Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

NỢ XẤU NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH KHÁNH HÒA VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT NỢ XẤU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.94 KB, 13 trang )

1

NỢ XẤU NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH KHÁNH
HÒA VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT NỢ XẤU
Thái Ninh, khoa Kế toán - tài chính
I. TÓM TẮT
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, đặc biệt giai đoạn từ cuối 2007 đến đầu năm 2013,
hàng loạt ngân hàng trên thế giới công bố thua lỗ về kết quả hoạt động kinh doanh, mất khả
năng thanh toán, nợ xấu vượt mức cho phép dẫn đến tình trạng các hàng loạt các ngân hàng
bị mua lại và phá sản.
Chính phủ các quốc gia trên thế giới cũng như Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Tiền
tệ Quốc tế (IMF) đã đưa nhiều giải pháp nhằm giải cứu ngành ngân hàng khỏi phá sản.
Trong bối cảnh này các ngân hàng thương mại Việt Nam có tỷ lệ nợ xấu cao nhất khu vực
Đông Nam Á, đặc biệt là Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa cũng lâm vào tình
trạng này. Tỷ lệ nợ xấu những năm qua tăng cao do tín dụng được bơm bừa bãi để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế. Bối cảnh u ám của kinh tế toàn cầu cũng như trong nước trong những
năm gần đây đã hạn chế đáng kể khả năng giải quyết nợ xấu của NHPT chi nhánh Khánh
Hòa. Vào 09/2012, hãng xếp hạng tín dụng Moody's hạ bậc tín nhiệm đối với Việt Nam xuống
mức thấp nhất từ trước đến giờ với lý do hệ thống ngân hàng cần "sự hỗ trợ đáng kể".
Để giải quyết nợ xấu ngân hàng, có nhiều phương thức như thay đổi về chính sách
quản trị, thay đổi về kết cấu tài chính, bán nợ xấu…Tác giả chọn đề tài bán nợ xấu tại NHPT
chi nhánh Khánh Hòa nhằm mục đích phân tích, đưa ra cái nhìn tổng quan về biện pháp giải
quyết nợ xấu của NHPT chi nhánh Khánh Hòa trong bối cảnh hiện nay nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ổn định.

II. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ
1. Cơ sở lý luận về nợ xấu ngân hàng và mua bán nợ xấu
1.1. Nợ xấu:
Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, đã quá hạn và bị nghi ngờ
về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi
các con nợ đã làm ăn thua lỗ liên tục, tuyên bố phá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu


gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc thường quá ba tháng, căn cứ vào khả
năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm nợ thích hợp.
Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết định 493/2005/QĐ-Ngân hàng Nhà
nước ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ


2

được phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4 (nghi ngờ) và nhóm 5 (có khả năng
mất vốn).”
Cụ thể nhóm 3 trở xuống gồm các khoản nợ quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90
ngày, đồng thời tại Điều 7 của Quyết định nói trên cũng quy định các ngân hàng
thương mại căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng để hạch toán các khoản vay
vào các nhóm thích hợp.
* Như vậy nợ xấu được xác định theo 2 yếu tố (định nghĩa của VAS):
- Đã quá hạn trên 90 ngày
- Khả năng trả nợ đáng lo ngại.
* Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống kê – Liên hợp quốc, “về cơ bản
một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc
các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả
theo thoả thuận; Như vậy, nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i)
quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của
IAS đang được áp dụng phổ biến hiện hành trên thế giới.
1.2. Mua, bán nợ
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản đặc
biệt là các "khoản nợ phải thu" từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thực chất, đó là
việc chuyển nhượng lại "quyền thu hồi nợ" từ một "khoản nợ phải thu" của bên Bán nợ
(chủ nợ) đối với Khách nợ sang cho bên Mua nợ để bên Mua nợ trở thành chủ nợ mới
của bên Khách nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản
nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ).

Ví dụ: Bên A (chủ nợ) có "khoản nợ phải thu" 1.000trđ đối với Bên B (khách nợ) do
phát sinh trong một quan hệ kinh tế giữa 2 bên. Đến hạn Bên A cần thu hồi phần tài
sản này để đầu tư vào một dự án khác nhưng Bên B chưa thanh toán được do khó khăn
về tài chính. Bên A bán khoản nợ phải thu này cho Bên mua nợ với giá X$, đồng thời
chuyển giao toàn bộ "quyền thu hồi nợ" cho Bên mua nợ để Bên mua nợ trở thành chủ
nợ mới của Bên B và khi đó Bên B có trách nhiệm thanh toán 1000trđ cho Bên mua nợ
mà không phải thanh toán cho Bên A nữa.


