Tải bản đầy đủ (.pdf) (224 trang)

Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.87 MB, 224 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

-----------

NGUYỄN QUỐC ĐỊNH

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Hà Nội - 2008


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

-----------

NGUYỄN QUỐC ĐỊNH

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển


Mã số: 62 31 05 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. Nguyễn Bá Ân
2. TS. Lưu Đức Hải

Hà Nội - 2008


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu trong luận
án là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn
trích dẫn rõ ràng.
Tác giả luận án

Nguyễn Quốc Định


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CoC

: Quy tắc ứng xử có trách nhiệm trong nuôi trồng thủy sản

ĐBSCL


: Đồng bằng sông Cửu Long

GAP

: Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt

GDP

: Tổng sản phẩm quốc nội

HACCP

: Phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát tới hạn

KT – XH

: Kinh tế - Xã hội

NTTS

: Nuôi trồng thủy sản

PTBV

: Phát triển bền vững

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn


USD

: Đồng Đô la Mỹ

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam có nguồn tài nguyên biển đa dạng và phong phú, bờ biển Việt
Nam có nhiều cửa sông tạo ra các hệ sinh thái giàu chất dinh dưỡng, là điều kiện
cho sự sinh tồn và phát triển của nhiều loài động, thực vật, các khu rừng ngập
mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, vũng, vịnh, đảo... mỗi dạng tài nguyên, hệ sinh
thái của biển có tính đặc thù và giữ vai trò, vị trí nhất định trong phát triển bền
vững và bảo vệ môi trường biển.
Ngành thuỷ sản là một hoạt động kinh tế quan trọng ở vùng biển và ven
biển của Việt Nam cũng như nhiều nước nhằm khai thác lợi thế về biển, thúc đẩy
phát triển kinh tế và tạo ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập góp phần xoá đói giảm
nghèo. Do nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản trên thế giới không ngừng tăng lên, bên
cạnh những lợi nhuận to lớn do các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải
sản mang lại, việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển
và phát triển mạnh vượt quá ngưỡng cho phép về nuôi trồng thuỷ sản gây nên
không ít những vấn đề nan giải về ô nhiễm, làm giảm diện tích rừng ngập mặn,
gây nhiều biến động môi trường nghiêm trọng và suy thoái môi trường.
Ngành kinh tế thuỷ sản là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam nói
chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, do đó việc phát triển bền
vững ngành thuỷ sản, đặc biệt là đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long là một
vấn đề cấp bách hiện nay cần được tập trung nghiên cứu và có các giải pháp thực

hiện.
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong các phong trào bảo vệ
môi trường trên thế giới từ những năm đầu của thập niên 70 thuộc thế kỷ 20. Qua
hai cuộc Hội nghị Thượng đỉnh ở Braxin năm 1992 và Nam Phi năm 2002, thế
giới đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt
chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển gồm phát triển kinh tế, phát


triển xã hội và bảo vệ môi trường. Khái niệm “Phát triển bền vững” cũng đã
được nêu tại khoản 4 Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, có thể hiểu
khái niệm về phát triển bền vững vùng biển Việt Nam như sau “Phát triển bền
vững vùng biển Việt Nam là sự phát triển dựa trên việc khai thác các tiềm năng,
lợi thế so sánh của vùng biển và ven biển để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tếxã hội hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó trong
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa khai thác các tiềm năng, lợi
thế so sánh với bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường vùng biển”.
Tỉnh Cà Mau nằm ở cực Nam của Tổ quốc, thuộc vùng Đồng bằng sông
Cửu Long với ba mặt giáp biển và là tỉnh có tiềm năng to lớn để phát triển thủy
sản trên cả ba lĩnh vực: khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản và chế biến thủy
sản xuất khẩu. Với bờ biển dài 254 km và đặc biệt là tiếp giáp với hai vùng biển
Đông và biển Tây nên Cà Mau có lợi thế rất lớn để phát triển khai thác đánh bắt
hải sản, ngoài ra còn có hàng trăm ngàn ha diện tích nuôi trồng thủy sản. Và từ
nguồn sản lượng khai thác và nuôi trồng to lớn, sẽ tạo điều kiện cho việc phát
triển chế biến thủy sản. Thế mạnh này sẽ tiếp tục được khai thác và phát triển
trong tương lai với quy mô ngày càng lớn.
Thực tế phát triển thủy sản Cà Mau những năm qua đã đạt được những
thành tựu to lớn và mang lại nhiều lợi ích cho địa phương. Thủy sản đã thực sự
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Cà Mau, chiếm đến 38,4% GDP của
tỉnh, kim ngạch xuất khẩu thủy sản chiếm đến 99% tổng giá trị xuất khẩu của
tỉnh và chiếm gần 15,5% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước. Quá
trình phát triển ngành Thuỷ sản Cà Mau cũng tạo nên công ăn việc làm cho gần

