ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
CẤU TRÚC TIÊU ĐIỂM THÔNG TIN
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
VÀ TIẾNG ANH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
CẤU TRÚC TIÊU ĐIỂM THƠNG TIN
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
VÀ TIẾNG ANH
Chun ngành: NGƠN NGỮ HỌC SO SÁNH – ĐỐI CHIẾU
Mã số: 62.22.01.10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH SÂM
Phản biện độc lập 1: GS.TS. Hồng Trọng Phiến
Phản biện độc lập 2: GS.TS. Bùi Khánh Thế
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Đức Dân
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Hồng Cổn
Thành phố Hồ Chí Minh – năm 2011
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Thanh Huyền
ii
CÁC CHỮ VIẾT TẮT DÙNG TRONG LUẬN ÁN
B
Bổ ngữ
C
Chủ ngữ
TrN
Trạng ngữ
CâuTĐ
Câu-Tiêu điểm
TCN
Từ chức năng
CTTT
Cấu trúc thông tin
CTTĐ
Cấu trúc tiêu điểm
C-V/CV
Chủ-Vị
C-V-B/CVB
Chủ ngữ-Vị ngữ-Bổ ngữ
Đ-T/đ-t
Đề-Thuyết/đề-thuyết
TĐ
Tiêu điểm
TĐBP
Tiêu điểm bộ phận
TĐTTM
Tiêu điểm thông tin mới
TĐTP
Tiêu điểm tương phản
TGĐ
Tiền giả định
TrN
Trạng ngữ
TTC
Thông tin cũ
TTM
Thông tin mới
TTTĐ
Tham tố-Tiêu điểm
TNTT/tntt
Từ ngữ tình thái
TTT/ttt
Từ tình thái
VnTĐ
Vị ngữ-Tiêu điểm
iii
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC
Trang
DẪN LUẬN
1
0.1 Lý do chọn đề tài ………………………………………………………………………………………...
1
0.2 Mục đích nghiên cứu …………………………………………………………………………………….
1
0.3 Đối tượng nghiên cứu ……………………………………………………………………………………
2
0.4 Phạm vi nghiên cứu ……………………………………………………………………………………...
2
0.5 Lịch sử vấn đề ……………………………………………………………………………………………
4
0.6 Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu …………………………………………………………….
20
0.7 Ý nghĩa khoa học của đề tài ……………………………………………………………………………..
21
0.8 Bố cục luận án …………………………………………………………………………………………..
22
Chương 1: Tổng quan về cấu trúc thông tin, tiêu điểm và cấu trúc tiêu điểm
24
1.1 Cấu trúc thông tin, các thành tố của đơn vị thông tin và những yếu tố tác động đến tình trạng thông tin
24
1.1.1 Cấu trúc thông tin…………………………………………………………………………………..
24
1.1.2 Thông tin cũ, thông tin mới………………………………………………………………………..
25
1.1.3 Ngữ cảnh, tiền giả định, kiến thức nền và tình trạng thông tin ……………………………………
26
1.1.4 Yếu tố tâm lý và tình trạng cũ-mới của thông tin……………………………………….................
27
1.2 Tiêu điểm thông tin …………………………………………………………………..............................
30
1.2.1 Tiêu điểm…………………………………………………………………………………………..
30
1.2.2 Các loại tiêu điểm: tiêu điểm thông tin mới và tiêu điểm tương phản …………………………….
32
1.3 Cấu trúc tiêu điểm thông tin …………………………………………………………………………….
34
1.3.1 Các kiểu CTTĐ của K.Lambrecht và hệ thuật ngữ ……………………………………...…………
34
1.3.2 Quan điểm của luận án ……………………………………………………………………………..
36
1.4 Về CTTĐ trong câu đơn tiếng Việt …………….………………………………………………………..
39
1.4.1 Cấu trúc VnTĐ ……………………………………………………………………………………..
39
1.4.2 Cấu trúc CâuTĐ ………………….…………………………………………………………………
42
1.4.3 Cấu trúc TĐBP ……………….……………………………………………………………………
48
1.5 Việc đánh dấu tiêu điểm và CTTĐ ………………………………………………………………………
51
1.5.1 Tiêu điểm đánh dấu và không đánh dấu ……………………………………………………………
51
1.5.2 Vai trò của TGĐ trong việc xác định tiêu điểm …………………………………………………….
53
1.5.3 Tác động của việc đánh dấu tiêu điểm đến CTTĐ .………..……………………………………….
54
1.6 Tiểu kết …………………………………………………………………………………………………..
Chương 2: Cấu trúc tiêu điểm và ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa trong việc chỉ xuất, đánh dấu
tiêu điểm trong câu tiếng Việt
2.1 CTTĐ trong một số biến thể cú pháp tiếng Việt …………………………………………………………
2.1.1 CTTT và hình thức câu – Sự giao thoa của các quan hệ ngữ pháp-ngữ nghĩa-ngữ dụng trong
CTTĐ thông tin …………………………………………………………………………………….
2.1.2 CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo và câu có cấu trúc Đề-Thuyết với Đề tương phản ……………...
2.1.2.1 CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo ………………………………………………………….
55
58
58
58
59
59
iv
2.1.2.2 CTTĐ ở câu Đề-Thuyết với Đề tương phản trong tiếng Việt ……………………………...
63
2.1.3 CTTĐ ở câu có cấu trúc triển khai trong tiếng Việt ………………………………………………..
2.1.3.1 Triển khai trái bằng ngữ đoạn hay cú đoạn định ngữ ………………………………………
2.1.3.2 Triển khai bằng cấu trúc có các chỉ tố hồi chỉ ……………………………………………...
2.1.3.3 Triển khai bằng các bậc Đề-Thuyết ………………………………………………………..
2.2 CTTĐ với vai trò của ngữ điệu-trọng âm trong chỉ xuất và đánh dấu TĐ trong câu tiếng Việt ………...
2.2.1 Trọng âm trong tiếng Việt ………………………………………………………………………….
2.2.1.1 Trọng âm trong phạm vi từ ………………………………………………………………..
2.2.1.2 Trọng âm trong phạm vi ngữ đoạn/câu ……………………………………………………
2.2.2 Ngữ điệu trong tiếng Việt ………………………………………………………………………….
2.2.2.1 Chức năng ngữ pháp của ngữ điệu tiếng Việt ……………………………………………..
2.2.2.2 Chức năng ngữ dụng của ngữ điệu tiếng Việt ……………………………………………..
2.2.3 Sự chuyển vị trọng âm TĐ trong diễn ngôn và ngữ điệu đay cuối câu trong câu tình thái
2.2.3.1 Sự chuyển vị trọng âm trong diễn ngôn ……………………………………………………
2.2.3.2 Ngữ điệu đay cuối câu trong câu tình thái …………………………………………………
2.3 CTTĐ với từ vựng-ngữ nghĩa đánh dấu TĐ trong câu tiếng Việt ……………………………………….
2.3.1 Về việc đánh dấu TĐ bằng từ ngữ tình thái trong tiếng Việt ………………………………………
77
78
79
80
81
81
82
82
84
84
85
92
92
95
97
98
2.3.2 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ đơn ……………………………………………………...
100
2.3.3 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ phức ………. ....……….…..…………………………….
