Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ HỆ THỐNG KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN 2030

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (704.36 KB, 70 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ HỆ THỐNG KHU BẢO TỒN
THIÊN NHIÊN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020,
TẦM NHÌN ĐẾN 2030
DỰ THẢO LẦN 4
(Ngày 28/5/2013)

HÀ NỘI, THÁNG 5-2013


MỤC LỤC
Lời tựa của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn....................................................5
Mở đầu.........................................................................................................................7
PHẦN 1..........................................................................................................................9
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN Ở VIỆT NAM...........................9
1.1. Thực trạng hệ thống KBT tại Việt Nam....................................................................9
1.3. Thực trạng về thể chế chính sách đối với hệ thống KBT.........................................16
1.4. Bài học về việc thực hiện Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt
nam 2003 - 2010...........................................................................................................24
1.5. Nguy cơ (thách thức) và cơ hội.............................................................................28
1.6. Những vấn đề cần thực hiện trong giai đoạn chiến lược tới..................................32
PHẦN 2 . QUAN ĐIỂM, TẦM NHÌN VÀ MỤC TIÊU CHIEN LƯỢC......................................33
2.1. Quan điểm Chiến lược...........................................................................................33
2.2 Tầm nhìn tới năm 2030..........................................................................................34
2.3 Các mục tiêu của chiến lược (tới năm 2020)...........................................................34
PHẦN 3:.......................................................................................................................37
NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC – CHƯƠNG TRÌNH – CÁC HOẠT ĐỘNG ƯU TIÊN, THỜI GIAN VÀ
CƠ QUAN CHỊU TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN...................................................................37
3.1. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch hệ thống các KBT...................................................37
3.2. Thành lập hệ thống KBTTN thống nhất..................................................................39


3.3. Quy hoạch và quản lý các khu bảo tồn..................................................................41
3.4. Thiết lập và hoàn thiện kế hoạch quản lý các KBTTN.............................................45
3.5. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong quản lý KBT...................................46
PHẦN 4. TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ GIÁM SÁT CHIẾN LƯỢC............................................56
4.1. Thành lập một cơ quan đầu mối quản lý các Khu bảo tồn thiên nhiên...................56
4.2 Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện triển khai Chiến lược............................................57
4.3 Trách nhiệm chính của Ban Chỉ đạo là:....................................................................57
4.4 Trách nhiệm của các Bộ/ngành là thành viên Ban chỉ đạo thực hiện Chiến lược......58
4.5 Trách nhiệm của UBND cấp tỉnh..............................................................................58
4.6 Trách nhiệm của Ban quản lý KBT............................................................................58
4.7 Giám sát và đánh giá việc thực hiện Chiến lược......................................................58
PHẦN 5 PHỤ LỤC..........................................................................................................59
PHẦN 6 TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH...........................................................................66

Bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống

2


CÁC TỪ VIẾT TẮT

_____________________________________________
ADB
BAP
BTB
Bộ CA
Bộ GD&ĐT
Bộ KHCN
Bộ KH&ĐT
Bộ NV

BQL
Bộ TC
Bộ TN&MT
Bộ NN&PTNT
Bộ VHTT
BTL/NCT
BTTN
Bộ YT
CCKL
CKL
CMT
CRES
CPTLN
CBVNLTS
CTDVMTR
Danida
DEA
DVMTR
DVHST
ĐDSH
ĐNN
ĐHQGHN
ĐHQGTP HCM
FFI
FIPI
FSSP
IMA
IUCN
KBT
KBT TN

KBT RĐD
KBTB
KBT VĐNN NĐ
KBT ĐNN
KHCN
KTXH
MASPAS

Ngân hàng Châu Á
Kế hoạch Hành động ĐDSH (1995)
Bảo tồn biển
Bộ Công an.
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Bộ Khoa học, công nghệ
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Nội vụ.
Ban Quản lý
Bộ Tài chính
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ Văn hóa thông tin
Bảo tồn loài/Nơi cư trú
Bảo tồn thiên nhiên
Bộ Y tế
Chi cục Kiểm lâm
Cục Kiểm lâm – Tổng cục Lâm nghiệp – Bộ NN&PTNT
Cục Môi trường – Bộ TN&MT
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường,
Đại học Quốc gia Hà Nội
Cục Phát triển lâm nghiệp

Cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản
Chi trả dịch vụ môi trường rừng
Tổ chức Hỗ trợ Phát triển Quốc tế của Đan Mạch
Chương trình Hỗ trợ Môi trường của Đan Mạch cho Việt Nam
Dịch vụ môi trường rừng
Dịch vụ hệ sinh thái
Đa dạng sinh học
Đất ngập nước.
Đại học quốc gia Hà Nội
Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
Tổ chức Động, Thực vật Quốc tế
Viện điều tra và quy hoạch rừng
Chương trình Hỗ trợ Ngành Lâm nghiệp
Tổ chức Sinh vật biển Quốc tế
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới
Khu bảo tồn
Khu bảo tồn thiên nhiên
Khu bảo tồn rừng đặc dụng.
Khu bảo tồn biển
Khu bảo tồn vùng đất ngập nước nội địa.
Khu bảo tồn đất ngập nước
Khoa học công nghệ
Kinh tế xã hôi
Chiến lược Quốc gia quản lí hệ thống khu bảo tồn tại Việt Nam

Bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống

3



NGOs
NHNN
GIZ
RSX
TCĐC
TCDL
TFF
TRAFFIC
UNDP
UNEP
UNESCO
VCCI
Viện ĐTQHR
Viện KHLN VN
Viện ST&TNSV
VPCP
VQG
Vụ HTQT
WB
WWF
Wi
5MHRP

Các tổ chức Phi Chính phủ
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cơ quan hợp tác quốc tế nước Công hòa liên bang Đức .
Rừng sản xuất.
Tổng cục Địa chính
Tổng cục du lịch
Quỹ hỗ trợ phát triển ngành lâm nghiệp.

Tổ chức Giám sát Buôn bán Động thực vật Hoang dã
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
Liên Hợp Quốc
Phòng Thương mại và Đầu tư
Viện Điều tra Quy hoạch Rừng
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật
Văn phòng Chính Phủ
Vườn quốc gia
Vụ Hợp tác quốc tế - Bộ NN&PTNT
Ngân hàng thế giới
Quỹ Quốc tế về Bảo vệ Thiên nhiên
Winrock Internaltional
Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (Chương trình 661)

Bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống

4


Lời tựa của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
________________________________________________
_____
Hơn 50 năm qua, với sự quan tâm của Chính phủ Việt Nam và với những nỗ
lực trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà nước chuyên ngành về
bảo tồn đa dạng sinh học của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng với sự
hỗ trợ của các tổ chức Quốc tế, công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
ĐDSH ở Việt Nam không ngừng hoàn thiện, Đến nay, các hệ thống KBT thiên

nhiên đã được thành lập, phân bố trên địa bàn cả nước, với 164 khu BT RĐD có
tổng diện tích 2.198.744 hecta (ha); đã xác định quy hoạch đến năm 2020 gồm: 16
KBT Biển (với quy mô diện tích khoảng 270.271 héc ha chiếm 0.24% diện tích biển
cả nước), và 45 KBT vùng nước nội địa. Đồng thời với việc quy hoạch phát triển
các hệ thống KBT TN, Nhà nước đã ban hành và từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách về quản lý, bảo vệ các hệ thống KBT TN và bảo tồn ĐDSH;
Việt Nam đã và đang tham gia nhiều Công ước Quốc tế có liên quan tới lĩnh vực
này.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN & PTNT) với chức năng
quản lý nhà nước chuyên ngành về Bảo tồn đa dạng sinh học, được Nhà nước
giao thực hiện các hoạt động bảo tồn, quản lý khai thác tài nguyên đa dạng sinh học
theo các hệ sinh thái khác nhau (bao gồm hệ sinh thái Rừng, Biển, đất ngập nước
nội địa, nông nghiệp, thủy sản, chăn nuôi, trồng trọt…); Với hơn 50 năm thực hiện
chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về bảo tồn đa dạng sinh học, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã đào tạo, xây dựng được một đội ngũ các nhà khoa
học, các chuyên gia, các nhà quản lý lão luyện, có chuyên môn sâu về quản lý, bảo
tồn đa dạng sinh học; luôn coi trọng công tác quản lý, bảo vệ nguồn tài nguyên
thiên nhiên, đã và đang đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội bền vững
của đất nước và giữ gìn các giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc.
Công trình xây dựng “Chiến lược Quản lý Hệ thống Khu bảo tồn thiên
nhiên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” với sự tài trợ của Cơ quan hợp tác
quốc tế Cộng hòa Liên bang Đức (GIZ), Quỹ hỗ trợ phát triển ngành lâm nghiệp
(TFF) và nhiều tổ chức quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam đã thể hiện rõ ý tưởng
chỉ đạo của các Nhà lãnh đạo Chính phủ và sự mong muốn của nhân dân Việt Nam;
của các nhà khoa học trong, ngoài nước và cộng đồng Quốc tế về sự cần thiết của
việc quy hoạch hệ thống KBT thiên nhiên Việt Nam; thống nhất tổ chức quản lý để
bảo tồn có hiệu quả nguồn tài nguyên đa dạng sinh học vô cùng quý giá cho các thế
hệ hôm nay và mai sau. Bản Chiến lược này là Khung kế hoạch, xác định nhiệm
vụ công tác trọng tâm của ngành, lĩnh vực trong các kỳ kế hoạch dài hạn và tầm
nhìn tới năm 2030; bản Chiến lược cũng là tài liệu hướng dẫn cho các nhà quản lý

ở các cấp, các ngành tăng cường phối hợp, thống nhất về nhận thức và hành động
nhằm thúc đẩy công tác quản lý hệ thống các KBT ở Việt Nam một cách có hiệu
quả. Đồng thời, giúp cho các cơ quan Chính phủ, các tổ chức trong nước và Quốc tế
dễ dàng xác định được các mục tiêu bảo tồn và các lĩnh vực ưu tiên để thiết kế các
dự án hỗ trợ hiệu quả nhất.
Bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống

5


Hy vọng rằng Chiến lược Quản lý Hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 kế tục và phát huy được những thành quả của
Chiến lược quản lý hệ thống Khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến năm 2010
(được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17 tháng
9 năm 2003), sẽ đóng góp một cách tích cực vào các hoạt động về quản lý bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên và bảo tồn ĐDSH của đất nước, đồng thời tạo điều kiện để kết
hợp hài hoà giữa các lợi ích khác.
Thay mặt cho Bộ NN & PTNT, Tôi xin cảm ơn Chính phủ Cộng hòa liên
bang Đức, Tổ chức hợp tác quốc tế của nước Cộng hòa Liên Bang Đức (GIZ), Quỹ
hỗ trợ phát triển ngành lâm nghiệp (TFF) đã tài trợ và giúp đỡ có hiệu quả trong quá
trình xây dựng Chiến lược này; cảm ơn các Nhà khoa học, các Chuyên gia quản lý
đã nỗ lực, lao động nghiêm túc cho sự thành công của Chiến lược. Mong rằng với
sự hỗ trợ và cộng tác chặt chẽ của các nhà tài trợ, các tổ chức Phi chính phủ trong
nước và quốc tế, các nhà khoa học trong nước và quốc tế; cùng với những nỗ lực
cao nhất của Chính phủ Việt Nam, của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và
các Bộ, ngành liên quan; trong thời gian tới, những khuyến nghị của Chiến lược sẽ
được thực hiện thành công.
Hà Công Tuấn
Thứ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn

Bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất lượng cuộc sống

6


Mở đầu
Xây dựng chiến lược
Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Lâm nghiệp (TCLN), Bộ
NN & PTNT đã tổ chức triển khai các hoạt động xây dựng Chiến lược này. TCLN đã nhận
thấy có một nhu cầu cấp bách về việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống các chính sách và mục
tiêu rõ ràng, thành lập những nguyên tắc và lý luận khoa học về các hoạt động quy hoạch,
quản lý, bảo tồn ĐDSH; là cơ sở cho các hành động quản lý trong hệ thống KBT RĐD,
KBTB và KBT VNNĐ. Từ việc quy hoạch tổ chức, xây dựng các hệ thống KBTTN hiện nay,
sẽ tiến tới được mở rộng và kết hợp tất cả những KBT hiện có (bao gồm hệ thống KBT RĐD,
Hệ thống khu KBT VĐNN NĐ và hệ thống KBTB) thành một hệ thống thống nhất, nhằm
đảm bảo các điều kiện để Bộ NN&PTNT thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà

nước chuyên ngành về Bảo tồn đa dạng sinh học trong thời gian tới.
Nhóm công tác Quốc gia về xây dựng Chiến lược bao gồm các chuyên gia về chính
sách và khoa học thuộc các Viện, Trường và các Bộ, ngành liên quan của Việt Nam làm việc,
phối hợp chặt chẽ với Dự án Bảo tồn đa dạng sinh học các Hệ sinh thái rừng Việt Nam do Cơ
quan hợp tác Quốc tế của nước Cộng hòa liên bang Đức (GIZ), Quỹ hỗ trợ phát triển ngành
lâm nghiệp (TFF) hỗ trợ về chuyên môn kỹ thuật và kinh phí cho quá trình thực hiện việc xây
dựng Chiến lược này.
Chiến lược này được xây dựng nhằm đáp ứng các nhu cầu của quốc gia để tập trung
chủ yếu thực hiện chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành về Bảo tồn đa dạng
sinh học của Bộ NN&PTNT trong hệ thống KBT TN và việc kết nối trực tiếp, mang lại lợi
ích mà các KBT đem lại đối với người dân Việt Nam, đóng góp cho công cuộc phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước và đóng góp cho cộng đồng quốc tế. Chiến lược nhấn mạnh đến sự
gia tăng các vấn đề mà quốc gia gặp phải trong quá trình phát triển (như tài nguyên đa dạng
sinh học bị khai thác và hủy hoại quá mức, vấn đề ô nhiễm môi trường và thảm họa thiên
nhiên do biến đổi khí hậu trái đất gây ra…); đáp ứng giải quyết các áp lực đó theo như Luật
pháp chính sách của Nhà nước là phải đạt được sự hài hòa giữa các mục tiêu song hành: góp
phần xóa đói giảm nghèo và xây dựng phát triển các KBT TN cùng với việc bảo tồn những lợi
ích sinh thái mà hệ thống KBT TN mang lại.
Quan trọng hơn, Chiến lược sẽ là một công cụ điều phối thống nhất hành động của các
cấp chính quyền từ TW đến địa phương. Thách thức lớn nhất là sự xung đột quyền lợi của
người dân và yêu cầu bảo tồn ĐDSH thuộc hệ thống KBT TN. Việt Nam có một cơ hội
thành công trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện Chiến lược, do có thể chế chính trị vững
mạnh, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ và có sự cộng tác, hỗ trợ của cộng đồng quốc tế (trong
khi một số nước đang thất bại), nếu bây giờ các vấn đề được đặt ra và được giải quyết triệt để.
Chiến lược này là một công cụ rất quan trọng để trợ giúp quá trình đó. Cơ hội này sẽ không
tồn tại trong một vài năm nữa nếu hành động chậm trễ.

Mục tiêu chính của Chiến lược là :
- Thiết lập một hệ thống khu bảo tồn, tăng diện tích, tỷ lệ bao phủ và điều kiện của hệ
thống, bảo tồn để thực hiện quản lý có hiệu quả các hệ sinh thái, loài, nguồn gen thuộc KBT.
Quy hoạch, xác định ranh giới, cắm mốc ổn định trên bản đồ, trên thực địa và tăng quy mô
diện tích hệ thống KBT TN ít nhất bằng 10% diện tích lãnh thổ trên cạn và 0,24% diện tích

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

7


vùng biển Việt Nam, bao gồm các vùng đại diện thuộc các HST (rừng, biển, đất ngập nước,
đảo và ven biển).
- Hệ thống văn bản luật pháp, chính sách và những quy định về quy chế, thể chế ..liên

quan tới công tác quản lý hệ thống KBTTN được sửa đổi hoàn thiện thành các công cụ pháp
lý thống nhất và toàn diện (về quy hoạch, tổ chức, đầu tư, quản lý); được cập nhật, sử dụng
hiệu quả và phù hợp, hài hòa với các luật và chính sách ở các lĩnh vực khác về đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế,
- Hệ thống KBT phải được quản lý và quản trị bởi các cơ quan chuyên trách nằm trong
một hệ thống tổ chức thống nhất. Tất cả các KBT trong hệ thống KBT TN Việt Nam được áp
dụng quy định chung về các tiêu chí phân hạng, phân loại, quy hoạch, kiểm tra và chế độ báo
cáo, giám sát định kỳ theo mẫu chuẩn. Đảm bảo rằng cơ sở dữ liệu thông tin sẽ được thành
lập, duy trì cập nhật thông suốt. Các cơ chế điều hành (Vị trí công tác, phân cấp quản lý điều
hành, tự chủ), quản lý, quản trị KBTTN được áp dụng chính thức và thống nhất trong hệ
thống KBT. Có sự tham gia tích cực của các bên có liên quan và của người dân địa phương
trong việc giám sát và quản lý hệ thống KBT.
- Đảm bảo các giá trị cảnh quan thuộc hệ thống KBT được gìn giữ; ĐDSH của hệ
thống KBT thống nhất sẽ tồn tại và phát triển, đặc biệt nhấn mạnh tới các hệ sinh thái và các
loài có nguy cơ tuyệt chủng cao.
Nội dung Chiến lược nhằm góp phần giúp cho các Nhà lãnh đạo Chính phủ, chính
quyền các cấp và các nhà lãnh đạo quản lý hệ thống KBT, các bên có liên quan, cũng như các
nhà bảo tồn, NGOs, các nhà tài trợ song phương và đa phương sử dụng cho hoạt động của
mình. Để đáp ứng được các nhu cầu rất đa dạng đó, Chiến lược được xây dựng trên cơ sở
những bài học kinh nghiệm tốt đã tiếp thu được và sự đóng góp từ cấp cơ sở, cùng với việc
tham gia đóng góp, hỗ trợ của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, các cơ quan có liên quan
nhằm bổ sung cho những điểm cơ bản và thực tiễn.
Chiến lược được soạn thảo theo một quy trình toàn diện với sự tham khảo ý kiến của
các bên có liên quan và các nhóm có quan tâm trong nước trong suốt hai năm. Bên cạnh đó là
sự đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học trong nước và quốc tế về KBT thuộc Dự án
(GIZ) cùng với các cán bộ Văn phòng dự án, và Quỹ hỗ trợ phát triển ngành lâm nghiệp.
Việc soạn thảo đã dựa trên một phương thức tiếp cận hợp tác và bổ sung của của các cơ quan
thuộc Bộ NN&PTNT (Cục, vụ, viện, trường….). Những tư vấn đó đã tiến hành các góp ý,
đánh giá tổng quát hiện trạng và đưa ra những chính sách có liên quan đến các vấn đề đặc biệt
quan trọng cho việc xây dựng chiến lược. Kết quả của các nghiên cứu đó được thể hiện trong

một loạt các báo cáo kỹ thuật do dự án ấn hành.
Do đó, bản dự thảo chiến lược quản lý hệ thống KBT thiên nhiên đến năm 2020, tầm
nhìn đên năm 2030 là một sản phẩm của các bên có liên quan và cũng chính là những người
sẽ có trách nhiệm thực thi chiến lược sau này. Bản dự thảo chiến lược này sẽ cần được đánh
giá và điều chỉnh lại để phù hợp với những thành công đã đạt được, những chính sách
mới được áp dụng và những hoạt động phát triển mới diễn ra. Theo kế hoạch tổ chức thực
hiện Chiến lược, việc đánh giá giữa kỳ sẽ diễn ra sau năm năm và một cuộc đánh giá tổng
thể thông qua việc tổ chức một cuộc hội thảo quốc gia vào giữa năm 2017 để có thời gian
hoàn chỉnh cuối cùng nhằm đáp ứng được những yêu cầu của các năm tiếp theo (đến
2020 tầm nhìn đến năm 2030).

Vị trí địa lý tự nhiên - sinh thái đặc biệt của Việt Nam
Việt Nam có diện tích tự nhiên là 329.240 km 2 trải dài gần 15 vĩ độ (từ 8030` 22 22` vĩ độ Bắc) và hơn 7 kinh độ (từ 102 010` -109020` kinh độ Đông), Lãnh thổ Việt Nam
được xác định thành 8 vùng địa lý tự nhiên - kinh tế trên cạn và 1 triệu km2 lãnh hải và thềm
0

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

8


lục địa. Bảy mươi lăm phần trăm (75%) diện tích đất liền của Việt Nam là đồi núi, chạy từ
phía Tây sang Đông, xuống vùng duyên hải hẹp và có hai vùng đồng bằng chính là đồng bằng
sông Cửu Long ở miền Nam và đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Việt Nam có bờ biển dài
với hơn 3.200 km với hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác dọc bờ biển và có một số quần
đảo ngoài khơi là Quần đảo Trường Sa ở phía Nam và quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc biển
Đông. Ngoài ra, ở vùng biển miền Nam còn có hòn đảo lớn gần bờ là đảo Phú Quốc và đảo
Côn Đảo nằm cách bờ biển phía Nam khoảng 100 km (Chính phủ Việt Nam, 1994).
Việt Nam bị ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa với mùa mưa điển hình ở miền
Nam và thời tiết ôn đới hơn ở miền Bắc. Về mặt sinh địa, Việt Nam là giao điểm của vùng

Ấn Độ, Nam Trung Quốc và Malaysia. Do đó, đây là một vùng có tính ĐDSH cao, một số
khu vực ở Việt Nam được công nhận là những điểm ưu tiên bảo tồn toàn cầu với tính đặc
hữu cao.
PHẦN 1
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN Ở VIỆT NAM
1.1. Thực trạng hệ thống KBT tại Việt Nam
1.1.1. Thành lập và phát triển của hệ thống KBT tại Việt Nam.
Nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của hệ thống KBT là khu vực có chức năng bảo
tồn nguồn tài nguyên đa dạng sinh học phong phú của đất nước; đã và đang mang lại những lợi
ích trực tiếp cho con người, đóng góp to lớn cho nền kinh tế trong sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản; là cơ sở đảm bảo an ninh lương thực quốc gia (duy trì nguồn gen tạo giống vật nuôi, cây
trồng, cung cấp nguyên- nhiên vật liệu cho sản xuất và tiêu dùng của xã hội), đồng thời giúp cho
con người hạn chế, khắc phục những hậu quả của thiên tai do biến đổi khí hậu trái đất gây ra
..v.v.. Do đó, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm đến việc thành lập, phát triển và quản lý hệ
thống KBT, tạo ra những điều kiện cho hệ thống KBT phát huy có hiệu quả chức năng bảo tồn và
sử dụng bền vững nguồn tài nguyên đa dạng sinh học, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Trên cơ sở Luật bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, Luật Đa dạng sinh học (2008), và
các văn bản pháp luật liên quan, đã hình thành khái niệm về khu bảo tồn “là một khu vực địa
lý, có các hệ sinh thái đặc trưng tiêu biểu cho vùng sinh thái tự nhiên, được quy hoạch, xác
định ranh giới, có các phân khu chức năng dành cho bảo tồn đa dạng sinh học”; đồng thời, đã
hình thành một hệ thống tiêu chí phân hạng các KBT, đã được phân thành 04 hạng KBT,
gồm: Vườn Quốc gia, Khu Dự trữ thiên nhiên, Khu Bảo tồn loài và sinh cảnh và Khu bảo vệ
cảnh quan. (Phụ lục 01, bảng 01).
Đến nay, ở Việt Nam đã hình thành 03 hệ thống KBT được thành lập ở cấp quốc gia
trước khi ra đời Luật Đa dạng sinh học (2008) là: hệ thống các KBT rừng đặc dụng (theo Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng 2004), hệ thống các KBT biển (theo Nghị định số 27/2005/NĐ-CP
hướng dẫn thực hiện Luật Thủy sản 2003), hệ thống KBT vùng nước nội địa (theo Luật Thủy
sản, 2003).
Hệ thống các khu bảo tồn đất ngập nước (theo Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày

23/09/2003 và Nghị định 65/2010/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2010 ) đến nay chưa được
quy hoạch và thành lập trên thực tế.
Đối với những KBT có ý nghĩa đặc biệt về đa dạng sinh học, về bảo tồn loài, về môi
trường - sinh quyển đã và đang được lựa chọn đề nghị Quốc tế công nhận, ghi danh. Đến nay,
Quốc tế đã ghi nhận các danh hiệu cho một số KBT là: 02 KBT được ghi nhận “danh hiệu là

