Tải bản đầy đủ (.pdf) (288 trang)

Phong trào cần vương ở phú yên (1885 1892)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.46 MB, 288 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐÀO NHẬT KIM

PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở PHÚ YÊN
(1885-1892)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh-Năm 2010


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

ĐÀO NHẬT KIM

PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở PHÚ YÊN (1885-1892)

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam cận đại và hiện đại
Mã số: 62 22 54 05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1.PGS TS. NGUYỄN PHAN QUANG
2.PGS TS. NGÔ MINH OANH


Thành phố Hồ Chí Minh-Năm 2010


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, chưa
được công bố trong công trình nào khác.

Tác giả

Đào Nhật Kim


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1.Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………………………………………………………………1
2.Lòch sử nghiên cứu vấn đề………………………………………………………………………………………………………….3
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………………………………………8
4.Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………………………………………………………….9
5.Nguồn tư liệu……………………………………………………………………………………………………………………………………9
6.Những đóng góp mới của luận án…………………………………………………………………………………………14
7.Cấu trúc của luận án………………………………………………………………………………………………………………….14
CHƯƠNG 1


PHÚ YÊN TRƯỚC 1885
VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
16
1.1 Khái quát về đất nước và con người Phú Yên………………………………………………………………16
1.1.1 Đặc điểm đòa lý vùng đất Phú Yên………………………………………………………………………………16
1.1.2 Lòch sử hình thành và xác lập khu vực hành chính vùng đất Phú Yên……………19
1.1.3 Con người Phú Yên và truyền thống đấu tranh yêu nước…………………………………….25
1.2 Phong trào Cần Vương bùng nổ…………………………………………………………………….................34
1.2.1 Quá trình bùng nổ phong trào Cần Vương……………..………………………………………………...34
1.2.2 Phong trào Cần Vương ở Trung Kỳ…………………..………………………………………………………….42
CHƯƠNG 2

KHỞI NGHĨA LÊ THÀNH PHƯƠNG - ĐỈNH CAO CỦA
PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG Ở PHÚ YÊN (1885-1887)
47
2.1 Bối cảnh lòch sử phong trào Cần Vương ở Phú Yên và khởi nghóa
Lê Thành Phương…………………………………………………………………………………………………………………….47
2.2 Thủ lónh Lê Thành Phương và quá trình chuẩn bò lực lượng………………………………….52
2.2.1 Thủ lónh Lê Thành Phương……………………………………………………………………………………………….52
2.2.2 Quá trình chuẩn bò lực lượng……………………………………………………………………………………………58
2.3 Các giai đoạn chính của cuộc khởi nghóa Lê Thành Phương (1885-1887)…….…71
2.3.1 Giai đoạn1: Lật đổ chính quyền thân Pháp làm chủ hoàn
toàn Phú Yên (15-8-1885 đến 11-1885)………………………………………………………………………71
2.3.2 Giai đoạn 2: Phối hợp với phong trào Cần Vương ở Khánh Hòa,
Bình Thuận giải phóng nam Trung Kỳ (11-1885 đến 6-1886)……………………………84
2.3.3 Giai đoạn 3: Những cuộc chiến đấu của nghóa quân
Lê Thành Phương trong thời gian cuối (7-1886 đến 25-2-1887)……………………….96
2.4 Vai trò của Lê Thành Phương trong phong trào Cần Vương ở Phú Yên…………110



CHƯƠNG 3

PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG Ở PHÚ YÊN TIẾP DIỄN
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA NGUYỄN BÁ SỰ (1887-1892) 115
3.1 Tình hình Phú Yên sau thất bại của khởi nghóa Lê Thành Phương……………………115
3.2 Phong trào Cần Vương ở Phú Yên tiếp tục dưới sự lãnh đạo của
Nguyễn Bá Sự (1887-1892)……………………………………………………………………………………………….118
3.2.1 Về thân thế Nguyễn Bá Sự……………………………………………………………………………………………119
3.2.2 Nguyễn Bá Sự khôi phục lực lượng và củng cố phong trào
Cần Vương ở Phú Yên……………………………………………………………………………………………………….122
3.2.3 Những trận đánh chống càn quét và mở rộng căn cứ …………………………………………132
3.2.4 Phong trào Cần Vương ở Phú Yên kết thúc…………………………………………………………..137
3.3 Một số nhận đònh bước đầu về những đóng góp của Nguyễn Bá Sự
trong phong trào Cần Vương ở Phú Yên………………………………………………………………………141
CHƯƠNG 4

ĐẶC ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI
CỦA PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG Ở PHÚ YÊN
147
4.1 Đặc điểm của phong trào……………………………………………………………………………………………………147
4.1.1 Phong trào Cần Vương Phú Yên là một trong những trung tâm
kháng chiến phía Nam kinh thành Huế có sự liên kết, phối hợp với
các tỉnh nam Trung Kỳ, tồn tại trong một thời gian tương đối dài……………………147
4.1.2 Phong trào Cần Vương Phú Yên qui tụ nhiều tầng lớp nhân dân tham
gia, chiến đấu bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo nhằm mục tiêu
cứu nước, giải phóng dân tộc …………………………………………………………………………………………153
4.1.3 Đội ngũ lãnh đạo phong trào Cần Vương Phú Yên là những văn
thân, só phu lớp dưới, gắn bó mật thiết với quần chúng lao động; trong
đó nhiều thủ lónh là hậu duệ của văn thần, võ tướng nhà Tây Sơn………………….160
4.1.4 Ngoài mục tiêu cứu nước, cứu dân theo Chiếu Cần Vương, phong

trào còn có mục tiêu cụ thể là chống lại âm mưu sát nhập các tỉnh
Bình Đònh, Phú Yên,Khánh Hoà, Bình Thuận vào Nam Kỳ……………………………..165
4.2 Nguyên nhân thất bại của phong trào……………………………………………………………………………168
4.2.1 Nguyên nhân thất bại cơ bản và có tính chất bao trùm là phong trào
Cần Vương cả nước nói chung và ở Phú Yên nói riêng diễn ra trong bối
cảnh giai cấp phong kiến đã lỗi thời về mặt lòch sử; ý thức hệ phong kiến
giữ vai trò chủ đạo trong phong trào đã lạc hậu và bất lực; sự đối đầu
không cân sức giữa một bên là nghóa quân được tổ chức, trang thiết bò,
phương thức tác chiến và nghệ thuật quân sự lạc hậu với một bên là
quân đội thực dân nhà nghề có kỹ thuật, chiến thuật và chiến lược
quân sự hiện đại ………………………………………………………………………………………………………………….168
4.2.2 Phong trào Cần Vương Phú Yên thất bại, là do thực dân Pháp câu kết
chặt chẽ với tay sai, thực hiện âm mưu thâm độc chia rẽ và những thủ
đoạn khủng bố tàn bạo, làm cho lực lượng nghóa quân bò tổn thất; từ đó
gây nên tình trạng hoang mang, dao động trong bộ chỉ huy khởi nghóa,