3

1.3. Mục tiêu của bán nợ xấu:
Mục tiêu chính của bán nợ xấu là góp phần xử lý nợ xấu của các tổ chức tín
dụng về mức an toàn; thêm khả năng tái tạo vốn cho ngân hàng để thúc đẩy nguồn cho
vay đối với nền kinh tế; góp phần giảm lãi suất cho vay.
1.4. Nguyên nhân của nợ xấu:
1.4.1. Do bản thân ngân hàng
- Ngân hàng không có đủ thông tin chính xác để phân tích và đánh giá khách
hàng, dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của phương án xin vay hoặc xác định thời
hạn cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của khách hàng.
- Đạo đức nghề nghiệp không tốt cùng năng lực chuyên môn của một số cán bộ
ngân hàng chưa theo kịp yêu cầu; tiêu cực trong khâu lập phương án, thẩm định, xét
duyệt và theo dõi khoản vay
- Sự lơi lỏng trong công tác thanh, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay làm
cho ngân hàng không phát hiện kịp thời vốn vay đã sử dụng sai mục đích
- Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng gay gắt dẫn đến chạy theo qui mô, bỏ qua
các tiêu chuẩn, điều kiện cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay
- Chạy theo thành tích số lượng, chỉ tiêu kế hoạch mà xem nhẹ chất lượng tín
dụng, quá tin vào phương án kinh doanh của khách hàng.
1.4.2. Do bản thân người đi vay

- Năng lực quản lý kinh doanh hạn chế; nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nhiều
lĩnh vực vượt quá khả năng quản lý; qui mô kinh doanh phình to so với tư duy quản lý
là nguyên nhân dẫn đến phá sản của các phương án kinh doanh khả thi lẽ ra nó phải
thành công trong thực tế.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp không minh bạch, yếu kém. Qui mô vốn
chủ sở hữu nhỏ bé, cơ cấu tài chính thiếu cân đối; công tác quản lý tài chính - kế toán
tùy tiện, mang tính đối phó dẫn đến thông tin ngân hàng có được khi lập các bảng phân
tích tài chính, đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp không chính xác, chỉ hình
thức, không thực tế, sai lệch quá nhiều và rủi ro xãy ra là đương nhiên.
1.4.3. Nguyên nhân khách quan:
- Những bất cập trong cơ chế quản lý nhà nước, để tăng trưởng kinh tế đạt mục
tiêu kế hoạch hằng năm, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được ưu ái khi vay vốn,


4

có những dự án lớn chỉnh phủ đứng ra bảo lãnh để vay vốn đầu tư, khi hoạt động bị
thua lỗ dẫn đến mất khả năng chi trả nợ vay ngân hàng.
- Những nguyên nhân bất khả kháng khác như khủng hoảng kinh tế, thiên tai,
dịch bệnh.
1.5. Hậu quả của nợ xấu
Ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân
hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này dẫn đến ngân
hàng mất khả năng thanh khoản. Kết quả làm thu hẹp qui mô kinh doanh, năng lực tài
chính của ngân hàng giảm sút, dẫn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thua lỗ.
Khi một ngân hàng bị rủi ro tín dụng lớn, sẽ ảnh hưởng đến người gởi tiền làm
cho người gởi tiền hoang mang, lo sợ và kéo nhau đến rút tiền, không những ở ngân
hàng bị sự cố mà còn ở những ngân hàng khác, làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng
gặp khó khăn trong thanh khoản, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến hệ thống ngân
hàng bị phá sản, gây hậu quả xấu cho nền kinh tế.

