Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.27 KB, 18 trang )

BÀI THẢO LUẬN
RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhóm 8 – Lớp NVNH02
Danh sách thành viên:
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Lê Phương Anh
Trần Kiều Anh (Nhóm trưởng)
Nguyễn Thị Hạnh
Trương Thị Hà
Nguyễn Thị Huyền
Phạm Thị Phượng
Ngô Xuân Sơn
Đặng Minh Thúy

NỘI DUNG
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một bộ phận không thể tách rời khỏi đời sống
xã hội, là một sản phẩm đặc biệt của nền kinh tế thị trường. Sự ra đời của NHTM đánh
dấu một bước nhảy vọt trong quá trình phát triển đi lên của nhân loại. Lênin đã coi sự
ra đời của ngân hàng như: “ Sự phát minh của lửa hay Ngân hàng thương mại hiện nay
là kết quả tất yếu của quá trình phát triển của nền kinh tế tiền tệ. Hệ thống ngân hàng
thương mại có một bước lịch sử hình thành và phát triển hết sức riêng biệt với các


ngành kinh doanh khác. Hiện nay, sự phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại
ngày càng có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Cũng giống như các tổ chức kinh doanh khác, mục đích của các NHTM là thu
được lợi nhuận tối đa. Thực tế cho thấy, thị trường tài chính tín dụng Việt Nam hiện nay
đang chứng kiến cuộc đua tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại. Mức độ cạnh
tranh sẽ càng khốc liệt trong thời gian tới khi nhà nước thực hiện mở rộng hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, các ngân hàng
thương mại phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, một mặt không ngừng gia tăng
các dịch vụ và mặt khác nâng cao năng lực quản trị trong đó năng lực quản trị rủi ro
được xem là quan trọng hàng đầu, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những nguy cơ
tiềm ẩn dẫn tới rủi ro.
Bởi vậy nghiên cứu về rủi ro tín dụng và việc quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân
hàng thương mại là rất cần thiết.

Phần 1: Khái quát chung về rủi ro


1.1 Rủi ro trong ngân hàng
1. Bản chất của rủi ro

Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi mà
khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế
so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một
nghiệp vụ tài chính nhất định.
Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau
trong một phạm vi nhất định.
Khi đề cập đến rủi ro, người ta thường nhắc đến hai yếu tố mang tính đặc trưng
của rủi ro là biên độ rủi ro: mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra và tần suất xuất hiện rủi ro;
số trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện/tổng số trường hợp đồng khả năng.
Rủi ro là yếu tố khách quan, nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà

chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại của chúng gây ra.
2. Một số rủi ro cơ bản trong ngân hàng:


Rủi ro tín dụng (Credit Risk): là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín
dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ
hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.

Rủi ro tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate (Forex) Risk): là loại rủi ro
phát sinh trong quá trình cho vay ngoại tệ hoặc kinh doanh ngoại tệ khi tỷ giá biến động
theo chiều hướng bất lợi cho ngân hàng.

Rủi ro lãi suất (Interest Rate Risk): là loại rủi ro xuất hiện khi có sự thay đổi
của lãi suất thị trường hoặc của những yếu tố có liên quan đến lãi suất dẫn đến tổn thất
về tài sản hoặc làm giảm thu nhập của ngân hàng.

Rủi ro thanh khoản (Liquidity Risk): là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp
ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền mặt
hoặc không thể vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.

Rủi ro tác nghiệp (Operational Risk): là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián
tiếp do cán bộ ngân hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không
hoạt động hoặc do các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng.
1.2 Rủi ro tín dụng
1.2.1

Khái niệm rủi ro tín dụng


Rủi ro tín dụng hiểu một cách chung nhất là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cho

