Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Tư tưởng canh tân của nguyễn trường tộ và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.88 MB, 211 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------♣-----------------

VŨ NGỌC LANH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2OO8


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------♣-----------------

VŨ NGỌC LANH

CHUYÊN NGÀNH CNDVBC & CNDVLS
MS: 5.01.02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. NGUYỄN XUÂN TẾ
2.

TS. HÀ THIÊN SƠN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2OO8



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu là trung thực và chưa được ai công bố.
Người thực hiện

VŨ NGỌC LANH


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1
TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CANH TÂN
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
1.1 Biến động lịch sử ở thế kỷ XIX và cơ sở kinh tế - xã hội hình thành
tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ
1.2 Tiền đề lý luận của tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ

15
31

Chương 2
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CANH TÂN
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
2.1. Về khái niệm canh tân và cơ sở triết học của tư tưởng canh tân
Nguyễn Trường Tộ


44

2.2. Cải cách kinh tế, ngoại giao và văn hóa giáo dục - những vấn đề cơ
bản trong tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ
2.3. Những đặc điểm cơ bản của tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ

67
131

Chương 3
TƯ TƯỞNG CANH TÂN NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những điểm tích cực và hạn chế của tư tưởng canh tân Nguyễn
Trường Tộ

146

3.2. Những bài học lịch sử từ tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ với
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay

169

KẾT LUẬN

197

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

201


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

202


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới, cải cách ở các nước đang phát triển ngày càng sôi động
và trở thành xu thế tất yếu của mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình hội nhập với
tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình đổi mới, cải cách diễn ra
vô cùng phong phú, đa dạng nhưng cũng hết sức phức tạp. Khi mà Liên Xô (cũ)
và các nước Đông Âu gặp phải nhiều khó khăn trong quá trình canh tân, cải cách,
thậm chí có nước đã phải trả giá khá đắt, thì ở Trung Quốc lại đạt được những
thành tựu to lớn, đưa tới khả năng nước này có thể trở thành một trong những
nước phát triển hàng đầu thế giới trong vòng vài thập kỷ tới. Trước xu thế tất yếu
đó của thời đại, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Nếu không đổi mới, không
vạch ra được một lộ trình cụ thể cho quá trình hội nhập thì nước ta sẽ rơi vào nguy
cơ tụt hậu và bỏ lỡ cơ hội phát triển đất nước. Song, kinh nghiệm của nước đi
trước cho thấy không thể áp dụng một cách máy móc, cứng nhắc, thiếu kế thừa
lịch sử để xây dựng các mô hình đổi mới trong điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, nhu cầu phải xây dựng một đường lối cải cách, đổi mới riêng, kế
thừa lịch sử tốt đẹp của dân tộc, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong
sự nghiệp phát triển đất nước là việc làm hết sức cần thiết. Thực tế “Hai mươi
năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, công cuộc
đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” [34,
17]. Song, qua quá trình đó chúng ta cũng bộc lộ những thiếu sót: từ một nước có
truyền thống nông nghiệp, tuy lạc hậu, nhưng trong lịch sử chưa đến mức thiếu

gạo trầm trọng, trừ thiên tai mất mùa; thế mà đã có thời kỳ, sản xuất gạo không đủ
cung cấp cho nhu cầu trong nước. Nhờ đổi mới cơ cấu kinh tế, đến nay Việt nam
mỗi năm đã xuất khoảng trên 5 triệu tấn gạo, là nước đứng thứ hai sau Thái Lan
trong việc xuất khẩu gạo. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
phát huy tác dụng trong điều kiện lịch sử Việt Nam, nó vừa tuân thủ nguyên tắc và
qui luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dắt dẫn, chi phối bởi


2

các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay đất nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, tạo ra những bước
phát triển mới, giúp đất nước ngày càng vững vàng vượt qua những khó khăn, rút
ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và hội nhập vào sự phát triển chung
của thế giới. Hơn nữa cũng thông qua sự nghiệp đổi mới, Đảng ta ngày càng
trưởng thành và có những kinh nghiệm nhất định, đưa ra một hệ thống quan điểm
về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam
và bối cảnh quốc tế mới. Tuy nhiên bên cạnh việc tiếp thu, ứng dụng những thành
tựu khoa học hiện đại vào phát triển kinh tế, sự bùng nổ của công nghệ thông tin
và sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ khác trên thế giới, xu hướng
toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đã dẫn tới những thách thức mới đối với đất
nước. Đó là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến
hòa bình" do các thế lực thù địch gây ra. Trước những thách thức đó, chúng ta
càng phải phát huy vai trò của lịch sử dân tộc do các tiền nhân xây dựng, cùng với
chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa nước ta thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đồng thời xây dựng tư tưởng yêu nước vững bền; đó cũng là sự sống
còn có tính lịch sử quan trọng. Để vượt qua giai đoạn khó khăn này, dân tộc ta
phải xây dựng một phong cách tư duy mới, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước của
cha ông và lý luận của thời đại đưa trình độ nhận thức của người Việt Nam ngang

tầm thế giới. Ph. Ăngghen nói: "Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tư duy lý luận" [17, 489]. Sự nghiệp đổi mới ở
nước ta, về căn bản phải dựa vào nội lực, vào lịch sử dân tộc, cùng với việc tìm
hiểu kinh nghiệm của các nước đi trước, biết khắc phục những sai lầm, thiếu sót
và biết kế thừa những thành quả đạt được, trong đó có các phong trào canh tân, cải
cách đã được lịch sử của dân tộc chứng minh. Nhận thức được tầm quan trọng của
việc phát triển tư duy biện chứng, việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh, con người Việt Nam, Đảng ta đã xác định sự cần
thiết phải nghiên cứu, kế thừa tinh hoa tư tưởng dân tộc trên tất cả các lĩnh vực


3

của đời sống xã hội mà đặc biệt là sự dũng cảm, tính cách mạng của những nhà
yêu nước có tư tưởng canh tân.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, lịch sử tư tưởng của một dân tộc là dòng
chảy liên tục, gắn với từng thời kỳ phát triển của dân tộc đó, từ cổ đại đến hiện tại.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, các trào lưu tư tưởng giai đoạn nửa cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX đã để lại dấu ấn đặc biệt sâu sắc, mang ý nghĩa bước ngoặt.
Đồng thời, về mặt chuyển biến xã hội, thời kỳ này chứng tỏ phong trào giải phóng
dân tộc ở Việt nam đã phát triển theo những xu hướng mới với những yếu tố tích
cực, dân chủ. Muốn vượt qua ý thức hệ phong kiến trì trệ, lạc hậu đã ăn sâu vào
đời sống hiện thực, chúng ta phải biết chắt lọc tinh hoa, gạn đục khơi trong như
quá trình giành độc lập, tự do dân tộc, phát triển đất nước trong những năm qua và
phải tiếp tục đổi mới hơn nữa, trong đó có việc đánh giá lại những nhận định về
lịch sử, mà trước đây chưa có đủ bằng cứ khoa học.
Khởi đầu của sự đột phá trong bước chuyển tư tưởng Việt nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, là tư tưởng canh tân, cải cách đất nước của các sĩ phu, các
nhà trí thức yêu nước ở nửa cuối thế kỷ XIX, nó được nhiều nhà tư tưởng quan
tâm, nghiên cứu và đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, nhu cầu thực