dẫn đến sự đầu hàng phản bội của không ít thủ lónh phong trào………………………172
4.2.3 Phong trào Cần Vương Phú Yên cuối cùng thất bại, là do không thể vượt
qua những hạn chế chủ quan: thiếu sự liên kết, phối hợp thống nhất và liên
tục với phong trào ở các đòa phương khác trên đòa bàn nam Trung Kỳ và
cả nước; chủ trương “sát tả” tiến hành một cách cực đoan đã làm hạn chế
việc xây dựng khối đoàn kết dân tộc, suy giảm sức mạnh phong trào………….177
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………………………………………………………….188
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ……………………………………………………………….199
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………………………………………….201
PHỤ LỤC……………………………………………………………………………………………………………………………………….226


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phú Yên là một tỉnh thuộc miền nam Trung Kỳ, có vò trí chiến lược quan
trọng đối với cả nước. Năm 1611 tỉnh Phú Yên được thành lập với tên gọi ban
đầu là phủ Phú Yên và trở thành bộ phận của quốc gia Đại Việt.
Trải qua gần bốn thế kỉ, cư dân các dân tộc sống trên đòa bàn tỉnh Phú Yên
đã đoàn kết một lòng đấu tranh xây dựng vùng đất ngày càng “yên đònh phú
cường” như mong ước của cha ông từ thời đi mở đất. Quá trình đó, cũng đã tạo
nên ở người dân Phú Yên những nét riêng về truyền thống lao động cần cù,
thông minh, hiếu học và truyền thống yêu nước chống áp bức, chống ngoại xâm.
Vào cuối những năm 50 của thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm
lược nước ta, nhân dân Phú Yên đã kế tục truyền thống yêu nước, tham gia vào
quân đội triều Nguyễn chống Pháp trên các chiến trường Đà Nẵng, Gia Đònh.
Nhưng càng về sau, triều đình nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp, rồi trượt nhanh
trên con đường đầu hàng, dâng nước ta cho thực dân Pháp để bảo vệ quyền lợi
ích kỉ của dòng họ.Với hiệp ước Patenôtre (6-6-1884) triều đình nhà Nguyễn đã
chính thức công nhận sự thống trò của thực dân Pháp trên toàn cõ i Việt Nam,
đánh dấu sự cáo chung của nhà nước phong kiến độc lập.
Tháng 7-1885, một bộ phận quan lại yêu nước trong phe chủ chiến tổ chức
cuộc tấn công quân Pháp ở kinh thành Huế. Cuộc nổi dậy nhanh chóng thất bại,
vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết rời khỏi kinh thành hạ Chiếu Cần Vương kêu
gọi văn thân, só phu và nhân dân đứng lên chống Pháp.
Hòa trong khí thế của phong trào Cần Vương cả nước, các văn thân, só phu
và nhân dân Phú Yên đã hưởng ứng kòp thời lời kêu gọi chống Pháp của vua
Hàm Nghi. Nhiều đạo quân ứng nghóa được thành lập, qui tụ dưới lá cờ nghóa
của chí só Lê Thành Phương, tiến hành cuộc khởi nghóa vũ trang chống xâm lược


2


và triều đình đầu hàng, mở đầu phong trào Cần Vương ở Phú Yên, đưa tỉnh này
trở thành một trong những“trung tâm của phong trào kháng chiến dân tộc ở nam
Huế” [48,tr.40] và đi vào lòch sử như một điểm sáng trong toàn cảnh bức tranh
sinh động về cuộc đấu tranh vũ trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam nói
chung và Phú Yên nói riêng trong hai thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX.
Phong trào Cần Vương ở khu vực bắc Trung Kỳ đã được giới sử học quan
tâm nghiên cứu một cách có hệ thống trong những công trình chuyên khảo, các
tạp chí chuyên ngành và các giáo trình ở đại học, cao đẳng. Trong khi đó, phong
trào Cần Vương ở các tỉnh nam Trung Kỳ chỉ được đề cập một cách hạn chế,
chưa được nghiên cứu toàn diện và đầy đủ, nhiều vấn đề chưa sáng tỏ, vẫn còn
bỏ ngỏû. Việc nghiên cứu phong trào Cần Vương ở Phú Yên (1885-1892) trong
những năm qua cũng trong tình trạng ấy. Chưa có công trình nào đề cập một
cách toàn diện về phong trào này.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi chọn “ Phong trào Cần Vương ở Phú
Yên (1885-1892)” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến só với mong muốn có
những đóng góp sau:
Về mặt khoa học :
- Luận án sẽ khôi phục bức tranh chân thực về phong trào Cần Vương chống
Pháp ở Phú Yên cuối thế kỷ XIX, góp phần làm sáng tỏ thêm về phong trào Cần
Vương cả nước trong thời kỳ này.
-Cung cấp luận cứ khoa học cho việc đánh giá về đặc điểm, nguyên nhân
thất bại, vò trí và vai trò cũng như những đóng góp của phong trào Cần Vương
Phú Yên đối với phong trào khu vực nam Trung Kỳ và cả nước trong tiến trình
đấu tranh giải phóng dân tộc.
Về mặt thực tiễn :
- Luận án bổ sung những tư liệu thành văn mới và nguồn tư liệu điền dã tại
đòa phương, giúp cho việc biên soạn và giảng dạy phần lòch sử này tại Trường



