Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Chuyên đề kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.1 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU

Trang

I

Lý do chọn đề tài

3

1

Cơ sở lý luận

3

2

Cơ sở thực tiễn

3

II

Mục đích nghiên cứu

5

III


Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5

IV

Phương pháp nghiên cứu

6

PHẦN II: NỘI DUNG
I

Những vấn đề lý luận về bồi dưỡng học sinh giỏi

6

II

Thực trạng vấn đề nghiên cứu

7

III

Các biện pháp cần thiết trong công tác bồi dưỡng HSG.

9

1


Phát hiện và lựa chọ đội tuyển HSG

9

2

Giáo viên lập kế hoach bồi dưỡng HSG

11

3

Tích lũy tư liệu dạy học

12

4

Hướng dẫn HS phương pháp học tập hiệu quả

13

5

Những nội dung kiến thức cần bồi dưỡng theo khối lớp

14

6


Rèn các kỹ năng diễn đạt hay cho học sinh

23

7

Chấm chữa bài viết thường xuyên cho học sinh

27

IV

Kết quả

28

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1

Kết luận

28

2

Kiến nghị, đề xuất

28


1


CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Cụm từ viết tắt
THCS:

Nghĩa đầy đủ
Trung học cơ sở

HS

Học sinh

TS:

Tổng số

SGK:

Sách giáo khoa

CNTT

Công nghệ thông tin

SKKN:

Sáng kiến kinh nghiệm


NXB GD

Nhà xuất bản Giáo Dục

BGH

Ban giám hiệu.

GV

Giáo viên

HSG

Học sinh giỏi

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận.
Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn có vai trò rất quan trọng trong
việc hình thành nhân cách và những phẩm chất, tư duy cho học sinh góp phần đáp
ứng những yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người. Là một môn học
thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục
quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho người học. Đồng thời cũng là môn học thuộc
nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ vị trí, đặc trưng của bộ môn trong mối
quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các
môn học khác và ngược lại. Để có được một học sinh yêu thích, đam mê và thật sự

giỏi văn chương là một việc không dễ. Bồi dưỡng nhân tài nói chung, đào tạo học
sinh giỏi văn nói riêng là công việc vô cùng quan trọng và thiêng liêng của người
giáo viên dạy văn trong nhà trường hiện nay. Công việc ấy, đòi hỏi tâm
huyết, trách nhiệm và phụ thuộc nhiều ở kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn và năng
lực giảng dạy của người giáo viên. Học sinh giỏi văn chính là nguồn nhân lực tương
lai của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đào tạo học sinh giỏi văn đúng
nghĩa là công việc khó khăn. Việc phát hiện học sinh giỏi, có thiên bẩm văn chương
càng không phải chuyện là dễ dàng trong ngày một ngày hai. Có người ví rằng:
“Chuyện ngưòi thầy phát hiện học sinh giỏi văn chẳng khác công việc của người
trồng hoa, chơi cây cảnh”. Bông hoa đẹp bởi bàn tay chăm sóc, tỉa tót, uốn nắn của
người trồng. Quan trọng hơn, đôi mắt của người trồng phải thấy được thế cây, kiểu
dáng, biết chọn dáng đẹp, biết làm cho hoa khoe sắc rực rỡ đúng kì. Nói như thế
cho thấy công việc phát hiện , bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một kì công của người
thầy dạy văn.
2. Cơ sở thực tiễn
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ
mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết
3


quả dạy học, trong đó đổi mới phương pháp là khâu quan trọng. Trong phương pháp
tổ chức, người học, đối tượng của họat động “dạy”, trở thành trung tâm, là chủ thể
của hoạt động “học”, giáo viên là người tổ chức, chỉ đạo. Phương pháp dạy học đổi
mới nhằm tăng cường, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học
trong hoạt động học tập của học sinh. Với ý nghĩa ấy, việc phát hiện, lựa chọn, đào
tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn văn trở thành nhu cầu cần thiết không thể thiếu
trong quá trình dạy học của giáo viên và chiến lược phát triển của nhà trường.
Để có được một học sinh giỏi văn, ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn
cần có vai trò, năng lực, trách nhiệm, niềm đam mê nhiệt huyết của người thầy là
điều không thể phủ nhận được. Trải qua quá trình dạy học, tham gia bồi dưỡng học