bốn mươi vạn lao động, tăng thu ngân sách và thúc đẩy quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá tỉnh Cà Mau.
Mặc dù ngành Thủy sản Cà Mau đã đạt được một số thành tựu to lớn, song
sự phát triển đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Sản xuất


thủy sản còn mang nặng tính tự phát, sản xuất còn manh mún, tính quản lý cộng
đồng chưa cao nên năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh còn nhiều hạn
chế, đặc biệt là sẽ càng gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, quá trình phát triển thủy sản Cà Mau cũng đã
làm phát sinh nhiều vấn đề về mặt xã hội (phân hoá giàu nghèo, thiếu đất, thiếu
việc làm, chất lượng lao động thấp, đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ở những vùng sâu, vùng xa, cộng đồng ngư dân ven biển còn nhiều khó khăn
thiếu thốn,…) và đặc biệt là những mâu thuẫn về mặt môi trường (tài nguyên
rừng ngày càng suy thoái, tính đa dạng sinh học giảm, môi trường sinh thái biến
đổi, khai thác quá mức cho phép và việc áp dụng các phương pháp đánh bắt hủy
diệt dẫn đến nguồn lợi thủy sản ven bờ ngày càng cạn kiệt, sản xuất nguyên liệu
lẫn chế biến đều gây ô nhiễm,…)
Từ đó, cần phải sớm nghiên cứu đề xuất phát triển ngành thuỷ sản theo
hướng phát triển bền vững, đề xuất các giải pháp để vừa phát huy được thế mạnh
của địa phương, đưa thủy sản ngày càng phát triển nhưng không làm nảy sinh
các vấn đề xã hội và các mâu thuẫn về môi trường. Xuất phát từ các lý do trên,
chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh
Cà Mau” để làm luận án nghiên cứu sinh.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài.
Phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu, là vấn đề sống còn của xã
hội loài người. Thời gian qua, đã có nhiều học thuyết và có nhiều hội nghị
thượng đỉnh thế giới đã được tổ chức để bàn về vấn đề này.
Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên và đã khẳng định con người là một bộ phận không thể tách

rời của giới tự nhiên. Và Ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên”
khi bị tổn thương.


Hội nghị Stockholm 1972. Tháng 6 năm 1972, hội thảo của Liên hợp
quốc về Môi trường và Con người được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển). Hội
nghị đã đi đến kết luận: Việc bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một
vấn đề quan trọng tác động đến hạnh phúc của mọi người và phát triển kinh tế
trên toàn thế giới.
Hội nghị Rio de Janeiro 1992. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi
trường và Phát triển được tổ chức vào năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin) với
179 nước tham dự đã đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro bao gồm 27
nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững và Chương trình nghị sự 21 – một
chương trình hành động toàn cầu bao gồm các giải pháp phát triển bền vững
chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21.
Hội nghị Johannesburg 2002. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát
triển bền vững được tổ chức vào năm 2002 ở Johannesburg (Nam Phi) với 166
nước tham dự đã thông qua Bản tuyên bố Johannesburg và Bản kế hoạch thực
hiện về phát triển bền vững. Hai văn kiện đều nhấn mạnh phải thực hiện phát
triển kinh tế trong mối liên hệ chặt chẽ với bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ
môi trường ở tất cả các quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình
nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia. Điển hình như Trung Quốc,
tháng 7 năm 1994 Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã thông
qua và phê duyệt Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững của Trung
Quốc bao gồm 4 nội dung:
- Những chiến lược chung nhất về phát triển bền vững.
- Phát triển xã hội bền vững.
- Phát triển kinh tế bền vững.
- Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.



Việt Nam cũng đã nhận thức được tầm quan trọng và tính bức thiết của
vấn đề phát triển bền vững thể hiện qua các mốc quan trọng sau:
Năm 1991, Nhà nước đã ban hành “Kế hoạch quốc gia về Môi trường và
Phát triển bền vững giai đoạn 1991 – 2000”.
Năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW, trong đó đã
khẳng định quan điểm phát triển bền vững và nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là
một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch
phát triển kinh tế- xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo
đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước”.
Năm 2001, quan điểm phát triển bền vững tiếp tục được khẳng định trong
các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ IX và trong Chiến lược phát triển kinh tếxã hội 2001-2010 như sau: “Phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng
kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và
“Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm
sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng
sinh học”.
Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg
về việc ban hành “Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”
(Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), như vậy quan điểm phát triển bền vững
đã được thể chế hoá một cách rõ ràng, cụ thể.
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều văn bản quy phạm pháp
luật đã được ban hành và đã có nhiều chương trình đề tài nghiên cứu về lĩnh vực
này, cụ thể như:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Thông tư số 01/2005/TT-BKH để hướng
dẫn triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng
chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam.



