Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU Xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 51 trang )

Trung tâm WTO
Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển
kinh tế thị trường
1


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU

NGHIÊN CỨU
Xây dựng hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích
phát triển kinh tế thị trường
Tóm tắt
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố của hệ thống pháp luật kinh doanh Việt Nam
nhằm đưa ra bức tranh toàn cảnh về diễn tiến phát triển của hệ thống này; đánh giá các
ưu điểm, tồn tại; từ đó đề xuất các vấn đề cần điều chỉnh để hệ thống pháp luật Việt
Nam thực sự thuận lợi, phù hợp cho phát triển kinh tế thị trường.
Một hệ thống pháp luật kinh doanh khuyến khích phát triển kinh tế thị trường được
hiểu là tập hợp các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thương
mại, được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường
có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị trường.
Để đánh giá hệ thống pháp luật kinh doanh này, 02 nhóm tiêu chí cơ bản được sử dụng,
bao gồm (i) Nhóm các tiêu chí về các điều kiện nền tảng cho kinh tế thị trường (KTTT)
với 04 tiêu chí cụ thể về chế độ sở hữu, hệ thống tố tụng bảo vệ quyền sở hữu, chất
lượng của hệ thống pháp luật; phối hợp công – tư trong pháp luật về kinh tế và (ii)
Nhóm các tiêu chí về các chế định pháp luật cụ thể về các khía cạnh của kinh tế thị
trường với 03 tiêu chí xem xét quyền tự do kinh doanh ở các khía cạnh gia nhập thị
trường, hoạt động trên thị trường và rút khỏi thị trường.
Trong tổng thể, kể từ mốc Đổi mới năm 1986, pháp luật kinh doanh ở Việt Nam đến


nay đã trải qua 04 giai đoạn, với các dấu mốc là những lần sửa đổi Hiến pháp về thể
chế kinh tế. Giai đoạn từ 1986 đến 1992 chứng kiến những văn bản đầu tiên ghi nhận
về chủ thể kinh doanh tư nhân, đầu tư nước ngoài, hợp đồng kinh tế. Giai đoạn từ
1992-2001 được đánh dấu bằng một loạt các văn bản pháp luật hiện thực hóa thể chế
kinh tế thị trường trong Hiến pháp 1992. Giai đoạn 2001-2013 được xem là giai đoạn
chuyển mình của pháp luật về kinh doanh Việt Nam với việc thông qua, sửa đổi nhiều
văn bản rường cột cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp 2001 và các
chuẩn mực thương mại quốc tế theo các cam kết mà Việt Nam ký. Giai đoạn 2013-nay
là giai đoạn tập trung sửa đổi nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm cụ thể hóa
những nguyên tắc thị trường mới được ghi nhận trong Hiến pháp sửa đổi 2013.

1


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Theo các tiêu chí đánh giá được đặt ra thì về cơ bản pháp luật Việt Nam như sau đã đạt
được những thành tựu quan trọng ở tất cả các khía cạnh. Pháp luật về sở hữu xây dựng
và củng cố với việc ghi nhận đầy đủ hơn các hình thức sở hữu và các nội dung quyền
sở hữu. Hệ thống tư pháp để bảo vệ quyền sở hữu thông qua việc giải quyết các tranh
chấp được thiết lập đầy đủ, phù hợp thông lệ quốc tế. Chất lượng các quy định đã được
cải thiện, theo hướng minh bạch, hợp lý và thống nhất hơn. Sự phối hợp cơng tư trong
hoạch định và thực thi chính sách đã được nhấn mạnh. Quyền tự do kinh doanh trong
gia nhập, hoạt động và rút khỏi thị trường được hoàn thiện theo thời gian. Mặc dù vậy,
cũng xét trên tất cả các khía cạnh này, vẫn cịn những vướng mắc, bất cập cản trở sự
vận hành bình thường, ổn định và an toàn của kinh tế thị trường đặc biệt từ góc độ thực
thi.
Tiếp tục hồn thiện các chế định pháp luật, đặc biệt nhấn mạnh tính minh bạch, tính
khả thi, tính thị trường trong nội dung các quy định cũng như tăng cường tính nghiêm
minh, hiệu quả trong thi hành pháp luật là những vấn đề quan trọng nhất mà pháp luật
về kinh doanh Việt Nam cần tập trung xử lý trong thời gian tới.

Nghiên cứu này được thực hiện bởi Trung tâm WTO – Phòng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam với sự hỗ trợ tài chính của Dự án Friedrich Naumann Foundation for
Freedom (FNF)

2


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU

1. Dẫn nhập
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hệ thống pháp luật về
kinh tế là yếu tố cơ bản, tạo nền tảng cho nền kinh tế. Một thể chế pháp luật phù hợp,
với các chế định cho phép các khía cạnh, nhân tố của nền kinh tế được tồn tại, vận
hành ổn định, an toàn và cạnh tranh lành mạnh là cơ sở không thể thiếu trong xây dựng
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam về kinh tế trong gần 30 năm qua kể từ thời điểm Đổi
mới năm 1986 đã có những bước phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào chuyển
đổi khung khổ nền kinh tế từ kinh tế kế hoạch hóa bao cấp sang nền kinh tế thị trường.
Các chế định pháp luật tạo nền tảng cho hoạt động kinh doanh cũng như các chế định
điều chỉnh cụ thể từng khía cạnh, lĩnh vực của nền kinh tế đã được xây dựng, hoàn
thiện dần. Phương pháp điều chỉnh cũng được chuyển đổi dần từ phương pháp hành
chính sang các phương pháp thị trường.
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam về kinh tế chưa thực sự đáp ứng được các đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường, còn cản trở việc hình thành thực sự các thị trường hàng hóa,
thương mại thực sự và vì vậy cần được tiếp tục điều chỉnh, hồn thiện.
Nghiên cứu này tập trung phân tích các yếu tố của hệ thống pháp luật Việt Nam từ các
khía cạnh hướng tới kinh tế thị trường, hướng tới các mục tiêu
(i)

Đưa ra bức tranh toàn cảnh về diễn tiến phát triển của hệ thống pháp luật

Việt Nam về kinh tế;

(ii)

Đánh giá các ưu điểm, tồn tại hệ thống pháp luật Việt Nam về kinh tế thị
trường ở từng khía cạnh;

(iii)

Đề xuất các vấn đề cần điều chỉnh/sửa đổi/bổ sung để hệ thống pháp luật VN
về kinh tế thị trường thực sự phù hợp và hiệu quả.

2. Các tiêu chí đánh giá hệ thống pháp luật về thị trường
2.1. Các khái niệm

3


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Hệ thống pháp luật về kinh tế là tập hợp các nguyên tắc, quy định, văn bản pháp luật
điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, thương mại ở các lĩnh vực, khía cạnh khác nhau
(mỗi khía cạnh, lĩnh vực được xem là một chế định).
Hệ thống pháp luật định hướng kinh tế thị trường được hiểu là một hệ thống pháp luật
mà ở đó các chế định được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền
kinh tế thị trường có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị
trường, với sự can thiệp hành chính tối thiểu từ Nhà nước.
2.2. Các tiêu chí đánh giá
Trên cơ sở tham khảo các nghiên cứu phân tích pháp luật và các báo cáo đánh giá về
thể chế pháp luật về kinh tế thị trường trên thế giới và ở Việt Nam, xuất phát từ mục
tiêu và tính chất nghiên cứu, Nghiên cứu này này sử dụng 02 nhóm tiêu chí cơ bản để

đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam về kinh tế theo định hướng thị trường. Cụ thể
bao gồm:
Nhóm tiêu chí thứ nhất - Nhóm các tiêu chí về các điều kiện nền tảng cho kinh tế thị
trường (KTTT)
Một nền kinh tế thị trường đúng nghĩa cần được xây dựng trên nền tảng một chế độ sở
hữu mạnh với hệ thống các quy định chặt chẽ về sở hữu và các cơ chế bảo vệ quyền sở
hữu hiệu quả. Cùng với đó, hệ thống pháp luật về kinh tế minh bạch, thống nhất, có
khả năng thúc đẩy các hoạt động kinh tế vận hành một cách an toàn, với sự tham gia
hiệu quả và thực chất của khu vực tư nhân vào quá trình hoạch định và thực hiện các
quy định này tạo thành môi trường không thể thiếu cho một nền kinh tế thị trường. Do
đó, nhóm này được thiết kế với 04 tiêu chí xem xét về:
-

Chế định pháp luật về nội dung chế độ sở hữu

-

Hệ thống tố tụng bảo vệ quyền sở hữu

-

Chất lượng của hệ thống pháp luật về kinh tế

-

Phương thức Phối hợp cơng – tư trong pháp luật về kinh tế

Nhóm tiêu chí thứ hai - Nhóm các tiêu chí về các chế định pháp luật cụ thể về các khía
cạnh của kinh tế thị trường
Từ góc độ ”quy luật thị trường”, quyền tự do kinh doanh được xem là chỉ số cốt lõi,

yếu tố quyết định cả về nội dung và phương pháp điều chỉnh của hệ thống pháp luật về
kinh tế trong một nền kinh tế thị trường. Theo nghĩa này, hệ thống pháp luật trong nền
4


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
kinh tế thị trường đóng vai trị như là khung khổ để quyền tự do kinh doanh để cụ thể
hóa, được bảo vệ và được giới hạn trong những trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo sự
phát triển bền vững, phù hợp với các lợi ích cơng cộng và giảm thiểu ảnh hưởng tới các
quyền tự do kinh doanh của các chủ thể khác.
Do đó, nhóm này được thiết kế xoay quanh 03 tiêu chí liên quan tới pháp luật về quyền
tự do kinh doanh trong từng giai đoạn của quá trình kinh doanh, bao gồm:
-

Chế định pháp luật về gia nhập thị trường

-

Chế định pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh cụ thể trên thị trường

-

Chế định pháp luật về rút khỏi thị trường

Mỗi tiêu chí được đo lường bằng các chỉ số thành phần cụ thể, với các phương pháp đo
lường và ý nghĩa như nêu trong Bảng kèm theo:
Tiêu chí

Chỉ số đo lường/đánh Ý nghĩa


Nguồn số liệu

giá
I. Nhóm các tiêu chí về điều kiện pháp luật nền tảng cho kinh tế thị trường
1. Chế độ sở hữu

Đánh giá hệ thống quy Các quy định về sở Hệ thống pháp luật
định pháp luật về chế hữu đối với tài sản đưa Việt Nam có liên quan
độ sở hữu theo các chỉ vào kinh doanh hoặc tới sở hữu (đặc biệt là
số:

Đầy đủ,

bạch, Hợp lý

Minh thu được từ hoạt động Hiến pháp, Bộ luật dân
kinh doanh càng được sự)
ghi nhận đầy đủ, rõ
ràng và hợp lý thì
quyền sở hữu càng
đảm bảo an tồn và
được tôn trọng

2. Hệ thống tố tụng Đánh giá hệ thống quy Cơ chế pháp luật về tố - Hệ thống pháp luật
bảo vệ quyền sở hữu

định pháp luật và thực tụng càng đầy đủ và Việt Nam có liên quan
tiễn về tố tụng bảo vệ việc thực thi các cơ tới các cơ chế giải
quyền sở hữu theo các chế này càng hiệu quả quyết tranh chấp dân
chỉ số: Đầy đủ, Hiệu thì quyền sở hữu càng sự, thương mại (đặc

quả

được bảo vệ

5

biệt là Bộ luật tố tụng


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
dân sự, Luật Thi hành
án dân sự, Luật Trọng
tài thương mại)
- Các Báo cáo tổng kết
thi hành các Luật này
3. Chất lượng của các Đánh giá chất lượng Các quy định pháp luật Hệ thống pháp luật về
quy định pháp luật về các quy định pháp luật càng thống nhất, minh các khía cạnh của hoạt
về kinh doanh theo các bạch, hợp lý thì hệ động kinh tế (pháp luật

kinh tế

chỉ số: Thống nhất, thống pháp luật càng chung,
Minh bạch, Hợp lý

pháp

luật

hiệu quả hơn trong chuyên ngành)
điều chỉnh các hoạt

động kinh tế

Chỉ số hiệu quả thi
hành pháp luật về kinh
doanh của các Bộ
(MEI – VCCI)

4. Phương thức phối Đánh giá mức độ hiệu Việc phối hợp công – Pháp luật về quy trình
hợp cơng – tư trong quả của việc phối hợp tư trong soạn thảo và ban hành văn bản quy
hoạch định và thi hành giữa Nhà nước và khu thực thi pháp luật về phạm pháp luật (đặc
pháp

luật

về

doanh

kinh vực tư nhân trong soạn kinh doanh càng thực biệt là Luật Ban hành
thảo và thực hiện các chất và hiệu quả thì hệ VBQPPL)
văn bản pháp luật về thống pháp luật càng
kinh doanh qua các chỉ sát thực tiễn, khả thi
số: Thực chất, Hiệu và khả năng tuân thủ
quả

cao

Chỉ số hiệu quả thi
hành pháp luật về kinh
doanh của các Bộ

(MEI – VCCI)

II. Nhóm các tiêu chí về pháp luật trong các khía cạnh cụ thể của kinh tế thị trường
5. Pháp luật về gia Đánh
nhập thị trường

giá

mức

độ Việc thành lập doanh Pháp luật về doanh

thuận lợi của việc gia nghiệp hay đăng ký nghiệp và đăng ký
nhập thị trường của kinh doanh của các kinh doanh (đặc biệt là
chủ

kinh chủ thể khác như hợp Luật Doanh nghiệp,

thể

doanh/nhà

đầu

tư tác xã, hộ kinh doanh Luật Đầu tư, Luật Hợp

thông qua Chỉ số: Mức cá thể, thương nhân… tác xã, Luật Thương
độ tự do của việc gia càng đơn giản, minh mại)
6



BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
nhập thị trường

bạch, ít hạn chế thì Doing Business WB
quyền tự do gia nhập
thị trường càng lớn.

