Tải bản đầy đủ (.pdf) (235 trang)

Tiểu thuyết nam bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.97 KB, 235 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

VÕ VĂN NHƠN

TIỂU THUYẾT NAM BỘ
CUỐI THẾ KỶ XIX - ĐẦU THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: LÝ THUYẾT VÀ LỊCH SỬ VĂN HỌC
Mã số : 5.04.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : GS. HOÀNG NHƯ MAI

TP. HỒ CHÍ MINH 2008


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình riêng của tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án là trung thực. Những chỗ sử dụng kết quả nghiên cứu của người
khác đều có nói rõ.

Tác giả luận án

Võ Văn Nhơn


MỤC LỤC
PHẦN DẪN NHẬP ................................................................................................1
1. Mục đích, ý nghóa của luận án ...........................................................................1
2. Lòch sử vấn đề ....................................................................................................1


3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................23
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................25
5. Đóng góp mới của luận án. ..............................................................................26
6. Cấu trúc luận án ...............................................................................................27
CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TIỂU
THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX .........................28
1.1. Tiền đề kinh tế – chính trò ............................................................................28
1..2. Tiền đề xã hội – văn hóa ............................................................................31
1.2.1. Giáo dục...............................................................................................31
1.2.2. Chữ quốc ngữ ......................................................................................34
1.2.3. In ấn và xuất bản .................................................................................37
1.2.4. Báo chí quốc ngữ .................................................................................38
1..3. Tiền đề văn học ...........................................................................................46
1.3.1. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Hoa ................................................46
1.3.2.. Ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây ............................................55
1.3.3. Ảnh hưởng của văn học truyền thống .................................................60
CHƯƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỂU THUYẾT
NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU THẾ KỶ XX...........................................62
2.1. Giai đoạn phôi thai ........................................................................................62
2.2. Giai đoạn trưởng thành và phát triển ............................................................74


2.3. Giai đoạn hòa nhập .......................................................................................85
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM CỦA TIỂU THUYẾT NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ
XIX ĐẦU THẾ KỶ XX ........................................................................................88
3.1. Đặc điểm về lực lượng sáng tác ....................................................................88
3.1.1. Một kiểu hình nhà văn mới ....................................................................88
3.1.2. Các nhà văn nữ.......................................................................................90
3.1.3. Các nhà văn Công giáo ..........................................................................92
3.1.4. Quan niệm về tiểu thuyết .......................................................................94

3.1.4.1. Quan niệm về chức năng giáo dục ............................................94
3.1.4.2. Quan niệm về phản ánh hiện thực .............................................97
3.1.4.3 Quan niệm về thể loại. ..............................................................98
3.1.4.4. Quan niệm về thủ pháp nghệ thuật..........................................102
3.1.4.5. Quan niệm về ngôn ngữ tiểu thuyết ........................................103
3.2. Đặc điểm về nội dung .................................................................................107
3.2.1. Tiên phong trên con đường hiện đại hóa ............................................107
3.2.2. Ý thức hướng ngoại .............................................................................109
3.2.3. Chú trọng chức năng giải trí ...............................................................111
3.2.4. Quan tâm đến công chúng, đặc biệt công chúng bình dân .................112
3.2.5. Đậm đà tình yêu nước, giàu tính đạo lý, có tính dân chủ cao .............113
3.3. Đặc điểm về hình thức loại thể ...................................................................116
3.3.1. Các thể tài tiểu thuyết ..........................................................................116
3.3.1.1. Tiểu thuyết tâm lý .........................................................................118
3.3.1.2. Tiểu thuyết hành động.....................................................................122
3.3.1.3. Tiểu thuyết lòch sử ...........................................................................128
3.3.1.4. Tiểu thuyết thế sự ............................................................................133
3.3.2. Một số đặc điểm về nghệ thuật ............................................................141


3.3.2.1. Nghệ thuật kết cấu ..........................................................................141
3.3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ........................................................151
3.3.2.3. Ngôn ngữ tiểu thuyết .......................................................................163
KẾT LUẬN ........................................................................................................173
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................178
PHỤ LỤC ............................................................................................................199


1


DẪN NHẬP
1.

MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA LUẬN ÁN
Những cứ liệu được công bố gần đây cho thấy tiểu thuyết Việt Nam

hiện đại xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Bộ và đã có những thành tựu
rất đáng chú ý. Trên nền tư liệu mặc dù chưa sưu tầm đầy đủ này, người ta
nhận ra tiểu thuyết của vùng đất này đã một thời phát triển rất sôi nổi với
hàng trăm cây bút và gần nghìn tác phẩm, đã cuốn hút đông đảo độc giả
và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng họ. Nhưng từ sau 1945, văn học quốc
ngữ Nam Bộ nói chung và tiểu thuyết Nam Bộ nói riêng có một thời gian
khá dài đã bò giới nghiên cứu phê bình quên lãng. Riêng về tiểu thuyết, chỉ
mỗi một Hồ Biểu Chánh được giới thiệu và đánh giá cao. Vì vậy nghiên
cứu toàn cảnh tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như là
giai đoạn khởi đầu của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng và của văn
học Việt Nam hiện đại nói chung, là một việc làm cần thiết, nhằm bổ
khuyết cho những khoảng trống đáng tiếc và góp phần nhận thức đầy đủ
về tiến trình hiện đại hoá của tiểu thuyết nói riêng và văn học Việt Nam
nói chung.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Sau một thời gian dài bò bỏ quên, đến nay tiểu thuyết chữ quốc ngữ
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã được giới nghiên cứu trong và
ngoài nước quan tâm, nhất là từ sau 1975. Đây là điều tất yếu bởi bộ phận
văn học này đã đóng vai trò đặc biệt trong quá trình hình thành và phát
triển của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.