vay của ngân hàng, thể hiện qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không
đúng hạn cho ngân hàng. Nói một cách khác là người vay, không thực hiện đúng cam
kết vay vốn theo hợp đồng tín dụng, không tuân thủ theo nguyên tắc hoàn trả khi đáo
hạn.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi khách
hàng vay không trả đúng hạn ,không trả hoặc không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi .Rủi ro tín
dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn ban gồm nhiều hoạt động mang
tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh ,cam kết ,chấp thuận tài trợ
thương mại ,cho vay ở thị trường liên ngân hàng,tín dụng thuê mua,đồng tài trợ.
Bản chất: Trong kinh doanh ngân hàng, việc ngân hàng đương đầu với rủi ro tín
dụng là điều không thể tránh khỏi được .Thừa nhận một rủi ro tự nhiên trong họt động
kinh doanh ngân hàng là yêu cầu khách quan ,hợp lý .Vấn đề là làm thế nào để hạn
chế rủi ro này ở 1 tỷ lệ chấp thuận được.Theo thông lệ quốc tế tổn thất 1 % tổng dư nợ
bình quân hàng năm là 1 ngân hàng có trình độ quản lý tốt và hoàn toàn không có tác
động đến ngân hàng.
Về mặt định lượng: Rủi ro tín dụng được phản ánh bởi chính số tiền nợ quá hạn,
nợ đọng của mỗi ngân hàng.
Về mặt định tính: Rủi ro tín dụng có quan hệ ngược chiều với chất lượng tín
dụng. Theo đó chất lượng tín dụng càng cao thì rủi ro càng thấp và ngược lại.
1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng
1.2.2.1
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro

Rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau :


Rủi ro giao dịch : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho
vay, đánh giá khách hàng.


Rủi ro giao dịch có 3 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro
nghiệp vụ.

+ Rủi ro lựa chọn : là rủi ro có liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng

+ Rủi ro bảo đảm : phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo và mức an toàn của nó


+ Rủi ro nghiệp vụ : là rủi ro liên quan đếnquản trị hoạt động cho vay


Rủi ro danh mục : là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân
hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại : xuất phát từ các yếu tố riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc
ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử
dụng vốn của khách hàng vay vốn.

+ Rủi ro tập trung : là mức dư nợ cho vay được dồn cho một số khách hàng,
một sô ngành kinh tế hoặc một số loại cho vay hoặc một khu vực địa lý
1.2.2.2

Phân loại theo nguyên nhân gây ra rủi ro


Rủi ro khách quan: là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên
tai, dịch bệnh, hỏa hoạn, người đi vay chết hoặc mất tích, chính sách của chính
phủ và các biến động ngoài dự kiến khác làm người vay không trả đủ nợ gốc và

lãi đúng hạn hoặc không thể trả được.

Rủi ro chủ quan: là rủi ro do chính người đi vay làm thất thoát vốn vay,
do ngân hàng cho vay
Đặc điểm

Rủi ro tín dụng mang tính tất yếu: Rủi ro tín dụng luôn tồn tại và gắn
liền với hoạt động tín dụng. Chấp nhận rủi ro là tất yếu trong hoạt động ngân
hàng.Các ngân hàng phải đánh giá các cơ hội dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi
ích nhằm tìm ra những cơ hội mang lại lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp
nhận.

Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Xảy ra sau khi ngân hàng giải ngân
vốn vay trong quá trình sử dụng vốn vay của khác hàng. Ngân hàng thường ở
thế bị động, thường biết thông tin sau hoặc không chính xác về những khó khăn
thất bại của khách hàng và do đó thường có những phản ứng chậm trễ.

Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp: biểu hiện ở sự đa dạng
và phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu
quả do rủi ro tín dụng gây ra.

1.2.3


Phần 2: Quản lý rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt
Nam hiện nay
2.1 Mục tiêu quản lý rủi ro tín dụng

Quản lý mục tiêu rủi ro tín dụng nhằm mục đích:


Tăng lợi nhuận: rủi ro xảy ra phát sinh khoản nợ khó đòi, làm ứ đọng vốn dẩn
đến làm hỏng vòng quay vốn của ngân hàng.Do đó,làm tốt công tác quản lý sẽ đảm
bảo được mục tiêu tăng lợi nhuận

Đảm bảo khả năng thanh toán: ngân hàng thường lập kế hoạch cân đối dòng
tiền ra và dòng tiền vào tại các thời điểm trong tương lai.Khi các món vay không được
thanh toán đúng hạn sẽ không cân đối giữa hai dòng tiền.Nếu ngân hàng không đi vay
hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân hàng sẽ bị suy yếu và hạn
chế, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong thanh toán.