6. Pháp luật về hoạt Đánh giá quyền tự chủ Hoạt động kinh doanh Pháp
động trên thị trường

luật

chuyên

của các chủ thể kinh của các chủ thể trên thị ngành về hoạt động
doanh trong các hoạt trường càng tự chủ, kinh doanh
động và tính an tồn bình đẳng và trong
của mơi trường kinh môi trường cạnh tranh
doanh qua các Chỉ số: càng lành mạnh thì các
Tự chủ, Bình đẳng, Tự hoạt động này càng
do cạnh tranh

phản ánh đúng quy
luật KTTT

Pháp luật về cạnh
tranh (đặc biệt là Luật
cạnh tranh)
Chỉ số hiệu quả thi

hành pháp luật về kinh
doanh của các Bộ
(MEI – VCCI)

7. Pháp luật về rút Đánh giá quyền tự do, Cơ chế để chủ thể kinh Pháp luật về giải thể
khỏi thị trường

an toàn của các chủ thể doanh rút khỏi thị và phá sản
trong việc rút khỏi thị trường khi gặp thất bại
trường qua các Chỉ số: thị trường hoặc các lý
Mức độ thuận lợi, an do khác càng hợp lý,
toàn của việc giải thể, thuận lợi, an tồn thì
phá sản

mơi trường kinh doanh
càng phù hợp

Báo cáo tổng kết thi
hành Luật phá sản
Số liệu doanh nghiệp
giải thể, ngừng hoạt
động

3. Diễn tiến hệ thống pháp luật định hướng KTTT ở Việt Nam
Với tính chất là tập hợp các nguyên tắc, quy định, văn bản pháp luật điều chỉnh các
hoạt động kinh doanh, thương mại ở các lĩnh vực, khía cạnh khác nhau (mỗi khía cạnh,
lĩnh vực được xem là một chế định), hệ thống pháp luật về kinh tế của mỗi quốc gia
đóng vai trị như xương sống cho sự vận hành của nền kinh tế.
Hệ thống pháp luật định hướng kinh tế thị trường được hiểu là một hệ thống pháp luật
mà ở đó các chế định được thiết kế theo hướng tạo thành khung khổ pháp lý cho nền

kinh tế thị trường có thể tồn tại, vận hành thuận lợi và an toàn theo các quy luật thị
trường, với sự can thiệp hành chính tối thiểu từ Nhà nước.
7


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Trong tổng thể, nếu lấy mốc từ năm 1986, thời điểm Việt Nam tiến hành công cuộc
Đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, có thể thấy hệ thống pháp luật về kinh tế thị trường ở Việt Nam đến nay đã trải
qua 04 giai đoạn, với các dấu mốc là những lần sửa đổi Hiến pháp quan trọng về thể
chế kinh tế.
3.1.

Giai đoạn từ 1986-1992

Trong lịch sử nền kinh tế cũng như thể chế pháp luật về kinh tế Việt Nam, năm 1986 là
một dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa bao
cấp sang nền kinh tế với các nhân tố đầu tiên kinh tế thị trường. Cụ thể, Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách Đổi
mới trong nhiều lĩnh vực. Đổi mới về kinh tế bao gồm việc chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặt nền
móng cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
Giai đoạn từ 1986 đến 1992, pháp luật kinh tế Việt Nam đã hiện thực hóa chính sách
Đổi mới với những thay đổi có tính bước ngoặt với những nhân tố đầu tiên, quan trọng
cho việc xây dựng nền kinh tế thị trường, góp phần giải phóng sức lao động và khơi
nguồn cho tư tưởng kinh doanh và các quy luật kinh tế thị trường.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là một trong những đạo luật đầu tiên đóng vai trị
đột phá trong việc ấn định và thực hiện các quy định phù hợp với cơ chế thị trường,
quy định chế độ cấp giấy phép, các hình thức tổ chức, phạm vi hoạt động, các hình

thức ưu đãi đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990…
lần đầu tiên thể chế hóa các hình thức doanh nghiệp và chủ thể kinh tế đồng thời tạo ra
khung khổ cơ bản về hợp đồng cho các giao dịch thương mại.
Tuy vậy thể chế pháp luật về kinh tế trong giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế. Các
hình thức sở hữu và chủ thể sở hữu vẫn bị bó hẹp trong khung khổ Hiến pháp 1980 với
“chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất” và “một nền kinh tế quốc dân chủ
yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể” (Điều 18 Hiến pháp 1980). Với khung
khổ này, dù các chủ thể kinh doanh tư nhân đầu tiên đã được thừa nhận (doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi, cơng ty, doanh nghiệp tư nhân) nhưng vị trí của họ trong nền
kinh tế còn rất hạn chế, pháp luật mới chỉ cho họ những quyền kinh doanh hạn chế, bị
8


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
bó buộc bởi các yêu cầu bắt buộc mang tính can thiệp của Nhà nước trong thủ tục
thành lập, xác định vốn tối thiểu, chỉ định vị trí lãnh đạo, ra quyết định kinh doanh, ký
kết hợp đồng giao dịch, phân bổ và sử dụng lợi nhuận. Thông qua các quy định này,
pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh tế thể hiện rõ tính hành chính (với sự can thiệp khá
sâu của Nhà nước vào những hoạt động kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp quản lý
hành chính).
3.2.

Giai đoạn từ 1992-2001

Hiến pháp 1992 được Quốc hội Việt Nam thông qua tháng 11/1992, sửa đổi căn bản
chế định về kinh tế so với Hiến pháp 1980. Bản Hiến pháp này chính thức hiến định
thể chế kinh tế thị trường.
Các văn bản pháp luật quan trọng, làm trụ cột cho nền kinh tế thị trường cũng lần lượt

được xây dựng trong thời gian này, đặc biệt phải kể đến Luật Khuyến khích đầu tư
trong nước 1994, Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 1995. Trong các văn bản này,
các quy định được thiết kế theo hướng thừa nhận sự tồn tại hợp pháp của khu vực kinh
tế tư nhân, xây dựng nền kinh tế với sự tham gia của các chủ thể kinh doanh tư nhân
(thương nhân, doanh nghiệp), giảm dần vai trò tuyệt đối của khu vực quốc doanh, tạo
khung khổ linh hoạt, tăng quyền thỏa thuận trong các giao dịch kinh doanh. Điều này
đã tác dụng rất lớn đối với việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam.
Luật doanh nghiệp 1999 có thể được xem là một thành tựu nổi bật của hệ thống pháp
luật kinh tế Việt Nam giai đoạn này với việc thiết lập một khung pháp lý an toàn, tổng
thể và hiện đại về các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong đó
các hình thức doanh nghiệp chính yếu đã được ghi nhận, thủ tục thành lập doanh
nghiệp được thiết kế thuận lợi hơn, các vấn đề về quản trị và vận hành doanh nghiệp
được xây dựng gần hơn với thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế.
Đây là giai đoạn mà pháp luật về kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, cổ
vũ bởi những thành công của phát triển kinh tế thị trường giai đoạn đầu và dưới những
địi hỏi cấp thiết của q trình hội nhập kinh tế quốc tế với việc Việt Nam tham gia
Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN), bình thường hóa quan hệ ngoại giao với
Hoa Kỳ năm 1997 và ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ
(BTA) năm 2001.
So với giai đoạn trước đó, thể chế pháp luật về kinh tế thị trường Việt Nam đã có
những bước chuyển biến cơ bản, tính “thị trường” được chú trọng hơn, trên cơ sở đó
các thị trường vốn, lao động và các thị trường chuyên ngành được hình thành và phát
9


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
triển. Mặc dù vậy, quyền sử dụng và chuyển giao các tư liệu sản xuất quan trọng (ví dụ
đất đai, tài nguyên nước) vẫn bị giới hạn đáng kể, quản trị doanh nghiệp bị ràng buộc
bởi những yêu cầu thiếu linh hoạt và phi thị trường (ví dụ về vốn điều lệ tối thiểu, về
nhiều loại giấy phép kinh doanh phải có, về vị trí lãnh đạo chủ chốt trong doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngồi), các giao dịch thương mại chưa thực sự tôn trọng quyền tự
do thỏa thuận (ví dụ các hợp đồng thương mại phải tuân thủ các nội dung bắt buộc).
3.3.