2


Có thể chia lòch sử nghiên cứu vấn đề tiểu thuyết chữ quốc ngữ Nam
Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thành ba giai đoạn: từ 1945 trở về
trước, từ 1945 đến 1975 và từ 1975 cho đến nay.
2.1. Ở trong nước:
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945:
Tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ hình thành vào cuối thế kỷ XIX và
phát triển khá mạnh vào những năm đầu thế kỷ XX. Nhiều bài quảng cáo,
giới thiệu, điểm sách, phê bình, tranh luận, bút chiến sôi nổi về các tác
phẩm trên báo chí đương thời đã giúp chúng ta hình dung được phần nào
diện mạo của tiểu thuyết Nam Bộ thời kỳ đó.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, tiểu thuyết được đề cập sớm nhất có lẽ
là tác phẩm Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu. Trên Lục Tỉnh
tân văn số 402 ngày 11.11.1915, Nguyễn Văn Nghóa, trong bài Tự do diễn
đàn đã có lời khen tiểu thuyết này là “đặt lớp nghe đã hay, mà văn nói
nghe cũng giỏi, thiệt là dủ sức dủ kỳ, coi không muốn thôi”. Và sau đó hơn
mười năm, tác phẩm này đã tạo ra một cuộc bút chiến sôi nổi cùng với một
kết cục buồn. Phe công kích Lê Hoằng Mưu có những tên tuổi nổi tiếng
như Nguyễn Chánh Sắc, Nguyễn Háo Vónh, Cao Hải Để, Trì Nam Tử... đã
có những ý kiến hết sức gay gắt như “Vì mười năm trở lại đây (nếu chúng
tôi không nhớ lắm) ông Lê Hoằng Mưu đặt ra nhiều bộ tiểu thuyết ngôn
tình rất đê tiện như thế: Hà Hương phong nguyệt, Hồ Thể Ngọc, Oán hồng
quần, Đỗ Triệu kỳ duyên. Trong các bộ truyện ấy, khoản nào lại chẳng
“làm cho bại hoại phong tục, suy đồi luân lý” mà hiện nay vẫn in bán khắp


3

nơi rất hại cho đàng giáo dục hàng nữ lưu và đoàn hậu tấn lắm!” (Công
luận báo số 40 – 1928). Thậm chí có tựa bài báo còn như một lời tuyên án
“Lê Hoằng Mưu là một đứa tội nhơn lớn nhứt của nước An Nam” (Công

luận báo, số 48, 1928). Cuối cùng chính quyền thuộc đòa đã ra lệnh tòch thu
và tiêu hủy tác phẩm.
Lỗi bước phong tình (1922) của Nguyễn Thành Long cũng gây ra
nhiều ý kiến trái ngược nhau. Nguyễn Mạnh Bổng rất khen ngợi khi giới
thiệu tiểu thuyết này trên báo Hữu Thanh số 21 ngày 1.6.1922, nhưng bài
viết này đã được đáp lại bằng một ý kiến phủ đònh khá gay gắt của Dá Cô
trên Nam Bộ kinh tế báo số 82 ngày 5.7.1922.
Các tiểu thuyết của các tác giả khác như Mười lăm năm lưu lạc, Hiếu
nghóa vẹn hai, Lê Triều Lý Thò của Phạm Minh Kiên cũng được giới thiệu
bởi TS, Hồ Văn Hiến, LQ trên các báo Nông cổ mín đàm, Đông Pháp thời
báo, Lục Tỉnh tân văn vào những năm 1922, 1923, 1931. Riêng Tỉnh mộng
của Hồ Biểu Chánh đăng trên Đông Pháp thời báo đã được Nguyễn Tường
đánh giá rất cao trong bài Một mối cảm tình đối với nhà tiểu thuyết (Đông
Pháp thời báo, số 203 – 204 tháng 10. 1924). Tác phẩm này cũng được
Minh Quang phê bình trên Lục Tỉnh tân văn (số 3916, 3918 tháng
10.1931). Lối văn “tả chơn” trong các tiểu thuyết Tỉnh mộng, Cay đắng
mùi đời, Tiền bạc bạc tiền của Hồ Biểu Chánh cũng được Phạm Minh Kiên
bàn đến trong bài Giải chỗ tưởng lầm đăng trên Đông Pháp thời báo số
468 ngy 6.8.1926. Tài mạng tương đố của Nguyễn Chánh Sắc được Phạm
Minh Kiên và Tân Dân Tử bình luận trong Đông Pháp thời báo (số 481


4

ngy 8.9.1926 và số 496 ngày 13.10.1926). Giọt máu chung tình, Gia Long
tẩu quốc, Gia Long phục quốc của Tân Dân Tử cũng được bình phẩm trong
Đông Pháp thời báo (473 ngy 20.8.1926) và Lục Tỉnh tân văn (số 3454
ngày 14.3.1930, số 4256 ngày 5.12.1932).
Tiểu thuyết và tác giả Nam Bộ cũng được các nhà văn, nhà báo, nhà
phê bình đến từ miền Trung và miền Bắc chú ý. Phan Khôi (Trung Kỳ),