- Một vài tỉnh đã xây dựng Chương trình phát triển bền vững của địa
phương mình như: Ninh Bình, Bến Tre,…
- Xác định bộ chỉ tiêu và cơ chế xây dựng cơ sở dữ liệu phát triển bền
vững ở Việt Nam của Lê Anh Sơn và Nguyễn Công Mỹ, Tạp chí Kinh tế và Dự
Báo, số 9/2005.
- Điều chỉnh chiến lược công nghệ để tiến tới phát triển bền vững của Lê
Minh Đức, Phát triển bền vững kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất 2004.
- Đa dạng sinh học và phát triển bền vững của Võ Quý, Phát triển bền
vững kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất 2004.
- Một số vấn đề về phát triển bền vững đối với ngành Thủy sản Việt Nam
của Nguyễn Chu Hồi, Phát triển bền vững kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất
2004.
- Ảnh hưởng của chính sách nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản tới
phát triển bền vững ở Việt Nam, Dự án VIE/01/021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà
Nội 2005.
- Ảnh hưởng của chính sách phát triển các khu công nghiệp tới phát triển
bền vững ở Việt Nam, Dự án VIE/01/021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội 2006.
Đối với Cà Mau, vào năm 2005 nhóm nghiên cứu đề tài khoa học trọng
điểm cấp Bộ của Trường Đại học Kinh tế t/p Hồ Chí Minh do GS.TS Hoàng Thị
Chỉnh làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài “Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp tỉnh Cà Mau theo hướng phát triển bền vững”. Đề tài đã nghiên cứu, đánh
giá tiến trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của tỉnh Cà Mau theo quan
điểm phát triển nông nghiệp bền vững và đề xuất các giải pháp nhằm chuyển
dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Cà Mau theo hướng bền vững.
Phát triển bền vững là một định hướng rất quan trọng và mang tính cấp
thiết của Nhà nước ta, tuy nhiên việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát
triển bền vững cho từng ngành hoặc từng vùng là không đơn giản vì ngoài việc


phải duy trì tính bền vững của bản thân còn phải tính đến mối tương tác lẫn nhau

khá phức tạp. Và tuy có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về lý luận phát triển
bền vững nhưng đề tài nghiên cứu về phát triển bền vững cho một ngành cụ thể
nào đó thì còn rất ít. Từ đó, tác giả đã chọn đề tài là “Giải pháp phát triển bền
vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau” với mong muốn là nhằm giải quyết
những vấn đề mang tính bức bách hiện nay là phát triển bền vững (vấn đề có tính
chiến lược của Việt Nam) với một ngành cụ thể là thủy sản (một ngành kinh tế
mũi nhọn và cũng rất nhạy cảm với môi trường) và đối tượng giải quyết là địa
bàn tỉnh Cà Mau (một địa phương có tiềm năng lớn về phát triển thủy sản cả khai
thác, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu thủy sản).
3. Mục tiêu của luận án.
Nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững ngành
thuỷ sản, đề xuất các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững ngành thuỷ sản và áp
dụng để phân tích, đánh giá và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững thuỷ
sản của tỉnh Cà Mau.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Luận án áp dụng các cơ sở lý thuyết về phát triển bền vững ngành thuỷ sản
vào một tỉnh có tiềm năng phát triển thuỷ sản cả nuôi trồng và đánh bắt vào loại
lớn của Việt Nam, cụ thể là tỉnh Cà Mau.
Phân tích thực trạng được lấy số liệu từ năm 1997 đến năm 2007. Về định
hướng phát triển, dự báo cho thời kỳ đến năm 2020.
Đối tượng nghiên cứu tập trung vào đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ
sản của tỉnh Cà Mau.
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.
Luận án sử dụng các cách tiếp cận sau:
- Cách tiếp cận hệ thống, liên ngành, liên vùng.
- Cách tiếp cận kinh tế môi trường.


- Cách tiếp cận hệ sinh thái.
- Cách tiếp cận cộng đồng.