103
2.4 Tiểu kết ………………………………………………………………………………………………….
104
Chương 3: Cấu trúc tiêu điểm và ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa trong việc chỉ xuất, đánh dấu
tiêu điểm trong câu tiếng Anh
3.1 CTTĐ trong một số biến thể cú pháp tiếng Anh …………………………………………………….
3.1.1 CTTĐ trong câu có trật tự từ đảo và Đề TP trong câu tiếng Anh ………………………………..
3.1.1.1 Vấn đề trật tự từ và Đề TP trong tiếng Anh ……………………………………………...
3.1.1.2 CTTĐ trong câu có Đề tương phản trong tiếng Anh …………………………………….
3.1.2 CTTĐ ở câu có cấu trúc triển khai trong tiếng Anh ………………………………………………
3.1.2.1 Cấu trúc it-clefts …………………………………………………………………………
3.1.2.2 Cấu trúc wh-clefts……………………………………………………………… ………..
3.1.2.3 Cấu trúc th-clefts …………………………………………………………………………
3.1.2.4 Cấu trúc câu tồn tại “There+ be + relative clause” ……………………………………….
3.2 CTTĐ với ngữ điệu và trọng âm trong câu tiếng Anh ……………………………………………….
3.2.1 Trọng âm trong tiếng Anh ………………………………………………………………………..
3.2.1.1 Chức năng ngữ pháp của trọng âm ……………………………………………………….
3.2.1.2 Chức năng ngữ dụng của trọng âm ……………………………………………………….
3.2.2 Ngữ điệu trong tiếng Anh ……………………………………………………………………….
3.2.2.1 Về hệ thống ngữ điệu tiếng Anh …………………………………………………………
3.2.2.2 Chức năng ngữ pháp của ngữ điệu tiếng Anh …………………………………………...
3.2.2.3 Chức năng ngữ dụng của ngữ điệu tiếng Anh …………………………………………...
3.3 CTTĐ với từ vựng-ngữ nghĩa đánh dấu TĐ trong câu tiếng Anh
3.3.1 Về lớp từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ trong tiếng Anh …………………………….………………
107
107
107
107
109
122
123
125
127
129
130
130
130
131
132
132
133
133
140
140
3.3.2 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ đơn ……………...……………………………………..
142
3.3.3 Các đơn vị từ ngữ tình thái đánh dấu TĐ phức .…………………………………………………..
151
3.4 Tiểu kết …………………………………………………………………………………………………
Chương 4: So sánh cấu trúc tiêu điểm dưới tác động của ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa trong
câu tiếng Việt và tiếng Anh
4.1 Nội dung, mục đích và phương pháp so sánh ………………………………………………………….
153
156
156
v
4.1.1 Nội dung, mục đích ……………………………………………………………………………..
156
4.1.2 Phương pháp và các thao tác tiến hành so sánh …………………………………………………
156
4.2 So sánh CTTĐ trong một số biến thể cú pháp giữa tiếng Việt và tiếng Anh ……………………….
4.2.1 CTTĐ trong các biến thể câu liên quan đến trật tự từ: cơ cấu cú pháp, cấu trúc Đề-Thuyết với
Đề TP ……………………………………………………………………………………………..
4.2.1.1 Những điểm tương đồng …………………………………………………………………
4.2.1.2 Những điểm khác biệt …………………………………………………………………….
4.2.2 So sánh các biến thể cú pháp có cấu trúc triển khai ………………………………………………
4.2.2.1 Những hình thức cấu trúc tương đồng ……………………………………………………
4.2.2.2 Những hình thức cấu trúc khác biệt ………………………………………………………
4.3 So sánh phương thức từ vựng-ngữ nghĩa trong vai trò chỉ xuất và đánh dấu TĐ ……………………
4.3.1 Những điểm tương đồng …………………………………………………………………………
157
157
158
162
170
170
171
173
173
4.3.2 Những điểm khác biệt ……………………………………………………………………………
175
4.4 So sánh phương thức ngữ điệu-trọng âm trong vai trò đánh dấu TĐ…………………………………..
179
4.4.1 Những điểm tương đồng………………………………………………………....……………...
179
4.4.2 Những điểm khác biệt …………………………………………………………………………..
182
4.5 Tiểu kết ………………………………………………………………………………………………...
185
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………..
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ……………………………………………………….
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………………………………………………..
PHỤ LỤC ……………………………………………………………………………………………………
187
196
197
208
1
DẪN LUẬN
01. Lý do chọn đề tài
Là đối tượng nghiên cứu của ngữ dụng học, cấu trúc thông tin (CTTT), tiêu điểm thông
tin (TĐTT) và đặc biệt là cấu trúc tiêu điểm (CTTĐ), đã nhận được sự quan tâm đặc
biệt từ giới ngôn ngữ học trên thế giới. Cho đến nay, những vấn đề này đã được khảo
sát, thảo luận từ nhiều bình diện ngôn ngữ học khác nhau như ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, đến cả những khía cạnh ngoài ngôn ngữ học như tâm lý, văn hóa, xã hội, v.v.
Tiếc rằng, ở Việt nam cho đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình chuyên biệt
nào về CTTT, ngoài một vài giản yếu dụng học, một vài khảo cứu về ngữ pháp, ngữ
nghĩa đề cập ở mức độ sơ lược, khái quát. Có thể kể đến một số công trình của các tác
giả: Cao Xuân Hạo 1991 trong Tiếng Việt- Sơ thảo Ngữ pháp chức năng, Nguyễn Thiện
Giáp 2000 trong Dụng học Việt ngữ, Trần Ngọc Thêm 1985, 2000 trong Hệ thống liên
kết văn bản, Nguyễn Hồng Cổn trong các số của tạp chí Ngôn ngữ và Kỷ yếu ngôn ngữ
2001, 2004, 2010, Nguyễn văn Hiệp 2008 trong Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp; ....
Bên cạnh đó, bộ máy khái niệm tương ứng hầu như được hiểu ở mỗi người một
cách.
Vì thế, sau khi tiếp thu những kết quả lý thuyết từ những công trình nghiên cứu
về CTTT, CTTĐ trên cứ liệu tiếng Anh, luận án có ước muốn áp dụng hệ thống lý
thuyết chung về CTTT của ngữ dụng học vào tiếng Việt, nhằm phát hiện những mối liên
hệ và sự ảnh hưởng của cú pháp, từ vựng-ngữ nghĩa và ngữ âm đến cơ cấu thông tin
cũng như sự phân bố thông tin tiêu điểm (TĐ) trên văn bản, ngôn bản trong trong quá
trình giao tiếp, trong tiếng Việt, đối chiếu và so sánh với tiếng Anh .
0.2 Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là tìm hiểu mối quan hệ giữa CTTT, sự phân bố TĐ
và CTTĐ với hình thức câu, tìm hiểu CTTĐ của câu điển thể và biến thể do sự tương
tác giữa các yếu tố ngôn ngữ và thông tin trong giao tiếp.
2
Dựa trên cơ sở lý thuyết đại cương về CTTT, CTTĐ, áp dụng mô hình CTTĐ
của K.Lambrecht 1994 vào tiếng Việt, luận án tiến hành khảo sát CTTĐ trong mô hình
câu đơn cơ bản của tiếng Việt, đồng thời tìm hiểu tầm ảnh hưởng và tác động của các
yếu tố ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng-ngữ nghĩa đến cơ cấu thông tin trên bề mặt của câu,
đặc biệt là những thay đổi về tính chất TĐ và qui mô của CTTĐ trong câu tiếng Việt và
tiếng Anh, lấy đó làm cơ sở so sánh đối chiếu hai ngôn ngữ, tìm ra những điểm tương
đồng và dị biệt về hình thức thể hiện cũng như ngữ nghĩa-ngữ dụng được biểu đạt bởi
những phương tiện ngôn ngữ này khi chúng thực thi nhiệm vụ ngữ dụng của mình, đó
là: xác lập thông tin, đánh dấu và chỉ xuất TĐ cũng như qui mô CTTĐ, đồng thời chỉ ra
khả năng thay thế nhau giữa các phương thức này trong đối dịch nhằm bảo toàn ngữ
nghĩa và thông tin TĐ.
0.3 Đối tượng nghiên cứu
Với tên đề tài “Về cấu trúc tiêu điểm thông tin trong câu tiếng Việt và tiếng Anh”, trọng
tâm nghiên cứu của luận án là nhận diện, miêu tả và phân tích các kiểu CTTĐ trong
một số loại câu có những tổ chức cú pháp và cơ cấu thông tin khác nhau, cũng như sự
biến đổi về trạng thái, tính chất và qui mô TĐ do những tác động của các phương tiện
ngôn ngữ khác nhau trong tiếng Việt và tiếng Anh. Nói rõ hơn, đối tượng của nghiên
cứu này là CTTĐ thông tin của câu trong quá trình giao tiếp xét trên hai bình diện điển
dạng và các biến thể do tương tác giữa các bình diện ngôn ngữ, đặc biệt là hình thức
câu. Trong quá trình quan sát và phân tích, luận án xem xét mối quan hệ mật thiết giữa
CTTĐ với các biến thể cú pháp gắn liền với ngữ cảnh sử dụng.