trong khi hoạt động ở Sài Gòn, đã viết bài Từ Trương Vónh Ký, Huỳnh Tònh
Trai cho đến Nguyễn Chánh Sắc, Đặng Thúc Liêng đăng trên báo Phụ Nữ
Tân Văn số 28 năm 1929. Thiếu Sơn, nhà phê bình được xem là người mở
đường cho phê bình văn học hiện đại, trong một bài viết trên báo Phụ Nữ
Tân Văn (số 106 ngày 29.10.1931), đã rất đề cao Hồ Biểu Chánh:
Ông Hồ Biểu Chánh chẳng những đã biết do sự quan sát mà
sáng tạo ra được những nhân vật đúng với cái khuôn mẫu
người đời, biết cho những nhân vật đó sống theo với cái tánh
cách riêng, cái thái độ riêng, trong mỗi hoàn cảnh riêng của
họ, mà ông còn khéo cho những nhân vật đó hiệp thành một
cái xã hội gần giống như cái xã hội của ta, cho kẻ giầu gặp kẻ
nghèo, người hèn đụng người sang, kẻ gian hùng quỷ quyệt
với bực nữ só anh hào, vò giai nhân tài nữ với kẻ vô học phàm
phu, vì những sự xung đột về danh về lợi, về tư tưởng, tánh
tình, về tinh thần khí tiết, mà quay cuồng, vật lộn, mà chiến
đấu cạnh tranh, gây nên cái vẻ hoạt động trong đời, cho độc
giả được thỏa lòng quan sát [150, 9].


5

Trong cuốn Phê bình và cảo luận (1933) in sau đó hai năm, Thiếu
Sơn cũng nêu lên một số nhận xét bước đầu về một vài cuốn tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Thời Xuyên và nêu tên một số nhà văn ở
Nam Bộ như: Phú Đức, Phan Huấn Chương, Tân Dân Tử…
Ở miền Bắc, do thiếu thông tin nên các nhà nghiên cứu không mấy
chú trọng đến mảng tiểu thuyết Nam Bộ. Phạm Quỳnh, người bàn bạc sớm
nhất về thể loại tiểu thuyết, đã không đề cập gì đến tiểu thuyết Nam Bộ
trong bài viết Bàn về tiểu thuyết (1921) đăng trên báo Nam Phong. Việt
Nam văn học sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm, một công trình có tính

chất tổng kết cũng thế. Riêng Nhà văn hiện đại (1942 – 1945) của Vũ
Ngọc Phan bên cạnh nhà thơ Đông Hồ có điểm qua chân dung của Hồ
Biểu Chánh. Hầu hết các tác giả đều xem Quả dưa đỏ (1923) của Nguyễn
Trọng Thuật và Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách được sáng tác ở
miền Bắc là những tác phẩm tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở nước ta.
2.1.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975:
Từ năm 1945 năm 1954, ngoại trừ Nghiêm Toản trong công trình
Việt Nam văn học sử trích yếu in ở Sài Gòn (1949) cho rằng thû ấy ở miền
Nam chưa có văn học, mà chỉ có truyện Tàu dòch như Thủy hử, Tây du ký,
Phong thần diễn nghóa…, còn không có công trình nào đáng chú ý nghiên
cứu về văn học Nam Bộ.
Từ 1954, đất nước tạm thời bò chia làm hai miền Nam Bắc, việc
nghiên cứu về văn học Nam Bộ, tiểu thuyết Nam Bộ do đó cũng có những
khác biệt.


6

2.1.2.1. Ở miền Bắc:
Do thiếu thông tin và tư liệu hạn hẹp nên các nhà nghiên cứu ở miền
Bắc ít quan tâm đến văn học Nam Bộ và tiểu thuyết Nam Bộ. Giáo trình
lòch sử văn học Việt Nam (tập IV) (1962) có lẽ là công trình đầu tiên sau
1945 có hẳn một chương để giới thiệu thân thế và tác phẩm Hồ Biểu
Chánh. Tác giả Nguyễn Đình Chú trong chương này đã nghiên cứu khá kỹ
về nhà văn viết nhiều tiểu thuyết nhất Nam Bộ này. Năm 1972, nhóm
Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Tạ Phong Châu, Nguyễn Văn Phú
trong Lược truyện các tác gia Việt Nam có đặt lại vấn đề như sau:
Những tiểu thuyết Pháp đều xuất hiện trên các báo miền Nam
trước tiên đã có những người như Hồ Văn Đoàn phỏng dòch
tiểu thuyết phương Tây từ năm 1905, thế thì tiểu thuyết lãng

mạn có thể không phải chỉ xuất hiện trước tiên ở miền Bắc từ
1921, 1922 với Cành lê điểm tuyết, Cuộc tang thương và từ
năm 1925 với Tố Tâm mà có lẽ phải xuất hiện ở miền Nam từ
nhiều năm trước thời gian đó (1922). Ở Nam Bộ U tình lục
xuất bản năm 1909 hay Chúa tàu Kim Quy xuất bản năm 1913
hay 1926, Lỗi bước phong tình và Oan kia theo mãi tiếc rằng
không biết rõ nội dung, nhưng cái tên của nó cũng nói lên
phần nào tính lãng mạn của tiểu thuyết và còn có thể có nhiều
quyển khác nữa xuất bản ở miền Nam từ 1921 trở về trước bò
thất lạc, cần nghiên cứu các thư mục trong Thư Viện Quốc Gia
của Pháp mới rõ được [39, 60].