2. Thực trạng nợ xấu các ngân hàng thương mại trong cuộc khủng hoảng tài
chính, đánh giá, nhận xét các giải pháp thực hiện
2.1. Tổng quan về tình hình nợ xấu trên thế giới
Nợ xấu là “cục máu đông” mà nhiều nền kinh tế trên thế giới bị “nhiễm” với
các mức độ khác nhau và mỗi quốc gia có đơn thuốc trị bệnh khác nhau, phụ thuộc vào
đặc điểm của mỗi nước.
Hai cường quốc kinh tế Hoa Kỳ, Trung Quốc từng “gánh” khoản nợ xấu cao
ngất ngưởng. Hệ thống tài chính ngân hàng rơi vào tình trạng báo động cao nhất và rất
nhiều ngân hàng đã phải “trả giá”. Theo ngân hàng Phát triển châu Á – ADB, năm
2003, Trung Quốc có bốn ngân hàng Thương mại (NHTM) quốc doanh lớn nhất với
tổng tài sản khoảng 15.200 tỷ Nhân dân tệ (NDT), chiếm khoảng 55% tổng tài sản của
hệ thống tài chính đã lâm vào tình trạng nợ xấu vượt mức giới hạn cho phép. Điều này
không mấy khác so với tình trạng cho “vay dưới chuẩn” (vay với mức độ rủi ro cao)
của các ngân hàng ở Hoa Kỳ giai đoạn trước khủng hoảng kinh tế tài chính 2008.
Trước thực trạng nợ xấu tăng đột biến có thể đánh đổ tất cả các
ngân hàng, cả Hoa Kỳ và Trung Quốc đã có những động thái “không


5

hẹn mà gặp” để đến một mục tiêu chung là giải cứu nền kinh tế nước
nhà.
Cả hai đều tung chính sách chứng khoán hóa các khoản nợ xấu
của các NHTM. Đây được xem là chính sách ưu tiên và trọng tâm
trong chuỗi giải pháp của hai nước. Ngân hàng trung ương Trung
Quốc PBC đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản, có trách nhiệm xử lí
nợ xấu cho một số NHTM quốc doanh. Các công ty này chịu sự quản
lý và chỉ đạo đồng thời của Bộ Tài chính và liên hệ chặt chẽ với các
NHTM. Các công ty này đã mạnh dạn cho chứng khoán hóa các
khoản nợ của NHTM và mua lại chúng nhằm thổi vốn vào tình trạng

cạn kiệt của các ngân hàng.
Trong khi đó, Bộ Tài chính, Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi liên
bang (FDIC) và Cục Dự trữ liên bang (FED) của Hoa Kỳ đã cho ra đời
ngân quỹ (dưới dạng các gói tiền 200 tỷ USD, 500 tỷ USD hay thậm
chí là 700 tỷ USD) nhằm bảo lãnh cho việc chứng khoán hóa các
khoản nợ xấu.
Đây là hai động thái giống nhau về bản chất, chính là mua cổ
phiếu ưu đãi – mua cổ phiếu với mức lợi tức không phụ thuộc vào lợi
nhuận và cũng không được tham gia điều hành ngân hàng – do các
NHTM phát hành nhằm tạo vốn cho các NHTM đang lâm nợ có thể tái
cấu trúc. Đồng thời, đây là cách tối ưu hóa việc chia nhỏ rủi ro tín
dụng của NHTM đến các nhà đầu tư thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, hai cường quốc này còn áp dụng biện pháp mua
lại nợ xấu cho các NHTM. Các khoản nợ xấu sẽ được phân loại và
được các công ty nợ xấu hoặc các tổ chức tương tự mua lại. Động
thái này một mặt tạo vốn cho các NHTM để hoạt động trong thời gian
cấp bách, một phần khiến các nhà đầu tư lạc quan hơn, kích thích
kênh đầu tư tạo cơ hội cho nền kinh tế tái hoạt động. Để bổ trợ cho
giải pháp này, các công ty nợ xấu còn giúp những NHTM yếu kém
giải quyết các vấn đề thanh khoản tạm thời nhằm tạo động lực cho
việc tái cấu trúc hệ thống.


6

Cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng xảy ra tại Cộng hòa
Ireland vào cuối năm 2008 và đầu năm 2009, đã để lại số lượng lớn
các khoản nợ xấu. Để đối phó với cuộc khủng hoảng ngày càng trở
nên nghiêm trọng, Chính phủ Ireland đã đưa ra sáng kiến thành lập
công ty mua bán nợ quốc gia (NAMA) năm 2009 nhằm lành mạnh hệ