0.4 Phạm vi nghiên cứu
a) Luận án dựa trên những tiền đề lý thuyết về CTTT tiếp thu được từ những công trình
nghiên cứu của ngữ học thế giới chủ yếu trên cứ liệu tiếng Anh, đặc biệt là lý thuyết về
CTTĐ và mô hình các kiểu CTTĐ của Lambrecth 1994 để tiến hành khảo sát cơ cấu
thông tin trong câu tiếng Việt ở những kiểu câu đơn điển hình nhất, đồng thời quan sát
sự biến đổi về tính chất TĐ và qui mô CTTĐ trong một số biến thể cú pháp qua những
tác động của các yếu tố ngôn ngữ có sự tham gia của các yếu tố khác ngoài ngôn ngữ.
3
b) Luận án tập trung nhất vào việc tìm hiểu vai trò và ảnh hưởng của các yếu tố ngôn
ngữ: ngữ pháp, ngữ âm và từ vựng-ngữ nghĩa đến CTTĐ của câu.
Về vai trò và ảnh hưởng ngữ pháp của câu đối với CTTĐ, luận án tiến hành khảo
sát sự chuyển biến về tính chất TĐ và vùng TĐ trong một số biến thể cú pháp tình thái
như (i) câu có trật tự từ đảo, (ii) câu có cấu trúc Đề-Thuyết với Đề tương phản, (iii) câu
có các vế triển khai.
Về Đề tương phản, do có sự hạn chế về số lượng trang viết, luận án chỉ giới hạn
việc khảo sát ở hai loại Đề là Bổ đề và Trạng Đề với trật tự Đề-Thuyết cố định và một
số ngữ đoạn/cú đoạn Trạng ngữ tự do nằm ở vị trí Đề, còn Chủ đề tương phản và các
loại Trạng đề bao gồm các Ngoại đề và Đề tình thái - như cách gọi của Cao Xuân Hạo
1991, hay Đề văn bản, Đề liên nhân - như cách hình dung của ngữ pháp chức năng hệ
thống, luận án không đưa vào phạm vi xem xét.
Cơ cấu thông tin vốn có thể được xác định theo nhiều cách: (i) căn cứ vào quan
hệ TGĐ-TĐ qua các câu hỏi-đáp; (ii) căn cứ vào việc phân đoạn Đề- Thuyết trên bề mặt
của của câu, (iii) thông qua ngữ cảnh, văn cảnh diễn ngôn, (iv) căn cứ vào ý định của
người nói (qua cách sử dụng các phương tiện ngôn ngữ) và cách giải mã thông tin của
người nghe.
Tuy nhiên, khi phân tích về ảnh hưởng của cú pháp đến CTTĐ trong tiếng Việt
và tiếng Anh, luận án không xét CTTĐ qua câu hỏi-đáp mà tập trung quan sát sự phân
bố TĐ trên cấu trúc bề mặt của câu trong các biến thể câu tình thái trần thuật trong từng
ngôn ngữ hầu làm rõ sự giao thoa trong CTTT hai loại cấu trúc: cấu trúc Chủ-Vị (ngữ
nghĩa-ngữ pháp) và cấu trúc Đề-Thuyết (ngữ nghĩa-ngữ dụng).
Ảnh hưởng của hai phương tiện ngữ âm và từ vựng-ngữ nghĩa đến CTTĐ được
phân tích trên phương diện ngữ nghĩa-ngữ dụng trong mối liên hệ với chủ thể giao tiếp
và ngữ cảnh giao tiếp.
Bên cạnh đó, luận án không dừng việc nghiên cứu CTTĐ trong khuôn khổ câu
đơn như các nghiên cứu đi trước mà bước đầu mở rộng khảo sát cơ cấu TĐ trong cấu
trúc của nó sang đến các cú đoạn Trạng ngữ trong các câu ghép tiếng Việt, câu phức
tiếng Anh với tư cách là những Trạng đề tương phản.
4
c) Khi so sánh, luận án dựa vào những đặc điểm về loại hình ngôn ngữ của tiếng Việt và
tiếng Anh, lấy đó làm cơ sở để chỉ ra những điểm dị biệt của những phương tiện ngôn
ngữ dùng để chỉ xuất và đánh dấu TĐ, cũng như chỉ ra những sự chênh biệt tất yếu về
cấu trúc cú pháp, về cơ cấu từ vựng trong cấu trúc và những phương tiện thay thế khi
thực hiện đối dịch giữa hai ngôn ngữ này.
0.5 Lịch sử vấn đề
0.5.1 Từ CTTT đến CTTĐ
CTTĐ là sự phát triển lý thuyết về CTTT, về cách thức tổ chức và thể hiện nội dung
thông tin thông qua hình thức câu trong những ngữ cảnh giao tiếp khác nhau. Về cơ
bản, nó chỉ là một cách gọi khác của CTTT, nhưng với một số nhà ngôn ngữ học, điển
hình như K.Lambrecht 1994, CTTĐ còn được mô hình hóa bằng các kiểu cấu trúc khác
nhau dựa vào nhiệm vụ giao tiếp và qui mô thông tin TĐ.
Thuật ngữ “cấu trúc thông tin” được sử dụng lần đầu tiên bởi M.A.K.Halliday
năm 1967 trong một bài viết gây tiếng vang lớn trong giới ngôn ngữ học thời bấy giờ về
hiện tượng ngôn điệu trong lời nói. Trong bài viết này Halliday nhắc lại những khái
niệm về known/unknown (cái đã biết/cái chưa biết) - những đơn vị có chức năng
chuyển tải thông tin trong quá trình giao tiếp - vốn từ trước đó, đã được V.Mathesius
1929 - người sáng lập ra trường phái Prague - đề cập đến, và sau này là các học trò của
ông như J.Firbas, E.Hajicova F. Daneš, P.Sgall qua lý thuyết về Phân đoạn thực tại câu
(Functional sentence perspective – FSP).
Theo lý thuyết này, cơ cấu tổ chức của đơn vị thông tin được lưỡng phân trên bề
mặt câu trong ngôn bản, văn bản thành hai thành tố là cái cũ và cái mới (given- new)
dựa trên cơ sở quan hệ chức năng Đề-Thuyết (Theme-Rheme/ Topic-Comment) của câu.
(Xem thêm ở 1.1&1.2, Phụ lục 1)
M.A.K.Halliday (1967a,1967b,1985,1991) cũng đồng quan điểm về đơn vị
thông tin bao gồm hai thành tố là thông tin cũ (TTC) và thông tin mới (TTM) của
V.Mathesius và các tác giả của trường phái này. Halliday cho rằng TTM là cái mà
người phát tin cho rằng người nhận tin chưa biết, là cái người nghe chưa nắm bắt được,
hay không khôi phục lại được từ ngữ cảnh, và TTC là cái mà người phát tin cho rằng
5
người nhận tin đã biết (do hiện hữu về mặt vật lý trong ngữ cảnh, hoặc là do đã được đề
cập đến trước đó trong diễn ngôn). Trật tự tự nhiên giữa hai thành tố này của đơn vị
thông tin là cũ-mới.
Cái khác của Halliday so với với nhóm tác giả lý thuyết Phân đoạn thực tại ở
chỗ, ông phân biệt CTTT với cấu trúc Đề-Thuyết. Trong Dẫn luận ngữ pháp chức năng
[1985:278], Halliday cho rằng: CTTT với cấu trúc Đề-Thuyết mặc dù có quan hệ với
nhau, nhưng ranh giới Đề-Thuyết và cũ-mới không phải lúc nào cũng trùng khớp với
nhau. TTC là cái người nghe đã biết hoặc có thể tiếp cận được, còn Đề là cái người nói
chọn làm xuất phát điểm của nhận định, nó thường là TTC, nhưng cũng có khi Đề lại
chứa đựng cái mới. Cấu trúc Đề-Thuyết hướng tới người nói, trong khi cấu trúc cũ-mới
lại hướng tới người nghe. Khi phân tích cũ-mới trước hết phải dựa vào ngữ cảnh diễn
ngôn.