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

9


Khu di sản thiên nhiên thế giới”; 10 KBT RĐD được ghi nhận “danh hiệu là Khu dự trữ
sinh quyển” (UNESCO công nhận); 05 KBT RĐD được ghi nhân “danh hiệu là Khu
Ramsar”; 04 KBT được ghi nhận “danh hiệu là Khu di sản ASEAN”.
Mỗi hệ thống khu bảo tồn nói trên đều có định nghĩa, cách phân hạng và được quản lý
riêng rẽ.
Vườn quốc gia Cúc Phương được xác định là KBT rừng đầu tiên và được thành lập theo
Quyết định 72/TTg ngày 7 tháng 7 năm 1962 của Thủ tướng Chính phủ, đánh dấu sự ra đời
khu rừng đặc dụng (RĐD) đầu tiên, và sau này được nâng cấp trở thành Khu rừng cấm đầu
tiên của Việt Nam. Ngày 9 tháng 8 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban
hành Chỉ thị số 194/CT về việc thiết lập hệ thống RĐD của Việt Nam – là nền tảng hình thành
hệ thống KBT RĐD hiện nay. Đến nay, hệ thống này đã thành lập 164 khu RĐD với tổng
diện tích 2.198.744 hecta (ha), trong đó có 30 Vườn Quốc gia (1.077.236 ha), 58 khu dự trữ
thiên nhiên (1.060.959 ha), 11 khu bảo tồn loài-sinh cảnh (38.777 ha), 45 khu bảo vệ cảnh
quan (78.129 ha), 20 khu rừng dành cho mục đích khoa học và thí nghiệm (10.653 ha)
(RTNNCKH có phải là KBT không).
Việc thiết lập hệ thống KBTB được tiến hành chậm hơn: Từ Năm 2001, KBTB Hòn
Mun được thiết lập trong khuôn khổ dự án thí điểm toàn cầu về KBTB. Ngày ... tháng 5 năm
2010, Thủ tướng Chính phủ ban hình Quyết định số 742/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch hệ
thống 16 KBTB Việt Nam đến năm 2020. Hệ thống 16 KBTB nói trên chiếm diện tích

khoảng 270.271 hecta, bằng khoảng 0,24% diện tích vùng biển Việt Nam, phân bố đại diện
cho toàn vùng biển. Trong hệ thống KBTB đã có 08 khu bước sang giai đoạn quản lý, còn 08
khu đang dừng ở mức quy hoạch; có 10 khu không liên quan đến hệ thống RĐD, chỉ có 06
khu liên quan đến rừng đặc dụng (Phụ lục 01, bảng 02). Quy hoạch cũng phân chia tạm thời
thành 02 hạng KBTB: Vườn quốc gia biển (6), Khu bảo tồn loài và nơi cư trú (5) và Khu dự
trữ tài nguyên thủy sinh (5). KBTB Hòn Mun được mở rộng và đổi tên thành KBTB vịnh Nha
Trang với phân hạng là Vườn quốc gia biển đầu tiên ở Việt Nam.
Ngày 23 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 109/2003/NĐ-CP về bảo
tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước, kèm theo một danh sách 69 vùng đất ngập
nước có tầm quan trọng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có vùng ĐNN nào được Bộ TN&MT
quy hoạch xác lập thành Khu bảo tồn trên thực tế.
Tại Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 13 tháng 10 năm 2008, Chính phủ đã phê duyệt
Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020 với 45 khu (Phụ lục 03),
gồm các loại hình thuỷ vực nội địa tiêu biểu như sông, sông ngầm trong núi các tơ, hồ chứa,
hồ tự nhiên, đầm phá, đầm lầy, cửa sông và ven biển hiện đang lưu giữ các giá trị về đa dạng
thuỷ sinh học và tài nguyên thuỷ sản quý, hiếm có giá trị khoa học và ý nghĩa kinh tế
1.1.2. Phân bố các khu bảo tồn thiên nhiên theo vùng sinh thái.
Lãnh thổ trên đất liền của Việt Nam có ¾ diện tích là đồi núi, phần còn lại thuộc về diện
tích các đồng bằng lớn (đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long), và vùng đồng bằng sa cát
ven biển. Diện tích biển của Việt Nam rộng gấp 3 lần diện tích đất liền và hơn 3000 đảo lớn
nhỏ phân bố tập trung ở vùng biển ven bờ và hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường
Sa. Trên lãnh thổ đất liền do sự phân hóa tự nhiên từ sự thừa hưởng các yếu tố khí hậu nhiệt
đới gió mùa, đã tạo cho Việt Nam tính đa dạng về cảnh quan, sinh thái và sinh giới, từ đó hình
thành nên các vùng tự nhiên - sinh thái khác nhau trên lãnh thổ đất liền và trên biển. Về mặt
hành chính, Việt Nam có 63 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, trong đó có 28 tỉnh,
thành ven biển với 12 huyện đảo và 242 ngàn dân cư trú trên 66 đảo.
Phần lãnh thổ đất liền nước ta được chia ra làm 08 vùng tự nhiên – sinh thái với những
đặc điểm khác nhau: vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung bộ, Nam
Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf


10


Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Tây Nam bộ. Trên 08 vùng tự nhiên sinh thái đã
được quy hoạch xác định 164 KBT RĐD; 45 khu bảo tồn đất ngập nước nội địa (KBT ĐNN
NĐ). Sự phân bố các KBT RĐD trong 08 vùng tự nhiên-sinh thái có những khác biệt đáng kể
về số lượng và tổng diện tích được khoanh bảo tồn, và về tỷ lệ giữa các vùng sinh thái, nơi có
tỷ lệ thấp nhất chủ yếu là những vùng đất thấp và ven biển (chi tiết xem phụ lục 01, bảng 03).
Đối với các KBT Vùng ĐNN NĐ đang còn có những vướng mắc trong việc xác định ranh
giới chồng lấn với các KBT RĐD, Tuy có khác nhau về số lượng nhưng vì hệ thống này chưa
tính toán được diện tích, nên chưa thể nói đến sự khác nhau về tổng diện tích và quy mô theo
vùng....
Khác với trên đất liền, phần diện tích biển được chia ra 06 vùng đa dạng sinh học biển
phù hợp với mục đích của hoạt động bảo tồn biển gắn với các HST biển, ven biển tiêu biểu.
Đó là: Vùng 1: vịnh Bắc bộ (đến phía nam đảo Cồn Cỏ, tỉnh Quảng Trị), Vùng 2: biển ven bờ
Trung Trung bộ (đến mũi Varella), Vùng 3: biển ven bờ Nam Trung bộ (đến mũi Vũng Tàu ),
Vùng 4: biển ven bờ Đông Nam bộ (đến mũi Cà Mau), Vùng 5: biển ven bờ Tây Nam bộ
(thuộc vịnh Thái Lan), và Vùng 6: biển khơi (Trường Sa - Hoàng Sa).
Các KBTB trong quy hoạch hệ thống quốc gia hiện nay phân bố chủ yếu ở vùng 1 (06
khu), vùng 2 (03 khu), vùng 3 (04 khu), vùng 4 (01 khu), vùng 5 (01 khu) và vùng 6 (01 khu).
Có thể thấy, ở những khu vực biển có tiềm năng bảo tồn cao ở miền Trung và miền Nam lại
có số lượng KBTB ít nhất (1-2 khu). Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang
tiến hành điều tra nguồn lợi thủy sản và đánh giá đa dạng sinh học biển phục vụ phát triển
nghề cá bền vững và quy hoạch mở rộng hệ thống KBTB quốc gia (chi tiết xem phụ lục 01,
bảng 04).
1.2. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý hệ thống KBT.
1.2.1. Về tổ chức Bộ máy quản lý hệ thống KBT.
Theo quy định của Pháp luật hiện hành thì Việt Nam đã thành lập được 03 hệ thống
KBT ở cấp quốc gia: KBT rừng đặc dụng, Khu bảo tồn biển và KBT vùng nước nội địa; Mỗi
hệ thống KBT được hình thành bộ máy tổ chức để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối

với hệ thống KBT. Tuy nhiên, trên thực tế tổ chức bộ máy hệ thống KBT được hình thành
theo các định chế phân cấp quản lý; vì vậy, một hệ thống KBT có thể được tổ chức bộ máy
quản lý ở các cấp và các ngành, khác nhau. Hiện tại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
là cơ quan của Chính phủ được giao nhiệm vụ tổ chức, quản lý Nhà nước các hệ thống KBT
hiện có ở Việt Nam; Bộ đã phân cấp cho Tổng cục Lâm nghiệp là cơ quan giúp Bộ
NN&PTNT quản lý nhà nước đối với hệ thống KBT RĐD. Và phân cấp cho Tổng cục Thủy
sản là cơ quan giúp Bộ NN&PTNT quản lý hệ thống KBT biển và KBT Vùng nước nội địa.
Ngoài chức năng quản lý nhà nước đối với các hệ thống KBT ( giúp nhà nước ban hành cơ
chế chính sách pháp luật, giám sát chỉ đạo công tác chuyên môn về bảo tồn ...); Bộ
NN&PTNT còn được giao quản lý trực tiếp các Vườn quốc gia, các KBT có phạm vi ranh
giới nằm trên địa bàn từ 2 tỉnh trở lên. Đối với các KBT được quy hoạch ranh giới nằm trên
địa bàn của một tỉnh thì đều được phân cấp cho các tỉnh thành phố quản lý; vì vậy, ở cấp tỉnh
thành phố cũng đều tổ chức bộ máy quản lý hệ thống KBT thuộc thẩm quyền quản lý của
mình.
Theo quy định tại Nghị định số 109/2003/NĐ-CP Ngày 23 tháng 9 năm 2003 về bảo tồn
và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước và Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11
tháng 6 năm 2010 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh thì Bộ TN&MT
được Chính phủ giao thành lập khu bảo tồn cấp quốc gia vùng đất ngập nước...Tuy nhiên,
đến nay vẫn chưa có KBT ĐNN được thành lập, do đó chưa có tổ chức bộ máy hệ thống KBT
ĐNN.

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

11


1.2.2. Sự bất cập về tổ chức bộ máy quản lý hệ thống KBT
Do chưa có được bộ máy tổ chức quản lý hệ thống KBT thống nhất nên đã phát sinh
nhiều bất cập, thiếu tính hệ thống trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, chồng chéo
trong hoạt động quản lý nhà nước về đa dạng sinh học đối với hệ thống các khu bảo tồn thiên

nhiên; Hiện nay đang có hai cơ quan quản lý nhà nước là: Tổng cục Lâm nghiệp - Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường
cùng được giao thực hiện một nhiện vụ giống nhau: Cùng thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên và các loài thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm; Cùng thực hiện các hoạt động quản lý trong lĩnh vực quy hoạch, thẩm
định và xác lập hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên và hoạt động quản lý khai thác thực vật
rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
Các thủ tục, trình tự phê duyệt các hoạt động quản lý trong lĩnh vực quy hoạch, thẩm
định và xác lập hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên và hoạt động quản lý khai thác thực vật
rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm … được hướng dẫn và thực hiện theo hai bộ luật
khác nhau nên cũng khác nhau; nhưng do bị trùng lặp về chức năng nhiệm vụ nên gây ra
những khó khăn cho các cấp chỉ đạo điều hành và lực lượng thi hành pháp luật, làm cho
các đơn vị cơ sở lúng túng không biết phải thực hiện theo chỉ đạo của cấp trên như thế nào.
Đồng thời, gây ra lãng phí rất lớn về nguồn lực quốc gia (nhân lực, khoa học kỹ thuật, vật tư tài chính); Đặc biệt là lãng phí về nguồn ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn viện trợ đầu
tư không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, thậm trí cả nguồn vốn (ODA) cũng đang được giải
ngân và đầu tư vào nhiều hoạt động trùng lắp như hoạt động rà soát hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật; hoạt động tăng cường năng lực quản lý cho các khu bảo tồn …v.v..
1.2.3. Thực hiện chức năng nhiệm vụ của hệ thống KBT.)
a) Bảo tồn loài và các giá trị hệ sinh thái tự nhiên tại các KBT
Chức năng nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống KBT là thực hiện việc quản lý, bảo tồn loài
và các giá trị hệ sinh thái tự nhiên tại các KBT; theo thông tin từ Sách Đỏ Việt Nam (năm
2007) về các loài quý, hiếm và nguy cấp cho thấy ở Việt Nam có hơn 882 loài bị đe dọa, gồm
418 loài động vật và 464 loài thực vật. Trong đó, có 669 loài trên cạn (250 loài động vật và
419 loài thực vật), 54 loài động vật nước ngọt, 125 loài sinh vật biển (119 loài động vật, 6 loài
thực vật). Nghị định số 32/2006/CP-NĐ về quản lý các loài động thực vật rừng quý hiếm và
nguy cấp liệt kê 151 loài động vật và 52 loài thực vật. (Có thể tham khảo chi tiết trong Danh
lục đỏ toàn cầu của IUCN (www.redlist.org) ).
HST rừng trên núi đá vôi ở các khu RĐD (Ba Bể, Hữu Liên, Cát Bà, Tây Côn Lĩnh, Du
Già, Pù Luông, Phong Nha - Kẻ Bàng, Cúc Phương, Vân Long); Rừng ngập mặn (RNM) ở
các VQG Xuân Thủy (Nam Định), Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu), Đất Mũi (Cà Mau) và ở khu

