Trên đây là 13 môn đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài, họ thuộc tầng lớp trung
lưu ở Nam Bộ, họ được Pháp đào tạo nên ít nhiều chòu ảnh hưởng tư tưởng tư sản
của Pháp. Họ làm việc cho Pháp nhưng bò Pháp chèn ép nên không được thành

đạt trong cuộc sống, bất mãn về đòa vò và quyền lợi, bản thân những con người
này vốn mang nặng đầu óc mê tín, dễ tin vào những chuyện thần tiên. Họ liên
kết với nhau dựng ngọn cờ tôn giáo với mưu cầu lợi ích khác nhau, một số vì lợi
ích chính trò, một số vì kinh tế và một số khác vì danh vọng.
Ý tưởng thành lập tôn giáo mới được thể hiện bằng các hoạt động cụ thể;
việc tổ chức xây bàn, xướng hoạ thi ca, dần dần được thay thế bằng cầu cơ, chấp
bút lời chỉ dạy của Cao Đài Tiên Ông về cách tổ chức Giáo lý, làm cơ sở cho
việc hình thành đạo.
Căn cứ vào sử ký Cao Đài, Đạo Cao Đài xuất hiện vào đêm Noel năm
1925, trong buổi cầu cơ bình thường như những buổi khác. Đêm đó Cao Đài
Tiên Ông xuất hiện nói rõ tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
và chọn 12 người đứng ra lập tôn giáo mới lấy tên là: “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ” gọi tắt là Cao Đài [59, 11-12]. Sau đó, ông Lê Văn Trung đứng ra lập tờ
khai đạo và trình lên Thống đốc Nam kỳ là Le Fol, báo cáo về việc thành lập
Đạo Cao Đài.


18

Sau một thời gian chuẩn bò, những người sáng lập tôn giáo này đã tổ chức
lễ ra mắt rất long trọng tại Chùa Từ Lâm (Gò Kén – Tây Ninh), với sự hiện diện
của quan Toàn quyền Đông Dương, quan Thống đốc Nam Kỳ với nhiều quan
chức cao cấp người Pháp, người Việt. Từ đây, tuy gặp nhiều phản ứng, công kích
của dư luận, Đạo Cao Đài vẫn cứ phát triển thành “Phong trào Cao Đài”, quy
mô ngày càng lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, ra cả miền Trung, sang
Campuchia và có cả đại diện Cao Đài ở Pháp. Số lượng tín đồ tăng lên nhanh
chóng, chỉ hơn một năm sau ngày thành lập số lượng tín đồ lên tới 40.000 người,
trong vòng 4 năm sau lên tới 500.000 người, năm 1935, số tín đồ Cao Đài là
1.000.000 người.
Khi mới ra đời, Đạo Cao Đài là một tổ chức thống nhất với cơ quan đầu

não là Tòa Thánh Tây Ninh, nhưng sau một thời gian ngắn, Đạo Cao Đài bắt đầu
có sự phân hoá. Nếu như tôn giáo khác phân hoá do sự bất đồng về quan điểm
giáo thuyết thần học, thì Đạo Cao Đài phân hoá do không thống nhất về đường
lối, lợi ích chính trò dẫn đến mâu thuẫn cá nhân giữa các chức sắc khai sáng Đạo
Cao Đài (có người có tinh thần yêu nước thực sự, có người thân Pháp, sau này có
người thân Nhật … dẫn đến sự chia rẽ). Đầu tiên là sự mâu thuẫn giữa ông Ngô
Minh Chiêu – người tín đồ đầu tiên – người khai sinh ra Đạo Cao Đài với nhóm
Cao – Phạm. Ông Ngô Minh Chiêu với chủ trương tu hành vô vi, không chen
vào thế sự, còn nhóm Cao – Phạm chủ trương tu không phải nhắm mắt cầu an.
Do khác nhau về quan điểm tu học, ông Ngô Minh Chiêu đã bỏ nhóm Cao –
Phạm, từ bỏ chức Giáo tông về Cần Thơ lập phái Chiếu Minh (nay là Thánh Đức
Tổ Đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi).
Với mưu đồ sử dụng Cao Đài làm công cụ cai trò, xâm lược, Pháp đã tìm
cách lôi kéo, phân hoá hàng ngũ chức sắc cao cấp trong Hội thánh Cao Đài, gây
mâu thuẫn nội bộ, làm cho Cao Đài phân hoá, ly khai, chia rẽ thành nhiều hệ