Nghiên cứu về CTTT thông qua mối liên hệ với ngữ pháp chức năng còn có
nhiều tác giả khác, chẳng hạn như J.D.L.Bolinger 1965, J.Lyons 1968, O.Krilova &
X.Khavronina, 1976, S.C.Simon 1981, E.Vallduvi 1990, Van Valin 1991,
E.Valldulvi & M.Vilkuna 1998, M.Steedman 1991, 2000, 2003, v.v.
Theo thời gian, phạm vi nghiên cứu được mở rộng, cách nhìn nhận vấn đề ít
nhiều thay đổi. Các khảo cứu sau này đã tập trung vào vấn đề TĐ trong CTTT, từ đó
xuất hiện thêm nhiều thuật ngữ mà nội hàm và ngoại diên của chúng khá phức tạp, tuy
nhiên về cơ bản, đều dùng để chỉ những đơn vị tương đương với TTC và TTM như Tiền
giả định-Tiêu điểm (Presupposition-Focus); Tiền đề-Tiêu điểm (Background/GroundFocus), Chủ đề-Tiêu điểm (Topic-Focus).
N.Chomsky (1971) là người đầu tiên đầu sử dụng cặp thuật ngữ presuppositionfocus (TGĐ-TĐ) thay cho cặp thuật ngữ theme-rheme/ topic-comment (Đ-T) để chỉ hai
tính chất cũ-mới của thông tin. Tác giả nhìn nhận hai thành phần cơ bản trong nội dung
thông tin là TGĐ và TĐ và xác định rõ sự khác biệt giữa hai thành phần này. Theo ông,
TGĐ có thể là một bộ phận của câu, tồn tại độc lập với hoạt động ngôn từ, nó cũng có
thể là cái tồn tại bên ngoài, không có mặt trong thành phần câu nói. TGĐ trong hiển
ngôn là phần thông tin làm tiền đề cho thông tin TĐ được thực hiện; TĐ của câu là
những ngữ đoạn nằm trong trung tâm ngữ điệu, có nhiệm vụ chỉ ra mối quan hệ (i) giữa
6
một câu trả lời thực tế với những câu/phát ngôn hay những câu hỏi khác nhau; (ii) giữa
một câu trả lời có thể có với nhiều câu/phát ngôn khác nhau; (iii) hoặc xác định mối
quan hệ giữa những câu/phát ngôn khác nhau trong cùng một diễn ngôn. Như vậy, TGĐ
trong CTTT theo hình dung của Chomsky và của các nhà ngữ học hiện đại có thể là
thông tin hiển minh, thể hiện trên cấu trúc bề mặt của câu, lại vừa có thể là thông tin suy
luận, nhận biết được thông qua những ngữ cảnh phát ngôn khác nhau. (Xem thêm 1.3,
Phụ lục 1).
Theo bước Chomsky, nhiều nhà ngôn ngữ học sau này như R.Jackendoff 1972,
L.Karttunen 1974, E.Prince 1992, M.Rooth 1985, 1992, A.Kratzer 1994, K.Lamrecht
1994,2000,2003, E.Vallduvi & R.Zacharski 1994, D.Buring 2005, M.Krifka 2006,
S.Calhoun 2007, … đã sử dụng cặp thuật ngữ TGĐ-TĐ (Presupposition-Focus) khi
khảo sát cơ cấu thông tin trong hoạt động diễn ngôn, và tìm ra mối liên quan giữa các
bình diện ngôn ngữ khác nhau trong việc trao và nhận tin cũng như tác động của những
yếu tố khác bên ngoài ngôn ngữ đến quá trình này.
M.Kriffka 1992, 2001, 2006 và một số tác giả khác thì dùng cặp thuật ngữ tương
đương là Common ground-Focus (Tiền đề-TĐ) để chỉ hai thành tố này của thông tin.
Cặp thuật ngữ Topic-Focus (Chủ đề-TĐ) bắt đầu xuất hiện từ những năm cuối
thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Chúng được dùng bởi P.Sgall 1967, S.C.Dick 1978,
N.Erteschik-shir
1997,1999,
K.Lambrecht
1994,
D.Buring
1995,
E.Hajicova,
B.H.Partee, P.Sgall 1998, J. Jacobs 2001, R.A.Jacobs 1993,2001, J.K.Gundel &
T.Fretheim 2006, v.v.
Nói về thành phần của CTTT, R.E. Asher (1994), đã tổng kết rằng, trong một
câu thông báo thông thường, phần Đề (Theme/Topic) ứng với phần TTC/TGĐ
(Known/Old/ Presupposition); phần Thuyết (Rheme/Comment) ứng với thông tin
TĐ/TTM (Focus/New). Cái cũ, có thể chỉ gồm phần Đề, nhưng cũng có thể vượt quá
ranh giới của Đề; còn TĐ là phần thông tin quan trọng, thường thì là cái mới, là phần
Thuyết, song nhiều khi TĐ lại hiện diện cả ở trên vị trí của Đề, vốn là vị trí của cái đã
biết.
7
Có hai cách xác định TĐ thông tin của một câu: (i) căn cứ vào quan hệ TGĐTĐ qua các câu hỏi đáp; (ii) căn cứ vào việc phân đoạn Đề Thuyết của câu thông qua
ngữ cảnh, văn cảnh diễn ngôn.
Như vậy, về cơ bản, CTTT của câu được lưỡng phân thành hai tầng kiến trúc:
tầng thứ nhất là sự lưỡng phân có tính chất ngữ pháp-ngữ nghĩa chỉ ra mối liên hệ giữa
CTTT với hình thức câu, đó là cấu trúc Đề-Thuyết; tầng thứ hai là sự lưỡng phân thông
tin ngữ dụng, giữa cái đã biết và cái chưa biết (xác định thông qua hỏi-đáp).
Bảng 0.1 chứng minh cho luận điểm này.
Bảng 0.1: Phân đoạn câu và phân đoạn thông tin
(1) Where is the dot? (The dot is) INSIDE the circle.
(2) What is inside the circle? The DOT (is inside the circle).
(1)
(2)
Topic
Comment
The dot
is
INSIDE the circle.
Dấu chấm
nằm
BÊN TRONG hình tròn.
Presupposition
Focus
Topic
Comment
The DOT
is
inside the circle.
Dấu chấm
ở
bên trong hình tròn.
Focus
Presupposition
Tạm khái quát hệ thống thuật ngữ chỉ các thành tố của đơn vị thông tin và sự
lưỡng phân của thông tin trên câu bằng bảng 0.2 như sau:
Bảng 0.2: Sự lưỡng phân đơn vị thông tin và câu - Hệ thuật ngữ
Givenness = Given/Old
Aboutness = New
(What is known vs. What an utterance is about)
(What is new vs. How it is said)
(Cái được nói đến/ Cái đã biết)
(Cái được thuyết minh/ Cái mới)
Topic
Focus
Presupposition
Focus
Background
Focus
Common ground
Focus
Theme (Đề)
Topic
-
Rheme (Thuyết)
Comment
8
Từ những năm 1990 thuật ngữ CTTĐ xuất hiện và được dùng song song với
thuật ngữ CTTT và đến nay đã trở nên phổ biến (xem thêm T.Fretheim 1992a,
K.Lambrecht 1994, Esterschik-shir 1997, R.D. Van Valin Jr. 2004, C.Breul 2004, v.v).
Bên cạnh việc xây dựng một bộ máy khái niệm dựa vào sự lưỡng phân đơn vị
thông tin trong CTTT/CTTĐ, các nhà ngôn ngữ học còn quan tâm đến sự biến thiên về
độ lớn, kích cỡ (size/ scope) của TĐ trong những ngữ cảnh cụ thể với những mục đích
giao tiếp khác nhau và lấy đó làm tiêu chí xác định qui mô và kiểu loại của CTTĐ.