RĐD ven biển (Tiền Hải tỉnh Thái Bình, Thạnh Phú tỉnh Bến Tre); Rừng chàm ở Tràm Chim
(Đồng Tháp), VQG U Minh Thượng (Kiên Giang), U Minh Hạ (Cà Mau), và ở những KBT
như Lung Ngọc Hoàng (Cần Thơ); Rừng cận nhiệt đới trên núi có độ cao thấp và trung bình ở
Hoàng Liên Sơn, Chu Jang Sin, Kon Ka Kinh, và VQG Bidoup-Núi Bà và các KBT như Ngọc
Linh, Sông Thanh, Kon Cha Răng; Rừng rụng lá được bảo vệ ở VQG Yok Don và KBT
K’Rong Trai. Là những KBT tiêu biểu cho các HST khác nhau thực hiện chức năng bảo tồn
các loài đặc hữu, quý hiếm đại diện của vùng
Hiện chưa có nghiên cứu hay đánh giá toàn diện nào được thực hiện về các loài quý
hiếm và nguy cấp trên cạn tại các khu bảo tồn của Việt Nam. Tuy nhiên, một số lượng đáng
kể các loài này được tìm thấy tại các khu bảo tồn, như: Voi, Bò rừng, Tê giác một sừng, Bò
tót, Sao La, Voọc quần đùi trắng, Voọc mũi hếch, Voọc đầu vàng, Bách xanh núi đá, Thông
nước, Thông hai lá dẹt, Hoàng đàn, Nghiến, Đinh, Cẩm lai, Sâm Ngọc Linh,... (xem chi tiết ở
Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

12


phụ lục 01, bảng 06). Theo báo cáo của Wege et al (1999) cho rằng: hiện tại ở Việt Nam,
nhiều loài bị đe dọa mức toàn cầu có phân bố cả ở những khu vực rộng lớn bên ngoài hệ
thống các KBT (xem chi tiết ở phụ lục 01, bảng 07).
Phần lớn các KBT đều thiếu thông tin về ĐDSH, cũng như sự phân bố và trạng thái
quần thể của các loài quý hiếm, nguy cấp. Vì vậy, chưa có đủ cơ sở cho việc thực hiện các
hoạt động bảo tồn các loài một cách hợp lý. Mặt khác, ngân sách cho hoạt động này thường
không đủ. Tuy vây, Một số khu RĐD đã thực hiện được những hoạt động quan trọng như tiến
hành nghiên cứu và giám sát các loài quý hiếm, như: giám sát linh trưởng ở VQG Phong NhaKẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình; giám sát vọoc đầu trắng ở VQG Cát Bà, Hải Phòng, vọoc mũi
hếch ở KBT Na Hang, Chạm Chu (tỉnh Tuyên Quang) và Khau Cả (tỉnh Hà Giang); giám sát
Cò thìa ở VQG Xuân thủy, tỉnh Nam Định; Trồng các loài thực vật đang bị tuyệt chủng trong
tự nhiên như Lát hoa (Chukrasia tabularis), Trầm hương (Aquilaria crassna).
Mặc dù đạt được những thành công trong công tác bảo tồn loài nêu trên, nhưng trong
thực tế các loài quý, hiếm và nguy cấp tiếp tục bị suy giảm; Thí dụ, con Tê giác được phát

hiện bị chết ở VQG Cát Tiên năm 2010 có thể là những cá thể cuối cùng ở Việt Nam. Tình
trạng săn bắn, buôn bán trái phép các loài động vật hoang dã, quý, hiếm vẫn chưa được ngăn
chặn hiệu quả, Năm 2010, theo thống kê của Cục Kiểm lâm, Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn), số lượng động vật hoang dã tịch thu được là 34.721 Kg
(12.936 cá thể), trong đó 508 cá thể là các loài quý hiếm. Chỉ riêng trong 8 tháng đầu năm
2011 đã ghi nhận được 660 vụ vi phạm liên quan tới quản lý và bảo vệ các loài hoang dã và
10.130 vụ về buôn bán và vận chuyển trái phép lâm sản..
Do đó, trong những năm qua, đồng thời với việc chú trọng bảo tồn loài tại các KBT,
Việt Nam đã quan tâm đến công tác bảo tồn ngoại vi và nhân nuôi bảo tồn đối với một số loài
động - thực vật quý hiếm và hoang dã được nêu trong Danh lục đỏ và Sách đỏ Việt Nam
(2007), hoạt động bảo tồn ngoại vi được đánh giá là có hiệu quả, thông quan các chương trình
sinh sản bảo tồn, bảo tồn nguồn gen và các hoạt động như trồng rừng, trồng cây giống..., đã
mang lại cơ hội cho phát triển kinh tế - xã hội ở một số khu vực, góp phần vào công tác bảo
tồn các nguồn gen và giảm áp lực khai thác từ thiên nhiên thuộc các KBT (xem phụ lục 01,
bảng 08), Tuy vậy, mặt hạn chế là nhiều động vật bị giữ trong thời gian dài và ít được tiếp xúc
với môi trường tự nhiên rộng lớn hơn để kiếm ăn và hòa nhập nên chưa có những thành công
trong việc tái thả các loài nguy cấp, quý, hiếm..
- Trong 05 KBTB đang triển khai các hoạt động quản lý, bảo tồn chưa có nhiều các
hoạt động ưu tiên vào việc quản lý bảo tồn các loài quý hiếm và nguy cấp. Rùa biển là nhóm
loài dành được quan tâm nhất, vì trong số 7 loài rùa biển có vai trò chỉ thị cho môi trường
biển và ven biển trên thế giới, thì ở Việt Nam đã có 05 loài và đều nằm trong danh sách các
loài có nguy cơ tuyệt chủng. Một số hoạt động bảo tồn loài tại các KBT Biển được đánh giá là
có kết quả tốt như: Hành động quốc gia bảo tồn loài rùa biển tại: các KBT Côn Đảo, Núi
Chúa, vịnh Nha Trang, Bái Tử Long, Phú Quốc, Cù Lao Chàm và Cồn Cỏ; phục hồi một số
loài động - thực vật biển quý hiếm và nguy cấp như Bào ngư (Haliotis sp.), Tu hài (Lutarria
rhynchaena),; Các chương trình nuôi trồng thủy sản; Bảo tồn và giám sát đàn cá Heo tại Bái
Tử Long; bảo vệ và phục hồi loài Bò biển ở Phú Quốc. ..; Công tác bảo tồn loài đối với các
KBT Biển không chỉ tăng số lượng cá thể và quần thể mà còn hỗ trợ phát triển nuôi trồng
thủy sản, đem lại những lợi ích kinh tế quan trọng đối với cộng đồng địa phương và cho nền
kinh tế quốc dân.

- Nghị định số 57/2008/NĐ-CP đã xác định các HST điển hình của vùng biển cần được
bảo tồn là rạn san hô (RSH), thảm cỏ biển, rừng ngập mặn (RNM), HST đầm phá và cửa
sông. Trên thực tế, hệ thống 16 KBTB trong quy hoạch được duyệt, nếu quản lý tốt sẽ bảo tồn
được khoảng 70.000 ha HST rạn san hô, 20.000 ha HST thảm cỏ biển và một phần HST RNM

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

13


trong các khu RĐD nói trên, cùng với phần lớn các bãi giống, bãi đẻ và nơi cư trú (habitat)
của các loài thủy sản kinh tế.
Việc quản lý các HST biển được tiến hành thông qua nhiều hình thức khác nhau, từ
những hoạt động trực tiếp giảm các mối đe dọa đến các hoạt động có tính lâu dài, gián tiếp
góp phần bảo tồn và phục hồi các HST, như: thu nhặt sao biển gai (loài thiên địch nguy hiểm
nhất của san hô); lắp đặt phao neo quanh đảo để các tàu du lịch sử dụng, tránh tình trạng thả
neo ảnh hưởng trực tiếp đến RSH; xử lý nghiêm các vụ khai thác san hô, thủy sản bằng thuốc
nổ; trồng RNM và phục hồi thử nghiệm RSH và thảm cỏ biển; phân vùng quản lý trong KBT;
phát triển và áp dụng các mô hình sinh kế cho người dân sống trong và lân cận KBTB, tạo
nguồn thu nhập thay thế bền vững; quan trắc định kỳ đa dạng sinh học với sự tham gia của
cộng đồng; tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho các bên liên quan (stakeholder).
Các nỗ lực trên đã cho các kết quả khả quan, nhất là tại KBTB vịnh Nha Trang, nơi đã
trải qua hơn 10 năm hoạt động tích cực. Tại đây độ phủ của RSH đã tăng lên kéo theo các loài
thủy sản cũng sinh sôi nảy nở nhiều hơn; đời sống người dân ở trong khu vực cũng được cải
thiện, nhận thức về môi trường biển được nâng cao; RNM không ngừng được trồng mới và
mở rộng; nhiều thảm cỏ biển đã có dấu hiệu phục hồi.
Đến nay, chưa có được các nghiên cứu toàn diện sự phân bố của các loài quý hiếm và
nguy cấp tại các KBTB Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống 16 KBTB quy hoạch hiện tại để quản
lý bảo vệ gần 100 loài đặc hữu và nguy cấp, quý, hiếm đến năm 2020; nhưng trên thực tế số
lượng loài được bảo vệ còn quá ít, chưa đáp ứng nhu cầu. Công tác quản lý sinh vật biển

ngọai lai xâm hại đã có sự quan tâm bước đầu của quốc tế, nhưng đến nay danh mục và đường
du nhập các loài nhóm này vẫn chưa được xác định rõ. Đặc biệt, chưa có đánh giá chính xác
tác hại và phạm vi tác động của nó để có căn cứ ban hành chính sách và các giải pháp kỹ thuật
quản lý hiệu quả. Việt Nam, gần như chưa có chuyên gia về lĩnh vực sinh vật biển ngoại lai
xâm hại, trong khi việc phối hợp hoạt động giữa các bộ, ngành còn gặp nhiều khó khăn đã hạn
chế cơ bản đến kết quả bảo tồn và quản lý các loài quý hiếm, nguy cấp và loài ngoại lai xâm
hại.
- Đối với các KBT VNNĐ việc quản lý, bảo tồn các loài thủy sinh nước ngọt quý hiếm
và nguy cấp có giá trị kinh tế cao đã đạt được thành công bước đầu:
- Khoảng 50 giống và 60 loài thủy sinh đã được bảo vệ; gần đây nghiên cứu về chăn
nuôi nhân tạo đã được thực hiện trên các loài quý hiếm và nguy cấp như loài cá Anh Vũ
(Semilabeo obscurus), Cá Hô (Catlocarpio siamensis), Cá Lăng chấm (Hemibagrus guttatus),
Cá mòi cờ (Clupanodon thrissa); Chương trình phục hồi Loài cá Sấu xiêm (Crocodylus
siamensis) đưa tái thả về tự nhiên tại VQG Cát Tiên. Hiện tại, có 5 trại nuôi cá Sấu xiêm đã
đăng ký với Cơ quan CITES và hàng năm có trên 50.000 cá thể cá sấu ở các trại này.
Mặc dù đã cố gắng, nhưng công tác quản lý các loài thủy sinh nước ngọt quý hiếm và
nguy cấp có giá trị kinh tế cao ở nước ta vẫn còn không ít hạn chế:
- Việc thành lập các KBT VNNĐ có xu hướng ưu tiên các loài trên cạn hơn các loài
thủy sinh. Tuy nhiên trong số 9 loài được coi là tuyệt chủng ngoài tự nhiên (Sách đỏ Việt
Nam năm 2007) thì 4 loài là thủy sinh nước ngọt, gồm: cá Chép gốc (Procypris merus), cá
Chình nhật (Anguilla japonica), cá Lợ thân thấp (Cyprinus multitaeniata), và cầy Rái cá
(Cynogale lowei).
Hơn 4.000 loài thủy sinh nước ngọt nội địa được ghi nhận trong danh lục các loài thủy
sinh nước ngọt nội địa trên cả nước, trong đó có 54 loài được công nhận là quý hiếm và được
đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1996, 1998, 2000, 2007). Đến nay chưa có nghiên cứu đầy đủ về
sự xuất hiện của những loài này ở các KBT VNNĐ ở Việt Nam, nhưng yêu cầu bảo vệ các