19

phái. Nhưng điều đáng quan tâm là thái độ chính trò của từng hệ phái không
giống nhau, thậm chí đối lập nhau.
Phái Cao Đài Minh Chơn Lý, do ông Nguyễn Văn Ca sáng lập năm 1936
ở Tiền Giang. Năm 1929, do mâu thuẫn giữa Phối sư Nguyễn Văn Ca và Giáo
tông Lê Văn Trung, dẫn đến việc ông Nguyễn Văn Ca rời khỏi Tây Ninh về Mỹ
Tho lập ra tổ chức “Cao Đài Minh Lý Hội”, sau đó, gọi là “Cao Đài Minh Chơn
Lý”. Ông Ca là một đòa chủ, có 500 ha đất canh tác ở Cần Thơ và Long An, ông
có cách thu phục tín đồ bằng việc luôn tỏ ra thân thiện với mọi người, không
phân biệt đẳng cấp. Do được khuyến khích nên nhiều nông dân đã đến dự các
buổi cầu nguyện hoặc tham gia các buổi họp kín với những lời hứa hẹn nếu tham
gia vào Đạo Cao Đài thì tránh được nhiều phiền phức ngoài đời. Đây là lý do

khiến cho số lượng tín đồ của phái này ngày càng đông hơn. Tuy vậy, Cao Đài
Minh Chơn Lý có đường hướng hành đạo gắn với dân tộc, phái này đã từng tham
gia Cao Đài Cứu quốc 12 phái hiệp nhất trong Liên giao I, Liên giao II và góp
sức vào phong trào giải phóng khu vực Tây Nam Bộ. Qua hai cuộc kháng chiến
cứu nước, Cao Đài Minh Chơn Lý có 15 bà mẹ Việt Nam anh hùng, hàng trăm
gia đình liệt só và gia đình có công với cách mạng [20, 187].
Phái Cao Đài Minh Chơn Đạo, do Chưởng pháp Trần Đạo Quang sáng
lập. Năm 1928, do thấy một số chức sắc cao cấp của Tòa Thánh Tây Ninh có
tham vọng không chính đáng, ông Trần Đạo Quang rời Tây Ninh về Bạc Liêu
cùng Cao Triều Phát lập phái Cao Đài Minh Chơn Đạo, với ý nghóa làm sáng tỏ
nền đạo chân chính. Trần Đạo Quang chủ trương “lấy tu nhơn đạo làm nền tảng,
coi cứu khổ chúng sanh làm công quả cao nhất của người tu hành” nên ông luôn
chăm lo đời sống vật chất lẫn tinh thần cho tín đồ. Chẳng bao lâu, tín đồ Minh
Chơn Đạo trở thành một lực lượng Cao Đài lớn không kém gì lực lượng Cao Đài
Tây Ninh. Năm 1939, ông Cao Triều Phát thành lập Đoàn Thanh niên đạo đức,


20

nhằm giáo dục thanh niên Cao Đài đoàn kết, nâng cao trình độ giáo lý, củng cố
tinh thần “thương đạo yêu nước”. Tổ chức này nhanh chóng tập hợp được hàng
ngàn thanh niên tín đồ. Với sự lãnh đạo của Cao Triều Phát, phái Minh Chơn
Đạo có thái độ chính trò rõ ràng, không thân Pháp cũng không thân Nhật, mà
đứng hẳn về phía cách mạng kháng chiến chống xâm lược. Tòa Thánh Ngọc Sắc
ở ấp Giồng Bốm, xã Phong Thạnh Tây, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu là nơi diễn
ra những trận đánh của chức sắc, tín đồ Cao Đài Minh Chơn Đạo và một số chi
phái ở các tỉnh miền Tây chống lại bọn Thực dân xâm lược do Cao Triều Phát
chỉ huy. Từ năm 1945 đến năm 1975, Cao Đài Minh Chơn Đạo tiếp tục có những
đóng góp đáng kể vào phong trào cách mạng và có ảnh hưởng rất lớn đến tầng
lớp nông dân Nam Bộ – những người lao động nghèo khổ có truyền thống văn