thống ngân hàng. Trong giai đoạn đầu, NAMA đã mua hoặc chuyển
nhượng tài sản nợ trị giá 71 tỷ bảng Anh từ 850 con nợ và hơn
11.000 khoản nợ được thế chấp bằng 16.000 công trình bất động
sản. Để có được các khoản nợ này, NAMA đã phát hành chứng khoán
do chính phủ bảo lãnh cho 5 đơn vị thành viên của mình. NAMA có
nhiệm vụ hoạt động làm sao đem lại kết quả kinh doanh tốt nhất cho
nhà nước từ những tài sản mua được. Ở vào thời kỳ đầu, NAMA đã
mua được 11.500 khoản vay nợ liên quan đến đất đai và nhà cửa từ
5 định chế nêu trên và tiếp theo sau đó là xây dựng mối quan hệ sâu
rộng với các con nợ để hiểu rõ thêm hoạt động kinh doanh của họ và
bắt đầu xây dựng một chiến lược trả nợ. Giai đoạn cuối cùng và lâu
dài nhất là đề ra một loạt các cột mốc cắt giảm nợ nhằm hoàn tất
việc chi trả đầy đủ nghĩa vụ của cả các con nợ và các khoản vay của
NAMA vào năm 2019.
Nhiều nước ở châu Á như Indonesia, Malaysia, Hàn Quốc và
Thái Lan đã thành lập công ty quản lý tài sản tập trung để xử lý nợ,
thu hồi và cơ cấu lại các khoản nợ xấu của ngân hàng. Một đặc điểm
chung của các công ty này là tất cả đều được Chính phủ tài trợ vốn,
tổ chức tập trung hơn là sử dụng mô hình chỉ dựa vào ngân hàng.
Hầu hết các công ty quản lý tài sản ở các nước châu Á chỉ hoạt động
trong một số năm nhất định. Các công ty này cũng có quyền hạn đặc
biệt để cắt giảm một số thủ tục pháp lý. Thái Lan thực hiện xử lý nợ
xấu bằng 3 giải pháp cơ bản. Các giải pháp này bao gồm:
- Bơm vốn trực tiếp.
- Thành lập công ty quản lý tài sản AMC (Asset Management
Company)


7


- Trung gian tái cơ cấu nợ CDRC (Corporate Debt Restructuring
Committee)
Trong đó AMC là một trong những giải pháp mà Thái Lan đã áp
dụng khá hiệu quả từ thời kỳ khủng hoảng cho đến nay.
Đối với các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ,
AMC thực hiện tịch thu tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn
phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời-lỗ. Đối với các khoản
vay mà AMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, AMC đã chủ động phối
hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra các
giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu
vực đó, tạo nguồn vốn trả nợ. Và chỉ sau vài năm, hết quý 2/2003 số
nợ xấu được AMC giải quyết đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ
nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Thái Lan giảm rõ rệt
xuống từ gần 13% năm 2003 xuống 10% năm 2004 và đến quý
4/2011 ở mức không quá 4%.
Bên cạnh đó, một giải pháp được các các nước sử dụng là gắn
giải quyết nợ xấu với tái cấu trúc ngân hàng và tái cấu trúc kinh tế.
Biện pháp này được đánh giá là mang tính cơ bản, vì ngoài vấn đề xử
lý nợ xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ xấu gia tăng.
Đối với Nhật Bản, họ tập trung nhiều hơn vào việc tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng. Không giống với một số nước, toàn bộ số tiền
thành lập Tập đoàn Tái thiết công nghiệp Nhật Bản (IRCJ) là của các
ngân hàng chứ không phải từ nhà nước. Cách làm của IRCJ là lựa
chọn các tập đoàn, công ty cần phải tái thiết, sau đó sẽ tách đơn vị
ấy thành nhiều phòng, ban và đánh giá hiệu quả hoạt động của từng
phòng, ban. Nếu một ban không sinh lời, tập đoàn có thể bán ban đó
kèm chiết khấu dựa vào giá trị tài sản sau khi định giá. Cuối cùng,
nguồn lực sẽ được một cách có chọn lọc vào những phòng, ban làm
ăn có lãi hoặc có sức cạnh tranh.
2.2. Tổng quan về tình hình nợ xấu tại Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh

Hòa


8

Bảng 1. Bảng thống kê nợ xấu tại NHPT chi nhánh Khánh Hòa
(Đvt: triệu đồng)
STT

Chỉ tiêu
Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
1 Tổng dư Nợ cho vay
1,050,835
1,112,239
1,014,818
2 Nợ xấu
350,326
530,926
3 Tỷ lệ nợ xấu
31.50%
52.32%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)

Nhận xét: Tỷ lệ nợ xấu 2 năm 2011 và 2012 rất cao, năm sau cao hơn năm trước và
đều vượt ngưỡng cho phép ≤ 5% (theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN); nguyên
nhân nào NHPT chi nhánh Khánh Hòa có tỷ lệ nợ xấu quá cao?
Bảng 2: Dư Nợ cho vay theo thời gian:
(Đvt: triệu đồng)