Chẳng hạn, D.R.Ladd [1980:77, theo M.Krifka, 2006], M.Rooth 1985,1992 đã dùng
thuật ngữ tiêu điểm rộng (broad focus) để chỉ TĐ có phạm vi là ngữ đoạn, và dùng
thuật ngữ tiêu điểm hẹp (narrow focus) để chỉ TĐ giới hạn ở một thành tố nhất định.
Qua khảo sát, các nhà ngôn ngữ học đã nhận thấy khả năng phân bố đa dạng của
TĐ trên câu, nhận thấy có sự tương ứng và sự không tương ứng về mặt ngữ dụng giữa
cơ cấu Đề ngữ-Thuyết ngữ (Theme-Rheme) hay Đề-Thuyết (Topic-Comment) với cơ
cấu Chủ đề-tiêu điểm (Topic-Focus), và TGĐ-TĐ, và cả mối tương quan giữa các cặp
phạm trù vừa kể với hai thành phần cũ-mới của đơn vị thông tin trong câu.
Theo K.Lambrecht (1994), trong CTTT có ba tầng quan hệ cơ bản (fundamental
dimensions) sau đây:
(i) Quan hệ trong thông tin mệnh đề (propositional information): bao gồm hai thành
phần TGĐ ngữ dụng và Thuyết định ngữ dụng (Pragmatic Presupposition & Pragmatic
Assertion). Đây là cách sự phân chia cơ cấu thông tin mệnh đề thành hai phần TTC và
TTM, trong đó TGĐ là cái mà người nói giả định là người nghe đã biết trong thời điểm
nói, còn Thuyết định là điều mà người nghe thu nhận được với tính chất là cái mới.
(ii) Tình trạng ngữ dụng của thông tin (pragmatic state of information) với hai tính chất
quan trọng của sở chỉ trong diễn ngôn: tính xác định và tính hoạt biến (identifiability &
activation).
- Tính xác định của sở chỉ nếu xét trong quan hệ logic thì nó chỉ ra giá trị đúngsai, tính chân lý của nhận định về sự tình, nhưng trong CTTT nó chịu ảnh hưởng của
tình trạng tâm lý của các bên giao tiếp, vào khả năng tiếp thu và xử lý thông tin của
người tiếp nhận thông tin, và trước hết nó tùy thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp.
9
- Tính hoạt biến của sở chỉ trong diễn ngôn là yếu tố hoàn toàn mang tính chất
tâm lý, tồn tại trong ý thức của người giao tiếp, có nghĩa là người nói có thể chủ động
qui chiếu và TĐ hóa bất cứ một biểu thức nào trong câu bằng những phương tiện ngôn
ngữ nhất định. Những phương tiện đó có thể là ngôn điệu, có thể là hình thái-cú pháp,
v.v.
(iii) Mối liên hệ ngữ dụng (pragmatic relations) của thông tin mệnh đề: đó là mối quan
hệ ngữ dụng giữa Chủ đề và TĐ, trong đó Đề được hiểu là cái sẽ được nói đến. Đề có
thể là một sở chỉ diễn ngôn, cũng có thể là một biểu thức qui chiếu. Trong giao tiếp,
thường thường (chứ không phải luôn luôn) Chủ đề hay trùng hợp với TGĐ ngữ dụng,
mối tương quan này thể hiện ở việc Chủ đề thường hay đóng vai trò của phần của thông
tin đã biết, phần của thông tin TGĐ. Còn TĐ được Lambrecht định nghĩa là “thành tố
ngữ nghĩa của cấu trúc mệnh đề ngữ dụng mà nhờ đó mà phân xác được Thuyết
định ngữ dụng với TGĐ ngữ dụng”. [Sđd:213]
Lambrecht không thừa nhận việc đồng nhất TGĐ với Chủ đề (Topic), và Thuyết
định/Thuyết (Assertion) với TĐ. Theo ông, lý do thứ nhất, TĐ phải đi đôi với việc thể
hiện TTM, mọi câu nói đều chứa đựng TTM, do đó tất cả các câu đều phải có TĐ. Tuy
nhiên, không phải câu nào cũng có Chủ đề/Đề, nên không thể mặc nhiên coi TĐ là phần
Thuyết của Đề. Lý do thứ hai, Chủ đề/Đề và TGĐ không phải lúc nào cũng là một, và
khi Đề và TGĐ không trùng nhau thì mặc dù TĐ là một phần của Thuyết, Đề vẫn không
phải là TGĐ.
Từ việc xác định bản chất của những yếu tố ngữ dụng liên quan đến tình trạng
thông tin và chức năng của các thành tố thông tin, dựa vào ngữ cảnh giao tiếp, tâm lý
của các bên tham thoại, xác định mối quan hệ giữa đơn vị thông tin với cấu trúc cú pháp
của câu, Lambrecht đã chỉ ra ba kiểu CTTĐ cơ bản: Câu-Tiêu điểm (CâuTĐ-Sentence
focus), Vị ngữ-Tiêu điểm (VnTĐ-Predicate focus) và Tham tố-Tiêu điểm (TTTĐArgument focus).
(L-a) Cấu trúc VnTĐ (Predicate-focus structure):
What happened to your car? Xe của anh bị sao thế?
My car/ It broke DOWN. Xe của tôi/Nó bị HƯ.
- Presupposition (TGĐ): “speaker car is a topic for comment x”
10
- Assertion (thuyết định): “x= broke down”
- Focus (TĐ): “broke DOWN”
- Focus domain (vùng TĐ): “broke DOWN” – VP (ngữ động từ)
(L-b) Cấu trúc CâuTĐ (Sentence-focus structure)
What happened? Có chuyện gì vậy?
My CAR broke down. Cái XE HƠI của tôi bị hư.
- Presupposition(TGĐ): situationally implied – hàm chỉ qua ngữ cảnh
- Assertion (thuyết định): “speaker’s car broke down”
- Focus (TĐ): “speaker’s CAR broke down”
- Focus domain (vùng TĐ): sentence (câu)
(L-c) Cấu trúc TTTĐ (Argument-focus structure)
I heard your motocycle broke down? Tôi nghe nói xe máy của anh bị hư.
My CAR broke down. Cái XE HƠI của tôi hư.
- Presupposition (TGĐ): “speaker’s x broke down”
- Assertion (thuyết định): “x= car”
- Focus (TĐ): “CAR”
- Focus domain (vùng TĐ): “my CAR” – NP (ngữ danh từ)
Theo mô hình CTTĐ của Lambrecht, thông tin ngữ dụng trong câu có hai phần:
TGĐ và Thuyết định, trong đó Thuyết định là vùng tiêu điểm chứa TĐ thông tin. Vùng
tiêu điểm có thể là một ngữ đoạn hay cú đoạn, trong đó bao gồm thành tố TĐ thực và
những thành tố nằm trong vùng cú pháp của nó (tức là những thành tố có mối liên hệ
ngữ pháp với TĐ thực).
Mô hình các kiểu loại CTTĐ này của K.Lambrecht đã được nhiều tác giả khác
nhắc đến và sử dụng trong nghiên cứu của mình, như D.Bolinger 1995; R.Van Valin
1997; E.V.Rodinova 2001, C.Breul 2004 v.v. Tuy nhiên, Van Valin và Rodinova chỉ sử
dụng hai thuật ngữ CâuTĐ và VnTĐ của Lambrecht, còn loại cấu trúc thứ ba các tác giả
này trực tiếp gọi là TĐ hẹp. Trong khi đó C.Breun 2004 gọi loại câu có cấu trúc VnTĐ
là câu thuyết minh (catergorical sentence), câu có cấu trúc CâuTĐ là câu thông đạt
chung (thetic sentence), còn câu có TTTĐ (TĐ hẹp) được gọi là câu chiếu xuất/qui xuất
(identificational sentence).