Giai đoạn từ 2001-2013

Năm 2001, Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, trong đó có
các điều chỉnh về chế độ kinh tế. Lần đầu tiên quyền tự do kinh doanh được thừa nhận,
dù vẫn bị ràng buộc bởi giới hạn “theo quy định của pháp luật”.
Năm 2001 cũng là năm Việt Nam phê chuẩn Hiệp định thương mại song phương Việt
Nam – Hoa Kỳ, mở đầu cho giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hội
nhập cũng chính là nét đặc điểm chủ yếu của giai đoạn này, với những dấu ấn đặc biệt
trong thể chế pháp luật về kinh tế Việt Nam.
Một loạt các văn bản pháp luật có ý nghĩa rường cột cho nền kinh tế như Luật Đất đai
2003, Bộ luật Dân sự 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Thương
mại 2005, Luật cạnh tranh 2005, các Luật Thuế, các Luật chuyên ngành (ví dụ vận tải,
ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, kiểm toán) đã được xây dựng mới hoặc sửa đổi
tổng thể, định hình một hệ thống thể chế pháp luật kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa triệt để hơn và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế trong các lĩnh vực.
Các văn bản pháp luật trong thời kỳ này cũng được sửa đổi theo các tiêu chuẩn quốc tế
trong các lĩnh vực kinh tế liên quan, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn này, đặc biệt là các cam kết về thể chế kinh tế trong khn khổ Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Có thể nói đây là giai đoạn mà pháp luật về kinh doanh của Việt Nam có bước hồn
thiện mạnh mẽ và tiến bộ nhất trong lịch sử phát triển từ trước tới thời điểm này. Hệ
thống pháp luật không chỉ được mở theo chiều rộng nhằm đảm bảo sự phát triển an
toàn của tất cả các hoạt động kinh doanh (với việc ban hành các Luật riêng trong từng
lĩnh vực kinh doanh) mà cịn được hồn thiện theo chiều sâu, phù hợp với các địi hỏi
kinh tế thị trường theo thơng lệ quốc tế (thông qua việc thiết kế các quy định trong các
Luật chung theo hướng tôn trọng quyền tự do quyết định, thỏa thuận của các chủ thể và

tương thích với các chuẩn mực quốc tế liên quan).

10


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Tuy nhiên, từ sau những năm 2008-2009, nền kinh tế thế giới bước vào giai đoạn khó
khăn, ảnh hưởng đáng kể tới phát triển kinh tế của Việt Nam đồng thời đặt ra những
đòi hỏi mới về cải cách và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Hệ thống pháp luật kinh tế Việt Nam bị đặt trước những thách thức mới trong việc tiếp
tục cải thiện môi trường kinh doanh (đặc biệt thơng qua các cải cách thủ tục hành chính
trong thành lập doanh nghiệp, hoạt động xuất nhập khẩu, kinh doanh trên thị trường)
và tiếp tục điều chỉnh các quy định pháp luật cho phù hợp với các xu hướng mới trong
thông lệ pháp luật quốc tế về kinh doanh.
3.4.

Giai đoạn từ sau 2013

Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước phát triển mới trong thể chế pháp luật về kinh tế
của Việt Nam với việc ghi nhận mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh của người dân ở tất
cả những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Và mặc dù vẫn tiếp tục quy định kinh
tế nhà nước là chủ đạo, phù hợp với định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường,
Hiến pháp 2013 khẳng định quyền được đối xử bình đẳng của các chủ thể kinh tế.
Đây cũng là giai đoạn Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, với việc
đàm phán một loạt các Hiệp định mở cửa thương mại tự do quan trọng như Hiệp định
Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, các Hiệp định thương mại tự do với EU, EFTA, Liên
minh thuế quan Nga-Belarus-Karzakstan.
Hiện thực hóa các nguyên tắc mới sửa đổi trong Hiến pháp 2013, đồng thời với việc
tiếp tục cải cách sâu rộng thể chế pháp luật về kinh tế, làm nền tảng cho giai đoạn phát
triển và hội nhập tiếp theo, một loạt các văn bản pháp luật quan trọng được thảo luận,

sửa đổi trong giai đoạn này bao gồm cả những văn bản pháp luật nền tảng như Bộ luật
Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật Đấu thầu, các Luật Thuế, Luật Phá sản
cũng như các văn bản trong các lĩnh vực thị trường cụ thể (ví dụ Luật Kinh doanh Bất
động sản, Luật Giao thông đường thủy nội địa, Luật Xây dựng, Luật bảo vệ mơi
trường).
Có thể thấy, trong tổng thể, từ năm 1986 đến nay hệ thống pháp luật Việt Nam về kinh
tế đã có những thay đổi cơ bản, làm cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn này.
Mặc dù vậy, thể chế pháp luật về kinh doanh Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi
một số đặc điểm cố hữu của nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây (đặc biệt là trong các
biện pháp can thiệp vào thị trường như giá sản phẩm, chủ thể cung cấp...), và vì vậy
chưa thực sự đáp ứng một cách hoàn hảo các yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Hơn
11


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
thế nữa, nền kinh tế Việt Nam lại đang đứng trước những bước hội nhập mới, đòi hỏi
thế chế pháp luật về kinh tế của Việt Nam phải tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng các
chuẩn mực mới về tự do hóa thương mại trong nền kinh tế tồn cầu.
4. Đánh giá về q trình phát triển hệ thống pháp luật kinh doanh Việt Nam theo
hướng thị trường
4.1. Đánh giá về khung khổ pháp luật về các điều kiện nền tảng cho KTTT
Phần này tập trung vào các điều kiện nền tảng cho KTTT thể hiện trong hệ thống pháp
luật về kinh tế của Việt Nam, bao gồm chế độ sở hữu và các yếu tố về chất lượng pháp
luật và tính dân chủ trong hoạch định, thực thi pháp luật..
Ở góc độ nền tảng, có thể thấy pháp luật Việt Nam đã tạo dựng được khung khổ pháp
luật cơ bản và đầy đủ về chế độ sở hữu, hệ thống tố tụng bảo vệ quyền sở hữu, từ đó
làm cơ sở cho việc đưa tài sản thuộc sở hữu vào hoạt động kinh doanh cũng như tạo lập
tài sản từ kinh doanh. Tuy nhiên những quy định cụ thể về thực hiện quyền sở hữu, đặc
biệt là sở hữu tồn dân cịn thiếu minh bạch, chưa an tồn, các quy trình tố tụng bảo vệ

quyền sở hữu thiếu hiệu quả trên thực tế khiến chế định về sở hữu chưa hỗ trợ được
đầy đủ cho hoạt động kinh doanh.
Trong tổng thể, pháp luật về kinh doanh ở Việt Nam đã được thiết lập với một hệ thống
tương đối đồ sộ các chế định về các khía cạnh khác nhau của hoạt động kinh doanh với
những điều chỉnh ngày càng phù hợp hơn với kinh tế thị trường, minh bạch, công bằng
và hợp lý hơn. Sự tham gia của khu vực tư nhân vào quá trình hình thành các quy định
cũng được tăng cường. Dù vậy, chất lượng của các quy định vẫn còn ở khoảng cách
khá xa so với kỳ vọng của cộng đồng. Cũng như vậy, tính thực chất và hiệu quả của sự
tham gia của khu vực tư nhân cùng với Nhà nước trong hoạch định chính sách pháp
luật vẫn cịn là vấn đề lớn.
4.1.1. Pháp luật về Chế độ sở hữu
Pháp luật về chế độ sở hữu ở Việt Nam đã đi được một bước tiến dài từ chỗ chỉ thừa
nhận sở hữu tập thể và sở hữu toàn dân tới chỗ thừa nhận sự đa dạng của các hình thức
sở hữu và thiết lập hệ thống các quy định nhằm thực hiện cũng như chuyển giao quyền
sở hữu tài sản sản. Mặc dù vậy, hình thức sở hữu tồn dân đối với các tài sản quan
trọng cho sản xuất kinh doanh như đất đai, tài nguyên vẫn còn rất nhiều hạn chế do
thiếu minh bạch, khơng đầy đủ về quy trình cũng như quyền và các nghĩa vụ của các
chủ thể liên quan. Pháp luật liên quan tới các giao dịch chuyển giao quyền sở hữu cũng
12