7

Đây là một giả thuyết khoa học rất đáng trân trọng, nhưng rất tiếc là
không ai chú ý. Công trình Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974) của Phan
Cự Đệ chỉ đề cập đến Hồ Biểu Chánh và vẫn khẳng đònh Tố Tâm là tác
phẩm mở đầu cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.
2.1.2.2. Ở miền Nam:
Có điều kiện thuận lợi hơn để nghiên cứu về văn học Nam Bộ và
tiểu thuyết Nam Bộ, nhưng không phải nhà nghiên cứu ở miền Nam nào
cũng quan tâm đúng mức đến mảng văn học này. Trần Thanh Hiệp, trong
một bài diễn thuyết tại câu lạc bộ Văn hóa ở Sài Gòn ngày 12- 8-1960,
vẫn cho rằng trong quá khứ, nền văn chương miền Nam không có gì đáng
gọi là văn chương cả. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III
Văn học hiện đại 1862 – 1945 (1965), Phạm Thế Ngũ đã dành hẳn một
phần viết về tiểu thuyết miền Nam. Ở đó, tác giả thừa nhận thể tiểu thuyết
đã đi trước một bước ở miền Nam, nhưng rồi ông cũng chỉ nghiên cứu duy
nhất trường hợp Hồ Biểu Chánh. Việt Long Giang trên báo Phổ thông số

142 năm 1965 có bài Danh nhân Tân Châu: Ông Nguyễn Chánh Sắc một
nhà văn tiền phong của miền Nam . Tạp chí Văn học số 136 ngày 15.9.1971
đặc biệt dành riêng cho Phú Đức với những bài viết của Phan Kim Thònh,
Ngọa Long, Thượng Sỹ, Vũ Bằng, Tế Xuyên.
Việc tập trung nghiên cứu Hồ Biểu Chánh như là một nhà văn, một
nhà tiểu thuyết tiêu biểu của Nam Bộ cũng là hướng nghiên cứu của những
công trình như Văn học Việt Nam thế kỷ XIX – tiền bán thế kỷ XX (1800 –
1945) của Vũ Hân (1967), Văn học sử Việt Nam của Bùi Đức Tònh (1967),


8

Văn chương và kinh nghiệm hư vô của Huỳnh Phan Anh (1968), Văn học và
tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ (1973), Văn học sử thời kháng Pháp (1958 –
1945) của Lê Văn Siêu (1974)… Tạp chí Văn (Sài Gòn) số 80, ngày 15-41967 đã dành hẳn một số đặc biệt để tưởng niệm nhà văn Hồ Biểu Chánh.
Cuốn Chân dung Hồ Biểu Chánh (1974) của Nguyễn Khuê đã giới thiệu
chi tiết tiểu sử và quá trình hoạt động văn học, cũng như khảo sát rất tỉ mỉ
tác phẩm của Hồ Biểu Chánh.
Đến năm 1967, trong công trình Bảng lược đồ văn học Việt Nam,
Thanh Lãng có phác qua đôi nét về phong trào dòch thuật và sáng tác tiểu
thuyết ở Nam Bộ. Còn cuốn Khi những lưu dân trở lại (1969), tuy không là
khảo luận văn học, nhưng Nguyễn Văn Xuân đã nêu một vấn đề rất xác
đáng:
Hồ Biểu Chánh một cây bút tiêu biểu nhất cho miền Nam, qua
các thời kỳ thăng trầm nhất của lòch sử văn học, vẫn đứng
vững như thạch trụ. Tại sao nhắc đến tiểu thuyết phôi thai lại
không để tâm nghiên cứu những tác giả miền Nam vào
khoảng đầu thế kỷ?” [200,11].
Vào thập niên 70, tình hình nghiên cứu văn học Nam Bộ có phần
khởi sắc hơn. Bằng Giang với Mảnh vụn văn học sử (1974) đã bước đầu

góp nhặt tư liệu để sau này tiến tới xây dựng công trình Văn học quốc ngữ
ở Nam Kỳ 1865 – 1930, một trong những công trình bước đầu đáng chú ý
nhất về văn học Nam Bộ xuất bản sau năm 1975.


9

Đáng chú ý nhất ở giai đoạn này là công trình Phần đóng góp của
Văn học miền Nam, những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới
(1975) của Bùi Đức Tònh. Lần đầu tiên con đường hình thành của tiểu
thuyết ở Nam Bộ đã được phác họa khá chi tiết, tác giả cho rằng:
Trong suốt giai đoạn chuyển tiếp từ văn chương cổ điển sang
văn chương hiện kim và giai đoạn hình thành nền quốc văn
mới, nghóa là từ 1865 đến 1932, hầu hết các tác phẩm xuất
hiện ở miền Nam đều bò coi như không có trong lòch sử văn
học miền Nam [176, 7].
Theo ông:
Sự bỏ rơi bỏ rớt những đứa con tinh thần dẫu là vô tình mà
không hay biết, cho dẫu là những đứa con ấy bò nhìn vội và bò
cho rằng không khôi ngô tuấn tú – vẫn là điều hoang phí. Một
sự hoang phí như thế không nên để xảy ra nhất là khi xem xét
lại, mọi người sẽ nhìn nhận rằng những đứa con rơi đó còn giữ
nguyên đặc tính của nòi giống và đã can đảm góp công vào
cuộc đấu tranh dai dẳng chống xâm lăng [176, 28]
Nói về quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết ở Nam Bộ,
Bùi Đức Tònh nhận đònh:
Hình thức phôi thai xuất hiện sớm nhất ở miền Nam là thơ, tức
loại truyện của văn chương cổ điển đội lốt bằng cách lấy cuộc
đời của một nhân vật đương thời làm đề tài, kế đến là những
truyện không được gọi thẳng như thế mà thường đặt nhan đề