tiễn đất nước đã đặt ra những nhiệm vụ mới cho công tác nghiên cứu về trào lưu
tư tưởng này. Việc nghiên cứu các tư tưởng canh tân, cải cách ở Việt Nam nửa
cuối thế kỷ XIX, như một quá trình tư tưởng nối tiếp của tư duy dân tộc dưới góc
độ lịch sử tư tưởng, góc độ triết lý cần được tiếp tục, bởi đây là những vấn đề có ý
nghĩa lý luận đòi hỏi có những kiến giải mới, từ đó cho phép chúng ta nhận thức
đúng đắn tư tưởng canh tân ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, và ý nghĩa của
chúng trong việc xây dựng một tư duy mới phù hợp với thời đại hiện nay. Vì vậy,
việc nghiên cứu các tư tưởng canh tân trong lịch sử nói chung, tư tưởng canh tân
của Nguyễn Trường Tộ nửa cuối thế kỷ XIX nói riêng, là nghiên cứu lý luận cơ
bản, một việc làm cần thiết, nhằm góp phần nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam
mà xét cho cùng cũng là nghiên cứu lịch sử triết học Việt Nam.


4

Nước Việt Nam dưới triều Nguyễn, đặc biệt là dưới triều Tự Đức đang trong
tình trạng khủng khoảng nghiêm trọng: kiệt quệ về kinh tế, rối loạn về chính trị xã
hội, suy yếu về quân sự… lại bị giặc ngoại xâm (thực dân Pháp) nhòm ngó, gõ
cửa và mở rộng xâm lược, đã đặt ra vấn đề canh tân, đổi mới đất nước như một
yêu cầu bức thiết – và được xem như một con đường, một phương sách cứu nước
mới. Nguyễn Trường Tộ là một nhà trí thức thức thời, một nhà yêu nước tâm
huyết đã đề nghị một chương trình canh tân bao quát, tiêu biểu nhất lúc bấy giờ.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Đảng ta
đã xác định tầm quan trọng của công tác lý luận. Trước thực trạng còn nhiều bất
cập, công tác lý luận nước ta cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ, triệt để, nhanh
chóng nhằm vượt qua những thách thức, hội nhập với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Chính từ yêu cầu thực tiễn và lý luận đó mà việc nghiên cứu những
quan điểm, tư tưởng triết học nói chung, tư tưởng triết học chính trị nói riêng,
trong kho tàng lịch sử tư tưởng, rút ra bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đổi mới

hiện nay là một công việc rất cần thiết, góp phần giải quyết các vấn đề: công tác lý
luận, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực hợp lý, phát huy nhân tố con người phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ thực tiễn trên, căn cứ vào tiến trình phát triển lý luận được lịch
sử chứng minh, tôi chọn vấn đề: “Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ và ý
nghĩa của nó đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, thuộc chuyên
ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm đề tài
nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ nhiều năm qua đã có không it những công trình nghiên cứu về Nguyễn
Trường Tộ, song đa số các công trình chọn cách tiếp cận vấn đề ở góc độ lịch sử
và văn học, chưa đi sâu vào tính biện chứng từ góc độ duy vật lịch sử. Cũng có
một số luận văn, bài nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của tư tưởng canh tân
Nguyễn Trường Tộ, tiếp cận vấn đề ở góc độ tư tưởng, triết học có giá trị, và đó là


5

những thông tin quý, là tư liệu hữu ích và làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu đề
tài này. Trong quá trình tìm hiểu và xử lý tài liệu, chúng tôi thấy có thể khái quát
tình hình nghiên cứu vấn đề theo một số hướng chính sau đây:
Hướng nghiên cứu thứ nhất: xuất hiện từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Chúng ta biết, vai trò lịch sử đã xuất hiện con người, kể từ những năm đầu của thế
XIX, tình hình đất nước biến đổi phức tạp, cuộc tranh giành quyền lực giữa
Nguyễn Ánh và anh em nhà Tây Sơn; giữa việc Gia Long cầu cứu Pháp; giữa sự
tồn tại của triều đình nhà Nguyễn và lòng yêu nước, yêu chính nghĩa của nhân
dân; giữa Nho giáo, Phật giáo và Ky tô giáo, Nguyễn Trường Tộ đã thể hiện vai
trò của một trí thức yêu nước bằng một hệ thống tư tưởng, được viết thành văn
bản, đánh dấu những bước canh tân của ông nói riêng, của trí thức Việt Nam thế
kỷ XIX nói chung. Nhưng, những nghiên cứu trước đây về Nguyễn Trường Tộ

mới chỉ nhằm mục đích tôn vinh một danh nhân đất Việt, với hệ thống tư tưởng
tiến bộ, còn nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ. Có thể nói, sự tôn vinh tư tưởng
canh tân Nguyễn Trường Tộ, trong giai đoạn đó là phù hợp thực tế lịch sử, thân
thế con người, hoàn cảnh xã hội; phù hợp với nền văn hóa trong ứng xử tình thế
và thời cuộc của dân tộc Việt Nam đang mong muốn thoát khỏi ách cường quyền
đế quốc, phong kiến, đưa đất nước bước vào con đường văn minh, nhưng không
dễ dàng. Chính vì những lý do đó mà, còn nhiều ý kiến khác nhau về con người,
thân thế, sự nghiệp, nhất là về bản chất tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Hướng nghiên cứu chính của chúng tôi trong luận
án là dựa trên những cứ liệu lịch sử và thực tiễn, bằng phương pháp duy vật lịch
sử, lấy thượng tầng kiến trúc xã hội là triều đình nhà Nguyễn làm nền tảng, hạ
tầng xã hội là nhân dân yêu nước. Trong đó, chú ý vấn đề kinh tế chính trị có tác
động đến con người, thân thế và sự nghiệp Nguyễn Trường Tộ, thể hiện vai trò
khoa học có ý nghĩa tham mưu ở giữa, dân và vua; khi mà vua, triều đình nặng tư
tưởng phong kiến Nho giáo, trí thức không được trọng dụng, quan thì ganh ghét
“những ai khác mình”, dân lầm than cơ cực, trình độ dân chí thấp, còn nghi ngờ
các trào lưu tư tưởng văn minh, văn hóa Phương Tây.