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

14



loài nước ngọt được xác định trong 02 Nghị định mới ban hành gần đây về các loài có tầm
quan trọng đối với bảo tồn.
Ngày 17/07/2008, Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký Quyết
định số 82/2008/QĐ-BNN ban hành Danh lục các loài thủy sinh quý hiếm và nguy cấp cần
được bảo vệ, phục hồi và phát triển. Danh lục này gồm 71 loài thủy sinh nước ngọt nội địa và
nhìn chung các loài quý hiếm đưa ra trong Quyết định trên đều nằm trong các danh lục các
loài được liệt kê trong Sách Đỏ Việt Nam xuất bản các năm 1996, 1998, 2000 và 2007. Tại
Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 13/10/2008, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch hệ thống
các khu bảo tồn vùng nước nội địa tới năm 2020 với danh sách gồm 40 loài thủy sinh được
bảo vệ tại các KBT VNNĐ như vậy.
Các khu bảo tồn chiếm 7% diện tích đất liền và 0,24% diện tích biển quốc gia; trên quy
mô diện tích được xác định, các khu bảo tồn có chức năng bảo vệ các giá trị tự nhiên, các
HST quan trọng cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, bảo tồn quần thể các loài quý hiếm, nguy
cấp và các nguồn gen, phần lớn bãi giống, bãi đẻ của các loài có giá trị kinh tế. Các khu bảo
tồn là những vùng an toàn cho rất nhiều loài quan trọng sinh sống, kiếm ăn và phục hồi, đảm
bảo quần thể chính để tạo ra hiệu ứng “tràn” có thể sinh sôi ở vùng đất, vùng nước và biển
rộng lớn hơn, đem lại các lợi ích kinh tế quan trọng thông qua hoạt động khai thác bền vững.
Đồng thời các khu bảo tồn hỗ trợ tính đa dạng về nguồn gen quan trọng của các loài động
thực vật có giá trị kinh tế, giúp cho việc nuôi trồng và phục hồi các nguồn dược liệu quan
trọng; tạo các điều kiện và môi trường “phòng thí nghiệm tự nhiên” cho các chuyên gia trong
và ngoài nước để thực hiện việc nghiên cứu và học hỏi cũng như đem lại các “mẫu sinh thái”
quan trọng hỗ trợ việc giám sát những thay đổi trong dài hạn của các HST do ảnh hưởng của
con người.
b) Bảo tồn các giá trị văn hóa và tinh thần
Nền văn hóa đa dạng của Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên. Nhiều giá trị văn hóa và tinh thần được lưu giữ và duy trì thông qua
gìn giữ được các HST ưa thích, những thắng cảnh nổi tiếng và những khu tâm linh hay các
BKT có tầm quan trọng về lịch sử trong trong quá trình dựng nước và giữ nước. Một số khu

rừng ở Việt Nam vẫn lưu giữ được những nét văn hóa địa phương độc đáo với truyền thống
riêng, ngôn ngữ bản địa, kiến thức về bảo tồn dân gian đối với các hệ sinh thái tự nhiên và
quản lý nguồn lực bền vững.
Do đó, các KBT là các điểm đến để thư giản, nghỉ ngơi, giải trí của du khách trong và
ngoài nước, để trải nghiệm, hưởng ngoạn, nghiên cứu và học hỏi về những HST và phong
cảnh độc đáo, kỳ thú. Đồng thời du khách cũng có cơ hội thăm quan, tham gia các hoạt động
giải trí ngoài trời dưới nhiều hình thức, tham gia các khóa đào tạo chính thức và không chính
thức, và thăm quan dưới hình thức nghiên cứu chuyên sâu về tự nhiên và văn hóa của những
vùng cụ thể.
c) Bảo tồn các giá trị kinh tế, cung cấp các dịch vụ HST
Các KBT đang cung cấp các dịch vụ HST, hỗ trợ sinh kế cho hàng chục triệu người dân
sinh sống phụ thuộc chính vào khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên từ KBT. Do đó, các
KBT ngày càng có đóng góp rất lớn vào nền kinh tế quốc dân. Theo dự tính của ADB (1999),
một số HST vùng bờ biển (RNM, RSH, ĐNN và thảm cỏ biển) ở Việt Nam cho tổng lợi
nhuận ròng khoảng 60 triệu USD/ha/năm; mang lại cơ hội cho cộng đồng địa phương tham
gia vào các hoạt động quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, giúp cho việc tuyên
truyền, giáo dục, tăng hiểu biết của cộng đồng dân cư bản địa và cho mọi thành viên trong xã
hội về các giá trị của môi trường tự nhiên, về đa dạng sinh học và tăng cường các mối liên kết
giữa sinh kế người dân địa phương với công tác bảo tồn.

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

15


Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú từ các KBT cung cấp các dịch vụ môi trường
rừng, dịch vụ HST quan trọng, được xác định tại Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng
9 năm 2010 của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là:
- Bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối;
- Điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội;

- Hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính bằng
các biện pháp ngăn chặn suy thoái rừng, giảm diện tích rừng và phát triển rừng bền vững;
- Bảo vệ cảnh quan tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học của các hệ sinh thái rừng phục
vụ cho dịch vụ du lịch;
- Dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước từ
rừng cho nuôi trồng thuỷ sản.
Các loại dịch vụ nêu trên ngoài việc đáp ứng các các nhu cầu sản xuất và tiêu dung cho
xã hội, còn là yếu tố chủ yếu giúp cho con người hạn chế, khắc phục những hậu quả của thiên tai
(lũ lụt, lũ quét, xói lở đất và bở biển, sa mạc hóa, nước biển dâng, .....) do biến đổi khí hậu trái
đất gây ra 1.3. Thực trạng về thể chế chính sách đối với hệ thống KBT
1.3.1. Khung thể chế và pháp lý hiện hành
a) Đến nay đã có 04 luật được ban hành liên quan tới các khu bảo tồn, nhưng các khái
niệm và cơ chế quản lý khu bảo tồn thiên nhiên trong các luật này còn có điểm chưa thống
nhất. Do đó đã gây ra không ít khó khăn trong việc quản lý và phát triển hệ thống các khu bảo
tồn hiện tại.
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004) quy định: Nhà nước quản lý các khu RĐD là loại
rừng được sử dụng cho những mục đích đặc biệt, chủ yếu là bảo tồn đa dạng sinh học, cảnh
quan thiên nhiên và nghiên cứu khoa học (Điều 4). Quy định Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước về rừng trên phạm vi cả nước (Điều
8).
Luật Thủy sản (2003) quy định quản lý nhà nước về quy hoạch và quản lý các KBT
VNNĐ và KBTB (Điều 9). Luật này quy định Bộ Thủy sản nay là Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn có chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thủy sản trên phạm vi cả nước
(Điều 52).
Luật Đất đai (2003) quy định quản lý nhà nước về lĩnh vực đất đai được phân loại đất
theo mục đích sử dụng, trong đó “Đất rừng đặc dụng” thuộc Nhóm đất nông nghiệp; còn “Đất
sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng” thuộc Nhóm đất phi nông nghiệp
(Điều 13).
Luật Đa dạng sinh học (2008) quy định quản lý nhà nước về bảo tồn và phát triển bền
vững đa dạng sinh học. Trong đó quy định việc thành lập, quản lý khu bảo tồn thiên nhiên

(Mục 1, Chương III). Luật này quy định Bộ Tài nguyên và Môi trường có chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước về đa dạng sinh học trên phạm vi cả nước (Điều 6). Bộ Tài nguyên và
Môi trường còn được giao quản lý nhà nước về đất ngập nước.
Mục c), Khoản 1, Điều 8, Nghị định số 65/NĐ-CP của Chính phú quy định Bộ Tài
nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan lập dự án
thành lập khu bảo tồn cấp quốc gia vùng đất ngập nước, núi đá vôi, đất chưa sử dụng và các

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

16


vùng sinh thái hỗn hợp có diện tích nằm trên địa bàn từ 2 tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương trở lên, không thuộc đối tượng khu bảo tồn cấp quốc gia thuộc khu rừng đặc dụng, vùng
biển có diện tích nằm trên địa bàn từ 2 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên thuộc Bộ
NN&PTNT quản lý. Nội dung quy định này của Nghị định 65 không phù hợp với thực tế,
Hiện tại trên đất nước Việt Nam không còn vùng đất ngập nước, vùng núi đá vôi, …là đất
chưa quy hoạch sử dụng; đối với những vùng đất ngập nước, núi đã vôi có các hệ sinh thái tự
nhiên, đa dạng sinh học tiêu biểu đã được Bộ NN và PTNT quy hoạch đưa vào hệ thống các
KBT để quản lý theo 8 vùng địa lý tự nhiên - sinh thái . Do đó, Luật Đa dạng sinh học, Nghị
định 65 /2010/NĐ-CP có hiệu lực thi hành đã 3 đến 5 năm nhưng hệ thống KBT đất ngập
nước vẫn không thể thành lập được trên thực tế.
b) Các văn bản luật pháp nêu trên chưa quy định rõ chức năng nhiệm vụ quản lý
Nhà nước tổng hợp về bảo tồn đa dạng sinh học với chức năng nhiệm vụ quản lý Nhà
nước chuyên ngành về bảo tồn đa dạng sinh học; vì vậy, đã gây ra sự chồng chéo, bất cập
và lãng phí nguồn lực quốc gia trong tổ chức thực hiện giữa các cấp, các ngành: Theo Luật Đa
dạng sinh học và các Nghị định số 109/2003/NĐ-CP Ngày 23 tháng 9 năm 2003 về bảo tồn và
phát triển bền vững các vùng đất ngập nước, Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11 tháng 6
năm 2010 về hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học thì Bộ Tài nguyên và
Môi trường có chức năng nhiệm vụ:

Lập quy hoạch tổng thể đa dạng sinh học, Đây là nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm của
chức năng quản lý Nhà nước tổng hợp về bảo tồn đa dạng sinh học, làm cơ sở cho các cấp,
các ngành triển khai thực hiện chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành về bảo tồn đa dạng
sinh học. Tuy nhiên, đến nay Chương trình này chưa thể triển khai vì chưa có nguồn lực
(Nhân lưc, Vật tư, khoa học kỹ thuật, tài chính…). Trong khi đó Bộ NN&PTNT và các Bộ
ngành liên quan vẫn phải triển khai thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo tồn đa dạng
sinh học theo quy định của pháp luật cho chuyên ngành của mình, đây là cách làm ngược, bất
cập, tồn tại nhiều năm nay chưa được khắc phục.
Về nhiệm vụ Tổng hợp và quản lý cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học quốc gia; Để
thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xác định rõ vai trò của cơ quan đầu mối quản lý tổng hợp,
và cơ chế phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan để tổng hợp các dữ liệu quản lý chuyên
ngành về bảo tồn đa dạng sinh học (của các Bộ, ngành, các cấp); sắp xếp lại theo trình tự, hệ
thống, khoa học …., phục vụ cho công tác theo dõi, giám sát quản lý tổng hợp và quản lý
chuyên ngành; nhưng hiện tại chưa rõ cách tổ chức triển khai, phân công trách nhiệm giữa các
Bô, ngành và cơ chế phối hợp thực hiện đến đâu, các bước kế hoạch triển khai như thế nào, vì
vậy tiến độ công việc cũng không khả quan.
Nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hệ thống khu bảo tồn đất ngập nước… Cho
đến nay trên địa bàn cả nước, các khu vực có hệ sinh thái đất ngập nước có tính đa dạng sinh
học cao đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy hoạch, thành lập các KBT và
quản lý trong hệ thống các KBT rừng đặc dụng; vì vậy, việc khảo sát quy hoạch hệ thống
KBT đất ngập nước ngoài hệ thống các KBT do Bộ Nông nghiệp và PTNT đang quản lý là
khó có thể thực hiện được trên thực tế; cho nên đến nay chưa thể triển khai thực hiện quy
hoạch xây dưng KBT đất ngập nước .
Triển khai quy hoạch làm thủ tục trình Quốc tế công nhận danh hiệu cho các
KBT là khu Ramsa.
Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, các KBT được quốc tế công nhận
danh hiệu là khu Ramsar đều đã được Nhà nước giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đầu tư điều tra, quy hoạch đầy đủ chi tiết từ khi xây dựng dự án thành lập KBT để có căn
cứ quản lý. Như vậy, việc quy hoạch làm thủ tục trình Quốc tế công nhận danh hiệu Ramsar
cho các KBT này, nếu theo đúng chức năng thì là trách nhiệm của cơ quan chủ quản KBT tức