3

Đại học Phú Yên cũng như các trường phổ thông trong tỉnh Phú Yên; đồng thời
giảm bớt những mảng trống trong lòch sử Phú Yên thời kỳ trước Cách mạng
tháng Tám 1945.
-Góp phần vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh
bất khuất cho các tầng lớp nhân dân Phú Yên, đặc biệt là thế hệ trẻ.
2. Lòch sử nghiên cứu vấn đề
Phong trào Cần Vương chống Pháp những năm cuối của thế kỷ XIX ở Phú
Yên dưới sự lãnh đạo của Lê Thành Phương, Nguyễn Bá Sự là bộ phận của
phong trào Cần Vương cả nước và khu vực nam Trung Kỳ. Đây là cuộc đối đầu
quyết liệt tiêu biểu cho tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân
Phú Yên trong cuộc kháng chiến một mất một còn chống Pháp xâm lược. Tuy
nhiên, phong trào Cần Vương Phú Yên (1885 – 1892) cũng như ở các tỉnh nam
Trung Kỳ lâu nay rất ít được sử sách đề cập đến.
Tác phẩm Chống xâm lăng là một công trình nghiên cứu lòch sử chống
Pháp khá toàn diện của giáo sư Trần Văn Giàu. Trong mục Phong trào Cần
Vương giáo sư chỉ đề cập một cách khái quát phong trào chống Pháp các tỉnh
nam Trung Kỳ. Trong lời nói đầu cuốn sách này, Giáo sư cũng đã thừa nhận:
“Các cuộc khởi nghóa ở miền nam Trung Kỳ từ Quảng Nam đến Bình Thuận từ
1885 – 1887 và về sau nữa là rất oanh liệt, nhưng ta viết ít, Tây viết cũng ít”
[51,tr.284] và Giáo sư đưa ra lý do “Tài liệu tìm được về các cuộc khởi nghóa
này hãy còn ít”, “trong “kho lưu chiểu của toàn quyền Đông Dương” hiện nay
không còn gì, chỉ còn lại những bìa hồ sơ đề “Vụ Quảng Nam”, “Vụ Bình
Thuận”, bên trong thì trống rỗng, Pháp đã lấy đi hết trước khi chúng rời Hà Nội”
[51,tr.584]. Vì vậy, tư liệu về phong trào Cần Vương ở Phú Yên cũng như phong
trào Cần Vương của các tỉnh nam Trung Kỳ hết sức hiếm hoi. Một số tác phẩm
chỉ đề cập với những nét thoáng qua như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim



4

(Sài Gòn – 1954) hay Lòch sử Việt Nam (từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX) của Đào
Duy Anh (Hà Nội – 1955).
Các công trình nghiên cứu của Trần Huy Liệu như Lòch sử 80 năm chống
Pháp (Hà Nội – 1955), Tài liệu tham khảo lòch sử Cách mạng cận đại Việt Nam
(Hà Nội – 1956), Phong trào văn thân khởi nghóa, có đề cập phong trào Cần
Vương chống Pháp các tỉnh nam Trung Kỳ và phong trào ở Phú Yên chỉ được
nhắc đến rất sơ lược.
Giáo trình đại học Lòch sử Việt Nam (1858 – cuối thế kỷ XIX) Hà Nội –
1976) của Hoàng Văn Lân và Ngô Thò Chính đề cập tương đối đầy đủ về phong
trào chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX, nhưng trong phần các tỉnh
nam Trung Kỳ tác giả chỉ phản ánh đôi dòng: “Từ năm 1885 trở đi khắp Trung
và Bắc Kỳ từ Bình Thuận đến Lạng Sơn, không nơi nào là không có những cuộc
khởi nghóa do văn thân lãnh đạo hưởng ứng Chiếu Cần Vương” [98,tr.102]. Kể
cả các sách giáo trình gần đây nhất như Lòch sử Việt Nam, tập II (Hà Nội – 1985)
hay Đại cương lòch sử Việt Nam, tập II (Hà Nội – 1998) cũng không nêu thêm
được gì về phong trào Cần Vương ở Phú Yên.
Trong sách Đại Nam thực lục Chính biên (Hà Nội – 1977), một bộ sử
chính thống của triều Nguyễn, khi ghi chép những biến cố xảy ra trong giai đoạn
lòch sử đau thương này cũng chỉ viết một cách ngắn gọn về phong trào Cần
Vương Phú Yên vẻn vẹn một câu “thân hào Phú Yên chiếm giữ thành”
[147,tr.304] và xem phong trào này là “cuộc nổi loạn” cần phải đánh dẹp.
Gần đây, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia, Viện sử học
cho ra đời cuốn sách Việt Nam những sự kiện lòch sử (1858 – 1918) của Dương
Kinh Quốc do nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 1999. Công trình này ghi
chép các sự kiện lòch sử dưới dạng biên niên, vắn tắt giúp cho những nhà nghiên
cứu tra tìm các sự kiện lòch sử cơ bản xảy ra trên mọi miền đất nước trong giai
đoạn 1858 đến 1918. Năm 1885 với nhiều biến cố dồn dập xảy ra trên nước ta



5

sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn hạ Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân chống
Pháp, tác phẩm cũng đã đề cập tương đối đầy đủ sự kiện lòch sử xảy ra ở các
tỉnh. Ở Phú Yên tác giả có nhắc đến cuộc nổi dậy của thân hào chiếm giữ thành,
lật đổ chính quyền Nam triều thân Pháp, nhưng không đề cập tên người lãnh đạo
phong trào [138,tr.57].
Ở miền Nam trước năm 1975, sách viết có đề cập về Phú Yên thường rất
ít và tản mạn. Các sách như Việt Nam Pháp thuộc sử của Phan Khoang (Sài Gòn
-1971) hay Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ của Nguyễn Thế Anh (Sài Gòn -1970)
hầu như không đề cập tình hình Phú Yên giai đoạn này. Trong Việt Nam Cách
mạng cận sử của Phạm Văn Sơn đã nhận xét: “Đối với các cuộc khởi nghóa nam
Trung Bộ chúng ta lấy làm tiếc không có đầy đủ sử liệu” (tr.75).
Các công trình nghiên cứu về đòa phương như Non nước Phú Yên của
Nguyễn Đình Tư (Sài Gòn -1965) chỉ đề cập đôi nét về tiểu sử một số thủ lónh
nghóa quân của phong trào Cần Vương Phú Yên như: Lê Thành Phương, Nguyễn
Bá Sự trong phần “nhân vật lòch sử”, chưa làm rõ các sự kiện cơ bản của phong
trào [187,tr.144].
Về phía Pháp, tình hình nghiên cứu và nguồn tư liệu khá khiêm tốn. Các
tác phẩm La province de Phu Yen (Tỉnh Phú Yên) của Albert Laborde hoặc Trần
Bá Lộc, tổng đốc de Thuận Khánh, Sa vie et Son Oeuvre (Cuộc đời và sự nghiệp
Trần Bá Lộc, tổng đốc Thuận-Khánh ) của George Durwell, Tướng X*** với
Trung Kỳ từ ngày 5 tháng 7 năm 1885 đến ngày 4 tháng 4 năm 1886 (L’Annam du
5 Juillet 1885 au 4 Avril 1886), J.Jean với Hồi ký của cụ Thượng thư Huỳnh Côn
tự Đan Tường (Mémoires de Son Excellence Huỳnh Côn dit Đan Tuong) cũng chỉ
đề cập sơ lược cuộc nổi dậy ở Phú Yên và việc hành quân đàn áp của quân Pháp
và Trần Bá Lộc ở các tỉnh Thuận - Khánh - Bình - Phú trong những năm 1885 –
1887.