10

với những danh từ ngoại sử hay dò sử lấy đề tài trong lòch sử
Việt Nam hay xã hội Việt Nam đương thời và cuối cùng mới
đến các tác phẩm được mệnh danh là tiểu thuyết theo thể thức
của tiểu thuyết phương Tây. Cũng một cách tổng quát, có thể
nói rằng loại thơ xuất hiện cuối thế kỷ XIX, loại ngoại sử, dò
sử xuất hiện vào khoảng từ 1910 đến 1920. Loại tiểu thuyết
đã hình thành như một văn loại phối hợp bản sắc Việt Nam
với những thức sáng tạo của văn học Tây phương, từ 1920 trở
đi” [176, 158].
Công trình của Bùi Đức Tònh chỉ giới thiệu những tiểu thuyết từ 1920
trở về trước, và trong việc giới thiệu cũng có những sai sót, ví dụ như phần
giới thiệu về tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu; một
vài nhận đònh cũng chưa chính xác, chẳng hạn về báo Nam Bộ đòa phận,
nhưng cần phải ghi nhận sự đóng góp quan trọng của Bùi Đức Tònh trong
việc phác họa quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết Nam Bộ,
đặc biệt là việc phát hiện tác phẩm Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn
Trọng Quản…
2.1.3. Từ sau năm 1975
Từ năm 1975, đất nước hoà bình, thống nhất, điều kiện nghiên cứu
có nhiều thuận lợi hơn. Tuy nhiên cũng phải đến giữa thập kỷ 80 trở đi,
công việc nghiên cứu văn học Nam Bộ và tiểu thuyết Nam Bộ mới thật sự
sôi nổi. Bộ Từ điển văn học gồm 2 tập xuất bản năm 1983, 1984 chỉ giới


11


thiệu duy nhất một tác giả tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX, đó cũng lại
là Hồ Biểu Chánh.
Năm 1985, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam 1958 – 1920 (quyển II) do
Huỳnh Lý chủ biên có phần viết ngắn về tiểu sử của Trần Thiên Trung và
trích giới thiệu tiểu thuyết Hoàng Tố Anh hàm oan với lời đánh giá khá cao
về tính hiện thực của tác phẩm. Tiếp theo là những công trình như Những
áng văn chương quốc ngữ đầu tiên, Truyện thầy Lazaro Phiền (1987) của
Nguyễn Văn Trung, Đòa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1988) của
nhiều tác giả, Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (1988) của hai tác
giả Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng, Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế
kỷ XX (1900-1954) (sơ thảo) của Hoài Anh - Thành Nguyên - Hồ Só Hiệp
(1988), Tiến trình văn nghệ miền Nam (1990) của Nguyễn Q. Thắng, Văn
học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 –1930 (1992) của Bằng Giang…
Công trình của Nguyễn Văn Trung đã điểm lại các loại truyện viết
bằng chữ quốc ngữ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và phân tích
Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, với mục đích chứng
minh đây là tác phẩm tiểu thuyết hiện đại đầu tiên ở nước ta chứ không
phải là Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách chỉ ra đời sau đó gần 40 năm. Tập
sách còn đề cập đến hàng loạt các nhà văn Nam Bộ khác, như Nguyễn
Khánh Nhương, Trương Duy Toản, Michel Tình, Biến Ngũ Nhy, Lê Hoằng
Mưu, Nguyễn Chánh Sắc….
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 của Trần Đình Hượu và Lê
Chí Dũng đã có những nhận đònh rất sâu sắc về sự hình thành và phát triển


12

của nền văn học mới, về sự ra đời của truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhưng
có lẽ do tư liệu về văn học Nam Bộ còn hạn chế nên hai tác giả chỉ phân
tích sâu được Hồ Biểu Chánh với tư cách “là người viết nhiều tiểu thuyết

nhất ở Việt Nam”. Điều đáng chú ý là hai tác giả đã xem Nguyễn Trọng
Quản với tác phẩm Truyện thầy Lazaro Phiền là “người đầu tiên viết truyện
ngắn của nền văn học mới”.
Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900 – 1954) của Hoài
Anh, Thành Nguyên, Hồ Só Hiệp (1988) đã có phần viết về tiểu thuyết ở
Nam Bộ đầu thế kỷ XX và tiểu thuyết ở Nam Bộ từ 1922 -1945. Một số
tác phẩm của Trần Thiên Trung (Trần Chánh Chiếu), Trương Duy Toản,
Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử, Lê Hoằng Mưu, Biến Ngũ Nhy, Nguyễn
Chánh Sắc, Hồ Biểu Chánh cũng đã được tóm tắt và giới thiệu sơ lược.
Sau đó Hoài Anh, Hồ Só Hiệp xuất bản cuốn Những danh só miền Nam
(1999), trong đó có giới thiệu vắn tắt về Trần Chánh Chiếu. Liên tục trên
nhiều số tạp chí Văn (TP.Hồ Chí Minh), Hoài Anh có bài nghiên cứu về
các nhà văn Nam Bộ, sau được ông đưa vào công trình Chân dung văn học
(NXB.Hội nhà văn, 2001), trong đó ông giới thiệu được 28 nhà văn quốc
ngữ Nam Bộ. Trong Phần 1, Hoài Anh đã xây dựng khá sinh động chân
dung của những người viết tiểu thuyết Nam Bộ như Nguyễn Trọng Quản,
Trương Duy Toản, Trần Chánh Chiếu, Trần Phong Sắc, Nguyễn Chánh
Sắc, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Văn Vinh, Tân Dân Tử, Phạm Minh Kiên,
Phú Đức, Bửu Đình… Do tính chất báo chí nên những bài viết này dù cung
cấp khá nhiều tư liệu nhưng chưa đi sâu vào phân tích tỉ mỉ giá trò của từng
tác phẩm. Đáng chú ý là Hoài Anh đã khái quát được những đóng góp chủ