sinh giỏi bộ môn ở trường phổ thông, nhận thấy khả năng, năng lực tiếp nhận tác
phẩm và tạo lập văn bản ở những học sinh giỏi văn vẫn còn hạn chế. Điều ấy sẽ chi
phối kết quả học văn của HSG Ngữ văn.
Văn học là nhân học, văn học giúp cho con người mở rộng tầm hiểu biết, biết
yêu quê hương đất nước, biết bày tỏ lòng biết ơn đối với công sinh thành dưỡng dục
của ông bà, cha mẹ tổ tiên. Văn học giúp con người tự hào về những trang sử vẻ
vang của của cha ông ta, giúp ta có thể dễ dàng hòa nhập với bạn bè khắp năm
châu. Văn học có đặc trưng là nghệ thuật ngôn từ, vì thế dạy học văn là dạy cho học
sinh thấy cái hay cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ. Từ đó các em biết cách vận dụng
vào cuộc sống hàng ngày. Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn góp phần giữ gìn và phát
huy nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội nhập văn hóa hiện nay.
Tuy nhiên do xu hướng thực dụng trong xã hội hiện nay, phụ huynh và học
sinh còn nhận thức phiến diện trong các môn học, chủ yếu chạy theo các môn học
"thời thượng" như Tiếng Anh, Toán, Lý, Hoá... để phục vụ thi vào các ngành kinh
tế. Vì Vậy môn Ngữ Văn thường bị xem nhẹ, bỏ qua. Học sinh không yêu thích
môn Ngữ Văn. Do đó việc bồi dưỡng học sinh giỏi Văn là rất quan trọng để các em
yêu thích bộ môn.
4


Qua quá trình công tác và giảng dạy Ngữ Văn, tôi nhận thấy mình có đủ kinh
nghiệm để nghiên cứu chuyên đề này. Chuyên đề này khi vân dụng thực tế sẽ đem
lại hiệu quả thiết thực. Qua chuyên đề sẽ giúp học sinh yêu bộ môn Ngữ Văn hơn,
từ đó vận dụng thành thạo ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ vào nói và viết đúng và sử dụng
tốt Tiếng Việt văn hóa. Vấn đề tôi muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp trong chuyên đề
này là “Kinh nghiệm bồi dưỡng HSG môn Ngữ văn trong trường Trung học cơ
sở.”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong quá trình dạy học, mỗi giáo viên đều có những kinh nghiệm giảng dạy
riêng, song mục đích cuối cùng gặp nhau là : Làm sao để học sinh yêu thích học

môn Ngữ văn? Làm sao để có được đội tuyển học sinh giỏi Văn có năng lực giải
quyết các vấn đề khó trong quá trình giao tiếp và tiếp nhận văn chương ?Làm sao
để học biết dùng từ hay, đúng trong nói và viết? Những câu hỏi đó có lẽ luôn trăn
trở trong lòng mỗi giáo viên chúng ta.
Mục đích của chuyên đề này là đóng góp một vài kinh nghiệm nhỏ bé của
tôi trong việc dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ Văn từ lớp 6 đến lớp 9 để học
sinh yêu thích bộ môn, kết hợp được những phương pháp dạy học Ngữ văn truyền
thống và những phương pháp mới của dạy học hiện đại.
Chuyên đề này nhằm giúp giáo viên chúng ta phát hiện, xây dựng và bồi
dưỡng đội tuyển HSG Ngữ văn, tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu, cảm
thụ và tạo lập tốt một văn bản và ứng dụng vào cuộc sống thực tiễn tốt nhất. Bồi
dưỡng học sinh giỏi còn góp phần đẩy mạnh phong trào học tập tốt trong nhà
trường, phát triển năng lực trí tuệ, giáo dục tư tưởng tình cảm thẫm mĩ cho học sinh.
Đồng thời giúp học sinh có định hướng cho việc chọn ngành, chọn nghề, tạo điều
kiện tốt để học sinh tiếp tục học chuyên sâu ở ngành học, bậc học cao hơn