6

Đáng kể nhất là giáo sư sử học Pháp – Charles Fourniau cho công bố luận
án tiến só quốc gia nghiên cứu về Việt Nam Sự tiếp xúc Pháp – Việt ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ từ năm 1885 – 1896 [221] dựa theo nguồn tài liệu lưu trữ tại các thư
viện nước ngoài và ở Pháp. Giáo sư nhắc khá nhiều đến cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Phú Yên - Bình Đònh. Đến cuối năm 1982, trên tạp chí Nghiên cứu lòch
sử (số 207 tháng 11, 12-1982) giáo sư Ch.Fourniau cho công bố bài Cuộc kháng
chiến chống Pháp ở Bình Đònh – Phú Yên từ 1885 – 1887 [48]. Những nguồn tài
liệu mà ông sử dụng chủ yếu dựa vào các báo cáo của những só quan Pháp với
các cấp chỉ huy của chúng ở Sài Gòn trong quá trình đưa quân đến Phú Yên –
Bình Đònh đàn áp phong trào chống Pháp của nhân dân ở đây. Nguồn tài liệu mà
ông cung cấp gợi mở nhiều vấn đề lý thú cho chúng ta về diễn biến của phong
trào Cần Vương ở Phú Yên.
Tháng 2-1984, giáo sư Đinh Xuân Lâm phát biểu ý kiến của mình nhân
đọc bài Cuộc kháng chiến chống Pháp ở Bình Đònh – Phú Yên từ năm 1885 –
1887 (Theo những nguồn tài liệu Pháp) [91] đăng trên tạp chí Nghiên cứu lòch sử,
số 2 tháng 2-1884. Theo giáo sư, thì bài viết của Charles Fourniau trên tạp chí
Nghiên cứu lòch sử, số 207 tháng 11, 12-1982 là bài viết mới nhất về đề tài này;
đồng thời giáo sư cũng đã đề cập đến một số vấn đề về sự bùng nổ và ảnh
hưởng của phong trào này trong khu vực, nguyên nhân thất bại của các cuộc
khởi nghóa ở Bình Đònh, Phú Yên…
Từ sau 1975 một số tác giả đòa phương đã có những tác phẩm nghiên cứu
về lòch sử, văn hóa, kinh tế của tỉnh Phú Yên; nhất là từ cuối những năm 80 đến
nay, nhiều bộ lòch sử Đảng bộ từ tỉnh đến các huyện , xã được biên soạn. Nội
dung chủ yếu của những công trình này đề cập vai trò của Đảng Cộng sản Việt
Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Trong các sách nghiên cứu
lòch sử này, ở chương mở đầu có nêu những nét khái quát về cuộc đấu tranh yêu
nước của nhân dân đòa phương thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Vì vậy,



7

phong trào Cần Vương Phú Yên ít nhiều cũng được nhắc đến, đó là những nguồn
tài liệu đáng quý để chúng tôi kế thừa. Ví như trong công trình Lòch sử Phú Yên
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) của Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy Phú Yên, ở phần mở đầu dành hơn 5 trang để giới thiệu bối cảnh lòch sử
xã hội trước 1945, trong đó đề cập truyền thống đấu tranh giành độc lập dân tộc
của nhân dân Phú Yên dưới ngọn cờ Cần Vương. Việc giới thiệu này chỉ có tính
chất sơ lược không đủ phác họa một bức tranh lòch sử về phong trào Cần Vương
chống Pháp ở Phú Yên. Năm 1989, Nguyễn Thò Khánh Hoà trong luận văn
Phong trào chống Pháp của nhân dân Phú Yên những năm 80 của thế kỷ XIX và
khởi nghóa Lê Thành Phương đã đề cập cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân Phú Yên trong phong trào Cần Vương do Lê Thành Phương lãnh đạo. Tác
giả luận văn có nêu quá trình chuẩn bò lực lượng, diễn biến và rút ra một số đặc
điểm của cuộc khởi nghóa Lê Thành Phương ở Phú Yên, nhưng nhìn chung chưa
thật đầy đủ, chỉ dừng lại ở mức độ một luận văn tốt nghiệp đại học.
Gần đây, tháng 2-1997 Bảo tàng Phú Yên cho ra mắt tập kỉ yếu Danh
nhân lòch sử Lê Thành Phương (1825 – 1887) nhân kỉ niệm 110 năm ngày mất
của nhà yêu nước Lê Thành Phương và lễ đón nhận bằng công nhận di tích lòch
sử văn hóa mộ và đền thờ ông. Tập kỉ yếu bao gồm các bài viết của Nguyễn
Nam Phong, Phan Đình Phùng, Vũ Văn Thoại, có đề cập một số nét về cuộc đời
cũng như đóng góp của Lê Thành Phương trong phong trào Cần Vương ở Phú
Yên từ 1885 – 1887.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây đã bước đầu phác họa
được nội dung cơ bản phong trào Cần Vương chống Pháp của nhân dân Phú Yên
dưới sự lãnh đạo của Lê Thành Phương, Nguyễn Bá Sự, đề cập một số trận
đánh, các thủ lónh nghóa quân cũng như nêu một vài nhận xét về đặc điểm,
nguyên nhân thất bại của phong trào…



8

Kế thừa tất cả những thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước, đồng
thời dựa vào khối lượng lớn tư liệu sưu tầm tại đòa phương trong các chuyến đi
điền dã, khảo sát thực đòa đã giúp chúng tôi giải quyết những vấn đề đặt ra trong
luận án. Qua đó, chúng tôi cố gắng dựng lại bức tranh sinh động và hào hùng
của nhân dân Phú Yên trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược hưởng ứng
Chiếu Cần Vương những năm cuối thế kỉ XIX.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là phong trào Cần Vương chống Pháp
của nhân dân Phú Yên do Lê Thành Phương, Nguyễn Bá Sự lãnh đạo diễn ra từ
1885 đến 1892 cùng với những biểu hiện của nó trên các mặt (quá trình chuẩn
bò, diễn biến, kết quả...); đồng thời đặt trong mối liên hệ với phong trào Cần
Vương cả nước và khu vực các tỉnh nam Trung Kỳ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian, luận án nghiên cứu quá trình từ khi phong trào Cần Vương ở
Phú Yên bùng nổ ngày 15-8-1885 đến khi kết thúc tháng 1-1892.
Năm 1885, khởi nghóa Lê Thành Phương mở đầu phong trào Cần Vương ở
Phú Yên bùng nổ. Mục tiêu của phong trào không chỉ lật đổ chính quyền Nam
triều thân Pháp, tổ chức nhân dân chống giặc trong phạm vi tỉnh Phú Yên mà
còn vươn ra ngoài tỉnh, hỗ trợ phong trào các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận trong
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng 2-1887, quân Pháp và tay
sai Trần Bá Lộc từ Nam Kỳ kéo ra đàn áp làm cho cuộc khởi nghóa thất bại. Lực
lượng nghóa quân còn lại tập hợp dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Bá Sự, rút về
hoạt động ở miền núi phía tây huyện Đồng Xuân tiếp tục cuộc chiến đấu đến
năm 1892, khi Nguyễn Bá Sự bò Pháp bắt đánh dấu phong trào Cần Vương ở Phú
Yên kết thúc.
Về không gian: Trong quá trình chiến đấu chống Pháp và các chính quyền