T

Năm 2010
Năm 2011
Năm 2012
T
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1 Ngắn hạn
55,033
5.2%
66,246
6%
6,998
0.7%
2 Trung dài hạn
995,802
94.8% 1,045,993
94% 1,007,820
99.3%
3 Tổng dư Nợ
1,050,835
100.% 1,112,239
100% 1,014,818 100.0%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)
Chỉ tiêu


Do nhiệm vụ hoạt động của NHPT chi nhánh Khánh Hòa thực hiện việc huy
động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín dụng đầu tư
phát triển và tín dụng xuất khẩu theo chương trình, dự án phát triển kinh tế của địa
phương và quốc gia nên hoạt động tín dụng chủ yếu là cho vay trung, dài hạn và khi
nền kinh tế suy thoái thì rủi ro tín dụng rất cao dẫn đến nợ xấu tăng vọt.
Bảng 3: Dư Nợ cho vay theo loại hình tổ chức, cá nhân
(Đvt: triệu đồng)
S
TT
1
2
3
4

Loại hình
DNNN, TNHH
CTCP có vốn NN
CTCP, TNHH
DNTN, Cá thể

3 Tổng dư Nợ

Năm 2010
Số tiền
%
271,762
205,189
555,472
18,412


25.9%
19.5%
52.9%
1.8%

Năm 2011
Số tiền
%

Năm 2012
Số tiền
%

200,299
197,245
627,089
87,606

178,212 17.6%
123,015 12.1%
651,412 64.2%
62,179
6.1%

18.0%
17.7%
56.4%
7.9%


1,050,835
100% 1,112,239 100% 1,014,818 100%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)


9

Qua bảng 3, các công ty cổ phần, công ty TNHH chiếm tỷ trọng vay cao nhất
theo chủ trương ưu đãi tín dụng đầu tư và xuất khẩu cho DN nhỏ và vừa của Chính
phủ và của tỉnh Khánh Hòa qua các năm, tiếp đến là các DNNN và DN có vốn nhà
nước vay theo kế hoạch đầu tư để tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch và khi nền kinh tế
suy thoái thì các loại hình DN này khó chống đỡ và dẫn đến mất khả năng chi trả các
khoản nợ đến hạn trả, điều này dẫn đến nợ xấu của NHPT chi nhánh KH tăng mạnh
trong 2 năm 2011 và 2012
Bảng 4. Thống kê nợ xấu năm 2012 theo loại hình tổ chức, cá nhân
(Đvt: triệu đồng)
Năm 2012
số tiền
%
1 DNNN, TNHH vốn NN
268,125
50.5%
2 CTCP có vốn NN
0.0%
3 CTCP, TNHH
\248,041
46.7%
4 DNTN, KT Cá thể
14,760
2.8%

3 Tổng Nợ xấu
\ 530,926
100%
(nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Khánh Hòa)
STT

Loại hình

Tỷ lệ nợ xấu của DNNN, TNHH vốn NN chiếm tỷ trọng 50.5% cao nhất trong
các loại hình tổ chức, cá nhân vay vốn của NHPT chi nhánh Khánh Hòa, thực trạng
này phổ biến ở hầu hết các ngân hàng thương mại, do chính sách hỗ trợ tín dụng đầu
tư và tín dụng xuất khẩu ưu ái cho các DNNN để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhưng
các DNNN và các CTy có vốn nhà nước này có năng lực quản lý yếu kém, cán bộ bị
tha hóa trong nền kinh tế thị trường, dự án đầu tư kéo dài, hoạt động kinh doanh thua
lỗ, mất khả năng trả nợ điều này dẫn đến nợ xấu của NHPT chi nhánh KH tăng mạnh
qua 2 năm 2011 và 2012
Loại hình CTCP, TNHH có nợ xấu chiếm tỷ trọng lớn thứ nhì 46.7% trong tổng
nợ xấu, đây là loại hình DN nhỏ và vừa được ưu đãi vay vốn đầu tư theo chính sách ưu
đãi để xuất khẩu nhằm tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm của nhà nước; khủng
hoảng kinh tế kéo dài qua các năm, sức mua giảm dẫn đến hàng tồn kho của các DN
này lớn, tiêu thụ chậm thậm chí không bán được làm các DN không xoay vòng vốn