Trên cơ sở các cách tiếp cận trên, luận án sử dụng các phương pháp chủ
yếu sau đây:
- Phương pháp phân tích hệ thống
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp ngoại suy.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp điều tra xã hội học: thực hiện việc quan sát thực tế, phỏng
vấn, lấy ý kiến các địa phương trong tỉnh và trực tiếp khảo sát các hộ nông dân
và các chủ tàu khai thác hải sản.
Tài liệu nghiên cứu bao gồm các số liệu thống kê, các tư liệu điều tra kinh
tế-xã hội của Cục Thống kê Cà Mau; tư liệu của Bộ Thủy sản, Sở Thủy sản Cà
Mau và các ngành, các cấp trong tỉnh cùng các tư liệu của các cơ quan nghiên
cứu khác. Luận án kế thừa và phát triển kết quả của các công trình nghiên cứu
trước đây.
6. Những đóng góp khoa học và điểm mới của luận án.
- Hệ thống hoá lý luận về phát triển bền vững.
- Xây dựng quan niệm về phát triển bền vững ngành thủy sản và đề ra các
tiêu chí đánh giá.
- Đánh giá hiện trạng phát triển ngành Thủy sản Cà Mau, đây là đề tài đầu
tiên phân tích trên ba góc độ bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường và trong
từng lĩnh vực: khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản và chế biến thủy sản.
-Luận án đã đề xuất được một hệ thống quan điểm, định hướng và giải
pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
7.

ết cấu của luận án.


Tên luận án: “Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà

Mau”.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, nội dung của luận án được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững thủy sản ở
Việt Nam.
Chương 2: Đánh giá hiện trạng phát triển ngành Thủy sản tỉnh Cà Mau
theo hướng phát triển bền vững.
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển bền vững ngành Thủy sản
tỉnh Cà Mau.


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Mở đầu
Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM

1

1.1. Lý luận về phát triển phát triển bền vững

1

1.2. Phát triển bền vững ngành thủy sản


13

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về PTBV ngành thủy sản và định hướng
phát triển bền vững thủy sản ở Việt Nam

35

Chương 2 - ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH
THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG

52

2.1. Tiềm năng và vị trí của ngành thủy sản tỉnh Cà Mau

52

2.2. Đánh giá hiện trạng phát triển thủy sản Cà Mau theo hướng phát
triển bền vững

58

Chương 3 - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG NGÀNH THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU

125

3.1. Định hướng phát triển bền vững thủy sản Cà Mau

125


3.2. Các giải pháp để đạt mục tiêu phát triển bền vững ngành thủy sản
tỉnh Cà Mau

133

Kết luận

196

Danh mục công trình của tác giả
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


1

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM
1.1. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1.1. Bản chất của phát triển bền vững
1.1.1.1. Quá trình hình thành quan điểm phát triển bền vững
Trên thế giới
Trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm con người mới đạt đến trình
độ văn minh như hiện nay. Nhưng xã hội văn minh này lại đang gánh lấy
những khó khăn và thách thức tự nó mang lại như: dân số tăng nhanh (nghèo
đói, thất nghiệp, bệnh tật, ... ), tài nguyên môi trường cạn kiệt (đất đai thoái
hóa, diện tích rừng mất dần, đa dạng sinh học giảm,... ), ô nhiễm môi trường
ngày càng tăng cả đất, nước, không khí, ... Như vậy vấn đề đặt ra là phải làm

sao giữ lấy thành quả đã qua và tiếp tục phát triển, đồng thời phải ngăn chặn,
hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình phát triển.
Từ đó, phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu, là vấn đề sống
còn của con người. Thời gian qua, đã có nhiều học thuyết và có nhiều hội
nghị thượng đỉnh thế giới đã được tổ chức để bàn về vấn đề này.
Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên và đã khẳng định con người là một bộ phận không thể
tách rời của giới tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự
sống và theo quy luật tiến hóa đã xuất hiện con người. Quá trình phát triển xã
hội loài người cũng chính là quá trình con người tác động ngược lại vào giới
tự nhiên, khai thác và cải tạo giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của
mình. Để giữ được môi trường tồn tại và phát triển, con người phải nhận thức
và sử dụng những quy luật tự nhiên một cách có hiệu quả, tức phải biết khai
thác, sử dụng và gìn giữ, tái tạo các nguồn lợi của tự nhiên. Nếu con người


2

bất chấp quy luật, chỉ biết khai thác triệt để những cái có sẵn trong tự nhiên
thì sẽ làm nghèo đi giới tự nhiên và dẫn đến phá vỡ cân bằng hệ thống tự
nhiên - xã hội. Ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên” khi bị
tổn thương. Nếu con người khai thác quá mức hoặc tàn phá giới tự nhiên bao
nhiêu thì sau này con người sẽ gánh lấy hậu quả của nó bấy nhiêu, đó chính
là lúc tự nhiên “trả thù” lại con người.
Như vậy, mọi diễn biến về môi trường đều bắt đầu từ phát triển. Việc
giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát
triển nhưng phải giữ cho phát triển không tác động xấu đến môi trường, sinh
thái. Môi trường phải là nơi tạo cho con người một không gian sống với
phạm vi và chất lượng tiện nghi cần thiết, cung cấp cho con người các tài
nguyên cần thiết để sản xuất, sinh sống. Trong lịch sử phát triển của nhân