Đảm bảo uy tín: Nếu khả năng chi trả tái diễn nhiều lần hay những thông tin về
rủi ro tín dụng của ngân hàng bị tiết lộ ra công chúng, uy tín của ngân hàng bị tiết lộ ra
công chúng, uy tín trên thị trường tài chính sẽ bị giảm sút. Hậu quả là khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường sẽ yếu đi, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong huy
động tiền gửi của dân cư. Các ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế thị trường khi đã
để mất đi niềm tin thì sự khôi phục niềm tin là điều hết sức khó khăn
2.2 Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng


Nguyên tắc chấp nhận rủi ro:Các nhà quản lý phải chấp nhận rủi ro ở mức cho
phép nếu muốn có thụ nhập phù hợp từ hoạt động tín dụng của mình. Do đó, nguyên
tắc đầu tiên trong quản lý rủi ro tín dụng là phải phân biệt rủi ro cho phép. Việc chấp
nhận ở mức độ rủi ro tín dụng là điều kiện quan trọng để điều tiết các tác động tiêu cực
của chúng trong quá trình quản lý rủi ro

Nguyên tắc điều hành rủi ro ở mức cho phép: Nguyên tắc này đòi hỏi phần
lớn rủi ro tín dụng trong mức cho phép phải được điều hành sao cho hạn chế nó ở mức
tối thiều

Nguyên tắc quản lý độc lập rủi ro tín dụng với các loại rủi ro khác trong

ngân hàng: Nhìn chung sự thiệt hại đối với ngân hàng do các loại rủi ro khác nhau gây
nên là khá độc lập nhau nên quá trình quản lý chúng phải được điều tiết cách biệt.
Không thể gộp rủi ro khác nhau vào một nhóm để đưa ra phương án điều hành

Nguyên tắc phù hợp với chiến lược chung của ngân hàng: Hệ thống quản lý
rủi ro tín dụng cần phải dựa trên nền tảng những tiêu chí chung phát triển ngân hàng


2.3 Thực trạng về tình hình quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam
2.3.1 Diễn biến tình hình tình hình tín dụng của các ngân hàng thương mại trong

thời gian qua
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản
vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho
NH, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho
NH.Từ đó, có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của NHTM như:
- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ.
- Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ nợ xấu trên quĩ dự phòng tổn thất.
- Nợ đáng nghi ngờ (nợ có vấn đề) – có khả năng chuyển thành nợ xấu cao.
- Nợ không có tài sản đảm bảo.
Theo Báo cáo giải trình chất vấn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại Phiên
họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 15/8/2012
Theo kết quả giám sát của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 31/3/2012 nợ xấu
của các tổ chức tín dụng là 202.099 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ cấp tín dụng.
Trong đó, nợ xấu của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước là 125,8 ngàn tỷ đồng,
chiếm 10,37% dư nợ cấp tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước; nợ xấu
của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là 60,9 ngàn tỷ đồng, chiếm 5,8% dư nợ tín
dụng của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần
Từ năm 2008 đến nay, nợ xấu của các tổ chức tín dụng có xu hướng tăng

nhanh. Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng, đến ngày 31/5/2012, nợ xấu của hệ
thống là 117.723 tỷ đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, nợ xấu
của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước là 54,6 ngàn tỷ đồng, chiếm 3,96% dư nợ
tín dụng của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước; Nợ xấu của nhóm ngân hàng
thương mại cổ phần là 41 ngàn tỷ đồng, chiếm 4,54% dư nợ tín dụng của nhóm ngân
hàng thương mại cổ phần.

Nghiên cứu trực tiếp với 8 ngân hàng thương mại điển hình:
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam-Vietinbank (CTG),
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Vietcombank (VCB),
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín – Sacombank (STB)


Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam – Eximbank (EIB)
Ngân hàng Á Châu (ACB)
Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội – Habubank(SHB)
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (HBB)
Ngân hàng TMCP Nam Việt- (NVB),sử dụng số liệu về các chỉ tiêu rủi ro tín dụng
như sau
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, việc chia nhóm nợ thành 5 nhóm như:
Bảng 1:
Phân
loại

Đặc điểm

Nhóm 1

Nợ
đủ

tiêu
chuẩn

Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn..

Nhóm 2

Nợ
cần
chú ý

Nhóm 3

Nợ
dưới
tiêu
chuẩn

Nhóm 4

Nợ
nghi
ngờ

Nhóm 5

Nợ có
khả
năng

mất vốn

Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn
nợ đã cơ cấu lại.