6

Các nhà nghiên cứu theo hướng tôn vinh tư tưởng canh tân Nguyễn Trường
Tộ hồi đầu thế kỷ XX như Lê Thước, Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Nguyễn
Lân, Trần Văn Hà,…đều là những trí thức trong sáng, trung thành với Tổ quốc và
nhân dân, yêu nước thiết tha, tích cực góp phần xây dựng đất nước theo chiều
hướng canh tân, đổi mới.
Phan Bội Châu chính là người đầu tiên đã nhắc đến tên tuổi Nguyễn Trường
Tộ trong cuốn sách “Việt Nam quốc sử khảo”, cùng với Nguyễn Lộ Trạch, Đặng
Huy Trứ,…, ông được coi là người trồng cái mầm khai hóa (tiếp cận văn minh
phương Tây) đầu tiên ở nước ta [20, 214]. Nhưng cũng còn những ý kiến khác

nhau, vì văn minh, văn hóa phương Tây và văn hóa Việt Nam có khi không được
hiểu như nhau trong cùng một sự kiện, một vấn đề. Do vậy việc xác định tính tất
yếu trong vai trò lịch sử của Nguyễn Trường Tộ cần được nhận thức từ góc độ
triết học, giúp chúng ta hiểu rõ bản chất vấn đề qua nhân chứng lịch sử hơn là việc
tôn vinh như những nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ đã được công bố.
Sau ngày nước nhà độc lập, người đầu tiên nhắc đến Nguyễn Trường Tộ là
chủ tịch Hồ Chí Minh. Vào dịp đầu xuân 1946, thời điểm mới ký kết Hiệp định
Mồng 6 tháng 3-1946, Người đã nói về các điều trần của Nguyễn Trường Tộ với
những nét cơ bản như: chỉnh tu võ bị, cải cách học thuật, khuyến khích đoàn kết
lương giáo,… nhằm canh tân đất nước, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc, thà
chết chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ, cùng sự đánh giá: “Ngày
xưa, thời vua Tự Đức, có ông Nguyễn Trường Tộ là một giáo dân yêu nước. Tuy
ông được sang Pháp học tập, lại từng làm việc cho Soái phủ Pháp mấy năm ở Sài
gòn, thế mà ông ta đã gửi lên triều đình Tự Đức nhiều bản sớ tấu bàn việc chỉnh tu
võ bị, canh tân đất nước. Ngày ấy triều đình đã không lắng nghe ông ta. Giá như
biết làm theo một số điều kiến nghị của Nguyễn Trường Tộ, thì chắc chắn cũng
bớt được nhiều khó khăn” [27, 56]. Có thể thấy rằng, đánh giá của chủ tịch Hồ
Chí Minh đã làm rõ thêm câu nói của cụ Phan Bội Châu: “Nguyễn Trường Tộ là
người gieo mầm khai hóa trước tiên của nước ta” [20, 214], đồng thời cũng góp
phần làm sáng tỏ vai trò lịch sử của Nguyễn Trường Tộ.


7

Vẫn theo hướng nghiên cứu này, đến thập kỷ 60, nhờ vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, việc nghiên cứu các tư tưởng
canh tân, cải cách đã đưa tới một bước phát triển mới. Năm 1960 giáo sư Cao
Xuân Huy đã thuyết trình ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, với chuyên đề:
“Chủ thuyết canh tân của Nguyễn Trường Tộ”, mà ngày nay đưa vào tập di thảo
của Cao Xuân Huy, do Nguyễn Huệ Chi biên soạn, chú giải và giới thiệu. Với

luận văn quan trọng này, tác giả Cao Xuân Huy tập trung phân tích hệ thống tư
tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ, trước tiên là tư tưởng tôn giáo và triết học,
bàn sâu về “thiên đạo quan” và “nhân đạo quan”, về tư tưởng khoa học kỹ thuật,
và tư tưởng xã hội, kinh tế chính trị của Nguyễn Trường Tộ. Với một thái độ
khách quan, giáo sư Cao Xuân Huy đánh giá cao trí tuệ của nhà tư tưởng canh tân
yêu nước Nguyễn Trường Tộ, nhưng đã không bình luận gì về chủ thuyết tạm hòa
của Nguyễn Trường Tộ, thực ra đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các quan
điểm chính trị khác nhau.
Năm 1961, nhà xuất bản Giáo dục đã giới thiệu với bạn đọc tác phẩm:
“Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX” của Đặng Huy
Vận và Chương Thâu. Với công trình này các tác giả đã làm toát lên một phương
pháp nghiên cứu thực sự khoa học khi vận dụng xem xét các khía cạnh khác nhau
trong tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ. Các tác giả không chỉ đánh giá về
tầm vĩ mô, tính nhạy bén, vượt trước thời đại… của nhà tư tưởng canh tân này, mà
còn đưa ra những kiến giải về sự ngây thơ trong nhận định bản chất của thực dân
Pháp, sự bảo thủ về chính trị và một số điểm phi thực tế trong đề nghị cải cách của
Nguyễn Trường Tộ. Hai tác giả không né tránh mà nêu thẳng vấn đề, trong điều
kiện lịch sử Việt Nam thế kỷ XIX, nước nhà bị xâm lăng, đã xuất hiện “hai xu
hướng cứu nước: chống Pháp và duy tân”, Nguyễn Trường Tộ duy tân đất nước
nhưng vẫn muốn trung quân, lại “nặng tư tưởng sùng bái vũ khí phương Tây” nên
ông đã chủ trương hòa với Pháp, chỉ có điều chủ trương hòa của ông không hề có
quyền lợi gắn với thực dân Pháp, như phái Dương vụ ở Trung Quốc, hồi năm
1860 [83, 135] và cũng khác với thái độ đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn.


8

Năm 1961, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, của Viện sử học mở diễn đàn hội thảo
về các nhân vật lịch sử nổi bật, trong đó có Nguyễn Trường Tộ, nhiều ý kiến khác
nhau về nhân vật Nguyễn Trường Tộ được đề cập và nó phản ánh tính thời thế

trong cách nhìn của các tác giả ở miền Bắc lúc đó. Chẳng hạn, Văn Tân, một cán
bộ lão thành cách mạng, người được Trần Huy Liệu phân công phụ trách tạp chí,
cho rằng, Nguyễn Trường Tộ là một nhà yêu nước, “muốn đưa nước Việt Nam
vào con đường tư sản hóa như các nước Tây Âu” [68, 22], nhưng những đề nghị
của ông lại không xuất phát từ tình hình cụ thể của Việt Nam, “ông muốn lắp lại
những cái mà ông thấy ở Pháp vào xã hội Việt Nam” [68. 32]. Trong hội thảo này
Huy Vận và Chương Thâu vẫn giữ quan điểm của mình rằng, tình hình nước ta lúc
bấy giờ cần thiết và vẫn còn điều kiện thực hiện công cuộc duy tân, những cải
cách của Nguyễn Trường Tộ có thể thực hiện được trong khuôn khổ của chế độ
phong kiến… Hoàng Nam với tham luận “Đánh giá vai trò Nguyễn Trường Tộ
trong lịch sử cận đại Việt Nam” nghiêng về quan điểm cho rằng, những đề nghị
cải cách của Nguyễn Trường Tộ là tích cực, mạnh dạn, vượt hẳn trí thức đương
thời, nhưng theo ông, Nguyễn Trường Tộ lại không hề đề cập tới vấn đề căn bản
là xóa bỏ chế độ phong kiến đương thời đã quá mục nát.
Năm 1973, trong cuốn: “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ nửa cuối
thế kỷ XIX đến cách mạng Tháng Tám”, nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu đã giành
một mục trong chương thứ tư, để phân tích tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường
Tộ cả về mặt tích cực và về mặt hạn chế. Trong tác phẩm này tác giả đã đề cập tư
tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ trong cả một hệ thống, thông qua đó, tác giả đã
cho chúng ta phương pháp nhận định mang tính khái quát, có giá trị cung cấp
những nhận thức tổng thể về tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ trong dòng
chảy của lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trong bối cảnh hàng loạt các công
trình nghiên cứu về tư tưởng cải cách, canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX được
công bố phải kể đến công trình sưu tầm, nghiên cứu của tiến sĩ, linh mục Trương
Bá Cần: “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo”, do nhà xuất bản thành phố