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
còn nhiều điểm chưa phù hợp, ảnh hưởng đáng kể tới tính an tồn của các giao dịch
này.
Hiện trạng và đánh giá
Chế độ sở hữu được thể hiện trong các văn bản pháp luật nền tảng của hệ thống pháp
luật Việt Nam, từ Hiến pháp (mục Chế độ kinh tế) tới Bộ luật Dân sự (phần Tài sản và
Quyền sở hữu), Luật Đất đai (mục Đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất) và được chi tiết hóa
trong các văn bản pháp luật về những loại tài sản cụ thể (ví dụ Luật Tài nguyên nước,

Luật Khoáng sản, Luật Nhà ở, Luật Sở hữu trí tuệ). Thơng qua các văn bản này, Việt
Nam đã định hình và tạo khung khổ pháp lý cơ bản cho chế độ và hình thức sở hữu ở
Việt Nam, thừa nhận và bảo vệ tài sản thuộc sở hữu, thể chế hóa địa vị pháp lý, các
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, xác lập các quyền và nghĩa vụ kề cận.
Cụ thể, qua nhiều lần sửa đổi của Hiến pháp, các hình thức sở hữu cơ bản của KTTT
(sở hữu tư nhân, sở hữu chung) đã được ghi nhận bên cạnh các hình thức sở hữu đặc
trưng XHCN (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể). Trên cơ sở Hiến pháp 1992 (sửa đổi
năm 2001), 07 hình thức sở hữu (nhà nước, tập thể, tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của
tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp…) đã được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự
2005 và các văn bản trong các lĩnh vực cụ thể (ví dụ Luật Đất đai quy định về thực
hiện quyền đối với đất, Luật Đầu tư-Doanh nghiệp quy định về quyền đối với tài sản
đưa vào hoạt động kinh doanh) tạo thành các trụ cột cho pháp luật về quyền sở hữu,
làm cơ sở cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần.
Hiến pháp 2013 vừa mới thơng qua có điểm thay đổi lớn: khơng liệt kê một danh sách
giới hạn về hình thức sở hữu như các Hiến pháp trước đây mà tuyên bố ghi nhận sự đa
dạng hình thức sở hữu và quy định về sở hữu toàn dân. Hiến pháp mới cũng tuyên bố
rõ ràng về việc bảo hộ tài sản, theo đó tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư,
sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và khơng bị quốc hữu hóa. Đây được xem
là một bước tiến đặc biệt đáng kể trong pháp luật về sở hữu của Việt Nam và là điều
kiện tiên quyết để thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển KTTT.
Về sở hữu toàn dân, Hiến pháp 2013 quy định theo hướng liệt kê các loại tài sản thuộc
sở hữu toàn dân, bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở
vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý.
13


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Liên quan tới việc cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về sở hữu ở cấp Luật và văn bản

hướng dẫn, Dự thảo Bộ luật dân sự 2005 (dự kiến sẽ được thông qua vào cuối năm
2015) hiện đang dự kiến 03 hình thức sở hữu bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng
(sở hữu của 01 chủ thể là cá nhân hoặc pháp nhân) và sở hữu chung (sở hữu của từ 02
chủ thể trở lên, bao gồm sở hữu chung theo phần có thể phân chia và sở hữu chung hợp
nhất không thể phân chia). Dự thảo Bộ luật Dân sự cũng bao gồm các quy định cụ thể
hóa quyền sở hữu (các quyền năng thành phần, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ
sở hữu, quyền và nghĩa vụ của các bên thứ ba liên quan tới quyền sở hữu của chủ sở
hữu, các phương thức chuyển quyền sở hữu…)
Liên quan tới sở hữu toàn dân đối với một số loại tài sản nhất định (đặc biệt là đất đai
và các tài nguyên thiên nhiên - những loại tài sản thuộc sở hữu tồn dân, với tính chất
là các tư liệu sản xuất cơ bản hoặc có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế), pháp luật Việt
Nam đã có nhiều quy định tại các văn bản khác nhau trong nhiều văn bản luật (ví dụ
Luật quản lý và phát triển rừng, Luật khống sản, Luật tài ngun nước, Luật Bảo vệ
mơi trường) nhằm cụ thể hóa quyền chiếm hữu, sử dụng và chuyển giao tài sản, làm cơ
sở cho các hoạt động quản lý và phân phối lợi ích từ các tài sản này.
Đánh giá chung về chế định quyền sở hữu trong pháp luật Việt Nam, có thể thấy những
điểm nổi bật sau đây:
-

Về mức độ đầy đủ của các quy định về sở hữu
Với xuất phát điểm của Việt Nam là khơng thừa nhận rộng rãi các hình thức sở
hữu (trong đó có sở hữu tư nhân), đặc biệt là trước thời điểm Đổi mới 1986, có
thể nói về khía cạnh này hệ thống pháp luật Việt Nam về chế độ sở hữu đã đi
được một bước dài, dần dần từ việc ghi nhận rộng rãi hơn các hình thức sở hữu
theo kiểu liệt kê theo danh sách đóng (và vì vậy dù số lượng có nhiều hơn
nhưng vẫn là hạn chế) tới chỗ tuyên bố thừa nhận sự đa dạng của các hình thức
sở hữu tài sản (danh sách mở).
Do đó, về tổng thể, có thể thấy pháp luật về quyền sở hữu ở Việt Nam đã tương
đối đầy đủ, theo nghĩa là đã thiết lập được khung khổ pháp luật tương đối bao
quát về các hình thức sở hữu, làm cơ sở để vận hành các hoạt động kinh doanh,

thương mại trong nền kinh tế.
Về mặt nội dung, các quyền năng của quyền sở hữu (bao gồm quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt) được cụ thể hóa phù hợp với thông lệ quốc tế trong Bộ luật
dân sự. Các giao dịch liên quan tới quyền sở hữu (dưới dạng các hợp đồng mua
14


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
bán, tặng cho, cho thuê-mượn, cho vay, bảo đảm) cũng được quy định cụ thể
trong Bộ luật Dân sự (phần Nghĩa vụ dân sự và Hợp đồng dân sự) và chi tiết
trong các văn bản pháp luật kinh doanh (ví dụ Luật Thương mại quy định chi
tiết về hợp đồng thương mại). Các tài sản là đối tượng của quyền sở hữu (bất
động sản-động sản, tài sản vơ hình-hữu hình, hoa lợi, lợi tức, quyền tài sản)
cũng được quy định phù hợp với thông lệ quốc tế (trừ đất đai - theo quy định
riêng của Việt Nam). Đặc biệt, những loại tài sản được xem là ”mới” và rất có ý
nghĩa trong hoạt động sản xuất kinh doanh như tài sản trí tuệ cũng được ghi
nhận trong pháp luật Việt Nam (Phần Sở hữu trí tuệ trong Bộ luật Dân sự, Luật
Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn Luật) phù hợp với các chuẩn mực quốc
tế liên quan (các Công ước WIPO) cả về khía cạnh các loại quyền (tác quyền,
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp, bí mật kinh doanh) và nội
dung các quy định liên quan (điều kiện xác lập quyền, thời hạn bảo hộ quyền,
các nội dung quyền, các quy trình khiếu nại bảo vệ quyền).
Tuy nhiên, trong chi tiết, pháp luật về hình thức sở hữu vẫn còn hạn chế ở nhiều
điểm cụ thể, gây ra những rào cản, vướng mắc đáng kể cho các hoạt động
thương mại-đầu tư liên quan. Cụ thể, liên quan tới hình thức sở hữu toàn dân với
đại diện chủ sở hữu là Nhà nước, một hình thức sở hữu riêng có trong pháp luật
Việt Nam (khơng có trong thơng lệ quốc tế), các quy định về nội hàm của quyền
sở hữu cũng như về thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu và chủ thể liên
quan còn nhiều điểm chưa rõ, không hợp logic và gây vướng mắc trong thực
tiễn. Ví dụ, với tính chất là một hệ thống các cơ quan với cấu trúc/nhánh quyền