%
trích
0%

5%

Các khoản nợ quá hạn từ 90-180 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ quá hạn từ 180-360 ngày.
Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90-180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại.
Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý.

20%

50%

100%


Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm
3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất

vốn).
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng của các NHTM ( số liệu lấy từ 31/12/2010 đến
30/9/2011)

Nguồn: Diễn đàn kinh tế Việt Nam-vef.vn
Vietcombank (VCB) bất ngờ lại là ngân hàng có nợ xấu cao nhất 3,9%, tiếp theo
là NVB (2,8%), HBB (2,8%). Sacombank (STB) là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất
(0,6%)
NHTM niêm yết đều có tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh so với cuối năm 2010. Đáng chú
ý, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 - phải trích lập dự phòng 100%) tăng mạnh.
Tại
CTG
30/9/2011

VCB

STB

EIB

ACB

SHB

HBB

NVB

Tổng

cộng


Nợ có
khả năng
mất vốn 1,691 4,950
(nhóm 5)
- tỷ đồng

169

490

263

233

351

147

8,293

Nguồn: Diễn đàn kinh tế Việt Nam-vef.vn
Trong đó cơ cấu nợ của các NHTM như sau:

Nguồn: Diễn đàn kinh tế Việt Nam-vef.vn
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) của HBB chiếm 24% tổng dư nợ, của VCB là 18,78%
tổng dư nợ. Mặc dù nợ nhóm 2 chưa được tính vào nợ xấu nhưng chỉ cần các khoản
nợ này quá hạn trên 90 ngày hoặc các khách hàng có thêm một khoản nợ bị chuyển

vào nhóm rủi ro cao hơn thì khoản nợ đó sẽ bị cơ cấu lại thành nợ xấu. Tỷ lệ nợ nhóm
2 cao cũng là một tín hiệu đáng lưu ý.
Rủi ro thanh khoản
Để làm rõ tình trạng rủi ro thanh khoản ta dựa vào:


Nếu nhìn vào cơ cấu kỳ hạn huy động vốn và cho vay của các NHTM, chúng ta
sẽ không khỏi "giật mình" vì ngoại trừ các NHTM lớn có vốn huy động dài hạn, các
NHTM nhỏ hầu như không có khoản tiền gửi trên 5 năm, đa số là các khoản tiền gửi 1
tháng đến 3 tháng.Mặt khác:


Các NHTM cho vay trung và dài hạn trong khi các khoản tiền gửi của khách
hàng lại chỉ tập trung vào các kỳ hạn ngắn từ 1-3 tháng sẽ khiến các ngân hàng có thể
gặp rủi ro về thanh khoản. Hơn nữa, nợ xấu tăng nhanh qua các tháng, đặc biệt nợ có
khả năng mất vốn tăng cao (lên tới 8.293 tỷ) là 1 khó khăn của các ngân hàng hiện nay.
2.3.2

Đánh giá về hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của các NHM hiện nay:
Theo ông Phạm Xuân Hoè, Trưởng phòng Quản lý vốn và Khai thác tài sản,
Ngân hàng Công thương: "Các khoản cho vay khó đòi bắt nguồn từ sự yếu kém
trong quản lý, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng, chính sách cho
vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Tuy
nhiên, phải thừa nhận, rủi ro tín dụng trước hết xuất phát từ phía chủ quan của
ngân hàng, đáng chú ý là chính sách cho vay.” Chính sách cho vay của hệ thống
ngân hàng thương mại hiện nay, theo ông Hoè, phần lớn đều chưa đạt tầm chiến
lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội chứng
kinh tế. Ám ảnh về sự thiếu lành mạnh trong hoạt động của khối doanh nghiệp
dân doanh, đặc biệt từ sau vụ án Epco - Minh Phụng , khiến các ngân hàng
thương mại quốc doanh tập trung cho vay với nhiều tổng công ty nhà nước dù

thực lực tài chính của nhóm khách hàng này rất yếu kém. Các ngân hàng
thương mại thậm chí còn ngấm ngầm đua nhau tiếp thị tới các tổng công ty để
cho vay, dù không phải không có sự cảnh báo từ giới nghiên cứu, phân tích.
Theo ông Hoè, thực trạng dư nợ cho vay với các tổng công ty chiếm tới 35-40%
tổng dư nợ của một số ngân hàng thương mại nhà nước là tín hiệu báo động đỏ
về chất lượng tín dụng. Hiện số công nợ của các tổng công ty thuộc ngành xây
dựng và giao thông vận tải lên tới hơn 11.000 tỷ đồng. Theo báo cáo của Bộ Tài
chính, trên 90% khoản nợ này là thuộc vốn vay của ngân hàng thương mại.