9


Hồ Chí Minh ấn hành 1998 (tái bản 2002). Công trình đã đi sâu vào tiểu sử và di
thảo của Nguyễn Trường Tộ, phát hiện ra những tư liệu mới, làm đầy đủ và sâu
sắc hơn các văn bản và sử liệu trong lĩnh vực này, ví dụ như việc: Nguyễn Trường
Tộ không dưới một lần ra nước ngoài, được tiếp xúc trực tiếp với khoa học kỹ
thuật phương Tây và đã giành nhiều thời gian cho việc khảo sát thực tiễn mới mẻ
ở đó. Công trình này, được đánh giá: về cơ bản, những di thảo của Nguyễn
Trường Tộ hiện có là “đáng tin cậy và khó có thể hy vọng tìm thêm được các tư
liệu bổ sung, do những điều kiện bất khả kháng” [50,16]. Trong lời bạt cuốn sách
“Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo”, Chương Thâu ghi: “Như vậy là sau
gần ba phần tư thế kỷ, kể từ 1925 đến nay chúng ta mới có được một “chân dung”
Nguyễn Trường Tộ tương đối trọn vẹn.”, với những tư liệu ấy, “Từ nay chúng ta
có thể yên tâm đi vào khai thác các di thảo Nguyễn Trường Tộ như những tài liệu
có “thẩm quyền” về khoa học” [16, 582]. Chúng tôi sẽ dựa vào những tài liệu
đáng tin cậy đó để làm sáng tỏ các vấn đề trong luận án này.
Ngoài ra, nhà sử học Hoàng Thanh Đạm, suốt từ 1986 đến 1991, viết nhiều
bài về Nguyễn Trường Tộ, với nhận xét, “các bài viết đó tuy không cung cấp sử
liệu mới, chỉ dựa vào những tư liệu do Chương Thâu và Trương Bá Cần đã sưu
tầm và công bố, nhưng nó bộc lộ nhiệt tình của người nghiên cứu…, với ý thức
lấy tư duy cách tân kiểu Nguyễn Trường Tộ, để góp phần hưởng ứng đường lối
đổi mới của Đảng” [27, 93]. Năm 2001, Hoàng Thanh Đạm viết cuốn: “Nguyễn
Trường Tộ - thời thế và tư duy cách tân” nhằm làm sáng tỏ thêm các vấn đề về
nhà canh tân lỗi lạc này, đặc biệt là lý giải về nghịch lý Việt Nam giữa thế kỷ
XIX: “có những anh hùng chủ chiến được tôn vinh và có một con người chủ hòa
sáng suốt như Nguyễn Trường Tộ” [27, 16].
Năm 1992, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm đã ấn hành kỷ yếu hội thảo khoa
học “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước”. Trong hội thảo này, các
nhà nghiên cứu đã có nhiều ý kiến bàn về tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường
Tộ ở các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa, giáo dục,…với
những góc độ khác nhau. Thông qua hội thảo, các nhà khoa học muốn phê phán



10

cái lạc hậu của xã hội Việt Nam thế kỷ XIX, ca ngợi tư duy canh tân kiểu Nguyễn
Trường Tộ, đồng thời phân tích một số điều bất cập và hạn chế lịch sử của ông,
với thái độ cố gắng tiếp cận khoa học, nêu bật tinh thần đổi mới tư duy, cao hơn
nữa là hướng đến mục đích: “nghiên cứu một cấp độ tư duy khá sâu sắc, toàn diện,
mới lạ của người Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX” [79, 10].
Như vậy, những nhà nghiên cứu theo hướng thứ nhất đều nhận thấy Nguyễn
Trường Tộ có tấm lòng yêu nước nồng nàn, kiên quyết chống tư tưởng hủ nho,
bảo thủ mà các quan trong triều Tự Đức là tiêu biểu. Ông lại rất khéo léo trong
phương pháp đấu tranh, biết tiến, biết lui đúng lúc, trong môi trường phong kiến
chuyên chế đầy cạm bẫy. Hình ảnh Nguyễn Trường Tộ được các trí thức yêu nước
tôn vinh: là người vừa có trí lớn, vừa thông minh, vừa có nghị lực phi thường, lại
có quyết tâm lớn thực hiện lý tưởng của đời mình là canh tân đất nước theo hướng
tư duy mới và khoa học kỹ thuật tiến bộ của phương Tây.
Hướng thứ hai: cũng xuất hiện ngay từ những năm đầu của thế XX, nghiên
cứu về Nguyễn Trường Tộ, nhằm phục vụ cho mục đích chính trị của một nhóm,
một thế lực riêng. Chẳng hạn, trên một số tạp chí tiếng Việt như Nam Phong đã
quan tâm tới những tư tưởng cải cách xuất hiện ở nửa sau thế kỷ XIX, trong đó có
một số bài giới thiệu về Nguyễn Trường Tộ, ca ngợi ông như một nhà chủ hòa cải
cách theo phương Tây điển hình. Trương Bá Cần đã phân tích cho chúng ta thấy
chủ đích của báo Nam Phong là “cổ vũ cho việc Âu hóa, hợp tác với Pháp, chấp
nhận ảnh hưởng và sự bảo hộ của Pháp” [16, 10].
Trong vùng quốc gia, vùng có sự hiện diện của quân đội Pháp, rồi quân đội
Mỹ, các bài viết về Nguyễn Trường Tộ phần lớn đều có mục đích chính trị. Tư
tưởng chủ hòa của Nguyễn Trường Tộ được sử dụng như một thứ vũ khí chính trị,
“mượn danh người nói về mình”, đặc biệt khi Ngô Đình Diệm lên nắm chính
quyền thân Mỹ, Nguyễn Trường Tộ được coi như một “chí sĩ, một đàn anh của
“chí sĩ” Ngô Đình Diệm” [16, 11]. Tích cực hơn cả trong thời kỳ này là nhóm nhà

văn, nhà báo, những người thân tín của chế độ Ngô Đình Diệm, đã “mượn” tư
tưởng Nguyễn Trường Tộ để thể hiện mình, trong tờ Văn Đàn và Tinh Việt Văn