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

17


là Bộ NN & PTNT; Nhưng do sự phân cấp không rõ ràng trong các văn bản pháp luật nên Bộ
TN&MT đang thực hiện chức năng này, làm phát sinh sự chồng lấn về công việc; làm thay,
làm lại về quy hoạch đối với KBT đã được Bộ NN&PTNT làm rồi, gây ra lãng phí thời gian
và tiền của. Ví dụ: (VQG Tràm Chim, VQG Xuân Thủy, VQG Mũi Cà Mau thuộc hệ thống
KBT RĐD do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý, Nhưng Bộ TN&MT lại làm
thủ tục trình quốc tế công nhân danh hiệu là các Khu Ramsar).
Nghị định số 27/2005/NĐ-CP đã quy định về phân cấp tổ chức và quản lý KBTB, theo
đó: “Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch hệ thống KBTB; ra quyết định thành lập các
VQG, các KBT có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế hoặc liên quan đến nhiều ngành, nằm trên
địa bàn nhiều tỉnh. Bộ Thủy sản (nay là Bộ NN&PTNT) xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt quy hoạch các KBTB; tổ chức quản lý các KBTB do Thủ tướng Chính phủ thành
lập. UBND tỉnh quyết định thành lập và tổ chức quản lý các khu bảo tồn biển thuộc phạm vi
tỉnh.
Trên cơ sở pháp lý nêu trên, UBND các tỉnh Khánh Hòa, Quảng Nam, Quảng Trị, Kiên
Giang và Bình Thuận đã ra quyết định thành lập và tổ chức quản lý các KBTB Vịnh Nha
Trang, Cù Lao Chàm, Cồn Cỏ, Phú Quốc và Hòn Cau thuộc phạm vi tỉnh. Ở cấp quốc gia,
theo đúng thẩm quyền, Chính phủ đã ban hành Quy chế quản lý các KBTB có tầm quan trọng
quốc gia, quốc tế (Nghị định số 57/2008/NĐ-CP) và Bộ NN&PTNT đã trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Quy hoạch hệ thống các KBTB biển Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số
742/QĐ-TTg ngày 26/05/2010). Mục tiêu đến năm 2020 là quy hoạch phát triển và mở rộng
hệ thống KBTB hiện tại; nỗ lực để tới năm 2020 sẽ có hơn 20 KBTB được thành lập và đưa
vào hoạt động; từng bước đa dạng hóa các loại hình đầu tư để khuyến khích và thu hút các
nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế, đồng thời đẩy
mạnh sự tham gia quản lý của các cộng đồng tại những vùng ven bờ và quần đảo nhằm quản
lý hiệu quả và bền vững các KBTB.

Từ năm 2009 đến năm 2011, để thực hiện Quyết định số 1479, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn đã xây dựng những kế hoạch chi tiết đối với 5 KBT VNNĐ nhưng chưa kế
hoạch nào được đưa vào thực hiện. Như vậy, đã thấy có sự sai khác khi chuyển trọng tâm bảo
vệ từ các HST đặc thù (thuộc các vùng ĐNN) có tầm quan trọng quốc gia, quốc tế, có giá trị
ĐDSH cao sang trọng tâm bảo vệ, phục hồi, tái tạo nguồn lợi thủy sản quý hiếm, có giá trị
kinh tế và khoa học cao (tại các vùng nước nội địa). Mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học bị mờ
nhạt, khó đáp ứng các tiêu chí của một KBT nếu sau này đưa vào một hệ thống KBT thống
nhất của quốc gia. Đặc biệt, vẫn còn bất cập trong nhận thức về bản chất của KBT VNNĐ và
KBT ĐNN, từ đó khiến cho công tác quản lý hai hệ thống KBT này gặp khó khăn, thiếu thống
nhất giữa hai Bộ NN&PTNT và TNMT, trong khi áp lực đối với việc xâm hại và làm mất các
vùng ĐNN quan trọng của quốc gia ngày càng nghiêm trọng.
Những bất cập nêu trên cần sớm được điều chỉnh cả về nội dung quản lý, cả về thống
nhất quản lý nhà nước đối với các hệ thống KBTTN hiện tại.
1.3.2. Thực hiện các cam kết quốc tế liên quan
Việt Nam đã tích cực tham gia và cam kết thực hiện các công ước và hiệp ước quốc tế
liên quan tới bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, mặc dù vậy việc phân công thực hiện
cũng như năng lực thực hiện các cam kết quốc tế này còn nhiều hạn chế, thiếu phối hợp hiệu
quả.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được giao chủ trì thực hiện Công ước quốc tế
về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) (1979) được Chính phủ Việt
Nam phê duyệt ngày 20/1/1994, Công ước Chống sa mạc hóa của Liên hiệp quốc (1992), các

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

18


Cam kết Thiên niên kỷ về tham gia mạng lưới KBTB toàn cầu được quản lý hiệu quả, về nghề
cá có trách nhiệm,...
Bộ Tài nguyên và Môi trường được giao chủ trì thực hiện 04 cam kết quốc tế là: Công

ước đa dạng sinh học (1992), được Chính phủ Việt Nam thông qua vào ngày 16/01/1994;
Chương trình làm việc về các khu bảo tồn theo Công ước về đa dạng sinh học và được các
bên áp dụng vào năm 2004; Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế
(Công ước Ramsar, 1971) được Chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 20/1/1989; Dự thảo
Cartagena về An toàn sinh học (2003), Chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 21/1/2004.
Ủy ban UNESCO Việt Nam chủ trì thực hiện 01 cam kết là Công ước về Di sản thế giới
(1972) được Chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 19/10/1987.
1.3.3. Phân khu chức năng và xác định vùng đệm của KBT
a) Để bảo đảm cho công tác quản lý KBT có hiệu quả, phù hợp với các hệ sinh thái tự
nhiên kinh tế xã hội trên địa bàn, các KBT phải thực hiện điều tra quy hoạch, xác định thành
các phân khu chức năng; mỗi hệ thống KBT áp dụng một sơ đồ phân khu khác nhau về số
lượng và tên gọi.
Đối với khu RĐD thường phân ra 3 phân khu chức năng: phân khu hành chính, dịch
vụ; phân khu phục hồi sinh thái; phân khu bảo vệ nghiêm ngặt. Việc phân khu chức năng
trong KBTB dựa trên các hướng dẫn tại Nghị định số 57/2008/NĐ-CP và được chia ra 04
phân khu: Khu bảo vệ nghiêm ngặt, Khu phục hồi sinh thái, Khu phát triển và Vành đai bảo
vệ. Năm 2011, trong một số KBT VNNĐ cấp quốc gia (Khu vực ngã ba sông Hồng-Lô-Thao;
Cửa sông Hồng; hồ Lắc; Sông Hậu; Vùng ven biển Cà Mau; Cửa sông Tiên Yên) đã chia ra
03 phân khu chức năng chính: Vùng bảo vệ nghiêm ngặt (vùng lõi), Vùng phục hồi sinh thái
và Vùng phát triển (hành lang sinh thái).
Các phân khu chức năng đã được xác định trên thực tế và đưa vào quản lý, bảo vệ. Tuy
nhiên, các hoạt động quản lý hiện vẫn tập trung nhiều vào phân khu hành chính, dịch vụ hoặc
phân khu phát triển và chủ yếu là xây dựng các công trình phục vụ quản lý và các hoạt động
dịch vụ khác. Đối với phân khu bảo vệ nghiêm ngặt chủ yếu là hoạt động bảo vệ. Việc phân
chia các phân khu chưa có các tiêu chí cụ thể và còn sai khác về tiêu chí phân khu giữa các hệ
thống KBT. Các phân khu chức năng của KBTB chỉ được xác định cho phần thủy sinh, không
bao gồm các phần trên cạn, nên không có bộ phận dịch vụ-hành chính như các khu RĐD.
Việc dùng phao đóng cột mốc đối với vùng lõi KBTB là cahcs phổ biến trên thế giới, nhưng ở
ta chưa phát huy hiệu quả do ngư dân ngoài khu vực chưa nhận thức đầy đủ về các quy định
đối với việc thả neo và đánh cá ở mỗi phân khu chức năng. Những nguyên nhân trên đã phần

nào ảnh hưởng đến công tác quản lý chung của không ít KBTTN (xem chi tiết ở phụ lục 01,
Bảng 09).
b) Xác định vùng đệm của KBT
Các KBT RĐD khi đưa vào hoạt động đều đã xác định vùng đệm ngoài bao quanh, chủ
yếu là các xã có dân cư sinh sống tiếp giáp với KBT, và xác định các Vùng đệm trong có các
điểm cư dân bản địa sinh sống lâu đời trong vùng lõi. Đối với KBTB, vùng đệm được xác
định bao gồm các khu dân cư bao quanh hoặc trên đảo trong KBT, thậm chí chỉ là vùng biển
bao quanh. Tuy nhiên, mối liên kết giữa vùng đệm và vùng lõi của một KBT thường không
chặt chẽ. Theo phân cấp hiện tại thì vùng đệm của một KBT thường do chính quyền địa
phương quản lý; Ban quản lý KBT chỉ có một số hoạt động như tuyên truyền, vận động người
dân trong vùng đệm tham gia thực hiện công tác bảo tồn ĐDSH. Người dân cũng chưa được
tham vấn đầy đủ về các hoạt động trong KBT. Mặt khác, ranh giới của nhiều KBT chưa được
xác định, cắm mốc rõ ràng trên thực địa, do vậy, sự phối hợp cùng bảo vệ tài nguyên ĐDSH
tại KBT thường hạn chế. Đối với các VQG do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thành lập thì
Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

19


có quy định xây dựng dự án đầu tư phát triển vùng đệm, còn thì phần lớn vùng đệm của
KBTB chưa được pháp luật chính thức ban hành, chỉ dưới dạng vành đai bảo vệ. Trên thực tế,
vùng đệm trong của các KBT là những tụ điểm dân cư và nơi canh tác của họ bên trong KBT
(trường hợp RĐD) bắt đầu được công nhận từ khi Nghị định số 117 /2010/NĐ-CP Ngày 24
tháng 12 năm 2010 của Chính phủ , và các đảo có hoạt động của con người nằm trong KBT
(trường hợp KBTB). Các đặc trưng nói trên cần tiếp tục làm rõ về mặt pháp lý (dưới dạng
nghị định / thông tư ) để xác định và quản lý vùng đệm hiệu quả hơn trong thời gian tới.
1.3.4. Quản lý dịch vụ hệ sinh thái (dịch vụ môi trường rừng) tại các khu bảo tồn
a)
Dịch vụ hệ sinh thái thuộc các KBT là những hoạt động cung ứng các giá trị sử
dụng của hệ sinh thái thuộc KBT (nói chung) cho người hưởng lợi, trong đó có dịch vụ du

lịch; Đối với KBT RĐD gọi là dịch vụ môi trường rừng (PFES) được Chính phủ ban hành tại
Nghị định 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2010 về chinh sách chi trả dịch vụ môi
trường rừng, chính sách này được ghi nhận như là cột mốc trong quá trình đổi mới, nhằm xã
hội hóa việc bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam, tạo ra nguồn
lực tài chính bền vững từ sự đóng góp của mọi thành viên trong xã hội để đầu tư bảo vệ, phát
triển rừng, bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, sự đa dạng sinh học tại các KBT, tạo việc làm cải
thiện đời sống cho người dân sống trên địa bàn rừng núi; đồng thời Chính sách này góp phần
giải quyết các vấn đề quan trọng về Kinh tế, xã hội và môi trường ở Việt Nam.
Hiện nay, đã có hơn 20 tỉnh thành lập Quỹ bảo vệ và Phát triển rừng để quản lý, sử
dụng nguồn kinh phí trên. Một số tỉnh thực hiện tốt thu phí DVMT và chi trả đến người lao
động bảo vệ rừng. Trong năm 2012, cả nước đã thu được 1.200 tỷ đồng từ nguồn chi trả dịch
vụ môi trường rừng, số tiền này đã được chi trả cho người dân bảo vệ rừng ở các địa phương
như: tỉnh Lâm Đồng là 95,4 tỷ đồng, Lai Châu khoảng 140 tỷ đồng, Nghệ An khoảng 30 tỷ
đồng....
Hệ thống KBT RĐD cũng đã chú ý đẩy mạnh các hoạt động triển khai thực hiện chính
sách (PFES), phát triển dịch vụ du lịch sinh thái; những khu bảo tồn thiên nhiên có các điều
kiện thuận lợi về giao thông, về cơ sở hạ tầng .... như: VQG Phong Nha-Kẻ Bàng đạt mức
doanh thu trung bình khoảng 17-tỷ đồng năm 2012, VQG Cúc Phương 3 tỷ đồng/ năm, VQG
Ba Vì đạt 3 tỷ đồng/năm, các VQG như: Tam Đảo, Ba Bể, Bạch Mã, Cát Tiên....khi triển
khai chính sách chi trả DVMT Rừng (PFES) đã thu được kết quả rất đáng kích lệ, tạo được
nguồn thu tài chính bền vững cho các hoạt động bảo tồn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đã có những cố gắng rất lớn để tổ chức triển khai thực hiện Đề án nhằm thực hiện chính
sách chi trả DVMTR; đã xây dựng các thông tư hướng dẫn thi hành chính sách, phối hợp với
tổ chức GIZ viết sổ tay hỏi đáp về chính sách chi trả DVMTR để hướng dẫn thực hiện chính
sách; tổ chức các kênh thông tin, tuyên truyền (Báo, Truyền hình ...) để tuyên truyền phố biến
rộng rãi chính sách .... Từ Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, sẽ tạo ra những tiền đề
để nghiên cứu áp dụng chính sách chi trả dịch vụ các hệ sinh thái khác như: hệ sinh thái đất
ngập nước, Hệ sinh thái Biển, Hệ sinh thái vùng nước nội địa trong thời gian tới.
b)
Do Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng là một chính sách mới, những