Các cơ chế quản trị rủi ro cho hệ thống ngân hàng Việt Nam đang tiến dần tới
thông lệ quốc tế và được đánh giá là khá chặt chẽ. "Tuy nhiên, giải pháp hữu
hiệu nhất chính là nâng cao năng lực tự quản trị rủi ro của các ngân hàng chứ
không phải là khống chế từ trên ngân hàng trung ương xuống theo các tỷ lệ, chỉ
tiêu nhất định, để từ đó ngân hàng thương mại cố gắng làm mọi việc để đạt chỉ
tiêu đó, kể cả chuyện bóp méo số liệu. Việc đảm bảo an toàn chỉ có mỗi yêu cầu
từ ngân hàng trung ương dội xuống thì vô cùng mỏng manh, bởi cơ chế đó do
ngân hàng trung ương đưa ra, rồi chính ngân hàng trung ương kiểm soát và
đánh giá", bà Tô Kim Ngọc, Phó giám đốc Học viện Ngân hàng
2.4 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng và nguyên nhân
2.4.1 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
2.4.1.1
Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM
Khi gặp rủi ro tín dụng, các NHTM chẳng những không thu hồi được vốn tín
dụng đã cấp và lãi từ hoạt động cho vay, mà còn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy
động khi đến hạn , điều này làm cho các ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Hay


nói cách khác , các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản,mất lòng tin
của người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của cả ngân hàng, và không thu được
nợ, vòng quay vốn tín dụng của các NHTM sẽ giảm, từ đó làm cho hoạt động kinh

doanh của các NHTM không đạt hiệu quả như mong muốn.
2.4.1.2

Đối với nền kinh tế chung


Khi một NHTM gặp rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở khắp mọi
nơi sẽ rơi vào tâm trạng hoang mang, lo sợ, khi đó sẽ xảy ra tình trạng mọi người ồ ạt
đến rút tiền ở tất cả các ngân hàng , việc làm này sẽ tác động xấu đến toàn hệ thống
ngân hàng.

Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, vì vậy
NHTM phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
khi đó sự rối loạn của các NHTM sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế , làm
cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng. Sức mua giảm, thất nghiệp tăng,xã hội mất ổn
định
2.4.2

Nguyên nhân của rủi ro tín dụng

Nhận diện được những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng giúp ngân hàng chủ động
trong công tác phòng ngừa rủi ro.
Trong hoạt động tín dụng, có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ra rủi ro tín dụng song
có thể tạm phân thành 3 nhóm sau:
2.4.2.1

Rủi ro xảy ra do nguyên nhân bất khả kháng

Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất bị tổn
thất không trả được nợ và ngân hàng phải gánh chịu rủi ro. Rủi ro tín dụng có thể do

các nguyên nhân: thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, sự suy thoái kinh tế của từng ngành
hoặc cả nước, sự thay đổi chính sách của nhà nước với ngân hàng và với người vay,
sù thay đổi của các văn bản pháp lý, sự mất ổn định về chính trị xã hội (đình công, bãi
công...)... vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo
thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lính của mình có khả
năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp
khác, người vay có thể bị tổn thát song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng
hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối
với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm
2.4.2.2

Rủi ro do nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay


Về phía người vay, rủi ro tín dụng có thể chia làm 2 nhóm: không gian lận và gian lận.
Với nhóm không gian lận, các nguyên nhân có thể xảy ra:
Trình độ quản lý kinh doanh của người vay chưa tốt, có thể nói là yếu kém. Đây
là nguyên nhân chủ yếu nhất.
-

Bị bạn hàng lừa đảo thông qua hoạt động kinh tế.