lực khác nhau chứ không phải một chủ thể đơn nhất thì Nhà nước là cơ quan
nào cụ thể? Nhà nước ở đây là trung ương hay địa phương? Tài sản thuộc sở
hữu toàn dân đầu tư trong các doanh nghiệp Nhà nước sẽ phân biệt như thế nào
với tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước (với tính chất là một pháp
nhân có tài sản độc lập)? Do những tài sản thuộc sở hữu tồn dân đồng thời là
những tài sản có giá trị lớn trong sản xuất kinh doanh, những tồn tại trong chính
sách pháp luật về sở hữu và thực thi quyền sở hữu/sử dụng các tài sản này đang
gây cản trở lớn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
-

Về mức độ minh bạch, hợp lý của các quy định về sở hữu

15


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Theo rà sốt của một nhóm chun gia phục vụ việc sửa đổi Hiến pháp thực
hiện năm 20101 thì trong khi các quy định chi tiết về nội hàm (cách thức bảo vệ,
triển khai, chuyển đổi..) các hình thức sở hữu thơng dụng (sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân, sở hữu chung,) đã được quy định khá chi tiết và cụ thể trong Bộ
luật Dân sự (đặc biệt là Bộ luật Dân sự 2005) thì 02 hình thức sở hữu đặc biệt,
riêng có của Việt Nam là sở hữu Nhà nước và sở hữu toàn dân còn rất mơ hồ,
thiếu minh bạch (tới Hiến pháp 2013 thì hình thức sở hữu Nhà nước đã khơng
cịn mà chỉ cịn sở hữu tồn dân và Nhà nước lại là đại diện chủ sở hữu, thống
nhất quản lý thực hiện tài sản thuộc sở hữu toàn dân).
Cụ thể, hiện cũng chưa rõ giải pháp quản lý tổng thể, đồng bộ và minh bạch đối
với các trường hợp thực thi quyền sử dụng, thu lợi từ các tài sản thuộc loại hình
sở hữu tồn dân này.
Ví dụ, dù đã có rất nhiều nỗ lực trong hoàn thiện pháp luật về đất đai, tài nguyên
nhưng pháp luật về các loại tài sản này hiện vẫn được cho là còn quá phức tạp,

nhiều tầng nấc, thiếu minh bạch, thậm chí mâu thuẫn, và vì vậy chưa đủ để có
thể quản lý, phân bổ sử dụng, kiểm soát các tài sản này theo cách thức phù hợp,
công bằng.
Theo như Nghiên cứu đề cập ở trên thì liên quan tới đất đai, các chuyên gia đã
khái quát các bất cập lớn nhất của chế định này là: “xác lập sở hữu rất khó, sử
dụng và chuyển dịch rất khó nhưng tước bỏ sở hữu thì rất dễ”. Liên quan tới tài
nguyên, ba nút thắt lớn nhất phải kể đến là cơ chế “xin - cho” với việc cấp phép
thăm dò và khai thác khoảng sản, việc phân cấp quá rộng rãi trong việc kiểm
soát thăm dị, khai thác khoảng sản cho chính quyền địa phương và áp dụng sự
can thiệp và kiểm soát của Nhà nước một cách quá chi tiết và phi kinh tế vào
các quyền khai thác khoảng sản của các chủ đầu tư.
-

Mức độ tin cậy, an toàn của quyền sở hữu
Việc Hiến pháp 2013 ghi nhận rõ ràng về việc pháp luật bảo hộ và khơng quốc
hữu hóa tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được
cho là một tun bố có tính nền tảng cho việc tạo an toàn cho quyền sở hữu, đặc
biệt là quyền sở hữu đối với tài sản đưa vào hoạt động sản xuất, kinh doanh.

1

Nghiên cứu “Hoàn thiện thể chế KTTT Việt Nam theo yêu cầu của Nghị quyết 48/NQ-TW” trong khuôn khổ
Dự án đánh giá thực hiện Nghị quyết 48/NQ-TW của Bộ Tư pháp của nhóm tác giả Đặng Văn Thanh – Trần Hữu
Huỳnh – Nguyễn Tiến Lập – Phạm Duy Nghĩa, 7/2010

16


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Tuy nhiên, điều này còn cần được cụ thể hóa trong pháp luật, đặc biệt là Bộ luật

Dân sự sửa đổi. Theo rà soát tổng kết Bộ luật Dân sự hiện hành thì văn bản này
cịn rất nhiều vướng mắc trong việc bảo vệ quyền sở hữu, đặc biệt là bảo vệ
quyền của người thứ ba ngay tình và bảo vệ sự ổn định của các quan hệ chuyển
giao quyền sở hữu. Cụ thể, các vấn đề liên quan tới chuyển quyền sở hữu (đặc
biệt trong các hợp đồng mua bán bất động sản) đang được quy định chưa phù
hợp, với những yêu cầu về hình thức khó thực hiện và các điều kiện vơ hiệu q
dễ dàng khiến giao dịch dễ bị đổ vỡ. Mức độ an tồn trong quyền sở hữu, vì vậy
cịn bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng và cần thiết phải được sửa đổi, hoàn thiện
trong thời gian tới.
Các giải pháp đề xuất
Hoàn thiện pháp luật về sở hữu nhằm đảm bảo việc ghi nhận đầy đủ, rõ ràng và hợp lý
về các hình thức sở hữu, nội dung của quyền sở hữu cũng như thực hiện quyền sở hữu
đang và sẽ còn là cơng việc địi hỏi Việt Nam phải tập trung xử lý trong thời gian tới.
Trước mắt, cần tập trung làm rõ các quy định về quyền sở hữu và các cơ chế kiểm soát,
giao quyền sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân trong Dự án sửa đổi Bộ luật
Dân sự, Luật Bảo vệ môi trường cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất
đai đang được tiến hành trong thời gian này.
4.1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu
Được đánh giá là tương đối đầy đủ về các chủ thể cũng như cơ ché giải quyết tranh
chấp nhằm bảo vệ quyền sở hữu, pháp luật Việt Nam trong vấn đề này lại rất hạn chế
trong hiệu quả thực hiện trên thực tế, từ đó ảnh hưởng đáng kể tới việc bảo vệ quyền sở
hữu nói chung.
Hiện trạng và đánh giá
Pháp luật tố tụng về bảo vệ quyền sở hữu ở Việt Nam bao gồm Bộ luật Dân sự, Bộ luật
tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật Thương mại, Luật trọng tài thương mại,
Luật lao động. Hệ thống này được xây dựng và điều chỉnh qua từng thời kỳ, cùng với
một lượng đồ sộ các văn bản cấp Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành đã tạo nên
một tồng thể pháp luật khá đầy đủ và bao trùm, phù hợp với thông lệ quốc tế trong lĩnh
vực này.
Đánh giá về chế định pháp luật tố tụng về bảo vệ quyền sở hữu, có thể thấy như sau:


17


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
-

Về mức độ đầy đủ của hệ thống các chủ thể giải quyết tranh chấp và hệ thống
thực thi phán quyết
Với các văn bản pháp luật hiện hành, Việt Nam đã có đủ các hình thức giải
quyết tranh chấp liên quan tới tài sản theo thông lệ thế giới, bao gồm hệ thống
Tòa án, hệ thống các giải quyết khiếu nại hành chính, hệ thống các cơ chế giải
quyết tranh chấp lựa chọn (trọng tài, trung gian, hịa giải).
Các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cũng như phương thức tố tụng
giải quyết tranh chấp cũng rất gần với thế giới (với việc học tập các mơ hình
giải quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới, đặc biệt cho các cơ chế giải quyết
tranh chấp lựa chọn).
Với hệ thống này, các tranh chấp liên quan tới quyền sở hữu nếu phát sinh về
nguyên tắc là có thể được giải quyết theo các cơ chế khác nhau, linh hoạt và phù
hợp với nhu cầu của các chủ thể liên quan.