hoá dân tộc, có ý thức đấu tranh chống cường quyền, Thực dân xâm lược.
Phái Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, do Phối sư Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá
Trang sáng lập năm 1932. Ông Nguyễn Ngọc Tương có nhiều ảnh hưởng tới
chức sắc, tín đồ. Ông giữ vững lập trường chuyên lo việc tu hành, không tham
gia đảng phái, không hoạt động chính trò, không quan hệ với Thực dân Đế quốc.
Tuy vậy, những người đứng đầu chi phái lại kín đáo để các chức sắc, tín đồ dưới
quyền mình ngầm ủng hộ cách mạng, một số tham gia kháng chiến, trong số đó
có hai người con của Nguyễn Ngọc Tương.
Phái Cao Đài Tiên Thiên, do Nguyễn Hữu Chính cùng Nguyễn Bửu Tài,
Phan Văn Tòng, thành lập vào năm 1932 sau những bất hoà với Tòa Thánh Tây
Ninh (sau này Nguyễn Hữu Chính trở lại tham gia phái Cao Đài Tây Ninh). Năm
1940, Thực dân Pháp cho rằng chức sắc, tín đồ Cao Đài Tiên Thiên có hoạt động
chống Pháp nên Pháp ra lệnh đóng cửa hầu hết các Thánh tònh của Cao Đài
Tiên Thiên và bắt Giáo tông Phan Văn Tòng đày đi Côn Đảo. Hội Thánh Cao
Đài Tiên Thiên luôn sát cánh với Mật trận Việt Minh, tham gia Liên giao I và


21

bầu ông Nguyễn Bửu Tài làm Giáo tông. Đây là thời kỳ Cao Đài Tiên Thiên
phát triển nhất, với số lượng gần 1.000.000 tín đồ. Từ năm 1963 đến năm 1975,
dưới sự lãnh đạo của Quyền Giáo tông Đặng Văn Huẩn, phái Cao Đài Tiên
Thiên bò phân hoá, chia rẽ thành nhiều tổ chức, trong đó có tổ chức phản động
“Cao Đài Liên Hiệp Miền Tây” do ông Trần Kim Triêu cầm đầu, song cũng có
tổ chức yêu nước tham gia Liên giao II – Tiên Thiên Minh Đức của Phối sư
Trương Đình Tây.
Phái Cao Đài Tây Ninh, là phái lớn nhất trong các hệ phái Cao Đài.
Trong quá khứ, Cao Đài Tây Ninh luôn bò các thế lực phản động lợi dụng gây
chia rẽ nội bộ. Một số chức sắc cầm đầu, do nhiều nguyên nhân đã câu kết với
nhà cầm quyền xâm lược để hoạt động chính trò. Tiêu biểu như: “Phạm Công

Tắc, Trần Quang Vinh, Cao Hoài Sang… các chức sắc này đã xây dựng quân đội
Cao Đài, nhằm tạo dựng thanh thế cá nhân và bành trướng nền đạo” [20, 389],
có xu hướng chống Cộng, khi thân Nhật, khi thân Pháp, khi thân Mỹ với nhiều
nhóm đấu đá lẫn nhau, gây tổn thất cho tín đồ và cho nhân dân. Tuy nhiên, phái
Cao Đài Tây Ninh vẫn có một nhóm đi theo Mặt trận Giải phóng, đóng góp cho
sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, như: Phối sư Đặng Trung Chữ, Giáo hữu Thượng
Nhuận Thanh, Thượng Thâu Thanh, Đạo nhơn Lê Văn Buội, Thiếu tá lực lượng
Cao Đài Huỳnh Thanh Mừng, Trương Văn Bảo…
Đến năm 1975, Đạo Cao Đài có hơn 20 tổ chức hệ phái, với hơn 2 triệu
tín đồ, hơn 20 ngàn chức sắc, chức việc, hơn 600 Thánh thất, Điện thờ và các cơ
sở tôn giáo. Có thể nói rằng, quá trình phát triển Đạo Cao Đài là quá trình chia
rẽ về tổ chức, hình thành nhiều hệ phái và phân hoá về thái độ chính trò. Trong
đó, đa số tín đồ và số đông chức sắc là người lao động có tinh thần yêu nước,
tích cực ủng hộ, tham gia hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế


22

quốc Mỹ xâm lược, còn một bộ phận chức sắc mang tư tưởng cơ hội từng bò thế
lực đế quốc lợi dụng chống lại cách mạng.
1.2. NGUỒN GỐC XUẤT HIỆN CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Nguồn gốc của tôn giáo là một trong những vấn đề quan trọng của lý luận
về tôn giáo. Bản chất của khoa học về tôn giáo là vạch ra được nguyên nhân
xuất hiện, tồn tại và phát triển của một hiện tượng tôn giáo. Đạo Cao Đài là một
tôn giáo, để hiểu được một cách khoa học về tôn giáo này chúng tôi thấy cần
phải làm rõ nguồn gốc của nó trên bình diện triết học tôn giáo; một trong những
nhiệm vụ của luận án này là phải vạch ra được nguồn gốc, đặc trưng của Đạo
Cao Đài – một tôn giáo xuất hiện ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX. Có thể nói,
nguồn gốc của Đạo Cao Đài là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện tất yếu
làm nẩy sinh nhận thức, niềm tin và hệ thống lễ nghi của một cộng đồng nhân