5


Mục tiêu cuối cùng mà chuyên đề muốn đạt tới là mỗi giáo viên sẽ tìm ra
một phương pháp tối ưu để dạy học đạt kết quả tốt nhất phù hợp với đối tượng học
sinh của mình.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Chương trình giảng dạy môn Ngữ văn THCS qua các khối lớp 6,7,8,9.
- Đội tuyển học sinh giỏi ở các khối lớp 6,7,8,9.
- Đề thi học sinh giỏi Ngữ Văn của các khối lớp những năm gần đây.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Điều tra các hoạt động dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên - học sinh
trong môn Ngữ văn. Tổng kết kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy
Phương pháp cụ thể:

Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, hương
pháp khái quát hóa.

PHẦN II. NỘI DUNG
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
NGỮ VĂN.
Ông cha ta đã có câu: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Đúng vậy chất
lượng HSG là đích và tiêu chuẩn mà mỗi nhà trường luôn muốn hướng tới. Trong
nhà trường công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có vai trò rất quan trọng, nó là một yếu
tố quan trọng để đánh giá chất lượng dạy học của nhà trường. Vì vậy bồi dưỡng học
sinh giỏi là bước đi đầu tiên để đào tạo nhân tài cho đất nước và là nhiệm vụ quan
trọng của ngành Giáo dục.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhưng hai
yếu tố quyết định sống còn là yếu tố giáo viên và học sinh. Nhưng thế nào là một
học sinh giỏi văn? Bồi dưỡng học sinh giỏi văn như thế nào cho có hiệu quả? Trả
6


lời được câu hỏi đó cũng chính là cái đích của người gióa viên dạy văn muốn vươn
tới. Đối với thầy khi nhìn rõ cái đích này mới xác định được con đường bồi dưỡng
với những nội dung và phương pháp thích hợp nhằm dìu dắt học sinh của mình
vươn tới cái đích mà các em mơ ước. Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà
cuộc sống bao giờ cũng bộn bề, phức tạp và vô cùng phong phú. Có lẽ vì thế mà
quan niệm về học sinh giỏi văn cũng không hề đơn giản.
Có ý kiến cho rằng: muốn có trò giỏi thì trước hết phải có thầy giỏi. Tuy
nhiên trên thực tế không hoàn toàn như vậy, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác. Qua đó muốn khẳng định rằng, vai trò của người thầy trong công tác phát
hiện và bồi dưỡng HSG là hết sức quan trọng. Là giáo viên bồi dưỡng đội tuyển
chúng ta phải là một người thầy vừa hồng vừa chuyên, hay nói theo cách khác,
phải đủ tâm và đủ tầm, phải có ý thức tích cực trau dồi, tích lũy chuyên môn, đọc

nhiều, hiểu sâu vấn đề mà mình dạy học sinh theo phương châm biết mười dạy một,
thường xuyên tham khảo và học hỏi kinh nghiệm của các giáo viên có kinh nghiệm
và chuyên môn vững vàng trong và ngoài huyện, tỉnh, chủ động tìm tòi tư liệu dạy
học trên các phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet, lựa chọn trang web nào
hữu ích, các tác giả giỏi, các đề thi hay, chuyên đề hấp dẫn… để sưu tầm tài liệu.
Một điều hết sức quan trong đó là truyền cho học sinh niềm say mê, hứng thú, tinh
thần ham học hỏi, tìm tòi cái mà chúng ta gọi là truyền lửa cho học sinh.
Tôi nghĩ rằng Người thầy giáo có vai trò quyết định nhất đối với kết quả
HSG, các em HS có vai trò quyết định trực tiếp đối với kết quả của mình; Kết quả
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có đạt hay không, điều đó còn phụ thuộc rất lớn ở
các em học HS. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi giống như chúng ta ươm một mầm
non. Nếu chúng ta biết rào, biết thường xuyên chăm sóc, vun xới thì mầm non sẽ
xanh tốt, phát triển.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Công tác bồi dưỡng HSG trong các nhà trường hiện nay cơ bản được chú
trọng đầu tư chuyên môn. Tuy nhiên chúng ta cũng nên nhìn nhận thẳng thắng
7