-

Mức độ hiệu quả của các quyết định giải quyết tranh chấp về tài sản và quyền
sở hữu
Một tranh chấp về sở hữu được giải quyết thông qua một quyết định/phán quyết
của tổ chức giải quyết tranh chấp không đồng nghĩa với việc quyền sở hữu được
bảo vệ. Cần thêm một bước nữa là thực thi phán quyết/quyết định đó. Vì vậy
tính hiệu quả của hệ thống thực thi phán quyết là chỉ số có ý nghĩa cho phép
đánh giá hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu.

Xét từ góc độ này, hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu của Việt Nam còn
khá nhiều hạn chế.
Theo Kết quả Khảo sát Chỉ số Cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 20132 của VCCI
thì có tới 18% số doanh nghiệp khơng đồng tình với nhận định ”tin tưởng rằng
hệ thống tòa án, thi hành án của tỉnh sẽ bảo vệ hợp đồng và các quyền tài sản
của tôi trong các tranh chấp liên quan đến hoạt động kinh doanh”. Đối với
trường hợp đã từng đưa tranh chấp ra Tịa án để giải quyết thì tỷ lệ khơng đồng
tình với nhận định này cao hơn gần gấp đôi (32%). Kết quả này cho thấy niềm
tin của doanh nghiệp nói chung vào hệ thống Tòa án và thi hành án Việt Nam

2

Khảo sát Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2013. Trong PCI có một chỉ số trong 10 chỉ số thành
phần là Thiết chế pháp lý đánh giá sự thuận lợi, công bằng và minh bạch trong giải quyết tranh chấp của các cơ
quan tư pháp tại địa phương. Điều tra PCI là một trong những điều tra doanh nghiệp lớn nhất ở Việt Nam, được
VCCI thực hiện hàng năm từ năm 2005

18


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
thấp, và với những trường hợp đã từng trải nghiệm thực tiễn giải quyết tranh
chấp thì niềm tin này cịn thấp hơn nữa.
Có thể có nhiều ngun nhân dẫn tới thực tế này, bao gồm cả các nguyên nhân
thực tiễn (tâm lý tránh tranh chấp tại Tòa, thái độ nghi ngờ cố hữu đối với Tòa
án, năng lực của thẩm phán, hiệu quả thực thi các quy định không cao, không
triệt để, không quyết liệt). Tuy nhiên, những bất cập trong hệ thống các quy
định pháp luật về tố tụng, đặc biệt là về thi hành án là rất rõ ràng bởi nếu quy
định pháp luật chặt chẽ và có cơ chế tốt, khả thi thì việc thi hành được suy doán
là sẽ hiệu quả.

Nhận định

Tỷ lệ DN khơng đồng tình với nhận định
Trên tổng số 8093 Trên 347 doanh nghiệp
doanh nghiệp trả lời thuộc diện có sử dụng tòa
Khảo sát PCI2013
án trong 3 năm gần nhất

Phán quyết cơng bằng

15%

24%

Chi phí chấp nhận được

24%

26%

Tịa án xét xử nhanh chóng

41%

57%

Tịa án xét xử đúng pháp luật

11%


21%

Nguồn: Kết quả khảo sát PCI 2013
Theo kết quả khảo sát này thì một trong những quan ngại lớn nhất của doanh
nghiệp trong việc sử dụng hệ thống Tòa án là vấn đề thời gian (các thời hạn xét
xử) và chi phí (ở đây bao gồm cả chi phí chính thức và khơng chính thức). Mà
những vấn đề này hồn tồn có thể được khắc phục bằng các quy định pháp luật
chặt chẽ hơn về các thời hạn và về các hạn chế tiếp xúc giữa thẩm phán và các
chủ thể liên quan.
-

Về mức độ hiệu quả của các quyết định giải quyết tranh chấp về tài sản và
quyền sở hữu
Theo pháp luật Việt Nam, một tranh chấp về sở hữu được giải quyết thông qua
một quyết định/phán quyết của tổ chức giải quyết tranh chấp không đồng nghĩa
với việc quyền sở hữu đã được bảo vệ hoàn hảo. Cần thêm một bước nữa là thực
19


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
thi phán quyết/quyết định đó. Trong pháp luật thì đây là chế định về thi hành án
(với các cơ chế và điều kiện để trong trường hợp bên phải thi hành phán quyết
không tự nguyện thi hành thì các cơ quan pháp luật buộc họ phải thực hiện việc
này).
Hiện tại, pháp luật về thi hành án được quy định tập trung tại Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 và các văn bản liên quan. Tuy nhiên, theo một báo cáo của
Tổng cục thi hành án – Bộ Tư pháp thì tỷ lệ thi hành án thành cơng là rất thấp.
Nói cách khác, bức tranh về thi hành án ở Việt Nam khá là ảm đạm.
Tỉnh


Tỷ lệ thành công

Tỉnh

Tỷ lệ thành công

Bắc Ninh

33%

Hưng Yên

73%

Hà Nội

36%

Nam Định

71%

Hải Dương

41%

Thái Ngun

38%


Hải Phịng

30%

TP Hồ Chí Minh

28%

Nguồn: Báo cáo của Tổng cục thi hành án – Bộ Tư pháp
Với tỷ lệ thành cơng như trên, có thể thấy hoạt động thi hành án ở Việt Nam hầu
như không hiệu quả. Việc bảo vệ quyền sở hữu cho các bên liên quan thông qua
các cơ chế giải quyết tranh chấp chính thức ở Việt Nam, vì vậy cũng đang đặt ra
vấn đề lớn. Theo một khảo sát nhanh của VCCI năm 2014 với khoảng 60 doanh
nghiệp thì phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng dịch vụ đòi nợ (hợp pháp) và
đòi nợ theo kiểu ”xã hội đen” nhanh gọn và hiệu quả hơn nhiều.
Khởi kiện tại Tòa Dịch vụ thu nợ Thu nợ kiểu ”xã
và thi hành án
hợp pháp
hội đen”
Thời gian

400 ngày

60-90 ngày

15-30 ngày

Chi phí

20-30%


20-50%

40-70%

(chưa kể chi phí (chỉ phải trả khi
lót tay và phải trả thu nợ thành
trong mọi trường công)
20