13

yếu của các tiểu thuyết gia tiên phong Nam Bộ. Ông gọi Nguyễn Trọng
Quản là “Người đầu tiên viết truyện bằng chữ quốc ngữ”, Trần Chánh
Chiếu là “Người khai phá lónh vực truyện hiện đại ở Nam Bộ”, Lê Hoằng
Mưu là “Người đi tiên phong trong tiểu thuyết hiện đại ở Nam Bộ”, Biến
Ngũ Nhy là “Cây bút viết truyện trinh thám đầu tiên ở Nam Bộ”, Hồ Biểu

Chánh là “Cây cầu nối những giá trò cổ truyền với con người hiện tại”, Tân
Dân Tử là “Người mở đầu thể loại truyện lòch sử trong văn học Nam Bộ”
v.v…
Một công trình đã cung cấp khá nhiều tư liệu về văn học Nam Bộ và
tiểu thuyết Nam Bộ là cuốn Đòa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh tập II
(1988), trong đó có phần Văn học chữ quốc ngữ ở Sài Gòn – Gia Đònh cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do Tầm Vu (Trần Văn Giàu), Nguyễn Văn Trung,
Nguyễn Văn Y viết. Các tác giả công trình đã có một số nhận đònh khái
quát về phong trào sáng tác tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ và giới thiệu
sơ lược một số tác gia tiêu biểu như Nguyễn Trọng Quản, Lê Hoằng Mưu,
Nguyễn Chánh Sắc, Hồ Biểu Chánh… Điạ chí cũng đã cung cấp một thư
tòch về truyện và tiểu thuyết ở Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1930 gồm
99 cuốn truyện và tiểu thuyết của 35 tác giả. Đến lần tái bản năm 1998,
thư tòch này đã được bổ sung bằng Thư mục văn học (Sài Gòn và Nam Bộ từ
1866 đến 1930) do Nguyễn Văn Y soạn, tập hợp 1122 tác phẩm, trong đó
phần tiểu thuyết và truyện ngắn là 276 cuốn. Tất nhiên đây chỉ là một
phần nhỏ trong gia tài tiểu thuyết và truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX.


14

Trong Tiến trình văn nghệ miền Nam (1990), Nguyễn Q. Thắng đã
dành nhiều trang để giới thiệu thể loại tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ.
Ông cũng khẳng đònh các nhà văn Nam Bộ đã đi đầu trong phong trào sáng
tác tiểu thuyết quốc ngữ và Truyện thầy Lazaro Phiền là một tiểu thuyết
quốc ngữ đầu tiên của lòch sử tiểu thuyết Việt Nam. Ông cũng tóm lược
nội dung một số tác phẩm “mở đường” như Nguyễn Trọng Quản với
Truyện thầy Lazaro Phiền (1887), Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân
của Trương Duy Toản (1910), Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên

Trung (1910), Tam Yên di hận của Nguyễn Văn Vinh (1927), Nhơn tình ấm
lạnh của Hồ Biểu Chánh (1927) v.v… nhằm chứng minh sự phát triển mạnh
mẽ của tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ. Phần khảo sát tác giả và tác phẩm
này bước đầu cung cấp một số thông tin về tiểu sử các tác giả và tác phẩm.
Năm 1999 trong Từ điển tác gia Việt Nam (Nxb.Văn hóa thông tin, 1999),
Nguyễn Q. Thắng tiếp tục viết hàng mấy chục mục từ về các tác gia văn
học quốc ngữ Nam Bộ. Gần đây nhất, công trình Văn học Việt Nam nơi
miền đất mới (Nxb Văn học, 2007) của ông đã bổ sung thêm nhiều tác giả
Nam Bộ và các tác phẩm tiêu biểu của họ. Đây là một công trình rất đáng
chú ý về mặt tư liệu.
Một công trình cũng rất đáng chú ý là Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ
1865 - 1930 của Bằng Giang xuất bản năm 1992. Trong phần tác giả và
tác phẩm, Bằng Giang giới thiệu thư tòch về các tác phẩm đã xuất bản. Các
tác giả viết văn xuôi quốc ngữ được giới thiệu gồm: Nguyễn Trọng Quản,
Trần Chánh Chiếu, Trương Duy Toản, Lê Hoằng Mưu, Phạm Minh Kiên,
Tân Dân Tử… Bằng Giang cũng bàn đến những vấn đề liên quan mật thiết


15

đến tiểu thuyết Nam Bộ như phong trào dòch thuật truyện Tàu, câu văn
xuôi quốc ngữ v.v… Những tư liệu đáng quý và gợi ý của tác giả đã giúp
chúng ta hình dung được quá trình hình thành và phát triển của thể loại
tiểu thuyết ở Nam Bộ.
Bên cạnh công trình này, Bằng Giang còn có một số bài báo tâm
huyết về văn học Nam Bộ, như bài Truyện Tàu với một số tiểu thuyết gia
đầu tiên ở Việt Nam đăng trên Kiến thức ngày nay số 100 năm 1993 để trả
lời câu hỏi của giáo sư J. Shafer về ảnh hưởng của truyện Tàu đến tiểu
thuyết quốc ngữ ở Nam Bộ.
Năm 1993 Nguyễn Phương Thảo có bài Nguyễn Văn Vinh và các tiểu