11
Các kiểu CTTĐ này của Lambrecht được luận án dùng làm cơ sở lý thuyết để
tiến hành khảo sát CTTĐ thông tin trong câu tiếng Việt, để từ đó tiến hành việc so sánh
đối chiếu với tiếng Anh.
0.5.2 Các bình diện khác của CTTT
Bên cạnh việc nghiên cứu CTTT trên bình diện hình cú pháp, cụ thể là xác định sự phân
bố của các thành tố của đơn vị thông tin trên bề mặt câu, chỉ ra mối quan hệ giữa CTTT
với hình thức câu, các nhà ngữ học còn khảo sát CTTT trên các cấp độ ngôn ngữ khác
nhau và tìm thấy sự giao thoa giữa nhiều bình diện trong CTTT: sự giao thoa giữa ngữ
âm với ngữ pháp-ngữ nghĩa; giữa ngữ pháp với ngữ dụng; giữa ngữ pháp-ngữ âm-ngữ
nghĩa với ngữ dụng.
a) Bình diện ngữ âm
Từng có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về ngữ điệu và trọng âm trong vai trò phân
đoạn thông tin cũng như chỉ báo thông tin TĐ trong tiếng Anh. Trên bình diện này có
thể thấy có nhiều quan điểm khác nhau. Các nhận định trái chiều có thể xếp theo hai
luồng ý kiến: (i) luồng ý kiến thứ nhất nhất trí về sự tương ngẫu giữa phân đoạn ngữ
pháp và phân đoạn CTTT bằng ngữ điệu và trọng âm, về mối quan hệ chặt chẽ giữa
ngôn điệu nổi trội (trọng âm cường điệu) với tình trạng thông tin và thông tin TĐ; (ii)
luồng thứ hai tìm thấy những tầng quan hệ khác nhau về ngữ nghĩa-ngữ pháp và ngữ
nghĩa-ngữ dụng trong CTTT của câu thông qua hoạt động của ngữ điệu và trọng âm.
(i) Luồng quan điểm thứ nhất, ngay từ những năm 60-70 của thế kỷ XX, vấn đề ngôn
điệu với vai trò chỉ xuất TĐ và đóng gói thông tin trong lời nói đã được đề cập đến
trong nhiều khảo cứu về CTTT, như của M.A.K.Halliday 1967, 1985, N.Chomsky
1971, W.Chafe 1976 v.v. Trong các khảo cứu của mình, các tác giả đều nhất trí cho
rằng TĐ là ngữ đoạn chứa trung tâm ngữ điệu, yếu tố TĐ thường được nhận diện căn
cứ vào cường độ giọng nói tăng mạnh tại đó, được gọi là yếu tố mang chủ âm. Bên cạnh
đó, ngữ điệu có vai trò rất quan trọng trong việc nhóm gói thông tin và biểu hiện ý nghĩa
của lời nói. Halliday 1985 đưa ra năm loại cấu trúc thanh điệu, mỗi loại cấu trúc dùng
với một mục đích ngữ dụng khác nhau, các thanh điệu này có các nét chuyển động cơ
bản như sau: thăng (rise/take-off/glide up), giáng (fall), giáng-thăng (fall-rire/glide).
J.Pierrehumbert 1980, 1986,1990 đề xuất một hệ thống ký hiệu hóa các thanh điệu cơ
12
bản của ngữ điệu tiếng Anh mà đến nay được nhiều nhà ngữ học dùng để miêu tả ngữ
điệu với tư cách là phương tiện thể hiện ngữ nghĩa của đơn vị thông tin: L=lowthấp/giáng, H=cao/thăng, v.v.
(ii) Luồng quan điểm thứ hai diễn ra ở mức độ phân tích mở rộng và sâu sắc hơn. Đại
diện cho luồng quan điểm này là S.Uhmann 1991, K.Lambrecht 1994, N.Erteschik-Shir
1997, D.Brunn 2000, M.Steadman 2003, C.Breun 2004, C.Gussenhover 2006, v.v.. Các
tác giả này nhìn thấy những hoạt động đa dạng của ngữ điệu và trọng âm, đặc biệt trong
các lớp (dimensions) cấu trúc ngữ nghĩa-ngữ dụng của câu ngôn bản với chức năng chỉ
xuất TĐ. Các lớp quan hệ đó là:
- Quan hệ giữa các thành tố của đơn vị thông tin như Cũ-Mới, Chủ đề-TĐ hay
Đề-Thuyết;
- Quan hệ giữa tình trạng tâm lý người nói với tình trạng ngữ dụng của thông tin
thể hiện ở sự hoạt động tự do của ngôn điệu nổi trội (trọng âm cường điệu) đánh dấu
tương phản đối với bất kỳ thành tố nào của câu. Kết quả của việc hoạt động tự do này
là xuất hiện những tiêu điểm tương phản (TĐTP) khác nhau trên cùng một vế câu hay
trên các vế câu khác nhau, dẫn đến việc trong một câu có thể có nhiều TĐ trên các vế
khác nhau, tạo nên loại một kiểu CTTĐ rộng, bao trùm toàn bộ câu, gọi là cấu trúc
CâuTĐ (thuật ngữ của K.Lambrecht 1994).
Qua đó, các tác giả chỉ ra sự giao thoa giữa cấu trúc câu với CTTT thông qua
việc hành chức của ngữ điệu và trọng âm.
Về vấn đề ngữ điệu và trọng âm đánh dấu TĐTP, mỗi tác giả có cách tiếp cận
riêng của mình, nhưng tựu trung đều dẫn đến một kết quả quan sát khá giống nhau.
K.Lambrecht 1994 gọi những thành tố nhận ngôn điệu nổi trội (trọng âm cường
điệu) hoạt động tự do là những sở chỉ hoạt biến (active referents) và cho đó là kết quả
của việc mặc định trọng âm (default accentuation) từ phía người nói trong hoạt biến
diễn ngôn (discourse activating). Hoạt biến (activation) là một trong những thuộc tính
ngữ dụng của CTTT mà K.Lambrecht đã chỉ ra từ việc xác định ba tầng quan hệ khác
nhau của CTTT (three dimentions of Information Structure): TGĐ và Thuyết định
(presupposition-assertion); Chủ đề và TĐ (topic-focus); xác định và hoạt biến
(identification-activation). Tính hoạt biến mang tính nhất thời (short-term), thể hiện ở sự
13
chuyển vị tự do của ngôn điệu nổi trội đánh dấu tương phản, tùy thuộc vào tình trạng
tâm lý của người nói - D.Brunn 2000 gọi đó là những TĐTP, còn Lambrecht gọi là
những TĐ được đánh dấu [Lambrecht 1994: 87-94, 258, 269-279; 287-295; 323].
Chẳng hạn ông chỉ ra những trường hợp trọng âm rơi vào Chủ đề và trọng âm rơi vào
tiêu điểm thông tin mới (TĐTTM) của câu như sau [Sđd: 291,327]:
(0.1)
I saw Mary and John yesterday. She says hello, but he’s still angry at me.
[Ngày hôm qua tôi trông thấy Mary và John. Chị ấy thì lên tiếng chào hỏi,
nhưng anh ấy thì vẫn còn giận tôi.]
a. Hey, come here. [Này, lại đây.]
b. No, you come here. [Không, cậu lại đây thì có.]
John hit Bill and then he hit him.
[John húc Bill, thế là cậu này húc lại cậu ta.]
(0.2)
(0.3)
[Quan sát các yếu tố in đậm cuối câu, chúng tôi cho đó là những yếu tố vừa mang trọng âm câu
vừa mang trọng âm TĐ, là những TĐTTM; các chữ nghiêng, in đậm ở đầu câu là những yếu tố Chủ đề
mang ngôn điệu nổi trội, chúng là những TĐTP; những yếu tố nghiêng và đậm cuối câu cùng lúc mang
hai TĐ: TTM và TP]. Ngoài ra, ngôn điệu nổi trội còn có thể rơi vào cả những yếu tố hư từ - những tác
tử ngữ pháp, được Lambrecht giải thích là sự báo hiệu gián tiếp về thành tố TĐ thực ở quanh đâu đó.