loại, sau những thất bại do sự phát triển riêng lẻ của từng bộ phận thuộc hệ
thống kinh tế - xã hội đã xuất hiện lý thuyết phát triển đồng bộ, lý thuyết phát
triển cân đối. Tuy nhiên trên thực tế, thị trường không phải lúc nào cũng có
thể phát triển đồng bộ và cân đối. Và cũng chính do để đạt được những mục
tiêu phát triển, con người đã tiến hành thực hiện sự phát triển ồ ạt, đồng loạt
ở khắp nơi trên thế giới và mặc dù có tính tới yêu cầu đồng bộ, cân đối
nhưng cũng đã dẫn tới sự tổn hại về tài nguyên môi trường như sự phá vỡ
tầng ôzôn, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, sự gia tăng dân số và ô nhiễm
môi trường,... Để nhằm giải quyết được những nhược điểm của quá trình phát
triển theo các lý thuyết trên đã xuất hiện quan điểm phát triển bền vững. Đây
là sự lựa chọn cách thức phát triển nhằm đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại nhưng không được làm phương hại đến việc thỏa mãn nhu cầu của
các thế hệ tương lai. Lý thuyết phát triển bền vững dựa trên nguyên lý bảo
tồn giá trị tài nguyên môi trường. Theo nguyên lý này, mọi đền bù đòi hỏi sự
chuyển giao cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên thiên nhiên không
nhỏ hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên mà thế hệ hiện nay đang có. Như vậy


3

việc sử dụng tài sản Kn (nguồn vốn thiên nhiên, tức nguồn tài nguyên thiên
nhiên) cần phải được đền bù bằng cách tạo ra một nguồn Km (nguồn vốn
nhân tạo, tức nguồn tài nguyên do con người tạo ra) ngang với giá trị của
chúng, hay nói khác khi khai thác một nguồn lợi thiên nhiên nào đó thì phải
có sự đền bù, thay thế tương ứng. Vấn đề khó đặt ra là phát triển đến ngưỡng
nào là vừa và theo quan điểm của một số người thì việc thực hiện lý thuyết
này có thể làm chậm tốc độ phát triển kinh tế trên thế giới. Đây là vấn đề thời
sự rất sôi động hiện nay và cần tiếp tục xem xét, cần được lượng hóa và cần
có những quy chế rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, nhìn chung việc vận dụng lý
thuyết phát triển bền vững vào việc xây dựng định hướng phát triển kinh tế xã hội là điều quan trọng, cần thiết và cấp bách để đảm bảo phát triển lâu dài.

Trong lịch sử của nhân loại, con người luôn vươn tới cái mới, cái tiến
bộ cả nhận thức và hành động về việc cải tạo và chinh phục tự nhiên nhằm
thụ hưởng một cách tối đa nguồn lợi mà thiên nhiên mang lại. Để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của mình, nếu con người khai thác quá mức tài
nguyên, mất khả năng tái tạo, sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường như: ô
nhiễm nguồn nước, không khí; mất nguồn nước ngầm và nước mặt; tai biến
địa chất ngoại sinh: trượt lở đất, lũ bùn đá, lũ quét, … Vì thế tháng 6 năm
1972, Hội thảo của Liên hợp quốc về Môi trường và Con người được tổ chức
tại Stockholm (Thụy Điển) đã đi đến những kết luận hết sức quan trọng như
sau: “Việc bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề quan
trọng tác động đến hạnh phúc của mọi người và phát triển kinh tế trên toàn
thế giới”.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển được tổ
chức vào tháng 6 năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), các nhà chính trị cùng
với các nhà hoạt động về kinh tế, xã hội, môi trường của 179 nước tham gia
Hội nghị đã thống nhất quan điểm phát triển bền vững, coi đây là trách nhiệm
chung của toàn nhân loại và đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro


4

với nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững coi con người là trung tâm của
những mối quan hệ về sự phát triển lâu bền, con người có quyền được hưởng
một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên.
Mười năm sau, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững
lại được tổ chức vào tháng 9 năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi)
với sự tham gia của 109 vị nguyên thủ quốc gia và hơn 45.000 đại biểu của
các nước và các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội, ... Tại đây, 166 nước tham
gia Hội nghị đã thông qua Bản tuyên bố Johannesburg và Bản kế hoạch thực
hiện về phát triển bền vững. Hai văn kiện đều nhấn mạnh phải thực hiện phát

triển kinh tế trong mối liên hệ chặt chẽ với bảo đảm công bằng xã hội và bảo
vệ môi trường ở tất cả các quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển
được tổ chức năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), đến nay đã có 113 nước
trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền
vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương. Các
nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia, ... đều
đã xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững.
Ở Việt Nam
Ngay từ đầu những năm 90, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chỉ thị
số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991 về “Kế hoạch quốc gia về Môi trường
và Phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000”, tạo tiền đề cho quá trình phát
triển bền vững ở Việt Nam.
Trong định hướng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam
khẳng định “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời
trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả
các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [2].