thành công bước đầu là rất khích lệ, nhưng những tồn tại khó khăn vẫn còn nhiều: Các KBT
RĐD khi triển khai chính sách CTDVMTR mới chỉ tập trung vào dịch vụ du lịch sinh thái,
dịch vụ điều tiết và duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội, còn các dịch vụ
khác chưa được xem xét triển khai đầy đủ; cho đến nay, việc tổ chức triển khai Đề án để thực
hiện Chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng vẫn còn chậm; Việc giao khoán bảo vệ rừng
ổn định lâu dài cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn (để xác định đối
tượng cung ứng DVMTR, làm căn cứ để chi trả tiền DVMTR) vẫn còn vướng mắc chậm trễ
nên có nhiều địa phương tiền chi trả DVMTR đã đưa về Quỹ bảo vệ phát triển rừng cấp tỉnh,
nhưng không thể chi trả đến hộ gia đình và người lao động nhận khoán bảo vệ rừng ổn định
lâu dài được kịp thời; Một số các dịch vụ môi trường rừng quy định tại Nghị định số 99/2010-

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

20


NĐ-CP như: dịch vụ hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng, giảm phát thải khí gây hiệu ứng
nhà kính bằng các biện pháp ngăn chặn suy thoái rừng, giảm diện tích rừng và phát triển rừng
bền vững; dịch vụ cung ứng bãi đẻ, nguồn thức ăn và con giống tự nhiên, sử dụng nguồn nước
từ rừng cho nuôi trồng thuỷ sản.. chưa được tổ chức nghiên cứu triển khai kịp thời, đã làm
giảm đi những nguồn thu rất lớn từ các nguồn dịch vụ này...
Vì vậy, thu nhập từ du lịch sinh thái gắn với KBT vẫn còn thấp trong tổng số ngân
sách đầu tư cho các khu RĐD. Ví dụ, thu nhập từ hoạt động dịch vụ du lịch sinh thái chỉ
chiếm khoảng 1,66% tại VQG Tam Đảo, 1,38% tại VQG Cúc Phương và 0,62% tại VQG Yok
Đôn. Một số VQG coi hoạt động du lịch sinh thái chỉ là hòa vốn, những tính toán trên đây có
thể không được quan tâm trong dòng lợi ích đem về từ cộng đồng và kinh doanh, chưa xác
định được giá trị vô hình từ việc thông qua hoạt động dịch vụ du lịch đã giáo dục nâng cao ý
thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học
Mặt khác cũng phát sinh mâu thuẫn trong việc chia sẻ lợi ích đạt được từ hoạt động
dịch vụ du lịch của KBT, giữa người dân địa phương và người bên ngoài phạm vi KBT. Ví

dụ, người dân địa phương (bản địa) ở KBTB Cù Lao Chàm chỉ nhận được 1/3 những lợi ích
thu được từ hoạt động dịch vụ du lịch sinh thái, vấn đề bảo hiểm cho du khách khi từ bờ ra
đảo và trong thời gian lưu trú trên đảo còn chưa được quy định; (2) Mâu thuẫn về nhu cầu cho
các sản phẩm du lịch từ các nguồn khác nhau trong KBT. Hiện tại, hơn 70% các sản phẩm du
lịch ở KBTB Cù Lao Chàm đều có nguồn gốc từ tài nguyên thiên nhiên của biển và rừng,
trong khi các sản phẩm thủ công và dịch vụ chỉ chiếm 30%, nên chưa thu hút nguồn nhân lực
địa phương tham gia để cải thiện sinh kế cho họ;
1.3.5. Nguồn nhân lực trong KBT
Theo ước tính, số cán bộ nhân viên của các KBT cả nước hiện nay gần 5.000 người,
trong đó: riêng 27 Vườn quốc gia có đội ngũ cán bộ nhân viên khoảng 2.880 người khoảng
1.840 người ở các khu RĐD, số còn lại thuộc các KBTB đang có hoạt động quản lý. Các KBT
VNNĐ chưa được thành lập và đưa vào hoạt động nên hiện chưa có cán bộ làm việc, ngoại
trừ những khu nằm trong các khu RĐD.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực để thực hiện công tác bảo tồn còn thấp. Cán bộ
của các KBT có trình độ và năng lực phù hợp chủ yếu nhờ vào các dự án quốc tế để đào tạo
nguồn nhân lực tốt hơn, như các VQG: Cúc Phương, Ba Vì, Bạch Mã, Cát Tiên,...KBTB Cát
Bà, Côn Đảo, vịnh Nha Trang, Cù Lao Chàm, Phú Quốc,…So với công tác bảo tồn trên cạn,
bảo tồn biển cần nhiều kỹ năng chuyên biệt hơn và chi phí cao hơn (ví dụ như kỹ năng lặn,
nổi và giữ phao, tuần tra bằng tàu, thuyền cao tốc,...). Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của
công tác bảo tồn thiên nhiên (rừng, biển, ĐNN) cần phải có đầu tư thích ứng trong công tác
xây dựng năng lực cho cán bộ KBT. Yêu cầu này đã và đang được giải quyết một phần thông
qua một dự án do Chính phủ Đan Mạch tài trợ, nhằm mục tiêu phát triển năng lực quản lý và
xây dựng hệ thống KBTB ở Việt Nam.
Bên cạnh những thành công bước đầu, nhìn chung đội ngũ cán bộ KBT còn thiếu và yếu
về các mặt sau:
- Thiếu kiến thức chuyên sâu về động vật, thực vật, sinh thái học bảo tồn,… để thực
hiện công tác bảo tồn tại các KBT cụ thể.
- Thiếu phương pháp/kỹ năng làm việc, nhất là những công việc liên quan đến cộng
đồng, đến các bên liên quan, tổ chức và thực hiện bảo tồn.
- Thiếu cán bộ quản lý làm công tác bảo tồn, chủ yếu hiện nay vẫn là công tác quản lý

hành chính chuyển sang. Hoạt động quản lý tại các KBT RĐD chủ yếu là hoạt động bảo vệ

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

21


rừng, công tác bảo tồn chưa được quan tâm đầu tư cả về nhân lực, về khoa học, vật tư kỹ thuật
và tài chính
- Cán bộ bảo tồn chủ yếu vẫn là lực lượng kiểm lâm hoặc quân đội chuyển sang làm
công tác bảo vệ, thiếu kiến thức về các hoạt động bảo tồn. Đặc biệt thiếu các cán bọ có kỹ
năng bảo tồn Biển và ĐNN.
1.3.6. Tài chính đầu tư cho các KBT
a) Nguồn tài chính cho các KBT
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành một một số chính sách đầu tư quan trọng cho
công tác quản lý, bảo vệ RĐD, cho thuê rừng, chính sách chi trả DVMTR, khuyến khích phát
triển du lịch sinh thái (DLST) nhằm tạo thêm nguồn thu, bù đắp chi phí, tăng thu nhập cho lực
lượng quản lý, bảo vệ rừng. Tuy nhiên, các chính sách đầu tư hiện nay vẫn còn bất cập và
thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phức tạp của công tác quản lý và bảo tồn của
RĐD, đồng thời, chưa tạo nguồn tài chính ổn định và bền vững cho việc thực hiện chức năng
bảo tồn của các hệ thống KBT ở Việt Nam.
Các nguồn đầu tư cho hệ thống KBT RÐD gồm: (1) Ngân sách nhà nước, (2) Tài trợ
quốc tế, (3) Đầu tư từ cộng đồng và khối tư nhân.Trong đó, các nguồn (1) và (2) được coi là
các nguồn đầu tư chủ yếu cho các KBTB; nguồn (3) là nguồn thu nhập từ hoạt động cung ứng
dịch vụ môi trường rừng, dịch vụ hệ sinh thái (trong đó có hoạt động dịch vụ du lịch. Nguồn
đầu tư tài trợ từ cộng đồng, khối tư nhân còn ở mức thấp, chưa có số liệu thống kê đánh giá
hiệu quả tác động của nguồn đầu tư này.
- Nguồn ngân sách tài trợ thường xuyên từ Nhà nước thông qua phê duyệt của Bộ
NN&PTNT và các địa phương. Ước tính ngân sách cho các KBT năm 2003 khoảng 18 tỷ
đồng, năm 2010 khoảng 77,9 tỷ đồng, tổng chi phí thường xuyên trong giai đoạn 2003-2010

là 410,6 tỷ đồng, tăng bình quân 13%/năm. Trong đó mức chi cho các KBT thuộc trung ương
quản lý cáo gấp đôi so với các KBTTN do tỉnh quản lý. Vì ngân sách được tính dựa trên số
lượng nhân viên của từng KBT chứ không phải trên mục tiêu của các KBT dẫn tới việc quản
lý và bảo vệ chưa hiệu quả.
- Chi phí đầu tư do Nhà nước cấp cho các KBT gồm chi phí đầu tư thường xuyên và đầu
tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn 2003-2010, tổng đầu tư của nhà nước là 616 tỷ
đồng, bình quân 77 tỷ đồng/năm. Tổng chi đầu tư thường xuyên cho các KBT ước tính là 352
tỷ đồng, bình quân là 20.000 đ/ha/năm, chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bình quân là
35.000đ/ha/năm. Nhu cầu đầu tư được xác định trong kế hoạch đầu tư của KBT không được
đảm bảo, nhiều chương trình đầu tư thường kéo dài và không trọng điểm. Việc phân bổ đầu tư
không dựa trên các tiêu chuẩn chung hay ưu tiên mà được phân bổ bởi nhiều cấp khác nhau
với nhiều tiêu chí khác nhau, dẫn tới sự không thống nhất và không hiệu quả.
- Tài trợ từ các chương trình của Nhà nước: Các KBT nhận được nguồn tài trợ từ các
chương trình của Chính phủ, như: chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, phòng chống cháy
rừng, nghiên cứu khoa học, đề án điều tra tổng hợp biển,...Ước tính số tiền các KBT nhận
được khoảng 40-60 tỷ đồng/năm. Các nguồn tài trợ này đã hỗ trợ đáng kể công tác bảo tồn,
nhưng thường thiếu các chỉ số đánh giá mức độ ưu tiên dẫn tới thiếu đồng nhất trong quá trình
phân bổ nguồn vốn. Thí dụ, với mức chi phí 50.000 đ/ha/năm cho bảo vệ rừng thì tổng số tiền
bảo vệ rừng từ Chương trình 661 cho các KBT khá cao, nhưng mức chi thực tế chỉ bằng 4070%.
Việc thành lập và hoạt động của các KBTB chủ yếu từ các nguồn tài trợ thông qua hợp
tác quốc tế với kỳ vọng rằng các khu này sẽ tiếp tục hoạt động với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước và nguồn thu từ chính hoạt động của KBTB, đặc biệt là du lịch sinh thái (khoảng 8 triệu

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

22


USD). Thí dụ, Ban Quản lý KBTB Phú Quốc đã được tỉnh cho phép sử dụng phần lớn khoản
thu từ du lịch sinh thái (90% số kinh phí) xem như nguồn tài chính bền vững và ổn định để sử

dụng vào mục đích quản lý, bảo vệ tài nguyên biển. Mặt khác, chính các cộng đồng dân cư
trong KBTB cũng được hưởng lợi từ hiệu quả tăng lên trông thấy của việc bảo tồn biển.
Quỹ bảo tồn RĐD Việt Nam (VCF), một cơ chế tài chính ủy thác từ các nguồn viện trợ
nước ngoài, đã cung cấp cho khoảng 70 VQG/KBT các khoản tài trợ đáng kể nhằm hỗ trợ tài
chính và kỹ thuật để củng cố công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên tại địa bàn
các KBT này.
Các Nghị định gần đây của Chính phủ như: Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24
tháng 9 năm 2010 về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, Nghị định 117/2010/NĐ-CP
ban hành ngày 24/12/2010 về tổ chức quản lý hệ thống RĐD được xem là những chính sách
quan trọng, có tính đột phá, mở đường cho việc huy động, xã hội hóa các nguồn đầu tư, từng
bước tạo lập tài chính bền vững cho hoạt động của các VQG/KBT.
Ngoài các nội dung đầu tư tập trung vào tăng cường cơ sở hạ tầng, phương tiện và thiết
bị quản lý bảo vệ rừng cho Ban quản lý RĐD, Nhà nước cũng cam kết cấp kinh phí bảo vệ
rừng ổn định hàng năm, đồng thời hỗ trợ kinh phí cho các cộng đồng thôn, bản vùng đệm để
khuyến khích họ tham gia phối hợp quản lý RĐD.
b)