10

được, mất khả năng trả nợ vay dẫn đến nợ xấu của NHPT chi nhánh KH tăng mạnh
qua 2 năm 2011 và 2012.
3. Các giải pháp xử lý nợ xấu
3.1. Trích lập dự phòng rủi ro:
NHNN cho biết năm 2012 đã thanh tra 32 tổ chức tín dụng và hầu hết các tổ

chức tín dụng đều giảm kết quả kinh doanh sau thanh tra do phải trích lập dự phòng rủi
ro đúng qui định. Nhiều NHTM báo cáo có lãi nhưng qua thanh tra lại buộc trích lập
dự phòng đúng qui định thì dẫn đến lỗ, giảm vốn điều lệ thậm chí có NH không còn
vốn điều lệ

Tuy nhiên, việc giảm nợ xấu bằng cách trích lập dự phòng liệu có giải

quyết được thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, giảm lãi suất cho vay? Trích lập dự phòng
rủi ro đối với NHPT Việt Nam và chi nhánh Khánh Hòa nói riêng là hết sức khó khăn,
nếu trích lập đủ thì chi phí đội lên quá cao, không thể giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế hiện nay.
3.2.Tăng dư nợ tín dụng mới lên:
Nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5
Tổng Nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5
Với cách làm này, mẫu số sẽ tăng lên giúp giảm tỷ lệ nợ xấu, nhưng hiện nay
Tỷ lệ nợ xấu

=

tăng trưởng tín dụng rất thấp do hoạt động SX_KD bị đình đốn, lãi suất cho vay còn
khá cao, không thể đẩy mạnh được vì vậy khó giảm nợ xấu bằng cách này
3.3. Giảm qui mô nợ xấu:
Trong tổng số nợ xấu hiện nay của NHPT chi nhánh KH là nợ xấu chủ yếu và
rất lớn từ hoạt động thua lỗ của các công ty nhà nước và của các DN nhỏ và vừa, muốn
giảm thì phải đẩy nhanh tiêu thụ, quay vòng vốn trả nợ ngân hàng, giảm tồn kho hàng
hóa trong tình hình này rất khó khăn, thị trường đang khá trầm lắng, sức mua giảm vì
vậy việc giải quyết nợ xấu theo hướng này cũng rất chậm chạp. Trong 3 tháng đầu
năm tỷ lệ Dn phá sản tăng cao hơn so với thành lập, trong khi đó hàng tồn kho vẫn ở
mức cao, mà nợ xấu có quan hệ đến hàng tồn kho. Vậy khó có thể giảm được qui mô
nợ xấu trong tình hình hiện nay.

3.4. Bán nợ xấu
Chính phủ sẽ thành lập Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) sẽ có
vốn điều lệ 500 tỷ đồng. Mục tiêu chính của AMC là góp phần xử lý nợ xấu của các


11

tổ chức tín dụng về mức an toàn; thêm khả năng tái tạo vốn cho họ để thúc đẩy nguồn
cho vay đối với nền kinh tế, góp phần giảm lãi suất cho vay.
VAMC sẽ mua nợ của Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa, được sử
dụng quyền của chủ nợ trong việc thu hồi nợ: đòi nợ và xử lý nợ, có quyền điều chỉnh
cơ cấu lại khoản vay, điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành cổ phần của khách vay, bán tài
sản đảm bảo…Trong quá trình xử lý nợ xấu, VAMC không lấy tiền ngân sách để xử lý
nợ xấu mà sẽ phát hành trái phiếu có thời hạn trong 5 năm để mua nợ với mức lãi suất
trái phiếu 0%. Trong thời gian này, mỗi năm, ngân hàng Ngân hàng phát triển chi
nhánh Khánh Hòa phải trích lập dự phòng rủi ro 20% cho trái phiếu. Tác dụng:
a. Điều này dẫn đến cung thanh khoản của Ngân hàng phát triển chi nhánh
Khánh Hòa được cải thiện, tránh mất khả năng thanh khoản vì từ khoản nợ xấu khó
thu hồi đã trở thành trái phiếu (dự trữ thứ cấp) dễ chuyển đổi thành tiền trên thị trường
mở, Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa được bổ sung vốn khả dụng, nhằm
bảo đảm hỗ trợ khả năng thanh toán của mình và điều tiết thị trường tiền tệ, góp phần
giảm lãi suất cho vay, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
b. Cải thiện hệ số kiểm soát tín dụng - Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (hệ số Cooke)
là chỉ tiêu rất quan trọng để phản ánh năng lực tài chính của ngân hàng. Chỉ tiêu này
được sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ có thời hạn, đánh gía mức
độ an toàn trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại.
CAR =