11

Đàn, nhưng chủ đích của họ cũng chỉ là để cổ vũ cho một tinh thần “quốc gia”,
bảo vệ cho việc thân với Mỹ là đúng, và cũng nhằm mục đích nói lên “tinh thần
yêu nước muốn tự lực tự cường, thoát khỏi nanh vuốt ngoại bang” [16, 11].
Hướng thứ ba: Trong bối cảnh lịch sử nước ta nửa cuối thế kỷ XIX, không
tránh khỏi những thỏa thuận có lợi cho kẻ thù để giữ thế chủ hòa, vì thế có nhóm
nghiên cứu phê phán, công kích Nguyễn Trường Tộ, nhằm mục đích chia rẽ tư
tưởng kế thừa lịch sử đã được chủ tịch Hồ Chí Minh và các chí sĩ yêu nước tôn
vinh. Hướng nghiên cứu này nổi bật là cuốn sách của hai tác giả Việt kiều ở Mỹ,
Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc, do nhóm Giao điểm xuất bản tháng 4 năm
1998, với nhan đề: “Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo”. Hai tác
giả cuốn sách tập trung phê phán vấn đề tôn giáo của Nguyễn Trường Tộ, trên ba
khía cạnh: những sai lầm về lý thuyết của đạo Ky tô, về mưu đồ của các thừa sai
Ky tô muốn biến Việt Nam thành nước Chúa, đã tích cực giúp quân viễn chinh
Pháp thôn tính Việt Nam, và đặc biệt là hai tác giả dùng tất cả các cứ liệu phê
phán giáo lý, phê phán các thừa sai Ky tô nhằm mục đích vạch tội Nguyễn Trường
Tộ: là tín đồ Ky tô giáo, đầy tớ của giám mục Gauthier, một tên gián điệp lợi hại
nhất của quân xâm lược Pháp, và cuối cùng khái quát lại: Nguyên Trường Tộ có
mưu đồ phản quốc. Hai tác giả còn vận dụng nhiều sử liệu được cho là “mật” để
kết tội Nguyễn Trường Tộ bán nước. Đối với các kiến nghị làm cho dân giàu nước
mạnh của Nguyễn Trường Tộ hai tác giả cuốn sách, Nguyễn Kha và Trần Chung
Ngọc cũng cho rằng thiếu khách quan.
Có thể nói, cuốn sách của Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc có mục đích phá
vỡ sự thống nhất của lịch sử, đã không nhìn ra “một hạt cát có thể tạo nên ngọc
trai”, họ “không phải vô tình, mà là cố ý chôn vùi một danh nhân đất nước” [27,

123]. Hầu hết các học giả trong nước yêu mến Nguyễn Trường Tộ, tôn vinh ông,
chắc không quan tâm nhiều đến lý lẽ của Nguyễn Kha và Trần Chung Ngọc phê
phán Nguyễn Trường Tộ, nhưng không khỏi liên hệ đến cách nhìn của các nhân
vật chủ chiến thời Tự Đức, với khẩu hiệu “Bình Tây sát tả”, đã từng kiến nghị
triều đình xử tử Nguyễn Trường Tộ. Theo chúng tôi, tất yếu trong thực tế lịch sử


12

có cả cát và vàng, mà bất cứ nhà nghiên cứu chân chính nào thì về mặt phương
pháp luận nghiên cứu của khoa học lịch sử, cũng sàng lọc cát để tìm vàng, mặc dù
vậy, cũng không loại trừ có người cố tình bỏ vàng, lấy cát nhằm “thỏa mãn yêu
cầu của người đặt bài, đang rất khó chịu vì những lời ca ngợi, đòi hỏi đổi mới”
[27, 127], của xã hội Việt Nam hiện nay. Kiểu nghiên cứu thiếu khách quan đối
với người xưa như vậy thì đạo lý của người Việt Nam không cho phép, nhất là
trong giai đoạn đất nước đang “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, bước vào
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đang rất cần
thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
Tóm lại, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ, các
tác giả với những góc độ khác nhau, đã đi sâu phân tích vấn đề ở một lĩnh vực nào
đó, với những ưu, nhược điểm của hệ thống tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ,
trong đó có những đánh giá, kết luận bao hàm cả sự tôn vinh và phê phán ông.
Nhưng, hầu như chưa có công trình nào tiếp cận vấn đề dưới góc độ triết học
chính trị, nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống những đóng góp của Nguyễn
Trường Tộ trong lịch sử tư tưởng dân tộc, (con đường giữ nước đâu chỉ là chủ
chiến), từ đó rút ra ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm cho sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng canh tân của
Nguyễn Trường Tộ, qua đó làm rõ vấn đề dưới góc độ triết học chính trị và những

đóng góp của ông trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, đổi mới đất nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận án hướng tới các nghiên cứu sau:
Thứ nhất: Khái quát những biến động lịch sử ở thế kỷ XIX, phân tích dưới
góc độ triết học chính trị tiền đề hình thành tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ.
Thứ hai: Phân tích những cứ liệu lịch sử vạch ra cơ sở triết học, những nội
dung cơ bản trong tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ.
Thứ ba: Phân tích những đặc điểm chính trị trong thực tiễn lịch sử, chắt lọc
những giá trị tích cực, chỉ ra những điểm hạn chế của tư tưởng canh tân Nguyễn


13

Trường Tộ, từ đó đánh giá khái quát, rút ra những bài học lịch sử cho sự nghiệp
đổi mới ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam có một thực tế là văn-sử-triết bất phân. Đó
là một khó khăn khăn không nhỏ trong quá trình nghiên cứu đề tài. Hơn nữa việc
đánh giá tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ còn nhiều ý kiến khác nhau.
Trên tinh thần nhất quán: lịch sử chính trị là một chuỗi liên tục, đối tượng nghiên
cứu của luận án là tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ, nhưng chúng tôi sẽ
không phân tích tất cả các vấn đề, mà tập trung tìm hiểu cơ sở triết học, đi sâu vào
những tư tưởng có ảnh hưởng tới xu hướng chính trị, nhằm tìm ra nội dung có ý
nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp của luận án
Để đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra trong đề tài, khi nghiên cứu, trình
bày luận án chúng tôi dựa trên cơ sở thế giới quan duy vật, phương pháp luận
khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Chúng
tôi vận dụng những nguyên lý của triết học Mác-Lênin như tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong quá trình phát
triển của lịch sử xã hội… làm cơ sở cho những lập luận của mình. Trong đó có sử

dụng phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về nghiên cứu lịch sử tư tưởng
dân tộc và đường lối của Đảng ta để luận giải những vấn đề đặt ra trong đề tài.
Phương pháp tiếp cận đề tài là cách tiếp cận lịch sử từ góc độ triết học chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, tùy từng vấn đề cụ thể, chúng tôi sử dụng các phương
pháp: lịch sử, logic, phân tích và tổng hợp, qui nạp và diễn dịch, so sánh đối
chiếu,… nhằm đạt được kết quả tốt nhất.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Đề tài luận án: “Tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ và ý nghĩa của nó
đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt nam hiện nay” có ý nghĩa về cả lý luận và thực
tiễn, nhất là trong giai đoạn hiện nay, đang có sự đổi mới về chính trị - xã hội của
Đảng ta.