những vấn đề thuận lợi và khó khăn trong công tác bồi dưỡng HSG để từ đó có
những biện pháp cụ thể đem lại hiệu quả tốt nhất. Thục trạng đó được biểu hiện rõ ở
hai mặt: Thuận lợi và khó khăn.
1. Thuận lợi:
Ban giám hiệu nhà trường luôn sát sao chỉ đạo, quan tâm kịp thời của BGH,
có những kế hoạch cụ thể, lâu dài trong công việc bồi dưỡng HSG của giáo viên .
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học tương đối đầy đủ giúp cho
việc dạy và học được tốt nhất..
Giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong
công tác bồi dưỡng HSG nhiều năm liền được chọn vào đứng bồi dưỡng HSG.
Trong nhiều năm liền tổ luôn có HSG Văn đạt giải cao vòng Thành phố và cấp

tỉnh.
2. Khó khăn:
Trường THCS Liên Bảo là trường đại trà nên chất lượng tuyển chọn đầu
vào cho đội tuyển học sinh giỏi văn còn bị hạn chế.
Đa số giáo viên dạy bồi dưỡng vừa phải bảo đảm chất lượng đại trà, vừa phải
hoàn thành chỉ tiêu chất lượng mũi nhọn và công tác kiêm nhiệm do đó cường độ
làm việc quá tải và việc đầu tư cho công tác bồi dưỡng HSG cũng có phần bị hạn
chế.
Học sinh học chương trình chính khóa phải học quá nhiều môn, lại phải học
thêm những môn khác, cộng thêm chương trình bồi dưỡng HSG nên rất hạn chế về
thời gian tự học nên các em đầu tư ít thời gian cho việc học bồi dưỡng HSG, do đó
kết quả không cao là điều tất yếu.
Một số học sinh tham gia học bồi dưỡng chưa cố gắng nhiều nên kết quả thi
học sinh giỏi ở một số môn chưa cao.

8


Giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn chương trình dạy, theo kinh
nghiệm của bản thân, theo chủ quan, tự nghiên cứu, tự sưu tầm tài liệu.
Đặc biệt hiện nay dù vất vả bồi dưỡng học sinh giỏi trong cả năm học có
nhiều học sinh đạt giải cao nhưng cuối năm chúng ta vẫn không được xét thi đua vì
tỷ lệ khen thưởng ít. Do đó dẫn đến tâm lý chán nản không muốn dùng hết tâm
huyết cho công tác bồi dưỡng.
Trước những thuận lợi, khó khăn như trên và qua một thời gian tham gia
công tác bồi dưỡng HSG, chúng tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng, hiệu quả
trong công tác này cần thực hiện tốt những biện pháp sau đây.
III. CÁC BIỆN PHÁP CẦN THIẾT TRONG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
1. Phát hiện và chọn lựa đội tuyển học sinh giỏi
1.1. Phát hiện học sinh giỏi

Việc chọn được đội tuyển học sinh giỏi văn hiện nay không phải chuyện dễ.
Đó là nỗi buồn chung của người dạy văn hiện nay. Có lẽ số say mê học văn trong
đội tuyển là rất ít mà chủ yếu là còn những em không đi vaò được đội tuyển nào thì
các em vào đội tuyển Ngữ văn. Như vậy giáo viên văn chúng ta phải căng mình lên
để bồi dưỡng đội tuyển gọi là “chắp vá”. Giáo viên chúng ta phải “ nhào nặn”
những học sinh “ế” của đội tuyển khác. Tuy nhiên với niềm say mê và trách nhiệm
chúng ta vẫn có thành công. Đó là điều đáng quí, đáng trân trọng.
Giải pháp quan trọng là việc lựa chọn HS vào đội tuyển. GV đứng lớp phải
để ý HS ngay từ những ngày đầu lớp 6. Ngoài việc lựa chọn qua điểm số của HS thì
việc lựa chọn thông qua các lời giải độc đáo là hết sức quan trọng. Thực tế cho
thấy, các HS năng khiếu là các HS có những bài viết hay (hay câu hỏi) khác với
thầy và các bạn, có thể nó còn dài dòng và lủng củng, nhưng không sao, ta sẽ uốn
nắn sau. Có những HS lại có kiểu ghi chép rất lạ, không giống những gì GV ghi trên
bảng, nhưng khi ta đọc kĩ cách ghi ấy thì lại vừa đủ kiến thức của bài, lại vừa có sự
ghi nhớ độc đáo của cá nhân HS đó. Tức là, kĩ năng quan sát tinh tế để phát hiện
9