thuyết của ông trên tạp chí Văn Học số 1 đề cập đến các tiểu thuyết
Chuyện chò em cô Lê trò Lý, Tam Yên di hận… của Nguyễn Văn Vinh.
Nguyễn Phương Thảo đã đánh giá rất cao nhà văn người Bến Tre đã từng
bò thực dân Pháp phạt tù vì tác phẩm của mình.
Đến năm 2001, có Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam do Vũ Tuấn
Anh và Bích Thu chủ biên. Từ điển có 376 mục từ giới thiệu tóm tắt và
đánh giá sơ lược 376 tác phẩm văn xuôi, nhưng đáng tiếc là phần văn xuôi
Nam Bộ chỉ giới thiệu được 56 tác phẩm. Trong lần xuất bản thứ hai năm
2006, các tác giả đã giới thiệu bổ sung thêm 25 tác phẩm văn xuôi Nam
Bộ. Đó là một sự cố gắng rất lớn của tập thể tác giả của hai Viện Văn học
và Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ.
Vào những năm đầu thế kỷ XXI, Phong Lê cũng có nhiều bài viết
về văn học Nam Bộ đăng trên tạp chí Văn học. Đó là các bài viết Tiến


16

trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX (số 1 năm
2001), Phác thảo buổi đầu văn xuôi quốc ngữ (số 11 năm 2001). Ông cũng
cho rằng văn xuôi quốc ngữ “khởi động ở Nam Bộ từ nửa sau thế kỷ XIX”
và “văn xuôi quốc ngữ bắt đầu từ Trương Vónh Ký và được tiếp tục bởi
một loạt các tác giả Nam Bộ cuối thế kỷ XIX” [76, 15].
Đáng chú ý nhất là công trình Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX (Nxb Đại học Quốc gia TP.HCM, 2004) do nhóm tác giả
Nguyễn Kim Anh (chủ biên), Nguyễn Thò Trúc Bạch, Hà Thanh Vân, Vũ
Văn Ngọc, Hoàng Tùng, Huỳnh Vónh Phúc biên soạn. Công trình đã giới
thiệu khái quát về tiểu thuyết Nam Bộ cũng như tiểu sử, sự nghiệp của 30
nhà văn, trong đó có nhiều tác giả được giới thiệu lần đầu. Đây là công
trình công phu, nghiêm túc và dày dặn nhất về tiểu thuyết Nam Bộ từ
trước đến nay.

Đến năm 2005, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tònh lại tiếp tục giới thiệu
văn học Nam Bộ và các tác giả Nam Bộ trong công trình Lược khảo lòch sử
văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối TK.XX, Nxb Văn nghệ TP.HCM.
Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, từ sau đổi mới, các trường
đại học, các cơ quan nghiên cứu cũng đã có nhiều hoạt động, nhiều công
trình nghiên cứu về văn học Nam Bộ và tiểu thuyết Nam Bộ. Năm 1989
trong Hội nghò về Hồ Biểu Chánh tổ chức ở Tiền Giang, giới nghiên cứu
văn học đã chính thức “chiêu tuyết” cho nhà văn này. Tháng 10.1998,
Trung tâm nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố
Hồ Chí Minh đã tổ chức một cuộc hội thảo về Tiến trình hiện đại hóa văn


17

học Việt Nam, trong đó tập trung bàn về sự đóng góp của văn học Nam Bộ.
Đáng chú ý có tham luận Tiểu thuyết Nam Bộ trong chặng đầu của tiến
trình hiện đại hóa văn học Việt Nam của Trần Hữu Tá và Truyện Thầy
Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản – những đóng góp vào kỹ thuật văn
hư cấu trong văn học Việt Nam của Hoàng Dũng. Trần Hữu Tá trong tham
luận của mình đã khái quát vai trò tiên phong của tiểu thuyết Nam Bộ
trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Hoàng Dũng có nhiều phát
hiện thú vò về tác phẩm tiểu thuyết đầu tiên viết bằng văn xuôi quốc ngữ
này. Sau đó trên tạp chí Văn học số 10 năm 2000, Trần Hữu Tá lại có bài
viết Nghó về buổi bình minh của tiểu thuyết Nam Bộ.
Ngày 22- 4- 2002, Viện Văn học phối hợp với Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức hội thảo khoa học Văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX với các tham luận của Nguyễn Huệ Chi, Phong Lê, Nguyễn Văn
Hoàn, Hoài Anh, Bùi Đức Tònh, Nguyễn Khuê, Đoàn Lê Giang… bàn về
nhiều vấn đề của mảng văn học này. Một số tham luận sau đó đã được

công bố trên tạp chí Văn Học số 5 năm 2002. Bài tham luận Thử tìm một
vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu của
Nguyễn Huệ Chi thử nêu lên một số đặc điểm của văn xuôi Nam Bộ,
những chặng đường hình thành và phát triển của tiểu thuyết quốc ngữ Nam
Bộ. Tác giả cũng nêu lên ý kiến về mối quan hệ giữa văn xuôi Nôm Công
giáo với sự ra đời của văn xuôi tự sự quốc ngữ; về “bước đi dích dắc” của
tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ, về “quá trình chín sớm” của văn xuôi tự sự
quốc ngữ Nam Bộ v.v… và khẳng đònh giá trò “đóng góp không nhỏ” của