14

Thứ nhất, đề tài góp phần làm rõ thêm vai trò của Nguyễn Trường Tộ từ góc
độ triết học chính trị, trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam.
Thứ hai, đề tài có ý nghĩa góp phần nối dòng chảy tư tưởng Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử ở nửa cuối thế kỷ XIX, và có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho quá trình giảng dạy, học tập môn “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, phục vụ
công tác nghiên cứu lý luận.
Thứ ba, từ đề tài có thể rút ra những vấn đề có tính khái quát phổ biến, những
bài học lịch sử cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
7. Cái mới của luận án
- Trên cơ sở phương pháp tiếp cận lịch sử từ góc độ triết học chính trị, luận
án phân tích tính tất yếu của sự xuất hiện tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ,
đồng thời chỉ ra tính độc lập tương đối, tính vượt trước của ý thức xã hội được
phản ánh trong hệ thống tư tưởng canh tân đó.
- Luận án rút ra ý nghĩa và bài học lịch sử từ tư tưởng canh tân Nguyễn
Trường Tộ, nhằm hạn chế tính chủ quan, tiêu cực trong việc đón nhận, áp dụng

những yếu tố mới, mang tính khoa học và tiến bộ vào sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước ta hiện nay.
- Từ thực tiễn khách quan của thời đại chúng ta, qua phân tích các giá trị lịch
sử của tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ, luận án làm rõ những đóng góp của
ông trong lý luận đổi mới tư duy, cũng như quá trình hội nhập kinh tế và toàn cầu
hoá hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết, và
danh mục tài liệu tham khảo.


15

Chương 1

TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CANH TÂN
NGUYỄN TRƯỜNG TỘ
1.1. BIẾN ĐỘNG LỊCH SỬ THẾ KỶ XIX VÀ CƠ SỞ KINH TẾ - XÃ
HỘI

HÌNH

THÀNH



TƯỞNG

CANH


TÂN

NGUYỄN

TRƯỜNG TỘ
Nghiên cứu về tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ nói riêng, tư tưởng
canh tân ở Việt Nam nửa sau thế kỷ XIX nói chung, nhất thiết phải đề cập tới sự
biến động của lịch sử đã ảnh hưởng tới quá trình hình thành tư tưởng, bởi đây là
một trong những chìa khóa để lý giải tính tất yếu của sự xuất hiện những tư tưởng
canh tân thời bấy giờ, từ đó nhận diện nguyên nhân vì sao những tư tưởng canh
tân lại không được thực hiện, hoặc thực hiện nửa vời rồi bị thất bại.
Thế kỷ XIX, theo lịch sử ghi lại: “Việt Nam có thể nói được chia thành hai
giai đoạn rõ rệt mà mỗi giai đoạn là một nửa thế kỷ. Tương ứng với mỗi giai đoạn
ấy là một tiến trình phát triển của tư tưởng Việt Nam” [71, 8].
Giai đoạn thứ nhất bắt đầu với việc thiết lập triều Nguyễn, sau khi Nguyễn
Ánh đánh bại vương triều Tây Sơn, giai đoạn này “tư tưởng phải soi sáng cho
nhiệm vụ xây dựng lại đất nước từng bị chia cắt và tàn phá, xây dựng lại xã hội đã
từng bị đảo lộn ghê gớm trong thế kỷ XVIII” [71, 8].
Trong giai đoạn hai - nửa cuối thế kỷ XIX, bắt đầu từ năm 1858, khi thực dân
Pháp mở đầu cuộc xâm lược vũ trang, kết thúc vào năm 1896, với sự thất bại của
cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng - những diễn biến lịch sử phức tạp, triều đình
phong kiến nhà Nguyễn bảo thủ và trước sự xâm lược của thực dân Pháp, trong
bối cảnh ấy, có nhiều luồng tư tưởng: thân Tầu, phong kiến bảo thủ, theo Pháp,
chống Pháp..., tư tưởng Việt Nam “phải trả lời các câu hỏi mà thực tiễn bảo vệ
nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ đặt ra” [71, 8].
Tình hình chính trị thế giới và khu vực ở thời kỳ này có ảnh hưởng rất lớn
đến các nhà canh tân, một người như Nguyễn Trường Tộ không thể không chịu


16


ảnh hưởng của thực tiễn thời cuộc đặt ra. Từ cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản
phương Tây đã phát triển thành hệ thống, đứng đầu là Anh, Pháp, Mỹ. Cuối thế kỷ
XVIII, nước Pháp đã có đầy đủ các tiền đề kinh tế - văn hóa - xã hội cho một cuộc
cách mạng tư sản, dưới ngọn cờ tư tưởng của trường phái “khai sáng” với các đại
biểu như Jăng Jắc Rútxô, Điđơrô, Hônbách…Đến giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế
Anh “đạt tới mức độ phát triển cao hơn mọi nước khác” [50, 22], sau Anh, nước
Pháp đứng hàng thứ hai trong nền kinh tế thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa càng làm tăng nhu
cầu về thuộc địa cung cấp nguyên liệu và thị trường tiêu thụ hàng hóa. Trong thế
kỷ XIX vùng châu Á rộng lớn, đầy tiềm năng đã trở thành mục tiêu của các nước
đế quốc. Cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất (1839-1842), do Anh mở đầu
tấn công vào Trung Quốc, “được xem là sự kiện nổi bật” [50, 22]. Trong thời gian
nửa cuối thế kỷ XIX, Anh xâm lược Ba Tư, bắn phá Kagôsima, đòi Nhật mở cửa
buôn bán, xâm chiếm Niudilân, Malaixia, Mianma, can thiệp vào Xiêm và biến
Ấn Độ thành thuộc địa. Thế lực của Anh ở châu Á là vô cùng to lớn, Mỹ và Pháp
cũng chạy đua xâm lược, mở rộng thuộc địa, tăng cường ảnh hưởng ở khu vực
châu Á. Cuối thế kỷ XIX, Triều Tiên dần dần biến thành nước nửa thuộc địa của
xâm lược Mỹ.
Trong thế kỷ XIX, xã hội phong kiến Trung Quốc có nhiều biến động lớn Triều đình Mãn Thanh bước vào giai đoạn sa sút, cận kề thời điểm sụp đổ. Mặc dù
nửa sau thế kỷ XIX, nhà Thanh vẫn coi Trung Quốc là trung tâm của văn minh
còn các nước khác là Di, Dịch. Họ thực hiện chính sách bế quan tỏa cảng với bên
ngoài, chuyên chế với bên trong. Tuy nhiên họ cũng không ngăn nổi phong trào
của Hán tộc, không chống nổi sự xâu xé của phương Tây. Cuối cùng, sau hiệp ước
Nam Kinh ngày 29/8/1842, Trung Quốc chấp nhận mở cửa, tự do mậu dịch, giao
thương với nước ngoài, nhường một số địa bàn cho các nước phương Tây: “mở
năm cửa biển là Quảng Châu, Phúc Châu, Ninh Ba, Hạ Môn và Thượng Hải” [50,
24], Hương Cảng thì bị cắt hẳn cho Anh. Ngay từ những năm 60 của thế kỷ XIX,
ở Trung Quốc đã xuất hiện cuộc vận động học tập phương Tây, gọi là “Dương vụ