Chẳng hạn, trong cặp thoại: “Let’go to the kitchen and get something to eat/ Xuống bếp kiếm cái gì ăn
đi. - There’s nothing to eat/ có gì đâu để mà ăn.”, thì “to” trong câu trả lời báo hiệu TĐ thực là “eat”
[Lambrecht, 1994:254-255].
M.Steedman 2002, 2003 đề cập đến vấn đề hoạt động của trọng âm chỉ xuất
TĐTP bằng việc chỉ ra hai lớp cấu trúc trong một đơn vị thông tin: lớp thứ nhất, ngoài
cùng, được biểu thị bằng ngữ điệu phân đoạn Đề ngữ-Thuyết ngữ và phân đoạn đơn vị
thông tin (Theme-Rheme = Given-New), trọng âm TĐTTM trên phần Thuyết được gán
cho chức năng chủ âm (primary accent); lớp thứ hai, bên trong, là khu vực hoạt động
của trọng âm cường điệu với chức năng đánh dấu TĐTP. Xin dẫn ví dụ của Steadman
[2003, draft:11]:
(0.4) Q: I know that Marcel likes the man who wrote the musical. But who does he ADMIRE?
A:
(Marcel
ADMIRES)
(the woman who
+H*LH%
------------ -----------------background
focus
DIRECTED
H*
--------------------background
--------------focus
the musical)
L%
-------------background
--------------------------------- -------------------------------------------------------theme
rheme
[Q:
Tôi biết là Marcel thích người viết vở nhạc kịch. Nhưng, anh ấy ngưỡng mộ ai vậy?]
[A:
Marcel NGƯỠNG MỘ chính người nữ ĐẠO DIỄN vở nhạc kịch ấy.]
14
[Ghi chú: dấu ( ) biểu thị nhóm thông tin được đóng gói; dấu % chỉ đường biên của ngôn điệu, nơi kết thúc và bắt
đầu của một nhóm ngữ điệu; LL chỉ báo ngữ điệu xuống cuối ngữ đoạn; LH chỉ ngữ điệu giáng sau đó hơi thăng ở
cuối ngữ đoạn; dấu * báo hiệu âm tiết tập trung TĐ; H* biểu thị âm tiết nhận âm điệu nổi trội; L biểu thị ngữ điệu
giáng; H*L biểu thị ngữ điệu thăng-giáng, L+H* chỉ ngữ điệu giáng-thăng].
Trong ví dụ này Steadman đã sử dụng hệ thống ký hiệu thanh điệu của
J.Pierrehumbert 1980 & 1990 để phân tích hai tầng cấu trúc của thông tin.
-
Lớp thứ nhất ngoài cùng biểu thị sự phân đoạn Theme-Rheme = Cũ-Mới của câu.
TTC (=Theme) có cấu trúc ngữ điệu L+H* LH%; TTM (=Rheme) có cấu trúc ngữ
điệu hoặc là H*L hoặc là H*LL%.
-
Lớp thứ hai, bên trong biểu thị sự hoạt động tự do của trọng âm tương phản.
Những thành tố mang trọng âm tương phản trở thành những TĐTP, thành tố không
mang trọng âm thuộc phần thông tin Cơ sở (Background). Thành tố mang trọng âm
tương phản thường được đánh dấu bằng sự nhấn giọng độc lập hoặc trùng hợp với
trọng âm của ngữ đoạn mà nó đang có mặt trong đó. [Xem thêm M.Steadman
2003, draft:7]
Đến đây có thể khái quát, bên cạnh việc đóng gói thông tin bằng các nhóm ngữ
điệu, các nhà ngữ âm học còn chỉ ra hiện tượng chuyển vị trọng âm tùy theo mục đích
phát ngôn. K.Lambrecht 1994 gọi hiện tượng này là sự hoạt biến tiêu điểm (focus
activation). Yếu tố nhận trọng âm chuyển vị được xác định là yếu tố mang TĐTP.
b) Bình diện ngữ nghĩa và liên kết diễn ngôn
Trên bình diện này, CTTT không chỉ được xét trong khuôn khổ của phát ngôn độc lập,
trong khuôn khổ của cấu trúc ngữ pháp hay cấu trúc ngữ âm của câu, nó còn được xét
rộng ra trong mối quan hệ ngữ nghĩa với liên kết diễn ngôn.
Trước hết, nội dung ngữ nghĩa của CTTT ảnh hưởng không chỉ bởi trật tự cú
pháp của câu, nó còn bị tác động bởi yếu tố ngữ âm và từ vựng-ngữ nghĩa.
Các nhà ngữ học chỉ ra rằng, việc hoạt biến TĐ trong diễn ngôn bằng trọng âm
tương phản (cường điệu) có tác động quan trọng tới nội dung ngữ nghĩa của thông tin.
Chẳng hạn, cùng một phát ngôn, nếu trọng âm được đặt ở những vị trí khác nhau, thì tùy
thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp, sẽ cho những nội dung thông tin khác nhau. Halliday
1967 chỉ ra rằng, một câu như: “Dogs must be carried ”, nếu đọc theo hai cách khác
15
nhau (tức là đặt trọng âm cường điệu ở những vị trí khác nhau), chúng sẽ cho những ý
nghĩa khác nhau:
(0.5)
a. Dogs must be CARRIED.
b. DOGS must be carried.
Câu (0.5a) được hiểu là “If you have a dog, you must carry it./Nếu bạn có chó, bạn phải
đem chúng theo: Có chó thì phải MANG THEO ; Câu (0.5b) được hiểu là “What you
must do is carry a dog./ Việc bạn cần làm là phải đem theo chó: CHÓ thì phải mang
theo”.
Yếu tố từ ngữ với chức năng biểu thị nội dung, khu biệt nghĩa và đánh dấu TĐ
cũng là vấn đề mà các nhà ngữ học rất quan tâm. Đã có nhiều khảo cứu về vai trò của
nghĩa học trong thể hiện thông tin và TĐ. Theo Jackendoff 1972, các chỉ tố từ vựng tình
thái (như only, also, too), hay các trạng từ năng diễn (như always, sometimes) có ảnh
hưởng quan trọng đến việc xác định thành tố TĐ. Chẳng hạn việc dùng từ only trong
tiếng Anh có thể có các phương án nghĩa khác nhau tùy thuộc vào khả năng thay thế
một thành tố TĐ bằng một thành tố bất kỳ vào khung TGĐ (presupposional-skeleton).
Thành tố TĐ được nhận diện bằng sự nổi bật của ngôn điệu trên yếu tố đó:
(0.6)
a. John only introduced [BILL]F to Sue. [John chỉ giới thiệu BILL với Sue.]
p-skeleton: John introduced x to Sue.
b. John only introduced Bill to [SUE]F. [John chỉ giới thiệu Bill với SUE.]
p-skeleton: John introduced Bill to y.
c. John only introduced [BILL]F to [SUE]F. [John chỉ giới thiệu BILL với SUE.]
p-skeleton: John introduced x to y.
(0.6a) được hiểu: người duy nhất mà John giới thiệu với Sue là Bill; (0.6b) được
hiểu: người duy nhất mà John giới thiệu với Bill là Sue; và (0.6c) được hiểu: những
người mà John giới thiệu cho nhau là Bill và Sue.
Về CTTT trong diễn ngôn và liên kết văn bản, khi phát triển các luận điểm
của N.Chomsky 1971 về vai trò của thông tin TĐ trong việc quyết định mối quan hệ
giữa một phát ngôn với các câu trả lời, giữa phát ngôn đó với một phát ngôn khả dụng
trong trường hợp cụ thể, và giữa phát ngôn đó với các phát ngôn khác trong diễn ngôn,
R.Jackendoff 1972 đã cho rằng, CTTT có vai trò hết sức quan trọng đối với một số
phương diện ngữ nghĩa. Thứ nhất, nó tác động đến cấu trúc và sự mạch lạc (coherence)
của diễn ngôn; thứ hai, nó ảnh hưởng đến việc chọn lựa các yếu tố hồi chỉ (anaphoric)
hay các yếu tố thay thế (substitutive) trong các phát ngôn đi sau, thứ ba, nó giúp xác
16
định hành động ngôn từ thích hợp (identification of the adequate speech act) dùng trong
bối cảnh phát ngôn cụ thể.