VTC
Tổng tài sản Có rủi ro


x 100% ≥

9%

Với công thức trên, tài sản Có rủi ro (các khoản nợ xấu) có hệ số rủi ro 100%
đã trở thành tài sản Có (trái phiếu) có hệ số rủi ro = 0, mẫu số giảm mạnh dẫn đến gia
tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR – Capital Adequacy Ratio) của Ngân hàng phát
triển.
Sau 5 năm, nếu khoản nợ xấu không bán được, Ngân hàng phát triển cũng đã
trích lập đủ 100% trái phiếu để trả trái phiếu cho VAMC, đồng thời nhận khoản nợ
xấu về. Tuy nhiên, lúc này, khoản nợ xấu đó đã được xóa trong bảng kế toán của ngân
hàng, có nghĩa là đã được làm sạch (vì ngân hàng đã trích lập dự phòng rủi ro 100%).
Nếu xử lý được nợ xấu, thanh lý được tài sản đảm bảo thì tổ chức tín dụng chỉ được
thu về 85% giá trị, còn VAMC được hưởng 15%.


12

Đi cùng với giải pháp này, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ triển khai các giải
pháp khác có trong đề án xử lý nợ xấu như tiếp tục hoàn thiện các chính sách bổ trợ
khác, như cơ chế phân loại nợ mới bắt đầu thực hiện từ tháng 6/2013; sửa đổi, bổ sung
các tiêu chuẩn an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, dự kiến cũng sẽ được
ban hành.
AMC cùng những giải pháp tổng thể đó có thể tạo một bước chuyển mới, căn
bản trong yêu cầu xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, nợ xấu là một vấn đề của kinh tế vĩ mô,
nên cần có thêm sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành chức năng khác
nữa.
3.5. Tăng cường thanh tra, giám sát của ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước chi nhánh Khánh Hòa tăng cường hiệu quả, hiệu lực công

tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo đảm Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh
Hòa tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về cấp
tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về an toàn hoạt động tín
dụng
IV. KẾT LUẬN
Các giải pháp xử lý nợ xấu mà tác giả nêu ra, nhìn chung, bất kì các giải pháp
nào nhằm giải quyết nợ xấu cho Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa trong thời
kì bế tắc, khủng hoảng đều có tính chiến lược tuỳ theo tình hình, hoàn cảnh, mục tiêu
của chính phủ, NHNN, ban quản trị NH nhằm mục đích cuối cùng là làm cho Ngân
hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa hoạt động tốt hơn, với mong muốn đem lại cho
hệ thống NHTM hoạt động lành mạnh, tạo điều kiện cho việc thực hiện chính sách tiền
tệ đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định.
Tuy nhiên, việc xử lý nợ xấu của các NHTM nhanh hay chậm còn tuỳ thuộc vào
các chính sách vĩ mô của chính phủ, hay còn tuỳ thuộc vào mục tiêu của ban quản trị
NHTM, có chấp nhận bán một phần nợ xấu của mình cho VAMC? hay các biện pháp
mua bán, sáp nhập NHTM…hay liệu các cổ đông, các nhà đầu tư chiến lược có chấp
nhận tăng vốn cho NHTM khi ngân hàng đang trên bờ phá sản do mất khả năng thanh
toán vì nợ xấu. Nếu các giải pháp trên hoạt động tốt sẽ đưa NHTM tiếp tục trở lại
guồng máy, nhưng nếu các giải pháp trên trở nên không hiệu quả, có khác nào đưa tiền


13

vào cái bao không đáy. Đây vẫn là câu hỏi cho các nhà quản trị khi NHTM mình lâm
vào tình hình nợ xấu tăng nhanh.
Điều mà Ngân hàng phát triển chi nhánh Khánh Hòa cần lưu ý trong quá trình xử
lý nợ xấu tối ưu là phải căn cứ tình hình thực tế của thị trường và từng giai đoạn phát
triển cụ thể của ngân hàng để đưa ra giải pháp phù hợp. Vì việc kinh doanh thành công
không có công thức chung cho tất cả các ngân hàng và việc xử lý nợ xấu hiệu quả
cũng vậy.




×