5

Quan điểm phát triển bền vững cũng được thể hiện rõ trong Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 như sau: ”Phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện mội trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với
môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [27]. Báo cáo tại Hội nghị
Rio de Janeiro và Hội nghị Johannesburg đã thể hiện rõ quan niệm của Chính
phủ Việt Nam về môi trường và phát triển bền vững, đó là để phát triển lâu

bền cần coi trọng giá trị môi trường và tài nguyên cũng như vấn đề khai thác
hợp lý, bảo vệ và tái tạo tài nguyên; các mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi
trường phải được phối hợp để giải quyết một cách hài hòa trong kế hoạch
quốc gia, ngành và địa phương; việc bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái
rừng, khu bảo tồn, vườn quốc gia, di sản thiên nhiên thế giới, bảo vệ tính đa
dạng sinh học phải được thực hiện; quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và
phát triển nông nghiệp cần phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường; có
chính sách về giảm thiểu tai biến, bảo vệ môi trường.
Để giải quyết vấn đề môi trường và phát triển trong mỗi quốc gia và
trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam cho rằng các quốc gia và cộng đồng quốc tế
cần tập trung xây dựng một trật tự kinh tế mới công bằng, trong đó các nước
đang phát triển cần được giúp đỡ.
Việt Nam cam kết thực hiện bảo vệ môi trường và phát triển lâu bền
trên đất nước mình. Việt Nam cũng chủ trương mở rộng và tăng cường hợp
tác khu vực và quốc tế nhằm mục tiêu phát triển lâu bền cho Việt Nam nói
riêng và góp phần cho sự phát triển lâu bền khu vực và thế giới nói chung.
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đã
tham gia vào hầu hết các Công ước quốc tế về vấn đề môi trường và phát
triển bền vững. Trong “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam” [38] cũng đã
thể hiện quan điểm phát triển bền vững của Chính phủ Việt Nam một cách rõ


6

ràng, cụ thể hơn qua việc xác định mục tiêu ở 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và
môi trường. “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội
dung cơ bản của phát triển bền vững ... và cần khắc phục tư tưởng chỉ chú
trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường, đầu tư cho bảo
vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững” [3].
Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn

định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của
nhân dân. Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được sự tiến bộ và
công bằng xã hội, chăm sóc sức khỏe và học hành ngày càng nâng cao, hạn
chế khoảng cách giàu nghèo và giảm đói nghèo, giảm các tệ nạn xã hội, ...
Mục tiêu phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý và sử dụng
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, hạn chế ô nhiễm môi trường và bảo vệ tốt
môi trường sống; bảo vệ các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự
trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học.
Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam được xây dựng
trên 8 nguyên tắc cơ bản, trong đó đã khẳng định con người là trung tâm của
phát triển bền vững, phát triển con người nhằm tạo một lực lượng lao động
khỏe mạnh, được giáo dục tốt và có kỹ năng để làm nền tảng cho sự phát
triển đất nước và mục tiêu cuối cùng của sự phát triển cũng là để con người
có một cuộc sống đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần; đồng thời Việt Nam coi
phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kết hợp hài hòa với phát triển xã hội,
sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Như vậy, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của
Đảng và chính sách của Nhà nước, là sự nghiệp to lớn và lâu dài, là trách
nhiệm của cả dân tộc ta. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã
được ban hành; đã có nhiều chương trình đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này


7

và nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã dần đi vào cuộc sống, tạo
thành xu thế tất yếu trong quá trình phát triển của đất nước.
1.1.1.2. Khái niệm, bản chất phát triển bền vững
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong các phong trào bảo vệ
môi trường trên thế giới từ những năm 70 của thế kỷ 20. Năm 1980, trong