tay sai, nghóa quân Cần Vương Phú Yên không chỉ hoạt động trong tỉnh Phú Yên


9

mà mở rộng ra các tỉnh lân cận (Bình Đònh, Khánh Hoà, Bình Thuận). Do đó,
luận án không chỉ nghiên cứu trên phạm vi tỉnh Phú Yên mà còn mở rộng đến
đòa phương các tỉnh Bình Đònh, Khánh Hoà và Bình Thuận- những nơi nghóa
quân Phú Yên đã từng hoạt động chiến đấu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng quan điểm và phương pháp
luận của chủ nghóa Mác-Lênin, cụ thể là trên phương diện nhìn nhận, phân tích,
đánh giá các sự kiện và nhân vật lòch sử.
Phương pháp sử dụng chủ yếu trong luận án là phương pháp lòch sử,
phương pháp lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp này. Phương pháp lòch sử
cho phép chúng tôi dựng lại bức tranh lòch sử phong trào Cần Vương Phú Yên:
bối cảnh bùng nổ, diễn biến, kết quả… cũng như những sự kiện, nhân vật lòch sử
trong các trận đánh, các căn cứ của nghóa quân… được tái hiện một cách chân
thực như đã diễn ra.
Trên cơ sở bức tranh lòch sử phong trào Cần Vương Phú Yên, phương pháp
lôgic vạch ra bản chất của các sự kiện, mối quan hệ giữa các nhân vật lòch sử để
có những đánh giá đúng đắn về vò trí, vai trò và những đóng góp của các thủ lónh
nghóa quân trong phong trào đấu tranh yêu nước ở Phú Yên và lòch sử dân tộc.
Phương pháp lôgic còn giúp chúng tôi rút ra những đặc điểm và nguyên nhân
thất bại của phong trào Cần Vương Phú Yên.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp
tổng hợp, thống kê, đối chiếu so sánh, điền dã và phương pháp nghiên cứu liên
ngành trong văn học, đòa lý, khảo cổ học khi tìm hiểu thơ văn của các thủ lónh
nghóa quân, hay khảo sát, thực đòa các di tích lòch sử của phong trào còn sót lại.
5. Nguồn tư liệu

Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi khai thác nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
5.1 Nguồn tư liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn: gồm các tác phẩm chính:


10

- Đại Nam nhất thống chí, tập III, phần ghi chép về tỉnh Phú Yên. Tài liệu
này giúp chúng tôi tìm hiểu về đất nước, con người Phú Yên từ khi thành lập cho
tới những năm 80 của thế kỷ XIX. Đồng thời xác đònh đòa danh các vùng đất xưa
kia để đối chiếu với ngày nay – nơi đòa bàn hoạt động của nghóa quân Cần
Vương Phú Yên
- Đại Nam thực lục Chính biên, từ tập 29 đến tập 38. Qua các bản tấu
trình, lời châu phê của vua quan nhà Nguyễn mà các nhà chép sử ghi lại quá
trình đàn áp phong trào Cần Vương Phú Yên của thực dân Pháp, giúp chúng tôi
đối chiếu với các tư liệu thành văn, tư liệu điền dã ở đòa phương để có thể khẳng
đònh chính xác các sự kiện lòch sử đã diễn ra trên các vùng đất trong tỉnh Phú
Yên vào thời kỳ này.
- Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục. Tác phẩm ghi chép các
khoa thi hương được tổ chức tại các trường thi ở nước ta từ thời Gia Long đến
Khải Đònh. Đặc biệt từ khi tỉnh Bình Đònh mở khoa thi hương đầu tiên (1852),
tạo điều kiện cho só tử Phú Yên tham gia ứng thí và các ông cử, ông tú sau này
trở thành các thủ lónh lãnh đạo phong trào Cần Vương Phú Yên.
Các tác phẩm trên đây là những nguồn tư liệu đáng tin cậy, khi chúng tôi
sử dụng trong luận án.
5.2 Tư liệu lưu trữ:
Đây là nguồn tài liệu quan trọng của luận án, chúng tôi sưu tầm tại các
Trung tâm lưu trữ Quốc gia I-Hà Nội, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II-Tp. Hồ Chí
Minh. Nguồn tài liệu này bao gồm các nghò quyết, nghò đònh, công điện của toàn
quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, tổng trú sứ Bắc-Trung Kỳ liên quan đến
việc đưa quân đàn áp phong trào Cần Vương ở Phú Yên. Ngoài ra một số báo

cáo của Trần Bá Lộc và các só quan Pháp tham gia trực tiếp việc hành quân
đánh dẹp phong trào chống Pháp ở Phú Yên trong giai đoạn này cũng được
chúng tôi tham khảo ở mức độ thận trọng khi đối chiếu các nguồn tài liệu khác.