sớm HSG của GV là rất quan trọng. Chọn được HSG vào đội tuyển đã khó, giữ các
em ở lại đội tuyển đến năm lớp 9 còn khó hơn bởi vì các em sẽ rẽ ngang chuyển
sang bộ môn khác có khả năng đạt giải cao hơn môn Ngữ Văn. Theo tôi một học
sinh giỏi văn cần có những yếu tố sau:
a. Học sinh có năng lực văn học hoặc năng khiếu văn chương.
Nói đến năng khiếu là nói đến tài năng thiên bẩm của con người ở một hoạt
động sáng tạo nào đó đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật. Trong lĩnh vực sáng tạo
cái đẹp chỉ có cố công, gắng sức thôi không đủ. Phải có tài, có năng khiếu. Đây là
lĩnh vực không thể đào tạo được hàng loạt bằng mở lớp, mở trường .
Nếu năng khiếu là chuyện trời sinh thì năng lực văn học có thể đào tạo được.
Năng lực văn học là năng lực chiếm lĩnh khoa học văn học bao gồm nhiều lĩnh vực:
văn học sử, lý luận văn học, khả năng diễn đạt, cảm thụ, phân tích, giải thích. Trong

nhà trường phổ thông chúng ta không đặt ra mục tiêu đào tạo ra những người làm
văn chương chuyên biệt tức nghệ sĩ. Còn sau này các em trở thành nhà văn hay
nghệ sĩ lại là chuyện khác. Nhà văn nào mà chẳng từng là học sinh? Như vậy tài
năng văn chương và năng lực văn học có mối quan hệ hỗ trợ nhau.
Một trong những yếu tố quan trọng hất của năng lực văn học là hiểu được cái
hay cái đẹp của tác phẩm văn học. Nhưng trong lĩnh vực văn học không chỉ là
chuyện của lý trí mà còn là vấn đề tình cảm, cảm xúc. Đó là năng lực cảm thụ thẩm
mỹ.
b. Những phương diện của năng lực văn học.
Gồm những mặt sau:
1. Năng lực chỉ ra cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học một cách chính xác.
2. Khả năng nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học, bao gồm:
- Kiến thức về lịch sử văn học.
- Kiến thức về lý luận văn học.
- Kiến thức về tác phẩm văn học cụ thể.

10


3. Khả năng diễn đạt trình bày suy nghĩ và tình cảm cũng như hiểu biết của
mình về văn học một cách sáng sủa, mạch lạc có sức thuyết phục theo yêu
cầu của kiểu loại văn bản trong nhà trường.
Tuy nhiên trong thời đại thông tin mạng hiện nay giáo viên không còn là độc
quyền về kiến thức để học sinh bắt buộc phải theo , học sinh có thể tìm kiếm tư liệu
trên các phương tiện khác. Do đó một yêu cầu mới hiện nay của học sinh giỏi văn
là: Ngoài kiến thức kĩ năng học được trên lớp và đọc được trong sách giáo khoa,
học sinh cần chủ động tìm đọc thêm sách tham khảo và tài liệu khác qua các kênh
thông tin khác nhau. Hiện nay, tài liệu tham khảo rất phong phú, dưới sự tư vấn của
GV, các em cần tìm đọc các tài liệu hay để tích lũy cho mình. Mặt khác, các diễn
đàn trao đổi về kiến thức trên Internet cũng rất nhiều, ở đó thường hội tụ các GV và