cuốn “Chiến lược bảo tồn thế giới” của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới
đã nêu ra thuật ngữ phát triển bền vững với mục tiêu tổng quát là đạt được sự
phát triển bền vững thông qua bảo tồn các nguồn tài nguyên sống.
Năm 1987, trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” của Ủy Ban
Thế giới về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc, khái niệm phát triển
bền vững được trình bày như sau: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp
ứng được những nhu cầu của hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng
của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các nhu cầu của họ”. Khái niệm
này nhấn mạnh đến nghĩa vụ của chúng ta đối với thế hệ mai sau là phải gìn
giữ, bảo vệ môi trường để đáp ứng các nhu cầu của họ trong tương lai. Như
vậy khi sử dụng tài nguyên để phát triển, cần phải tính đến việc duy trì hoặc
tái tạo một nguồn tài nguyên để bảo đảm nhu cầu cho các thế hệ tương lai,
hay nói khác phát triển trong khả năng chịu đựng được của hệ sinh thái. Khái
niệm nêu trên “thường được trích dẫn và đã trở nên rất có ảnh hưởng. Như
một tuyên bố chung, nó nhắc nhở chúng ta rằng sự bền vững là một nghĩa vụ
đối với thế hệ tương lai (hướng tới việc đáp ứng các “nhu cầu” của họ), và vì
thế nhất thiết phải đề cập đến sự phân bổ giữa các thế hệ. Không giống như
những tuyên bố trước đây, nó cũng hướng sự chú ý của chúng ta ra khỏi việc
bảo tồn các nguồn lực cụ thể và để cho thế giới trong nguyên trạng của nó.
Việc cố gắng như vậy vừa không khả thi vừa không nhất thiết là: các nguồn
lực có thể chuyển đổi và có thể thay thế cho nhau. Khái niệm rộng hơn của
C

về phát triển bền vững thậm chí kêu gọi sự xem xét độc lập với các

quan tâm về môi trường” 44]


8


Theo Ngân hàng phát triển Châu Á thì: “Phát triển bền vững là một
loại hình phát triển mới, lồng ghép một quá trình sản xuất với bảo toàn tài
nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp
ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của
chúng ta đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ trong tương lai”. Khái niệm này
đã đề cập đến bản chất các quan hệ nội tại của quá trình phát triển bền vững,
đó là việc lồng ghép quá trình sản xuất với các biện pháp bảo toàn tài nguyên
và nâng cao chất lượng môi trường. Khái niệm PTBV chủ yếu xuất phát từ
mối quan tâm lo ngại sự khai thác quá mức sẽ làm cạn kiệt các nguồn tài
nguyên và ảnh hưởng đến môi trường. Mối lo âu này đã được các nhà nghiên
cứu, các nhà hoạch định chính sách và kinh tế lưu tâm. Ropetto đã đưa ra
quan điểm sau: “Cái cốt lõi trong ý tưởng về sự bền vững là quan niệm cho
rằng các quyết định hiện hành không được làm tổn hại đến triển vọng duy trì
và cải thiện mức sống trong tương lai… Điều này có ý nghĩa là các hệ thống
kinh tế của chúng ta cần phải được quản lý sao cho chúng ta sống bằng thành
quả từ các nguồn lực của chúng ta, duy trì và cải thiện cơ sở vật chất sao cho
các thế hệ tiếp theo sẽ có thể sống thoải mái bằng hoặc hơn chúng ta. Nguyên
tắc này có nhiều điểm tương đồng với khái niệm lý tưởng về thu nhập mà các
nhà kế toán tìm cách xác định: đó là khối lượng lớn nhất có thể sử dụng trong
giai đoạn hiện nay mà không làm giảm các triển vọng tiêu dùng trong tương
lai [44].
Tuy nhiên, vấn đề khó đặt ra là bảo toàn tài nguyên như thế nào để
không ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế. Cần khẳng định rằng việc bảo
tồn này không có ý nghĩa là phải giữ nguyên hiện trạng mà cái chính là phải
bảo tồn các cơ hội để đảm bảo cho thế hệ tương lai có thể có cuộc sống tốt
hơn. Solow đã nhấn mạnh: “Bảo tồn trữ lượng các nguồn lực không có nghĩa
là tất cả các nguồn lực không tái tạo (như khoáng sản và nhiên liệu) phải
được giữ nguyên; điều này là không khả thi. Nhưng nếu muốn duy trì trữ



9

lượng tư bản của toàn bộ xã hội, hiểu theo nghĩa rộng, thì có lẽ những tài
nguyên không tái tạo khi sử dụng hết cần phải được thay thế bằng một cái
nào đó khác. Đó bắt buộc phải là nguồn vốn có thể tái tạo được, dù là vật chất
hay con người. 44].
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tổ chức ở
Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát
triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã xác
định: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp
lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển gồm phát triển kinh tế (nhất là tăng
trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử
lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng
chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên”. Như vậy khái niệm phát triển bền vững đã được Cộng đồng thế
giới công nhận rộng rãi, coi đây là kim chỉ nam cho phát triển. Tiêu chí để
đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện
tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Khái niệm “Phát triển bền vững” đã được nêu tại khoản 4 Điều 3 của
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, như sau: “Phát triển bền vững là quá trình
phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa 3 mặt của sự phát
triển gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Phát triển
bền vững là sự phát triển dựa trên việc khai thác các tiềm năng, lợi thế so
sánh để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội hiện tại nhưng không làm
tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó trong tương lai trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ, hài hoà giữa khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh với bảo đảm
tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.