dân về Đạo Cao Đài. Nguồn gốc đó theo quan niệm của chủ nghóa Mác – Lênin
bao gồm: nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc tâm lý.
1.2.1. Nguồn gốc kinh tế - xã hội của Đạo Cao Đài
Khi nêu lên đặc trưng nguồn gốc xã hội của tôn giáo trong xã hội Tư bản,
V.I. Lênin đã viết: “Sự sợ hãi trước thế lực mù quáng của Tư bản – mù quáng vì
quần chúng nhân dân không thể đoán trước được nó – là thế lực bất cứ lúc nào
trong đời sống của người vô sản và người tiểu chủ, cũng đe doạ và đang đem lại
cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt
vong, biến họ thành một người ăn xin, một kẻ bần cùng, một gái điếm, và dồn
họ vào cảnh chết đói, đó là nguồn gốc sâu xa của một tôn giáo hiện đại mà
người duy vật phải chú ý đến trước hết và trên hết nếu người ấy không muốn
mãi mãi là một người duy vật sơ đẳng.” [69, 71].
Trong các xã hội đối kháng giai cấp, sự áp bức giai cấp, chế độ người bóc
lột người là một nhân tố quan trọng làm nảy sinh nhận thức và niềm tin tôn giáo.


23

Những người lao động bò bần cùng về kinh tế, bò áp bức về chính trò, bò tước đoạt
những phương tiện và khả năng phát triển tinh thần. Bò áp bức, không tìm ra lối
thoát khỏi tình trạng bần cùng hoá, nô dòch hoá trong đời sống hiện thực, họ đã
tìm lối thoát ở trên trời. V.I. Lênin đã viết: “Sự bất lực của giai cấp bò bóc lột
trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời
tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống như sự bất lực của người dã man trong
cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào
những phép màu, ..v.v…”. [69, 71].
Từ những căn cứ lý luận trên giúp chúng ta thấy rõ nguồn gốc kinh tế - xã
hội của Đạo Cao Đài, đó là những tiền đề kinh tế – chính trò cho sự xuất hiện
của nó. Để làm rõ, nguồn gốc kinh tế - xã hội của Đạo Cao Đài, chúng tôi thấy
cần phân tích bối cảnh lòch sử ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX để làm sáng

tỏ cơ sở kinh tế, chính trò, xã hội của sự hình thành Đạo Cao Đài.
Về kinh tế, vào những năm đầu của thế kỷ XX, mặc dù là nước thắng
trận, nước Pháp bước ra khỏi cuộc chiến tranh Thế giới Thứ nhất với những tổn
thất nặng nề về kinh tế và tài chính. Để hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi
phục nền kinh tế, đợt khai thác thuộc đòa lần thứ hai của Thực dân Pháp diễn ra
tàn bạo hơn, khốc liệt hơn, chúng tiến hành đầu tư ồ ạt vào các ngành kinh tế
Việt Nam với tốc độ nhanh hơn và quy mô rộng lớn hơn đợt khai thác lần thứ
nhất. Nếu trong cuộc khai thác lần thứ nhất, số vốn đầu tư của tư bản Pháp tập
trung chủ yếu vào các ngành khai thác mỏ và giao thông vận tải, thì vào thời kỳ
này tư sản Pháp lại đổ xô vào kinh doanh nông nghiệp, song song việc tiếp tục
đẩy mạnh hoạt động khai thác khoáng sản.
So với các ngành kinh tế khác, nông nghiệp là ngành được Thực dân Pháp
chú trọng đầu tư khai thác nhiều hơn cả, nên số vốn Pháp bỏ vào nông nghiệp
tăng lên gấp nhiều lần so với trước, với vốn đó Thực dân Pháp ra sức cướp đoạt


24

ruộng đất của nhân dân ta để lập đồn điền trồng lúa và các cây công nghiệp
như: cao su, cà phê… Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, tại các đồn điền trồng lúa,
các chủ người Pháp cũng như người Việt vẫn thực hiện canh tác và bóc lột theo
kiểu Phong kiến, nghóa là vẫn giao ruộng đất cho các gia đình nông dân sản xuất
rồi thu tô thuế. Mức tô mà người nông dân phải nộp từ 50 – 75% hoa lợi thu
được. Chưa hết, chính quyền Thực dân tìm cách bắt buộc nhân dân mua các loại
công trái, quốc trái để lấy tiền xây dựng các công trình công cộng phục vụ nhu
cầu quân sự, ngoài ra chúng còn thi hành một chế độ mộ phu cực kỳ man rợ.
Ngoài việc độc chiếm ruộng đất của nông dân, độc quyền xuất khẩu, độc
quyền muối, rượu và thuốc phiện, Thực dân Pháp còn thiết lập một hệ thống
ngân hàng và cho vay nặng lãi.
Bên cạnh việc bóc lột tàn bạo về kinh tế, Thực dân Pháp còn thực hiện