HS rất giỏi, chúng ta và cả HS nên tham khảo có chọn lọc các kiến thức trên các
diễn đàn đó. Các phương diện trên là những biểu hiện và đồng thời cũng là những
yêu cầu cụ thể đối với học sinh giỏi văn.
1.2. Cách chọn học sinh giỏi
Thông thường hiện nay chúng ta có được đội tuyển học sinh giỏi là đầu năm
học cho các em đăng ký vào đội tuyển. Khi có đội tuyển rồi chúng ta tiến hành bồi
dưỡng và lựa chọn những em có năng lực văn học nhất để thành đội tuyển nòng cốt
và tập trung bồi dưỡng sâu. Loại những em không có khả năng.
Để chọn được những học có năng lực văn học chúng ta thường cho các em
làm đề kiểm tra. Trong quá trình chấm chữa bài chúng ta sẽ có đội tuyển thực sự.
Quá trình này không chỉ diễn ra một lần mà trong suốt quá trình bồi dưỡng. Kịp
thời uốn nắn những sai sát cho các em tiến bộ. Sát đến ngày thi là chốt danh sách
học sinh có năng khiếu thực sự. Muốn vậy đề kiểm tra khảo sát đội tuyển phải toàn
diện cả về kiến thức, kỹ năng và sự sáng tạo. Đặc biệt là xu hướng ra đề thi hoặc
câu hỏi mở trong đề thi để đánh giá sự sáng tạo của học sinh.
2. Giáo viên lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi.
11


Một biện pháp nữa không thể thiếu là GV phải lập kế hoạch cho mình một
cách thật cụ thể, chi tiết, chia ra nhiều giai đoạn (mỗi giai đoạn phải cụ thể đến từng
tuần), tránh tình trạng thích đâu dạy đó. Cá nhân tôi thấy rằng, kế hoạch càng cụ thể
chi tiết thì càng dễ thực hiện và dễ rút kinh nghiệm. Sau mỗi giai đoạn cần rút kinh
nghiệm một cách nghiêm túc, đề ra phương hướng thực hiện và điều chỉnh cho các
giai đoạn tiếp sau đó. Các bạn có thể tham khảo mẫu kế hoạch bồi dưỡng học sinh
giỏi như sau:
Tháng

Tuần/ buổi


Nội dung bồi dưỡng

Giáo viên dạy

Ghi chú

Cần phải hiểu việc lập kế hoạch bồi dưỡng là cần thiết chứ không phải là kế
hoạch đối phó. Có được điều ấy thì bồi dưỡng học sinh giỏi mới đem lại kết quả
mong muốn.
3. Tích lũy tư liệu dạy học.
Đây là biện pháp thực tế và khá hiệu quả. Tư liệu tích lũy có thể ở những
dạng sau:
- Học cách viết văn hay của các nhà văn qua các kiệt tác văn học.
- Sách tham khảo, nâng cao.
- Giáo án dạy đội tuyển HSG của bản thân và đồng nghiệp qua những
-

năm bồi dường HSG.
Đề thi hSG các năm, của nhiều địa phương.
Bài văn hay của học sinh các khóa được tích lũy.
Sưu tầm tài liệu, kinh nghiệm trên mạng iternet.
Sổ ghi chép kinh nghiệm riêng....

Có thể nói đó là những báu vật, là cẩm nang của chúng ta để bồi dưỡng học
sinh giỏi được tốt nhất. Tài sản của giáo viên chúng ta lớn nhất, nhiều nhất là sách.
Tuy nhiên phải biết cách khai thác vận dụng cho có hiệu quả nhất chứ không nên
12