11

Tài liệu lưu trữ được chúng tôi sử dụng nghiên cứu còn có một số tập san,
công báo của chính quyền thực dân Pháp xuất bản đề cập đến phong trào Cần
Vương Phú Yên như Bulletin de la Société des E’tudes Indochinoises, Revue
Indochinoise, Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH), Journal officiel de
l’Indochine francaise…
5.3 Một số công trình nghiên cứu trong và ngoài nước:
- Những công trình của tác giả là người nước ngoài có đề cập phong trào
Cần Vương Phú Yên, đáng chú ý là:
+ Albert Laborde với tác phẩm La province de Phu Yen.
+ George Durwell với tác phẩm Trần Bá Lộc, tổng đốc de Thuận Khánh,
Sa vie et Son Oeuvre.
+ Général X*** với L’Annam du 5 Juillet 1885 au 4 Avril 1886
+ J.Jean với Mémoires de Son Excellence Huỳnh Côn dit Dan Tuong.
+ Charles Fourniau với các công trình Sự tiếp xúc Pháp – Việt ở Trung Kỳ
và Bắc Kỳ từ năm 1885 – 1896 (Les Contacts Franco-Vietnamiens en Annam et au
Tonkin de 1885 à 1896), Annam- Tonkin (1885-1896) và Cuộc kháng chiến chống
Pháp ở Bình Đònh – Phú Yên từ 1885 – 1887ø.
Những tài liệu này cung cấp cho chúng tôi nguồn tư liệu quý trích từ các
báo cáo của những tên thực dân tham gia trực tiếp việc đàn áp phong
trào Cần Vương Phú Yên.
- Các tài liệu trong nước đáng kể là những công trình viết về đòa phương
Phú Yên như: Non nước Phú Yên của Nguyễn Đình Tư; Danh nhân Lê Thành
Phương của Bảo tàng Phú Yên; Đòa chí Phú Yên; luận văn Phong trào chống

Pháp của nhân dân Phú Yên những năm 80 của thế kỷ XIX và khởi nghóa Lê
Thành Phương của Nguyễn Thò Khánh Hoà; các sách viết về lòch sử Đảng bộ từ
tỉnh đến huyện, xã… ở Phú Yên đã phác họa những nét cơ bản về Lê Thành
Phương, Nguyễn Bá Sự và các thủ lónh nghóa quân cũng như con người, những


12

vùng đất có liên quan đến phong trào. Đây là những tư liệu quý giá, đáng trân
trọng mà chúng tôi kế thừa.
5.4 Nguồn tư liệu điền dã: nguồn tư liệu này phong phú gồm nhiều loại.
* Những dấu tích còn sót lại:
Sau khi dẹp tan phong trào Cần Vương Phú Yên, thực dân Pháp ra sức trấn
áp khốc liệt những người tham gia phong trào, đồng thời muốn xóa bỏ tận gốc
những gì liên quan đến nghóa quân. Vì vậy, hầu hết những căn cứ, đồn trại của
nghóa quân bò đốt cháy, san phẳng. Bên cạnh đó, sự kiện lòch sử oai hùng này đã
xảy ra cách đây khá lâu nên những dấu tích liên quan đến nghóa quân nay đã mờ
nhạt, chỉ còn lại những tên gọi lưu giữ trong nhân dân. Mặc dù vậy những đòa
danh như Xuân Vinh, Quán Cau, Xuân Đài, Hòn Đồn, Tiên Châu, Bình Tây,
Vườn Xá, Vườn Đình, Tổng Binh… đã giúp cho chúng tôi tái hiện lại vò trí các
căn cứ, đồn trại của nghóa quân cũng như những con đường tiến quân, rút lui
trong thời gian phong trào diễn ra. Một vài cứ điểm như thành An Thổ chỉ còn
sót lại những bờ tường, hào nước, lũy tre đã gợi cho chúng tôi hình dung trận
chiến đấu quyết liệt thû nào. Đặc biệt, chúng tôi phát hiện ra một số căn cứ mà
chưa được nói đến trong các tài liệu trước đây. Đó là căn cứ Tây Phú, căn cứ Núi
Sầm, căn cứ Mỹ Thạnh, căn cứ Vườn Xá – Hòa Mỹ ở quân khu nam Phú Yên
thuộc huyện Tuy Hòa. Trong đó Vườn Xá-Hoà Mỹ là căn cứ hậu cần quan trọng
cung cấp quân lương cho lực lượng của Bùi Giảng, Lê Thành Bính chiến đấu
trên đòa bàn các tỉnh nam Trung Kỳ. Hoặc ở quân khu bắc có căn cứ La Hiên với
các cứ điểm Trại Chính, Trại Thứ … hiểm trở giúp cho nghóa quân duy trì sự tồn

tại của phong trào trong một thời gian khá lâu.
Qua quá trình khảo sát thực đòa chúng tôi phát hiện một số đòa danh mà
những người nghiên cứu trước nhầm lẫn có liên quan đến nghóa quân như Lâm
Cấm thành Long Cấm; Đònh Trung thành Đònh Sơn hoặc đính chính sự kiện
Nguyễn Bá Sự bò bắt trong chiến đấu chứ không phải ra đầu thú. Chúng tôi còn


13

sưu tầm được một số chân dung của các thủ lónh nghóa quân như Lê Thành
Phương, Bùi Giảng, Ngô Kim Ký, Trần Kỳ Phong …
Những tư liệu này giúp chúng tôi hình dung trong chừng mực nhất đònh
diễn biến, đòa bàn hoạt động của phong trào, có ấn tượng rõ rệt về vò thủ lónh
cũng như những người tham gia phong trào, khắc phục sự thiếu sót của các tư
liệu thành văn.
* Tài liệu truyền miệng:
Đây là nguồn tài liệu khá phong phú tồn tại trong nhân dân qua những
câu chuyện kể, ca dao, sự tích …. Trong quá trình khảo sát thực đòa, chúng tôi đã
đến hầu như tất cả những nơi có liên quan đến phong trào, gặp gỡ các cụ già
trên 70 tuổi để khai thác. Họ là lớp hậu duệ của nghóa quân Lê Thành Phương,
Nguyễn Bá Sự, những câu chuyện họ cung cấp là được nghe ông bà kể lại.
Những nội dung mà chúng tôi khai thác ở những nhân chứng này tập trung
vào các vấn đề: hoàn cảnh phát sinh, diễn biến phong trào, lãnh tụ nghóa quân;
những di tích, danh nhân, đòa danh, thơ văn về phong trào Cần Vương Phú Yên…
Các câu hỏi và phương pháp cũng được chúng tôi chuẩn bò trước để gợi cho nhân
chứng nhớ lại và tránh họ nói theo ý muốn của mình.
Những tài liệu này theo đánh giá của chúng tôi là đáng trân trọng, sống
động, được truyền từ đời này qua đời khác mà không nguồn tài liệu nào thay thế
được. Chính bằng lời kể chất phác và đầy nhiệt tình của các cụ trong chốn trầm
lặng của nông thôn đã giúp chúng tôi bắt gặp nguyên dạng của từng bộ mặt cục

bộ của phong trào. Tuy nhiên, nguồn tài liệu truyền miệng có hạn chế là thiếu
chính xác về thời gian và thiếu tính hệ thống. Để khắc phục nhược điểm, chúng
tôi đã đối chiếu loại tài liệu này với các nguồn tài liệu khác, từ đó lọc ra được
những tài liệu quý.
* Các tài liệu khác như gia phả các dòng họ, bia mộ, các bài văn tế, thơ
văn của các thủ lónh nghóa quân còn sót lại, các công trình khảo cứu của Nguyễn