Tồn tại về đầu tư và sử dụng nguồn vốn cho các hệ thống KBT

Nguồn ngân sách đầu tư cho các VQG/KBT thường được cân đối và phân bổ trực tiếp
hàng năm từ Trung ương hoặc tỉnh, các khoản đầu tư này phần lớn được tập trung vào xây
dựng cơ bản. Riêng nguồn kinh phí đầu tư thường xuyên được xác định trên cơ sở số lượng
nhân viên của KBT, cho nên các KBT thường sử dụng tới 90% nguồn kinh phí này để duy trì
hoạt động của bộ máy quản lý; vì vậy, phần kinh phí cần thiết cho các hoạt động bảo tồn đa
dạng sinh học, hoặc hoạt động hỗ trợ bảo tồn như giáo dục truyền thông, nâng cao nhận thức
của các bên liên quan còn rất hạn chế.
Nguồn vốn tài trợ nước ngoài “(bao gồm cả Quỹ bảo tồn rừng đặc dụng Việt Nam
(VCF)”: chủ yếu được tài trợ cho các vườn quốc gia do trung ương quản lý và thường chú
trọng nhiều hơn đến các hoạt động về nghiên cứu khoa học, phát triển cộng đồng, giáo dục và
nâng cao nhận thức…. ; đối với các khu bảo tồn do địa phương quản lý gặp rất nhiều khó

khăn trong việc tiếp nhận nguồn vốn của VCF, do năng lực hạn chế, cơ sở hạ tầng của KBT
và của xã hội thiếu và yếu nên bị khó khăn trong việc tiếp cận cơ hội đầu tư và tài trợ từ
nguồn vốn này, đặc biệt đối với các Khu rừng đặc dụng nhỏ hơn (diện tích dưới 15.000 ha).
- Đầu tư từ cộng đồng và khối tư nhân, gần đây được Chính phủ ban hành các chính
sách mới như: Nghị đị số 99/2010/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2010 về chính sách chi trả
dịch vụ môi trường rừng, Nghị định 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về tổ chức quản lý hệ
thống rừng đặc dụng, Quyết định 24/2012/QĐ-TTg, ngày 01/06/2012 về đầu tư phát triển
rừng đặc dụng được ...nhằm mở rộng cơ chế thu hút nguồn đầu tư từ các nguồn này cho KBT
thông qua các hoạt động liên doanh liên kết, tạo lập tài chính bền vững cho hoạt động của các
VQG/KBT.
1.3.7. Hợp tác quốc tế về KBT ở Việt Nam
Thời gian qua, hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên ở nước ta
đã đạt được nhiều kết quả và có sự chuyển biến về chất; nhiều tổ chức quốc tế hoạt động
trong lĩnh vực bảo tồn có văn phòng hoạt động tại Việt Nam, như: GTZ (GIZ), Winrock,
IUCN, WWF, FFI, Carier, EU SIDA... Hoạt động của các tổ chức quốc tế đã bám sát được
các thay đổi về hoạt động bảo tồn tại các vùng trọng điểm của Việt Nam như vùng sinh thái
Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, dải ven biển và một số đảo ven bờ, một số lưu vực sông gắn với
ĐNN.

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

23


Hỗ trợ từ những dự án quốc tế trong giai đoạn 2003-2010, tổng số vốn nước ngoài đầu
tư cho các KBT là 100-120 tỷ đồng, bình quân 12-14 tỷ đồng/năm và có khoảng trên 20 KBT
được dự án nước ngoài đầu tư tập trung ở các mức độ khác nhau. Mức đầu tư ước tính là 6,34
triệu đồng/km2/năm đối với 5 KBT trực thuộc Bộ NN&PTNT và 0,79 tr đ/km 2/năm cho các
KBT trực thuộc tỉnh.
Quỹ Bảo tồn rừng đặc dụng Việt Nam (VCF) đã được thành lập năm 2005, có tổng số

tiền lên đến 15 triệu đôla, là nguồn viện trợ không hoàn lại từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Môi
trường toàn cầu và Chính phủ Hà Lan. VCF đã hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dự án tăng
cường công tác quản lý các rừng đặc dụng của Việt Nam. Quỹ đã hỗ trợ cho khoảng 70 Khu
rừng đặc dụng thực hiện các hoạt động liên quan đến bảo tồn. Đây là hình thức hỗ trợ có hiệu
quả tốt, đặc biệt là đối với các KBT nhỏ, nguồn vốn của địa phương có nhiều khó khăn. Tuy
vậy, nguồn tài chính này sẽ bị kết thúc ( ngừng tài trợ ) trong năm 2013, do đó những thành
quả của VCF đã đầu tư xây dựng tại các KBT trong nhiều năm qua bị ảnh hưởng rất lớn,
Nguy cơ là các KBT sẽ khó có thể tiếp tục duy trì và phát huy, những thành quả đã đạt được
vì thiếu nguồn tài chính cho hoạt động tại các KBT.
Nhiều dự án lớn liên quan đến bảo tồn đã được triển khai thực hiện tại các KBT, nhiều
chương trình phối hợp điều tra, nghiên cứu giữa các nhà khoa học trong và ngoài nước đã
được thực hiện. Việt Nam đã phối hợp với các nước láng giềng như Lào, Cămpuchia, Trung
Quốc trong công tác kiểm soát buôn bán động, thực vật hoang dã qua biên giới. Cùng với các
nước khác, Việt Nam cũng đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện các công ước quốc tế mà
Chính phủ đã cam kết thực hiện.
Các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo tồn biển hướng chủ yếu vào các nội dung: ĐDSH
biển và các HST RSH, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, đầm phá; đánh giá tiềm năng bảo tồn
biển ở 20 điểm đại diện cho HST RSH; thành lập và quản lý thí điểm KBTB vịnh Nha Trang,
Cù Lao Chàm, Phú Quốc, Côn Đảo; xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia về
bảo tồn Rùa biển; kiểm soát RSH (ReefCheck); chống suy thoái HST biển Đông; quản lý tổng
hợp vùng bờ; quản lý tài nguyên ven biển và quy hoạch sử dụng không gian biển và vùng bờ
biển. Các nhà tài trợ và đối tác chính thực hiện các nội dung trên là: WB, ADB, GEF, UNEP,
Danida, Sida, CIDA, UNDP, IUCN, WWF, FFI, FAO, NOAA, Hà Lan, Pháp, PEMSEA,
COBSEA, UNESCO,...
1.4. Bài học về việc thực hiện Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên
nhiên Việt nam 2003 - 2010
Chiến lược quản lý hệ thống các KBT TN Việt Nam đến năm 2010, được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 192/2003/QĐ-TTg ngày 17/9/2003 (sau đây gọi tắt là
Chiến lược 2003).
1.4.1. Mức độ thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của chiến lược 2003

Mục tiêu tổng thể của Chiến lược 2003 là: thiết lập, tổ chức và quản lý có hiệu quả hệ
thống các KBTTN với các HST khác nhau nhằm góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên ĐDSH,
cảnh quan phong phú và độc đáo của Việt Nam trong khuôn khổ phát triển bền vững. Đồng
thời, Chiến lược 2003 đề ra 2 mục tiệu cụ thể là: Quy hoạch hệ thống KBTTN ở các vùng
sinh thái khác nhau được thiết lập có căn cứ khoa học và phân loại, xếp hạng theo những tiêu
chí thống nhất; Đến 2010 Quy hoạch hệ thống KBTTN được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Chiến lược 2003 cũng đã để ra 7 nhiệm vụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu đến năm
2010 là: Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn; Xây dựng khung pháp lý để quản lý hệ thống các
KBT; Tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn ĐDSH và đổi mới cơ cấu của hệ
thống quản lý KBT; Những quy định đổi mới để thành lập, tài trợ và đầu tư vào các khu bảo
tồn; Kiến thức và kỹ năng về bảo tồn; Tăng cường thông tin-giáo dục-truyền thông và thu hút
cộng đồng tham gia vào hoạt động bảo tồn ĐDSH.Tăng cường hợp tác quốc tế.
Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

24


Phân tích, đánh giá chung về quá trình thực hiện Chiến lược 2003 có thể thấy rằng;
Một số nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa
đầy đủ
a) Đến nay, chưa được xây dựng quy hoạch thành lập một hệ thống KBT chung, nhưng
các hệ thống KBT riêng đã được rà soát và hoàn thiện quy hoạch, xếp hạng các hệ thống KBT
ở các vùng địa lý-sinh thái khác nhau (gồm trên cạn, đất ngập nước và biển), trình Thủ tướng
thông qua và ra quyết định về hệ thống KBT tại Việt Nam trong bối cảnh mới.
- Bộ NN&PTNT đã hoàn thành việc rà soát hệ thống RĐD. Kết quả đã xác định được
164 khu RĐD, gồm 30 VQG, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 khu bảo tồn loài-sinh cảnh, 45
khu bảo vệ cảnh quan và 20 khu rừng thực nghiệm NCKH. Tuy nhiên, danh sách này tới nay
chưa được Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt.
- Bộ Thủy sản (cũ) đã quy hoạch hệ thống 45 KBT VNNĐ đến năm 2020 và đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tuy nhiên, chưa có khu nào được thành lập.

- Bộ Thủy sản (cũ) đã quy hoạch hệ thống 16 KBTB đến năm 2020 và đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2010. Cho tới nay 5 trong số các KBTB trong quy hoạch
được duyệt đã có ban quản lý.
Ở cấp quốc gia đã hình thành khung thiết chế tổ chức bao gồm: Tổng cục Lâm nghiệp
và Tổng cục Thủy sản (thuộc Bộ NN&PTNT), Tổng cục Môi trường và Tổng cục Biển và Hải
đảo Việt Nam (thuộc Bộ TNMT). Các cơ quan giúp việc cho các cơ quan nói trên về bảo tồn
cũng được thành lập, như: Vụ Bảo tồn thiên nhiên (Tổng cục Lâm nghiệp); Cục Bảo tồn
ĐDSH (Tổng cục Môi trường); Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Tổng cục Thủy
sản) và Cục Quản lý khai thác biển, hải đảo (Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam). Các cơ
quan này có chức năng quản lý nhà nước về hệ thống RĐD, hệ thống KBTB, hệ thống KBT
VNNĐ. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa thành lập được một cơ quan đầu mối cấp quốc gia để
quản lý chung các hệ thống KBT; tuy rằng, về bộ máy tổ chức thì riêng biệt nhưng đôi khi
vẫn còn chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, gây ra những khó khăn trong quá trình triển khai
thực hiện.
b) Đã xây dựng một khung pháp lý, tạo điều kiện cho công tác bảo vệ và quản lý
ĐDSH tại các khu bảo tồn.
Các hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH đã
được tiến hành theo nhiều hình thức, đa dạng hơn ở các cấp khác nhau, và đã đạt hiệu quả cao
hơn. Các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản
liên quan đến hệ thống RĐD, hệ thống KBTB, hệ thống KBT VNNĐ đã được ban hành khá
đầy đủ. Tuy nhiên, dù Luật Đa dạng sinh học đã được ban hành (2008), nhưng còn thiếu các
Thông tư liên tịch giữa Bộ TNMT và Bộ NN&PTNT hướng dẫn thi hành.
c) Xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn đối với vùng đệm; bổ sung và hoàn thiện các
cơ chế, chính sách và mô hình phát triển tại vùng đệm.
d) Đã triển khai nghiên cứu và đề xuất một tổ chức phù hợp để quản lý hệ thống KBT;
xây dựng và ban hành các quy định về cơ cấu tổ chức và quản lý các loại hình KBT, phân
hạng; chỉ định một đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm quản lý nhà nước thống nhất các hệ thống
KBT ở Việt Nam. Tuy vậy, những ý tưởng và kết quả nghiên cứu chưa được triển khai trong
thực tế.
đ) Phân bổ nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu của kế hoạch hoạt động, quản lý cho các

KBT được quy định trong hệ thống KBT tới năm 2010.

Management Strategy For Vietnam Protected Area System: Draf

25


×