bắt chước , rập khuôn. Nếu như vậy học sinh sẽ mau chán học bởi học sinh bây giờ

khác xưa nhiều rồi,các em không thụ động, không tiếp nhận kiến thức một chiều từ
giáo viên.
4. Hướng dẫn học sinh phương pháp học tập có hiệu quả.
Trong công tác bồi dưỡng HSG, với thời lượng lên lớp với đội tuyển là
không nhiều, thì việc hướng dẫn HS tự học là đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy
HS nào có tinh thần và phương pháp tự học tốt thì sẽ thành công cao hơn các bạn
khác. GV cần hướng dẫn cho HS (và cả phụ huynh HS) cách sử dụng quỹ thời gian
của mình (con em mình) một cách hợp lý và hiệu quả, tránh lãng phí thời gian,
nhưng cũng đảm bảo thời gian nghỉ ngơi giải trí. Thực tế cho thấy, có HS học rất
nhiều, thâu đêm suốt sáng, không thu xếp được thời gian nghỉ ngơi, nên hậu quả là
không những không thành công mà còn gây mụ mẫm đầu óc, cơ thể mệt mỏi kéo
dài.
Mặt khác, người thầy cần bồi dưỡng HS dưới nhiều hình thức, trực tiếp và
gián tiếp (qua giờ giảng trên lớp, qua gặp gỡ ngoài giờ, qua email, các diễn đàn, câu
lạc bộ…) với lòng nhiệt tình, tận tụy cao độ, đem hết cái tâm của mình ra để truyền
tải kiến thức kĩ năng và phương pháp cho học trò.
Ngoài ra còn là giải pháp về tâm lý. Người thầy, ngoài việc dạy HS kiến
thức, kĩ năng, phương pháp còn phải kết hợp các biện pháp về tâm lý. Sau mỗi kỳ
thi của các em, sẽ có những em thành công và có những em thất bại, tôi thường yêu
cầu các em viết ra suy nghĩ của mình về nguyên nhân thành công (thất bại) của bản
thân, đề ra phương hướng, kế hoạch và mục tiêu đạt giải mấy cho vòng thi sau. Sau
đó cho các em dán lên góc học tập của mình, ngày nào các em cũng nhìn thấy
những điều mà mình đã viết, từ đó tạo động lực không nhỏ cho thành công sau này.
5. Những nội dung kiến thức cần bồi dưỡng theo khối lớp.
Thực ra, việc bồi dưỡng học sinh giỏi khi có kết quả đem lại, ngoài sự nỗ lực
ra còn có cả yếu tố may mắn, sự thăng hoa trong bài viết khi đi thi của học sinh và
13


sự mát tay của mỗi thầy cô giáo. Tuy nhiên có bột mới gột nên hồ. Do đó cần phải

có nội dung kiến thức bồi dưỡng đầy đủ và cụ thể để học sinh co hành trang đi thi.
Nội dung kiến thức này là sự mở rộng nâng cao hơn từ những kiến thức học chính
khóa trên lớp. Muốn có được bài viết hay đạt giải thì phải có kiến thức nền cơ bản.
Dựa trên nội dung và cấu trúc đề thi để giáo viên có hướng bồi dưỡng hiệu quả. Tuy
nhiên cần có sự sáng tạo linh hoạt trong quá trình dạy học. Nội dung kiến thức cần
bồi dưỡng theo khối lớp có thể tham khảo như sau:
LỚP 6
Phần 1: Những vấn đề cơ bản
1. Phần Tiếng Việt
- Hiểu nghĩa của từ trong một văn cảnh nhất định
- Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ.
- Giá trị biểu đạt của từ láy, hệ thống từ loại; l từ trong một văn cảnh cụ thể.
- Giá trị biểu đạt của các biện pháp tu từ
- Câu tiếng Việt ( câu tồn tại và câu miêu tả )
2. Cảm thụ văn học:
- Tín hiệu nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ, bài văn ( Cách bố trí câu thơ,
hình ảnh thơ, văn; nét riêng, nét độc đáo … ). Cách làm bài văn cảm thụ văn học…
* Dạng bài cảm thụ văn học không có khuôn mẫu cụ thể nào mà qua bài cảm
thụ học sinh phát huy được sự sáng tạo trong cảm thụ văn học. Các em đưa ra được
nhứng phát hiện mới lạ. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể hướng HS cảm thụ theo định
hướng sau:
Bước 1: Đọc kỹ đề bài, nắm vững yêu cầu của đề bài. Khái quát nội dung và nghệ
thuật của đoạn thơ, đoạn văn cần cảm thụ.