14

Hồng Sinh, Bùi Tân, Nguyễn Nam Phong, Nguyễn Khuê … giúp chúng tôi hướng
nghiên cứu, tìm hiểu các sự kiện lòch sử Phú Yên trong thời kỳ này khi đối chiếu
với các tư liệu khác.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Thông qua những nguồn tư liệu phong phú, đáng tin cậy luận án đã dựng
lại bức tranh lòch sử phong trào Cần Vương chống Pháp của nhân dân Phú Yên
dưới sự lãnh đạo của Lê Thành Phương, Nguyễn Bá Sự diễn ra từ năm 1885 đến
1892 với những sự kiện lòch sử chân thực, có hệ thống so với nhữ ng gì đã công
bố trước đây. Đặc biệt giai đoạn phong trào Cần Vương ở Phú Yên diễn ra dưới
sự lãnh đạo của Nguyễn Bá Sự (từ 1887-1892) được làm sáng tỏ với những tư
liệu mới, và đính chính một số sự kiện mà từ trước đến nay các nhà nghiên cứu
đề cập phong trào trong giai đoạn này vốn sơ lược và không chính xác.
- Trên cơ sở đó làm rõ đặc điểm, nguyên nhân thất bại và ảnh hưởng của
phong trào Cần Vương Phú Yên đối với phong trào chống Pháp cùng thời ở các
tỉnh khu vực nam Trung Kỳ và các phong trào sau đó ở đòa phương.
- Bổ sung nguồn tư liệu mới cho việc nghiên cứu, biên soạn lòch sử Phú
Yên giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám vốn trước đây còn nhiều mảng trống.
- Góp phần giáo dục, bồi dưỡng tình cảm yêu quê hương đất nước, lòng tự
hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của các lớp cha ông cho thế hệ trẻ hiện
nay.

-Phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập phần lòch sử Việt
Nam cận đại và những ai quan tâm.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận án chia làm 4 chương:
Chương I: Phú Yên trước năm 1885 và phong trào Cần Vương
Chương II: Khởi nghóa Lê Thành Phương-đỉnh cao của phong trào
Cần Vương ở Phú Yên


15

Chương III: Phong trào Cần Vương ở Phú Yên tiếp diễn dưới sự lãnh đạo
của Nguyễn Bá Sự
Chương IV: Đặc điểm và nguyên nhân thất bại của phong trào Cần
Vương ở Phú Yên


16

CHƯƠNG 1

PHÚ YÊN TRƯỚC 1885 VÀ PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG

1.1 KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI PHÚ YÊN
1.1.1 Đặc điểm đòa lý vùng đất Phú Yên
Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải nam Trung Bộ nằm ở tọa độ từ
12050’ đến 13042’ vó bắc và từ 103041’ đến 109023’ kinh đông, phía bắc giáp tỉnh
Bình Đònh, phía nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắc
Lắc, phía đông giáp Biển Đông.
Tỉnh có diện tích tự nhiên là 5.223 km2, chiều dọc chỗ dài nhất là 116 km,

chiều ngang chỗ rộng nhất khoảng 78 km, chỗ hẹp nhất khoảng 46 km, nhìn
giống như một hình năm cạnh. Sách Đại Nam nhất thống chí mô tả vò thế Phú
Yên thû xưa: “Đông tây cách nhau 61 dặm, nam - bắc cách nhau 172 dặm, phía
đông đến biển 16 dặm, phía tây đến man động 45 dặm; phía nam đến đèo Đại
Lónh thuộc huyện Quảng Phúc tỉnh Khánh Hòa 100 dặm; phía bắc đến đèo Cù
Mông thuộc huyện Tuy Phước tỉnh Bình Đònh 72 dặm” [34,tr.60]
Đòa hình tỉnh Phú Yên rất đa dạng, nghiêng từ tây sang đông. Có thể chia
ra 3 khu vực lớn: vùng núi, vùng bán sơn đòa và vùng đồng bằng.
Vùng núi thuộc khu vực phía tây các huyện Đồng Xuân, Tuy Hòa có đòa
hình phức tạp, núi non trùng điệp, tựa lưng vào dãy Trường Sơn. Phía bắc là dãy
Cù Mông, giáp với tỉnh Bình Đònh, có những đỉnh cao từ 500m đến trên 800m
như hòn Kè, hòn Khô…; phía nam tỉnh là dãy Đèo Cả, giáp với tỉnh Khánh Hòa
với các đỉnh cao trên 700m, như hòn Ông, hòn Chảo, hòn Kỳ Đà…; phía tây từ
bắc xuống nam nối với Trường Sơn trùng điệp của Tây Nguyên với những đỉnh
cao 1.000m, như núi La Hiên, hòn Rừng Già, hòn Dù, hòn Núi Chúa. Rừng núi ở
Phú Yên hiểm trở, do đó rất thuận lợi cho nghóa quân lập các khu căn cứ đòa duy


17

trì cuộc kháng chiến trong một thời gian tương đối dài trong phong trào Cần
Vương cũng như trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ sau này.
Vùng bán sơn đòa tương đối bằng phẳng chạy dọc theo hai con sông lớn:
sông Ba và sông Cái với các đòa danh La Hai, Xuân Quang ( huyện Đồng Xuân),
Củng Sơn, Sơn Hà, Sơn Nguyên (huyện Tuy Hòa) có nhiều đồng cỏ tự nhiên rất
thuận lợi trong việc chăn nuôi gia súc, đặc biệt là ngựa chiến phục vụ nghóa
quân Tây Sơn và các đội kỵ binh trong phong trào Cần Vương Phú Yên (ngày
nay ở xã An Xuân huyện Tuy An còn duy trì truyền thống nuôi và đua ngựa
hàng năm vào dòp Tết).
Vùng đồng bằng Phú Yên được xem là rộng lớn nhất khu vực miền Trung.