10

Khái niệm về phát triển bền vững dựa vào hai cơ sở lớn là mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người, quá
trình phát triển thực chất là quá trình tác động của con người vào giới tự
nhiên và nhằm đi đến mục tiêu là đạt được sự thống nhất cao giữa con người
với tự nhiên, sự đồng thuận giữa người với người. Như vậy, phát triển bền
vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa cả 3
mặt: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Ba mặt này có
mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó với nhau, trong đó phát triển kinh tế có thể
coi là nhiệm vụ trung tâm, đặc biệt là ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
Nhìn chung, việc tăng trưởng với tốc độ cao sẽ dẫn đến việc giảm tỷ lệ
nghèo khổ, tăng trưởng kinh tế được coi là một công cụ mạnh mẽ để thực
hiện việc xóa đói giảm nghèo, song cần lưu ý quá trình tăng trưởng cũng có
thể làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng, làm tăng mức độ phân hoá giàu
nghèo.

o vậy, để đạt mục tiêu phát triển, bên cạnh các biện pháp thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế cần có biện pháp làm giảm tình trạng bất bình đẳng về thu
nhập và giải quyết tốt các vấn đề xã hội như giáo dục, y tế, … Việc thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội sẽ tạo nền tảng xã hội vững chắc, đồng thời khi xã
hội ổn định, năng lực và giá trị con người được nâng cao và mọi thành viên
đều ra sức cống hiến xây dựng đất nước thì sẽ là tiền đề vững chắc cho tăng
trưởng và phát triển.
Phát triển và môi trường cũng có mối quan hệ gắn bó và ràng buộc lẫn
nhau. “Môi trường” là nơi có con người sống và hoạt động, còn “phát triển
bền vững” là quá trình vận động của môí quan hệ giữa con người và môi
trường theo chiều hướng làm cho môi trường ngày càng tốt hơn, bền vững

hơn. Vì vậy, môi trường và phát triển là hai mặt của vấn đề “phát triển bền
vững” tạo nên một thể thống nhất không thể tách rời nhau được. Tăng trưởng
kinh tế chắc chắn sẽ gây nên sức ép đối với tài nguyên và môi trường vì
muốn phát triển thì cần phải huy động các nguồn tài nguyên, đồng thời quá


11

trình phát triển cũng sẽ ảnh hưởng tác động tới môi trường. Mặt khác, khi đất
nước đã phát triển thì lại có điều kiện về vốn và kỹ thuật để khai thác hợp lý
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường. Và khi môi
trường được bảo vệ thì sẽ là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển vững chắc, lâu
dài và cũng là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống con người.
Như vậy, thế nào là “phát triển bền vững”, phải chăng phát triển bền
vững là sự phát triển, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, điều kiện môi trường
hiện có để thoả mãn nhu cầu của các thế hệ con người đang sống, nhưng phải
đảm bảo cho các thế hệ tương lai những điều kiện tài nguyên và môi trường
cần thiết để họ sống tốt hơn ngày nay. Để đạt được mục tiêu phát triển bền
vững thì cả 3 vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường cần phải đạt được hài hòa
trong quá trình phát triển. Hay nói khác, bản chất của phát triển bền vững là
một phương thức phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa kinh tế, xã
hội và môi trường nhằm đảm bảo cho nhu cầu cuộc sống hiện tại và mai sau.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá phát triển bền vững
Bền vững về kinh tế: Phát triển kinh tế chính là làm cho nền kinh tế
tăng lên về quy mô theo thời gian và gia tăng về mặt chất lượng, là cơ sở tạo
nên sự phồn thịnh chung của xã hội. Tăng trưởng kinh tế bền vững được xác
định bằng lượng hàng hoá cực đại có thể tiêu thụ mà không làm giảm đi giá
trị của tài sản vốn. Như vậy, phát triển kinh tế là sự tăng trưởng nhanh, ổn
định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đồng thời chất lượng tăng trưởng phải được
thể hiện ở hiệu quả kinh tế - xã hội của chính sự tăng trưởng, ở tính bền vững

và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Để đánh giá sự phát triển kinh tế,
người ta thường dùng các chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (G P) hoặc tổng lượng
hàng hoá hợp lý và ổn định trong một thời gian dài.
- G P bình quân đầu người ngày càng tăng.


×