-

Bị bạn hàng gặp khó khăn tạo nên phản ứng dây chuyền

Với nhóm gian lận, có các nguyên nhân sau:
Người vay sử dụng tiền sai mục đích, không sinh lời hoặc ứ đọng vao tài sản
không có nguồn tài trả nợ.

Người vay cố tình gian lận số liệu trong hồ sơ vay như báo cáo tài chính, hợp
đồng kinh tế, phương án sử dụng tiền vay, giấy tờ pháp lý về tài sản bảo đảm.
-

Người vay có tính chây ỳ, chậm trả để chiếm dụng, quay vòng vốn.

nợ.

Người vay có tính lừa đảo, chiếm đoạt vốn, bỏ trèn hi vọng rằng sẽ quỵt được

2.4.2.3

Rủi ro do nguyên nhân thuộc về ngân hàng

Những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong trường hợp này có thể do:
- Trình độ cán bộ xét duyệt cho vay yếu kém, thiếu các thông tin cần thiết để thẩm định
cho vay, không phát hiện được gian lận lừa đảo hoặc vô tình làm không đúng quy trình,
quy định xử lý nghiệp vụ dẫn đến tổn thất.
- Do cán bộ ngân hàng thiếu trách nhiệm và vi phạm đạo đức nghề nghiệp, cố tình làm
không đúng, làm sai quy định để trục lợi cá nhân hoặc vì một lợi Ých nào đó. Và có
trường hợp cán bộ ngân hàng tiếp tay, tham gia cùng khách hàng hoặc tự cán bộ ngân
hàng lừa đảo lấy tiền ngân hàng.
- Do mạo hiểm trong kinh doanh, biết được rủi ro nhưng coi thường hậu quả có thể xảy
ra, vẫn cho vay khi thu được lãi suất tương đối hấp dẫn.
* Trong các nhóm nguyên nhân trên thì rủi ro do nhóm nguyên nhân thứ nhất (do
nguyên nhân bất khả kháng) là khó phòng tránh nhất. Tuy nhiên, cũng có thể giảm
bớt tổn thất khi dự đoán đúng xu hướng để thực thi chính sách phân tán rủi ro hợp lý.
Tổn thất do nguyên nhân thuộc nhóm này gây ra thường chiếm tỷ trọng không lớn và
các ngân hàng thương mại thường được chia sẻ rủi ro bởi các công ty bảo hiểm hoặc
được Nhà nước giúp đỡ.



Rủi ro do nhóm nguyên nhân thứ hai (do khách hàng vay vốn) luôn chiếm tỷ trọng
lớn nhất và là chủ yếu trong hoạt động tín dụng. Việc phòng tránh nhóm rủi ro này là vô
cùng khó khăn, phức tạp vì ngân hàng có rất nhiều khách hàng với tính cách, bản chất,
trình độ khác nhau, sản xuất - kinh doanh ở các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau.
Rủi ro do nhóm nguyên nhân thứ ba (do chủ quan ngân hàng) thường chiếm tỷ
trọng nhỏ hoặc phải kết hợp với nhóm nguyên nhân thứ hai. Tuy nhiên, hậu quả của nó
thường khó khắc phục, đặc biệt là khi có sự cấu kết, thông đồng giữa cán bộ ngân
hàng và khách hàng để vụ lợi, lừa đảo.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách
quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM
nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên
quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng
mô hình phát triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ
thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc
xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng
phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực
của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa
rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán
bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc.
Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của
ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.

Phần 3: Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng
3.1 Xây dựng, hoàn thiện chính sách, quy trình tín dụng


Hoàn thiện cơ chế phân cấp và uỷ quyền: việc phân cấp và uỷ quyền phải
đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật và chế độ của NHTM về hoạt động tín

dụng, đảm bảo an toàn, chất lượng và hiệu quả; phải xác định quyền chủ động, tự chịu
trách nhiệm của các cấp điều hành trong hoạt động tín dụng; và phải phù hợp với đặc
điểm của từng đơn vị, phù hợp với năng lực của người được phân cấp, uỷ quyền. Để
đạt được mục tiêu trên có thể căn cứ vào các tiêu chí như năng lực của Chi nhánh
(Ban lãnh đạo, cán bộ tín dụng, dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn của Chi nhánh…); mức độ rủi
ro của các dự án (số vốn vay, thời gian vay, địa bàn, ngành nghề…); phân chia thẩm
quyền quyết định cho vay của các cấp (Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc, Hội đồng
tín dụng, Giám đốc Chi nhánh)…
Xây dựng và áp dụng hệ thống giới hạn tín dụng: Để hạn chế RRTD, NHTM cần
xây dựng và áp dụng hệ thống giới hạn tín dụng đối với một dự án; giới hạn cho vay đối
với một khách hàng và một nhóm khách hàng liên quan theo quy định tại Quyết định số