17

vận động” của các phần tử phong kiến thuộc phái đương quyền triều đình nhà
Thanh như Dịch Tố, Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương… Họ chủ trương sử
dụng một số kỹ thuật sản xuất của chủ nghĩa tư bản phương Tây để duy trì sự
thống trị phong kiến, gửi nhiều học sinh đi học tập ở nước ngoài… Có thể nói, ở
Trung Quốc nhân tố kinh tế tư bản dân tộc đã được hình thành và lớn mạnh không
ngừng vào những năm 70 của thế kỷ XIX, tạo điều kiện cho văn minh, văn hoá tư
sản phát huy ảnh hưởng, tạo ra tiền đề cho sự xuất hiện các luồng tư tưởng mới.
Thời kỳ này, tại Nhật Bản mặc cho triều đại Tokugawa thi hành chính sách
đóng cửa, dân Nhật vẫn tự tìm cách giao thương với các tàu buôn ngoài khơi các
hải cảng. Và đặc biệt là sau khi hiệp ước hữu nghị và thương mại Nhật - Mỹ được
ký kết (1854), thì năm 1856, Nhật đã thành lập Thương xá quốc tế và phòng giao
dịch sách ngoại quốc, chủ yếu là sách khoa học, kỹ thuật phương Tây. Các cuộc
nổi dậy chống Mạc phủ đã giúp cho Nhật hoàng trực tiếp cầm quyền và khai mở
kỷ nguyên Minh Trị vào năm 1867. Cũng từ đây, “nhân dân Nhật Bản nhận thức
được sức mạnh ưu việt của nền văn minh phương Tây, định hướng được con
đường đúng đắn phải đi là mở cửa, học tập khoa học, kỹ thuật phương Tây để
thoát khỏi họa ngoại xâm” [50, 27]. Minh Trị lên ngôi thi hành chính sách cải
cách, mở cửa, tạo ra một thời kỳ mới phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của
đất nước Phù Tang. Triều đại này đã thúc bách Nhật Bản đi vào con đường hiện
đại hóa cấp tốc, nhờ đó Nhật Bản đã trở thành nước công nghiệp hàng đầu thế
giới. Như vậy, tình hình chung ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản… cho ta
thấy, canh tân, cải cách là xu thế tất yếu của thời đại.
Trong khi đó, ở khu vực Đông Nam Á, Inđônêxia bị Hà Lan thống trị,
Philippin bị Tây Ban Nha và Mỹ chiếm đóng, Xiêm bị biến thành khu đệm giữa
các vùng thuộc địa của các nước đế quốc và bị lệ thuộc nhiều mặt vào các nước tư
bản. Còn các nước Lào, Cămpuchia và Việt Nam đều bị Pháp thôn tính. Như vậy
đến cuối thế kỷ XIX, trừ Nhật Bản, hầu hết các nước châu Á đều bị các nước tư

bản phương Tây xâm lược, bị biến thành thuộc địa, nửa thuộc địa cung cấp
nguyên liệu và tiêu thụ hàng hóa cho tư bản chính quốc.


18

Trước xu thế bành trướng sang phương Đông của các nước tư bản đế quốc,
nhiệm vụ lịch sử chung của các nước châu Á lúc này là bằng mọi cách phải bảo vệ
độc lập dân tộc. Và các nước, trong đó có Việt Nam cho rằng, phương pháp duy
nhất cần tiến hành để chống lại nguy cơ bị thôn tính là kiên quyết thực hiện chính
sách đóng cửa, hy vọng ngăn chặn được bước chân quân xâm lược. Khi áp dụng
đối sách như vậy, các nước ấy đã không nhận thức được sự khác biệt về chất của
chủ nghĩa tư bản phương Tây so với phương Đông, không thấy rằng biện pháp
này chỉ có tác dụng trong phạm vi của phương thức sản xuất phong kiến, với các
phương tiện giao thông thô sơ và kỹ thuật vũ khí lạc hậu. Trước sức ép ngày càng
tăng của các nước tư bản, Nhật Bản và Thái Lan, do địa lý chính trị khác với Việt
Nam đã có được những thuận lợi trong tiến trình hành động để bảo vệ chủ quyền
theo cách riêng phù hợp với lịch sử của nước họ. Còn các nước châu Á khác, đã
không chống chọi được với sức mạnh của chủ nghĩa thực dân. Đặc biệt là Việt
Nam với vị trí chiến lược quan trọng, điều kiện địa lý thuận lợi, giàu tài nguyên và
lòng tham của giai cấp tư sản phương Tây, đã dẫn tới những biến động sâu sắc về
phương diện chính trị, quân sự... Vấn đề giữ chủ quyền đất nước, quan điểm giữa
những người dân yêu nước có khác nhau, và hết sức mâu thuẫn với triều đình nhà
Nguyễn hèn nhát, trong bối cảnh đó thì Nguyễn Trường Tộ gần như là nạn nhân
của sự bế tắc trong hành động yêu nước của mình.
Trở lại với nhà Nguyễn, sau nhiều năm chinh chiến chống Tây Sơn, Nguyễn
Ánh lên ngôi vào năm 1802, “lực lượng chính góp phần vào thành công đó bao
gồm: giám mục Bá Đa Lộc và các chí nguyện quân người Pháp ủng hộ về mặt
quân sự,…” [98, 50], như vậy vua Gia Long đã có những quan hệ với Ky tô giáo
và tư bản Pháp, nhờ sự giúp đỡ của họ để thắng Tây Sơn. nhưng đó cũng là hành

động “nối giáo cho giặc” để Pháp âm mưu can thiệp vào Việt Nam. Lẽ ra sau khi
bắt tay với giáo sĩ và tư bản phương Tây để khôi phục chế độ phong kiến, nhà
Nguyễn phải có ít nhiều tư tưởng “khai phóng” mới phải: tha đạo, mở cửa buôn
bán với phương Tây, dùng cố vấn và chuyên gia phương Tây, để học tập phương
Tây, nhưng “sự thắng lợi của Gia Long là sự thắng lợi của lực lượng phong kiến


19

phản động,… thủ cựu đến cực đoan” [35, 359]. Hơn nữa, “vì Gia Long áp dụng
một chế độ cai trị như Trung Hoa nên đã làm thất vọng và gây chống đối nơi
người Pháp, chống đối này càng nặng nề đối với các vua nối nghiệp Gia Long, đặc
biệt vì chính sách của họ đối với người công giáo” [98, 50]. Nhà Nguyễn rất sợ bị
thực dân Pháp thôn tính, sợ ảnh hưởng của Ky tô giáo, nên đã cấm đạo, thi hành
chính sách đóng cửa, giới hạn buôn bán trong khuôn khổ kiểm soát của triều đình
và hạn chế vai trò của các sĩ quan Pháp được sử dụng. Đây là một trong những
nguyên nhân khiến Pháp phẫn trí và kích thích lòng tham chuẩn bị xâm lược Việt
Nam. Khi Minh Mạng được chọn làm người kế vị Gia Long, ông tiếp tục thực thi
đường lối chính trị mà các bậc tiền bối đã đặt ra. Có thể thấy rằng, đường lối mà
Minh Mạng lựa chọn là sai lầm ngay từ đầu bởi tính bất cập của nó trước bối cảnh
phát triển mới của thế giới. Vì xu thế tất yếu của lịch sử lúc đó là sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, là làn sóng của xã hội tư sản đang thay thế chủ nghĩa thuần
nông, nó cuốn đi mọi tình trạng cô lập của các quốc gia, dân tộc vốn tồn tại theo
lối tự cung tự cấp, thay vào đó là những quan hệ phổ biến về lợi ích của giai cấp
tư sản, ở đó không có sự thống nhất giữa lợi ích của triều đình phong kiến với các
nhóm tư sản. Những sự phụ thuộc vốn có của xã hội phong kiến bị phá vỡ, thay
vào đó là tính lợi ích của các nhà tư sản dẫn đến sự chia rẽ giữa các dân tộc. Hơn
nữa sức mạnh của nó, theo Các Mác như “là trọng pháo bắn thủng tất cả các bức
vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan
cường nhất cũng phải hàng phục” [17, 602].