Rộng nhất là đồng bằng Tuy Hoà với khoảng 2 vạn hecta đất canh tác. Đây là
vùng trọng điểm kinh tế và dân cư của tỉnh Phú Yên. Thứ đến là các đồng bằng
nhỏ nằm rải rác ở hạ lưu sông Cái và các sông ở huyện Đồng Xuân.
Sông ngòi tỉnh Phú Yên có khá nhiều, phần lớn ngắn và dốc với 2 sông
chính: sông Đà Rằng và sông Cái. Sông Đà Rằng dài nhất duyên hải miền
Trung, bắt nguồn từ Tây Nguyên dài 350km (trong phạm vi Phú Yên dài 90km)
chảy qua huyện Tuy Hòa rồi đổ ra cửa Đà Diễn. Sông Cái từ Kon Tum chảy qua
huyện Đồng Xuân xuống cửa Tiên Châu rồi ra biển với chiều dài 76km. Ngoài
ra có các sông Tam Giang dài 28km, sông Bàn Thạch dài 50km. Hàng năm các
sông cung cấp khoảng 12 tỷ m3 nước ngọt thuận lợi cho sản xuất đời sống và xây
dựng các công trình thủy nông và thủy lợi, đồng thời bồi đắp một lượng lớn phù
sa cho các cánh đồng hạ lưu sông làm tăng độ phì cho đất, tăng năng suất cây
trồng [126,tr.9].
Bờ biển Phú Yên dài 189km, quanh co khúc khuỷu, có nhiều bán đảo nhô
ra làm thành vũng, vònh như: Cù Mông, Xuân Đài, Vũng Rô… không chỉ thuận
lợi cho tàu thuyền cập bến tránh bão mà còn là danh lam thắng cảnh. Trên quốc
lộ I tại xã Xuân Thònh (huyện Sông Cầu) núi chạy dài ra biển hình một con kỳ


18

lân tạo nên quân cảng xuân Đài. Tại đây trong cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và
chúa Nguyễn, các bên đã bao lần dùng làm nơi đóng thủy quân và nhiều trận
thủy chiến đã diễn ra [140,tr.43]. Dãy Đèo Cả ở phía nam tỉnh kéo dài ra biển,
tạo thành mũi Varella – điểm đất liền nhô ra Biển Đông đón nhận ánh mặt trời
sớm nhất của Tổ quốc.
Vùng biển Phú Yên chòu ảnh hưởng hai luồng hải lưu nóng và lạnh là nơi
sinh trưởng của hơn 500 loài thủy sản, trong đó có 35 loài có giá trò kinh tế cao:
cá thu, cá ngừ, cá mú, cá ngựa, năng suất khai thác hàng năm trên 46.000 tấn
[126,tr.72].

Diện tích đất rừng của Phú Yên có khoảng 395.185 hecta chiếm 75% diện
tích tự nhiên của tỉnh. Rừng có nhiều loài cây q hiếm: hương, cẩm lai, gõ, sao
đen và các loại thảo mộc: trầm hương, kỳ nam, sa nhân. Cây tô hạp hương là
thảo mộc q mọc ở các rừng Phú Yên được khắc ở Anh Đỉnh vào năm Minh
Mạng 17 [139,tr.81]. Rừng Phú Yên còn có nhiều động vật hoang dã q: voi, bò
rừng, khỉ, trăn, cá sấu, trong đó phải kể đến hổ (cọp). Trong dân gian có câu ca
dao về nạn cọp: “Cọp Núi Lá, cá Sông Hinh”.
Phú Yên có mạng lưới giao thông khá phát triển. Dưới thời nhà Nguyễn,
đường thiên lý chạy dài “ từ nam đến bắc tỉnh cả thảy 173 dặm” và hệ thống
đường quan báo từ phủ Tuy An đến các đòa phương trong tỉnh, phía tây “thông
đến đòa giới hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá” [34,tr.38]. Đây là những con đường
quan trọng đảm bảo việc đi lại giữa các vùng trong tỉnh và còn là đường hành
quân chiến lược của nghóa quân Cần Vương Phú Yên trong phong trào chống
Pháp cuối thế kỷ XIX.
Về khí hậu, tỉnh Phú Yên thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, với “mùa xuân
khí trời ôn hòa, mùa hạ nóng nực; lúc thu đông giao tiếp thì mưa lụt và khí trời
mát” [34,tr.12]. Do chòu ảnh hưởng khí hậu đại dương nên nhiệt độ trung bình
hàng năm 26,50C, lúc cao nhất là 29,50C, lúc thấp nhất 22,50C.


19

Phú Yên có tiềm năng khoáng sản rất phong phú, phân bố rải rác khắp
các đòa phương trong tỉnh: vàng, bôxít ở huyện Tuy Hòa, titan ở bắc huyện Đồng
Xuân. Đặc biệt mỏ sắt ở xã Sơn Đònh, huyện Đồng Xuân có trữ lượng 914.000
tấn. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng mà nghóa quân Cần Vương Phú Yên
khai thác để chế tạo vũ khí chống Pháp cuối thế kỷ XIX.
Phú Yên có điều kiện tự nhiên thuận lợi nên từ lâu đã thu hút cư dân các
tỉnh như Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Đònh vào lập nghiệp. Đòa
thế Phú Yên được ví như bức tường thành có 3 mặt là núi non trùng điệp bao

quanh, hai đầu có hai đèo cao ngăn trở, phía đông là biển cả, bên trong là những
đồng bằng xen kẽ. Chính vò thế ấy, tuy là tỉnh nhỏ nhưng “dân cư đông đúc”,
là“vùng đất quan trọng” [139,tr.62] khi Phú Yên trở thành pháo đài vững chắc
trong phong trào Cần Vương chống Pháp khu vực các tỉnh nam Trung Kỳ.
1.1.2 Lòch sử hình thành và xác lập khu vực hành chính vùng đất Phú Yên
Lòch sử hình thành tỉnh Phú Yên gắn liền với quá trình khai phá mở mang
vùng đất phía Nam của dân tộc ta.
Theo các tài liệu khảo cổ học khai quật ở di chỉ Cồn Đình, Gò Ốc, Giồng
Đồn thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh tại xã Xuân Bình, huyện Sông Cầu cũng như
công cụ bằng đá nằm rải rác các đòa phương trong tỉnh cho thấy: Phú Yên là
vùng đất có con người tụ cư từ rất sớm, cách ngày nay khoảng từ 4.000 -3.500
năm.
Trong Đại Nam nhất thống chí, phần “Dựng đặt và Diên cách” có chép:
“Phú Yên xưa là đất Việt Thường, đời nhà Hán thuộc về quận Nhật Nam. Sau bò
Lâm Ấp thôn tính, rồi bò Chiêm Thành chiếm lấy làm đất Bà Đài, Đà Diễn”
[34,tr.7]. Sự thật Lâm Ấp và Chiêm Thành vẫn là một nước Champa ở hai thời
kỳ khác nhau. Sách Khâm Đònh Việt sử chép rằng: Năm Nhâm Dần (102) ở phía
nam huyện Nhật Nam có huyện Tượng Lâm, người huyện ấy cứ sang cướp phá
ở quận Nhật Nam, bởi vậy vua Hán mới đặt quan cai trò ở huyện ấy để phòng


×