457/2005/QĐ-NHNN; giới hạn cho vay đối với từng ngành nghề, lĩnh vực; khu vực địa
lý.
Đa dạng hoá để phân tán rủi ro tín dụng: Muốn vậy, NHTM cần đẩy mạnh thực hiện
các hình thức tài trợ hiện tại và thực hiện thêm các hình thức tài trợ, đầu tư theo hướng
thị trường; đối với hoạt động tín dụng ĐTPT, để tiến hành đa dạng hoá NHTM cần phải
quy định và áp dụng hệ thống giới hạn tín dụng như đã phân tích ở trên.
Mở rộng cho vay có đảm bảo: Để đảm bảo hạn chế rủi ro, nhất là rủi ro đạo đức và
hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra thì NHTM cần phải tăng cường mở rộng việc cho vay
có tài sản bảo đảm theo hướng: không đồng nhất tất cả các dự án vay vốn cùng chung
một điều kiện bảo đảm tiền vay; yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm tiền vay
nếu thấy cần thiết…
Hoàn thiện quy trình tín dụng: để đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên quan của
Nhà nước đến công tác tín dụng ĐTPT đòi hỏi NHTM phải thường xuyên cập nhật, hệ
thống hoá và hoàn thiện các quy trình thẩm định, tín dụng cho phù hợp.
3.2 Hoàn thiện bộ máy quản lý rủi ro

Để hạn chế RRTD, NHTM phải xây dựng và hoàn thiện bộ máy QLRR phù hợp với

thông lệ quốc tế, trong đó quan trọng nhất là hình thành bộ phận QLRR ở hội sở chính
và ở các Chi nhánh. Mô hình QLRR có thể bao gồm: Uỷ ban QLRR trực thuộc Hội đồng
quản lý; Ban QLRR thuộc cơ quan điều hành ở Trung ương và Phòng QLRR tại các Chi
nhánh. Trong đó, bộ phận QLRR phải hoạt động theo nguyên tắc không tham gia vào
quá trình tạo ra rủi ro.
3.3 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định năng lực chủ đầu tư, thẩm định dự

án vay vốn.
Công tác thẩm định cần được thay đổi căn bản trên cơ sở việc quản lý tín dụng theo
khách hàng chứ không phải chỉ quản lý theo dự án. Để nâng cao chất lượng thẩm định,
cần bố trí cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm trong công tác thẩm định,
thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khoá học về thẩm định dự án để cập nhật
thông tin, cách thức thẩm định. Đồng thời khi thẩm định cần chú trọng công tác thu
thập, xử lý thông tin về dự án, khoản vay; áp dụng các chỉ tiêu thẩm định như NPV,
IRR, phân tích độ nhạy… và cần đặc biệt lưu ý việc thẩm định năng lực, uy tín, khả
năng tài chính của khách hàng/chủ đầu tư…
3.4 Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Hệ thống này là một phương pháp chấm điểm nhất quán dựa trên các chỉ số tài
chính và các nhân tố phi tài chính trong hoàn cảnh thực tế hiện tại của ngân hàng theo


các loại hình khách hàng khác nhau nhằm đánh gía rủi ro liên quan đến khách hàng
vay. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tối thiểu phải bao gồm:

Các cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh của khách
hang

Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài
sản, khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết



Uy tín với các TCTD đã giao dịch trước đây


Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống (đánh giá yếu tố
ngành nghề, địa phương) trên cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với khách hàng. Kết quả
xếp hạng tín dụng nội bộ là cơ sở để NHTMVN xác định giới hạn tín dụng, xác định các
điều kiện tín dụng thích hợp với khách hàng; tiến hành phân loại nợ và trích lập DPRR
theo quy định.


Xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu đồng bộ

3.5 Tăng cường kiểm tra giám sát, quản lý nợ vay

Việc tăng cương kiểm tra, giám sát, quản lý nợ vay là biện pháp quan trọng nhằm
hạnu chế RRTD đối với ngân hàng, nhất là rủi ro đạo đức khi khách hang sử dụng vốn
vay sai mục đích. Để thực hiện tốt công tác này đòi hỏi tiền vay phải được chuyển trực
tiếp cho đơn vị thụ hưởng. Việc giải ngân phải được thực hiện qua hệ thống thanh toán
của NHTM; định kỳ (quí) phải phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp;
tăng cường kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, tài sản đảm bảo tiền vay và tình hinh
sản xuất kinh doanh của khách hàng đặc biệt khách hàng có nợ quá hạn và lãi treo.
3.6 Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra nội bộ

Để hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ thì công
việc này cần phải tiến hành theo hướng tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Ban kiểm
soát và Ban kiểm tra nội bộ (KTNB) tại hội sở chính. Phòng (tổ) KTNB tại chi nhánh qua
việc đan xen giữa quản lý theo chiều ngang và quản lý theo chiều dọc. Đồng thời để
công tác KTNB tại chi nhánh đạt hiệu quả cao thì cần phải:



Tăng cường lực lượng cán bộ cho hệ thống KTNB



Chuiyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá KTNB


Đổi mới cách thức kiểm ta và phải có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với cán
bộ KTNB
3.7 Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro


Để có thể triển khai có hiệu quả các biện pháp nhằm hạn chế RRTD thì NHTM phải
xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro thông qua
việc tăng cường thu thập thông tin về khách hàng, dự án, thông tin về kinh tế - xã hội;
ngành hàng, thị trường … thông qua các kênh thông tin khách nhau; đồng thời phải
sàng lọc, xử lý và lưu trữ thông tin cho khoa học, và phải tăng cường đầu tư nâng cấp
hệ thống công nghệ thông tin, các phần mềm nghiệp vụ và khẩn trương thực hiện tốt
các thanh toán cho khách hàng
3.8 Thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro đẩy mạnh

công tác xử lý rủi ro.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, việc chia nhóm nợ thành 5 nhóm
3.9 Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng về năng lực chuyên và đạo đức nghề

nghiệp.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của việc thực
hiện các biện pháp hạn chế RRTD. Để có thể tạo dựng nguồn nhân lực đủ mạnh, đáp

ứng được yếu cầu nhất là trong công tác quản lý RRTD, NHTM phải tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ trọng tâm: chuẩn hoá đội ngũ cán bộ tín dung; có chính sách
đào tạo và đãi ngộ hợp lý thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng, chế độ đào tạo, cơ
hội thăng tiến…để tạo động lực phát triển đối với những cán bộ làm công tác tín dụng,
thẩm định, QLRR. Đồng thời, NHTM cũng cần phải ban hành qui định liên quan đến
vấn đề trách nhiệm cá nhân (nhất là trách nhiệm vật chất) trong việc để xảy ra rủi ro
gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng.
KẾT LUẬN
Hoạt động tín dụng là lĩnh vực mang lại nhiều lợi nhuận nhất nhưng cũng là lĩnh
vực có rủi ro lớn nhất trong hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng là một thực tế khách
quan, song hoạt động ngân hàng là một hoạt động nhạy cảm có tác động lớn đến tình
hình kinh tế xã hội. Do vậy quản lý và giám sát các hoạt động kinh doanh ngân hàng,
đặc biệt là hoạt động tín dụng luôn là ưu tiên của mọi quốc gia, của các cơ quan quản
lý Nhà nước, Ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở tập hợp, luận giải, phân tích các cơ sở lý luận và dữ liệu cụ thể, bài
thảo luận đã hoàn thành một số nội dung sau:
-

Hệ thống hóa mang tính luận một cách tổng quát hóa về rủi ro tín dụng


-

-

Phân tích và làm rõ thực trạng hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam, qua đó đưa ra các đánh giá ảnh hưởng của rủi ro
tín dụng đến các Ngân hàng thương mại và làm rõ nguyên nhân rủi ro tín
dụng
Đưa ra một số biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng


Tuy nhiên bài thảo luận vẫn còn những hạn chế nhất định, rất mong sự đóng góp ý
kiến của giảng viên để bài thảo luận thành công hơn!



×