18

mảng văn xuôi này đối với tiến trình hiện đại hóa văn xuôi nước nhà. Bài
tham luận Phác thảo quá trình hình thành tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ ở
Nam Bộ cuối thế kỳ XIX đầu thế kỷ XX của Nguyễn Khuê đã khái quát lại
các giai đoạn phát triển của văn xuôi Nam Bộ từ phiên âm quốc ngữ
truyện thơ Nôm, phiên dòch truyện văn xuôi chữ Hán cho đến những
truyện và tiểu thuyết văn xuôi đầu tiên của văn học Nam Bộ.
Từ năm 2004, Khoa Văn học và Ngôn ngữ trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có công
trình nghiên cứu khoa học Khảo sát, đánh giá, bảo tồn văn học quốc ngữ
Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX . Đến năm 2005, Khoa đã tổ chức
hội thảo khoa học với nhiều tham luận của các nhà nghiên cứu đến từ các
trường đại học, cơ quan nghiên cứu trên cả nước.
Một số luận án tiến só cũng đã chọn đề tài là tiểu thuyết Nam Bộ.
Luận án phó tiến só Sự hình thành và vận động của thể văn xuôi tiếng Việt
ở Nam Bộ giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1932 của Tôn Thất Dụng
(Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 1993) là công trình đầu tiên đi sâu
nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết văn xuôi
Nam Bộ và đã có những nhận đònh khá thỏa đáng về ảnh hưởng của tiểu

thuyết Trung Hoa và tiểu thuyết phương Tây; về một số đặc điểm nội dung
và hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết Nam Bộ. Cao Xuân Mỹ, trước khi
bảo vệ luận án tiến só tại trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,
đã giới thiệu một số tiểu thuyết Nam Bộ trong bộ sách hai tập Văn xuôi
Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX (Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí


19

Minh và Trung tâm nghiên cứu Quốc học năm 2000). Đó là toàn văn hoặc
trích đoạn một số tác phẩm có giá trò của một số tác giả tên tuổi như
Nguyễn Trọng Quản với truyện Truyện thầy Lazaro Phiền; Hồ Biểu Chánh
với Ai làm được, Tiền bạc bạc tiền; Phú Đức với Châu về hiệp phố; Nguyễn
Bửu Mộc với Mạng nhà nghèo, Lê Hoằng Mưu với Người bán ngọc;
Nguyễn Chánh Sắc với Nghóa hiệp kỳ duyên, Lòng người nham hiểm, Bửu
Đình với Mảnh trăng thu v.v… Một số tác giả trong bộ sách cũng được giới
thiệu tiểu sử khá chi tiết. Luận án tiến só của Cao Xuân Mỹ có đề tài là
Quá trình hiện đại hóa tiểu thuyết Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX (bảo vệ vào năm 2001), nhằm mục đích khảo sát quá trình hiện đại
hóa tiểu thuyết nói chung của cả nước. Luận án đã cung cấp nhiều tư liệu
mới mẻ về tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ. Phần phụ lục cung cấp một danh
mục tiểu thuyết tiếng Việt xuất bản ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến năm
1932 với số tác giả lên đến 322 người. Năm 2002, luận án tiến só Đóng góp
của văn học quốc ngữ ở Nam Bộ cuối TK.XIX – đầu TK.XX vào tiến trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam của Lê Ngọc Thúy tại trường Đại học Sư
phạm TP. HCM cũng là một cố gắng trong việc chứng minh vai trò tiên
phong của văn học quốc ngữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học
dân tộc, trong đó nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của tiểu thuyết. Nhiều
luận văn thạc só và khóa luận tốt nghiệp đại học của Khoa Văn học và
Ngôn ngữ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh

cũng có đề tài là tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX.
Cùng với sự chú ý của các nhà nghiên cứu, việc sưu tầm, giới thiệu
tác phẩm của các nhà văn Nam Bộ cũng được tiến hành khá rầm rộ. Sau


20

đổi mới, hai nhà xuất bản Tiền Giang và Long An tái bản hàng loạt sách
của Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn Nam Bộ khác như Nguyễn Chánh
Sắc, Phú Đức, Tân Dân Tử, Bửu Đình, Nguyễn Ý Bửu… Năm 2003 Trung
tâm Quốc học xuất bản bộ Văn học Việt Nam TK.XX (NXB.Văn học).
Trong các Quyển I (tập 3, 4, 5), Quyển II (tập 1), Quyển V (tập I) có giới
thiệu một số truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận, phê bình của văn học
Nam Bộ. Gần đây các nhà xuất bản Tổng hợp TP. HCM, Văn nghệ cũng
xuất bản nhiều tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắc, Phú
Đức, Tân Dân Tử, Huỳnh Thò Bảo Hòa… Trong một số tác phẩm in lại, có
lời giới thiệu đã đánh giá tác giả, tác phẩm khá sâu sắc.
2.2. Ở nước ngoài
Những công trình xuất bản ở nước ngoài nghiên cứu về tiểu thuyết ở
Nam Bộ trước 1975 không nhiều. Le roman Vietnamien contemporain
(1961) của Bùi Xuân Bào có điểm qua một số tác phẩm của Hồ Biểu
Chánh như Vì nghóa vì tình, Cha con nghóa nặng, Khóc thầm, Tỉnh mộng,
Chút phận linh đinh và Người vợ hiền của Nguyễn Thời Xuyên. Ông cũng
cho mốc khởi đầu của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại là từ năm 1923 với
Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách.
Trong cuốn Introduction à la littérature Vietnamienne (1969),
Maurice M. Durand và Nguyễn Trần Huân cũng trình bày rất sơ lược về
Hồ Biểu Chánh và Bửu Đình.
N.I. Niculin, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam của Nga cũng rất
chú ý đến tiểu thuyết Nam Bộ. Trong công trình Nguồn gốc tiểu thuyết



×