Có thể thấy, so với thời kỳ đầu mới manh nha, các nghiên cứu về CTTT từ
những năm 70, 80 của thế kỷ XX đã trải rộng đến tất cả các bình diện khác nhau của
ngôn ngữ, từ ngữ âm đến cú pháp, đến từ vựng - ngữ nghĩa, từ tổ chức hình thức đến nội
dung thông tin, từ cấu trúc đến chức năng, … tất cả đã làm nên một bức tranh toàn cảnh
về việc nghiên cứu CTTT, rất phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị.
Bảng 0.3 là bản đồ lịch sử nghiên cứu CTTT từ những năm đầu thế kỷ XX. Tuy
trong bản đồ này còn thiếu nhiều những tên tuổi, những người làm nên diện mạo mới
cho lĩnh vực nghiên cứu về CTTT như S.Dik, R.Van Valin, K.Lambrecht, N.ErteschikShir, C.Breul, v.v., nhưng nó vẫn cho ta thấy được những đại diện tiêu biểu có ảnh
hưởng lớn trong lịch sử nghiên cứu CTTT, kể từ V.Mathesius 1929.
Bảng 0.3: Sơ lược lịch sử nghiên cứu CTTT từ 1929-1999
(Nguồn: Kruijff-Korbayova và M. Steedman, 2003, dẫn theo Kordula De Kuthy and Detmar Meurers,
The Ohio State University COGETI Workshop. G¨ottingen, July 6/7, 2006)
17
Cho đến nay, việc nghiên cứu CTTT từ nhiều phương diện, ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ, đã trở thành xu hướng chung của các nhà ngữ học đương thời. Nói cách khác
CTTT và TĐ đang và tiếp tục còn được tiếp cận theo hướng tổng hợp này.
0.5.3 Việc nghiên cứu CTTT và TĐ trong Việt ngữ học
CTTT (hay cấu trúc thông báo) và vấn đề TĐ trong tiếng Việt cho đến nay hầu như vẫn
còn là một đối tượng chưa được nhiều người quan tâm. Số lượng công trình liên quan
không nhiều ngoại trừ một số bài bài báo viết theo chuyên đề như của Lý Toàn Thắng
1981, Nguyễn Hồng Cổn 2001, 2004 và 2010, v.v. Ngoài ra, trong các nghiên cứu của
Trần Ngọc Thêm 1985, Cao Xuân Hạo 1991, Hồ Lê 1991, Nguyễn Thiện Giáp 2000,
Đỗ Hữu Châu 2001, Diệp Quang Ban 2005, Nguyễn Văn Hiệp 2008, …, vấn đề cũng
được nhắc đến, tuy nhiên cũng chỉ với tư cách một đối tượng có liên quan đến vấn đề
đang xét, và do đó chỉ dừng ở mức độ sơ lược.
Trong bài viết về Phân đoạn thực tại câu, một lý thuyết có liên quan đến việc
xác định các thành tố thông tin trong tiếng Việt, Lý Toàn Thắng 1981 đã phân biệt hai
loại thông tin khác nhau, đó là thông tin sự kiện và thông tin thực tại. Thông tin sự kiện
được thể hiện qua cấu trúc ngữ pháp-ngữ nghĩa của câu, và thông tin thực tại được thực
hiện bằng việc phân đoạn thực tại của câu thành hai phần Chủ đề và Thuật đề. Ví dụ,
hai câu:
(0.7)
a. Tôi // có biết chuyện ấy.
b. Chuyện ấy// tôi có biết.
Tuy (0.7a) và (0,7b) có chung một nội dung thông tin sự kiện, nhưng thông tin thực tại
của chúng lại khác nhau. Sự khác nhau thể hiện ở chỗ chúng có có trật tự từ không
giống nhau. Việc này đã dẫn đến cơ cấu Đề-Thuyết giữa hai câu khác nhau.
Trong phân đoạn thực tại, bất cứ thành phần nào cũng có thể là Chủ đề. Phương
pháp xác định Chủ đề và Thuật đề là sử dụng câu hỏi chung và câu hỏi riêng.
Tác giả cũng nhấn mạnh, có hai cách hiểu về Chủ đề-Thuật đề: theo cách hiểu
thứ nhất, hai thành phần này đồng nghĩa với cái cũ-cái mới; theo cách hiểu thứ hai, Chủ
đề-Thuật đề không liên quan gì với cái cũ-cái mới của câu, vì thông thường Chủ đềThuật đề trùng với cái cũ-cái mới, nhưng trên thực tế nhiều khi cái mới lại nằm trên Chủ
đề. Ví dụ:
18
(0.8)
a. - Anh Nam // về, mẹ ơi.
b. - Ai?
c. - Anh Nam // về, mẹ ra đây.
Trong (0.8a) Anh Nam là Chủ đề, là cái đã biết, nhưng lại là cái mới trong (0.8c) vì trả
lời cho câu hỏi Ai?
Nguyễn Hồng Cổn –NHC (2001, 2004, 2010) là người có nhiều bài viết liên
quan cụ thể đến CTTT và TĐ thông tin. Theo NHC 2001, CTTT là phản ánh sự khác
biệt về vị thế thông tin giữa các thành phần câu, trong mỗi CTTT đều có hai thành phần:
thông tin TGĐ và TTM (=TĐ). Việc nhận diện TĐ là cơ sở để phân biệt một CTTT này
với một CTTT khác. Tác giả phân biệt ba loại TĐ thông tin khác nhau: TĐ hỏi, TĐ
khẳng định và TĐTP. NHC 2010 còn đề cập đến các vấn đề về TĐ và TGĐ. Tiếp thu
quan niệm của D. Buring 1997, D. Hole 2008, tác giả cho rằng CTTT của câu gồm hai
phần Cơ sở (Background) và TĐ (Focus), cơ cấu Cơ sở-TĐ và Đề-Thuyết của câu có
thể trùng hoặc không trùng nhau.
Tác giả cũng xét vai trò của CTTT đối với các biến thể cú pháp, các biến thể
ngôn điệu. Tác giả đặc biệt lưu ý đến biến thể cú pháp có trợ từ tiêu điểm; đến vấn đề
tỉnh lược và không tỉnh lược trong CTTT; đến CTTT với biến thể cú pháp trật tự từ.
Trần ngọc Thêm (1985) trong Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt gọi sự phân
đoạn thực tại câu là sự “phân đoạn thông báo” với cấu trúc Nêu-Báo (Theme-Rheme)
và xác định đó là “sự phân đoạn nội dung”, là chỗ giao nhau của ngữ pháp và ngữ
nghĩa.
Cao Xuân Hạo (1991) trong Sơ thảo ngữ pháp chức năng đã phân biệt rõ cấu
trúc thông báo (tức CTTT) với cấu trúc Đề-Thuyết. Cấu trúc Đề-Thuyết theo quan điểm
của ông là cấu trúc cú pháp cơ bản của câu tiếng Việt (vốn là thứ tiếng ‘thiên chủ đề’),
là lĩnh vực logic ngôn từ (ngữ nghĩa-ngữ pháp), cấu trúc thông báo thuộc bình diện
dụng pháp, là bình diện của cách sử dụng câu, thuộc về bình diện cấu trúc của phát
ngôn, của lời nói, là việc sử dụng những cấu trúc Đề-Thuyết trong những tình huống và
văn cảnh cụ thể vào những mục đích thông báo khác nhau. Trong nhiều trường hợp cụ
thể sự phân đoạn thông báo có trùng hợp với sự phân đoạn Đề-Thuyết. Ông cho rằng
cấu trúc thông báo có ảnh hưởng quan trọng đối với cấu trúc của câu, nó gây áp lực đối
với việc lựa chọn cấu trúc Đề-Thuyết của câu. Cấu trúc thông báo thay đổi kéo theo sự