chính sách mà các nhà cầm quyền ở các nước thuộc đòa ưa dùng nhất – chính
sách ngu dân “làm cho dân ngu để dễ trò”. Pháp ra nghò đònh ban hành quy chế
giáo dục, hạn chế mở trường học, bãi bỏ dạy chữ Quốc ngữ ở trường làng, tập
trung dạy ở một số trường Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho … Các loại sách bói toán,
tướng số, kiếm hiệp bày bán khắp nơi. Các sòng bạc, tiệm hút, nhà chứa mở ra
nhan nhản ở các thành phố để lôi kéo thanh niên vào cuộc sống tr lạc; dân
chúng thất học, dốt nát, người nông dân ngày càng bò bần cùng hoá, họ sa vào cờ
bạc, rượu chè và trở thành những con nợ của bọn đòa chủ và Thực dân. Sơn Nam
viết: “Giờ đây, lúc quá nghèo, họ lại đâm ra cờ bạc, …. Nhiều người mặc quần
xà lỏn bằng bố tời nhưng dám ăn thua bạc trăm để rồi lãnh ruộng giao (nghóa là
người thiếu nợ phải cày bừa, cấy lúa xong rồi thì giao phần ruộng ấy cho chủ nợ
gặt) một lối vay nợ mới – hoặc đi ẩn tránh ở xứ khác” [90, 133]. Tình cảnh trên
đã làm cho mâu thuẫn giữa nông dân với bọn đòa chủ và Thực dân Pháp vốn đã
gay gắt nay lại càng gay gắt hơn. Kết quả trong những năm 1920 – 1925 nổ ra


25

nhiều cuộc nổi dậy tự phát của nông dân chống Thực dân và đòa chủ tay sai với
quy mô ngày càng rầm rộ, vang dội cả miền Nam, nhưng những cuộc đấu tranh
tự phát ấy đều bò đàn áp khốc liệt. Người nông dân Nam Bộ lâm vào cảnh bế tắc
cùng cực, không còn lối thoát. Một bộ phận nông dân phải tìm đến chổ dựa tôn
giáo những mong có được cuộc sống tốt hơn và để giải thoát tâm linh, nhu cầu
này là mảnh đất tốt cho sự ra đời của Đạo Cao Đài.
Rõ ràng, hoàn cảnh kinh tế là một trong những nguyên nhân sâu xa của
Đạo Cao Đài, nhưng nó không phải là nguyên nhân trực tiếp và duy nhất. Bởi,
nhân tố kinh tế không thể hình thành biểu tượng, xúc cảm, tình cảm tôn giáo mà
nó chỉ là một điều kiện tiên quyết nhất cho sự xuất hiện của Đạo Cao Đài. Vì
thế khi nói đến nguồn gốc ra đời của tôn giáo nầy cần phải thấy được bối cảnh
chính trò, xã hội ở Việt Nam lúc bấy giờ.

Về chính trò, dưới chính sách cai trò tàn bạo của Thực dân Pháp và sự nhu
nhược của Triều đình Huế, xã hội Việt Nam bò phân hoá thành nhiều giai cấp.
Chính sách của Thực dân Pháp đối với các tầng lớp xã hội cũng khác nhau, và
thể hiện sự phân biệt chủng tộc một cách trắng trợn. Tất cả người Pháp đều được
ưu tiên trong mọi vò trí, mọi công việc và thời gian, người Việt bò coi thường và
khinh rẻ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân vô cùng khó khăn, nhất là giai cấp
nông dân – lực lượng đông đảo nhất trong xã hội – có thể cầm chắc họ đang
sống ở mức cùng cực của đói kém và nghèo khổ. Tầng lớp trí thức và giới công
chức làm việc cho Pháp có đời sống vật chất cao hơn so với công nhân và nông
dân, nhưng họ vẫn bò Pháp chèn ép và đối xử bất bình đẳng. Chẳng hạn, thu
nhập của công chức người Việt thấp hơn từ 30 đến 100 lần so với thu nhập của
người Pháp. Trong công sở, lương của viên chức nhỏ là 49 đồng/năm, viên chức
trung bình là 166 đồng/năm, còn thu nhập của người Pháp là 5.000 đồng/năm.
[105, 6]. Hoặc cùng một công sở, một người Pháp và một người Việt có bằng


×