Trước thực tế của một quốc gia mới trải qua một cuộc nội chiến Nguyễn Ánh
- Quang Trung và xu thế tất yếu của lịch sử, Minh Mạng bế tắc không tìm ra con
đường giành độc lập, trong khi đã lệ thuộc phương Tây một phần, lại chưa đủ
nhận thức để phát hiện quy luật khách quan. Ông nhìn nhận nền văn minh phương
Tây một cách chủ quan, nên tiếp tục duy trì các đối sách cũ kỹ đã thi hành từ thời
Gia Long, thậm chí còn sợ hãi đủ mọi sự đe dọa, nên cố gắng thể hiện quyền lực
chính trị cứng nhắc hơn. Đến thời Thiệu Trị và Tự Đức, sự can thiệp của thực dân
Pháp ngày càng trắng trợn và đến năm 1858, Pháp chính thức xâm lược Việt Nam.


20

Tại sao triều Nguyễn lại không thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
một kiểu tư duy mới có thể thức tỉnh ý thức dân tộc trước sự bành trướng của
Phương Tây? Cùng một vấn đề, đặt ra cho Trung hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt
Nam,…là làm sao bảo vệ độc lập dân tộc và bản sắc dân tộc; chống xâm lược
phương Tây và giữ gìn các giá trị truyền thống trên cơ sở Nho Giáo? Từ nửa cuối
thế kỷ XIX, ở các nước Trung hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, tầng lớp trí thức đứng
trước sự đe dọa và xâm lược phương Tây, đã cố gắng ít ra là trên bình diện tư
tưởng, tìm cách hòa hợp giữa hai yếu tố: sự bảo tồn giá trị truyền thống - nền tảng
đạo lý của xã hội và sự tiếp thu kiến thức khoa học kỹ thuật phương Tây, nhằm tác
dụng có lợi. Lúc bấy giờ, các nước đó xuất hiện những khẩu hiệu tương tự nhau:
Hòa hồn Dương tài (tinh thần Nhật, kỹ thuật Tây Âu), Đông đạo Tây khí (đạo đức
phương Đông, thực hành phương Tây), Trung thể, Tây dụng (thể chất Trung Hoa,
công dụng phương Tây). Những khẩu hiệu chứng tỏ, nhu cầu hòa hợp giữa hai yếu
tố đó, là có tính thực tế nhất định, dẫn đến sự cố gắng thích nghi của con người
với những thay đổi của tình hình, của môi trường và với công cuộc hiện đại hóa
đất nước. Nhưng người ta lại không thấy những câu khẩu hiệu kiểu như vậy trong
Thực lục của triều Nguyễn. Họ đã không vạch ra được một đường lối riêng cho
dân tộc, một khẩu hiệu có thể làm bật dậy sự thức tỉnh chung cho sức đề kháng

của dân tộc trước những biến đổi của tình hình. Về mặt này, rõ ràng Việt Nam
thời Tự Đức tỏ ra bảo thủ hơn các nước theo Nho giáo khác [98].
Việc lược khảo tình hình kinh tế-chính trị-xã hội Việt Nam thế kỷ XIX cho
thấy trong lòng xã hội đã dung chứa, tiềm ẩn những nhân tố dẫn tới mâu thuẫn
giữa các hệ tư tưởng, sự suy thoái cả về tư tưởng chính trị, về kinh tế-xã hội,
nguồn gốc về sự sụp đổ chính trị của triều Nguyễn vào giữa thế kỷ XIX, khi phải
đương đầu với thực dân Pháp, một kẻ thù xâm lược mới, lần đầu tiên gặp phải - kẻ
thù có vũ khí tối tân thời bấy giờ, xa lạ với chiến tranh giữ nước trong truyền
thống lịch sử dân tộc ta. Do mưu đồ mượn sức mạnh thực dân làm mạnh cho mình
và cực đoan về mặt tư tưởng, vua quan triều Nguyễn đã không nhạy bén trước sự
thay đổi nhanh chóng ngay trong quan hệ “bạn bè” giữa triều Nguyễn và thực dân


21

Pháp, cũng như sự biến động của thế giới, không có được nhận thức đúng đắn
trước những thách thức mới của lịch sử. Chính vì vậy, triều đình nhà Nguyễn đã
liên tiếp thất bại trong những cuộc đụng đầu với thực dân Pháp. Và khi chúng trở
mặt, triều đình đã buộc phải ký với Pháp “hiệp ước hòa bình và hữu nghị”, mà
thực chất là hiệp ước đầu hàng ngày 5 tháng 6 năm 1862, nhượng hẳn cho Pháp ba
tỉnh miền Đông Nam Kỳ và đảo Côn Lôn.
Việc nghiên cứu biến động lịch sử, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, còn
giúp chúng ta thấy được logic các phản ứng của toàn dân tộc trước sự xâm lược vũ
trang của thực dân Pháp. Bên cạnh xu hướng hoặc chủ hòa mà thực chất là đầu
hàng của triều đình, hoặc chủ chiến với khẩu hiệu “Bình Tây sát tả” của các sĩ
phu, khi phải đối diện với kẻ xâm lược, đến nửa cuối thế kỷ XIX, đã xuất hiện một
xu hướng hoàn toàn mới trong lịch sử - đó là xu hướng canh tân, tự lực, tự cường
đất nước. Giai đoạn này đã xuất hiện các nhà canh tân tiêu biểu Đặng Huy Trứ
(1825-1874), Phạm Phú Thứ (1821-1882), Nguyễn Trường Tộ (1830-1871)... với
những phương án, những đề nghị canh tân đa dạng, phong phú và có những điểm

khá sâu sắc. Trong số đó, Nguyễn Trường Tộ được coi là nhân vật số một của
khuynh hướng canh tân cuối thế kỷ XIX, nhà yêu nước nhiệt huyết này đã đề nghị
một chương trình canh tân đất nước bao quát nhất, tiêu biểu nhất thời bấy giờ,
nhằm mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, tự lực, tự cường để có thể chiến
thắng được kẻ thù.
Nguyễn Trường Tộ sinh ra, trưởng thành và hoạt động trong khoảng thời gian
giữa thế kỷ XIX. Tiểu sử của ông đã được đề cập trong nhiều công trình, và được
viết khá kỹ trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” của Trương
Bá Cần. Hầu hết các tác giả viết về tiểu sử Nguyễn Trường Tộ, đều dựa theo bài
báo của giáo sư Lê Thước “Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tiểu sử” đăng trên tờ
Nam Phong số 102, tháng 1-1926, mà cho rằng: Nguyễn Trường Tộ sinh năm
1828 Tây lịch, tức năm Minh Mạng thứ 9 tại làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện
Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Nhưng theo Trương Bá Cần, vị linh mục, tiến sĩ sử
học, người có công nhiều nhất trong việc sưu tầm, xác minh về Nguyễn Trường


×