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
hợp)
Tỷ lệ thành công

50-60%

70-80%

80-90%

Nguồn: Khảo sát nhanh của VCCI tháng 4/2014
Bên cạnh lý do truyền thống là việc thực thi pháp luật về thi hành án chưa
nghiêm túc, thiếu triệt để, những nguyên nhân xuất phát từ các bất cập trong
pháp luật về thi hành án cũng được tính đến, đặc biệt là các thời hạn khơng có
hoặc khơng rõ ràng, hay những thủ tục khơng khả thi, đặt gánh nặng quá lớn lên
vai bên yêu cầu thực thi (ví dụ trách nhiệm phải xác minh tài sản của bên phải
thi hành án).
Các giải pháp đề xuất
Với những bất cập trong quy định và thực thi, rõ ràng là hệ thống pháp luật Việt Nam

về bảo vệ quyền sở hữu thông qua các cơ chế giải quyết tranh chấp cần phải được cải
cách một cách sâu sắc và tồn diện theo hướng chi tiết hóa các cơ chế nhằm nâng cao
hiệu quả xét xử và thi hành án dân sự và tăng cường năng lực và nguồn lực cho các
thiết chế giải quyết tranh chấp kinh tế, dân sự (tòa án, trọng tài, trung gian hòa giả).
Trước mắt, các giải pháp này cần được thể hiện trong Bộ luật tố tụng dân sự và Luật thi
hành án dân sự sửa đổi.
4.1.3. Về chất lượng của hệ thống pháp luật về kinh tế
Các nghiên cứu về chất lượng hệ thống pháp luật thường nhìn nhận từ 03 chỉ số: tính
thống nhất giữa các quy định, văn bản trong hệ thống pháp luật, tính minh bạch và tính
hợp lý trong nội dung các quy định. Kết quả phân tích cho thấy trong cả ba chỉ số này,
pháp luật Việt Nam đều chỉ được đánh giá ở mức độ trung bình và cịn rất nhiều việc
phải làm để các quy định pháp luật Việt Nam thực sự có chất lượng.
Hiện trạng và đánh giá
Cùng với quá trình thay đổi nhận thức về pháp luật, về thị trường và quá trình hội nhập,
học tập từ thế giới cũng như chịu sức ép cải cách từ các đối tác, chất lượng các quy
định pháp luật nói chung và pháp luật về kinh doanh nói riêng của Việt Nam đang
được cải thiện mạnh mẽ. Các quy định không chỉ rõ ràng hơn, minh bạch hơn mà còn
thể hiện đúng hơn bản chất kinh tế thị trường cũng như điều chỉnh hợp lý hơn giữa các
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh và giữa các chủ thể này với Nhà nước.

21


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Với các đổi mới trong quy trình ban hành văn bản pháp luật về các cơ chế kiểm soát,
thẩm định, số lượng các văn bản chồng chéo, mẫu thuẫn nhau cũng giảm dần.
Mặc dù vậy, chất lượng của hệ thống pháp luật về kinh doanh vẫn còn ở khoảng cách
khá xa so với kỳ vọng. Cụ thể, theo Chỉ số về hiệu quả hoạt động xây dựng và thi hành
pháp luật về kinh doanh của các Bộ (Chỉ số MEI) mà VCCI thực hiện từ năm 2011 trên
cơ sở khảo sát các Hiệp hội doanh nghiệp cấp tỉnh và trung ương trên tồn quốc thì

chất lượng các văn bản pháp luật về kinh doanh, mặc dù là một trong các chỉ số mà các
Bộ được đánh giá cao nhất trong MEI, chỉ có điểm số ở mức trung bình và cịn ở rất xa
so với kỳ vọng của cộng đồng ở tất cả các khía cạnh (tính thống nhất, minh bạch và
hợp lý).
Cụ thể, theo kết quả MEI2012, chất lượng các văn bản pháp luật về kinh doanh của 14
Bộ ngành được chấm điểm như sau (trên thang điểm tổng là 100 điểm).
Bảng – Chỉ số chất lượng văn bản pháp luật của các Bộ năm 2012
Lĩnh vực VBPL

Tính hợp Trung
thống lý
bình/100
điểm

Tính
bạch

minh Tính
nhất

Bộ Cơng thương

57.64

58.83

57.78 58.08

Bộ Giao thông vận tải


50.48

57.50

57.55 55.18

Bộ Kế hoạch đầu tư

59.56

59.90

59.31 59.59

Bộ Khoa học Công nghệ 61.29

63.64

62.98 62.64

Bộ Lao động

63.12

64.62

62.01 63.25

Bộ Nông nghiệp


62.28

62.08

62.86 62.41

Bộ Tài chính

55.52

58.39

57.65 57.19

Bộ Tài ngun Mơi
trường
52.12

55.41

54.50 54.01

Bộ Thơng tin truyền
thông
60.34

63.11

62.13 61.86


22


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Bộ Tư pháp

57.23

56.46

59.53 57.74

Bộ Văn hóa thể thao du
lịch
61.71

62.48

61.60 61.93

Bộ Xây dựng

51.05

51.81

53.26 52.04

Bộ Y tế


53.20

54.85

54.67 54.24

Ngân hàng Nhà nước

55.27

55.47

55.45 55.40

Trung bình

57.20

58.90

Nguồn: Dữ liệu Khảo sát MEI 2012 – VCCI

23

58.66 58.25


BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Các giải pháp đề xuất
Nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật Việt Nam đòi hỏi sự thay đổi và cải thiện

ở nhiều khía cạnh, liên quan trực tiếp và đồng thời tới nhiều lĩnh vực.
Trước mắt, cần tập trung vào việc thiết lập các yêu cầu về chính sách rõ ràng đối với
mỗi văn bản soạn thảo để dựa vào đó đánh giá chất lượng soạn thảo (có đáp ứng đúng
u cầu chính sách ban đầu không) cũng như đặt ra các chỉ số rõ ràng trong thẩm tra,
thẩm định các dự thảo văn bản pháp luật trong quá trình soạn thảo và cụ thể hóa các cơ
chế để cộng đồng tham gia vào quá trình soạn thảo trong Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật sửa đổi mà hiện Bộ Tư pháp đang chịu trách nhiệm soạn thảo.
4.1.4. Sự tham gia của khu vực tư nhân vào hoạch định chính sách, pháp luật kinh
tế
Quyền tham gia của xã hội dân sự nói chung và của doanh nghiệp nói riêng vào q
trình điều hành kinh tế thông qua pháp luật không chỉ là một biểu hiện của nền dân
chủ. Đây còn là yếu tố quan trọng đánh giá mức độ “tự do” của các chủ thể kinh tế
trong một nền kinh tế thị trường mà ở đó tiếng nói, quan điểm của các chủ thể này
được tính đến trong q trình hoạch định và thực thi chính sách pháp luật. Ở góc độ
này, có thể nói Việt Nam đã đi được một bước tiến dài từ chỗ Nhà nước độc quyền
trong xây dựng chính sách pháp luật tới chỗ quyền tham gia ý kiến của công chúng và
nghĩa vụ tham vấn của các cơ quan Nhà nước được ghi nhận thành các cơ chế chính
thức bắt buộc. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế của việc tham vấn cơng – tư này cịn rất hạn
chế.
Hiện trạng và đánh giá
Từ góc độ các quy định, tại Việt Nam, sự tham gia của doanh nghiệp vào quá trình
soạn thảo các văn bản pháp luật bắt đầu vào khoảng cuối những năm 90 với sự có mặt
của đại diện cộng đồng doanh nghiệp trong quá trình soạn thảo Luật Doanh nghiệp
1999, văn bản luật tạo khung khổ và dấu ấn quan trọng trong lịch sự hệ thống pháp luật
về kinh tế Việt Nam. Năm 2005, với Nghị định 61/2005/NĐ-CP, sự tham gia của cộng
đồng doanh nghiệp vào quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật về kinh doanh đã
chính thức được thể chế hóa và được tiếp tục khẳng định trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2008 và Nghị định 24/2009/NĐ-CP hướng dẫn Luật này.
Ở khía cạnh chính sách thương mại quốc tế, sự tham gia của doanh nghiệp vào quá
trình đàm phán các cam kết được ghi nhận muộn hơn và ở cấp thấp hơn, tại Quyết định

06/2012/QĐ-TTg năm 2012.
24


×