14


Bước 2: Đoạn thơ, đoạn văn ấy có cần phân ý không? Nếu có thì cần phân mấy ý?
Đặt tiêu đề cho từng ý. Gọi tên các biện pháp nghệ thuật qua các dấu hiệu.
Bước 3: Lập dàn ý cho bài cảm thụ. Nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật với nội

dung đã tìm. Dự kiến nêu cảm nghĩ, đánh giá, liên tưởng theo hiểu biết của bản thân
xoay quanh nội dung tìm hiểu.
Bước 4: Viết thành đoạn văn hay bài văn cảm thụ.
3. Phần tập làm văn:
a. Văn kể chuyện ( kể chuyện đời thường, kể chuyện tưởng tượng), cho tình
huống và xây dựng thành câu chuyện có cốt truyện hấp dẫn.
b. Văn miêu tả: Tả người (người thân, người mới quen, tả nhân vật văn
học…) , tả cảnh.
LỚP 7
I. Phần Tiếng Việt
- Nắm được các khái niệm cơ bản về các phép tu từ (Điệp ngữ, chơi chữ, liệt
kê ). Vận dụng vào làm bài tập cảm thụ văn học.
- Năm được các khái niệm về (Từ láy, đại từ, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, từ
đồng âm, thành ngữ). Thấy được vai trò, tác dụng và sự biến đổi linh hoạt của các
từ này trong diễn đạt, vận dụng vào phân tích thơ văn.
- Phần câu: Câu rút gọn, câu đặc biệt, các loại dấu câu, từ đó soi sáng vào
phân tích văn bản văn học.
II. Phần Văn
1. Văn học dân gian (ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ).
- Triển khai dạy theo từng chủ đề của ca dao như : Hình ảnh con cò trong ca
dao, hình ảnh người mẹ trong ca dao, hình ảnh quê hương đất nước trong ca dao,
tiếng nói của tâm hồn, tình cảm trong ca dao...
15


- Phần tục ngữ dạy theo qui trình: giải thích, tìm hiểu nghĩa đen, nghĩa bóng ,
phân tích nội dung và nghệ thuật của tục ngữ. Cách phân tích tục ngữ có thể tham
khảo kiểu bài nghị luận xã hội ở lớp 9 (có mẫu phần lớp 9)
2.Văn học trung đại
- Bồi dưỡng theo hướng:

+ Tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử, tác giả, phân tích sâu theo từng tác phẩm cụ thể.
+ Bồi dưỡng theo chuyên đề: như chuyên đề Lòng yêu nước và tự hào dân tộc
trong văn học trung đại, chủ đề nhân đạo trong văn học trung đại...
3. Văn học hiện đại
- Bồi dưỡng theo cụm tác phẩm, theo chuyên đề.
+ Thơ Hồ Chí Minh.(nội dung, nghệ thuật nhóm đề tài, cảm hứng...)
+ Thơ Xuân Quỳnh (Tiếng gà trưa).
+ Các văn bản nghị luận hiện đại, cách lập luận, phân tích nhận định về tác phẩm.
+ Bình giảng những đoạn văn hay trong các văn bản nhật dụng.
III. Phần tập làm văn
a. Văn biểu cảm: Lập dàn ý, diễn đạt, lưu ý sử dụng dạng biểu cảm trực tiếp
trong bài văn bằng từ ngữ biểu cảm, câu văn biểu cảm, đan lồng quá khứ, hiện tại
và suy ngẫm về tương lai.
b. Văn nghị luận : ( giải thích và chứng minh)
Ngoài cung cấp khái niệm hai thể văn nghị luận này, quan trọng là giúp các
em kỹ năng làm bài tốt nhất. Muốn vậy phải có thời phải rèn luyện các kiểu bài cụ
thể. Từ bài viết của các em, giáo viên chấm chữa bài để giúp các em tiến bộ. Các
dạng đề nêm bám vào phần tác phẩm văn học đã học trên lớp để có kiến thức và tư
liệu viết bài. Bước đầu bồi dưỡng kiểu bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 7.
- Dàn ý tham khảo của kiểu bài nghị luận giải thích:
16


+ Mở bài:
- Dẫn dắt vào vấn đề: có thể nêu xuất xứ, mục đích của vấn đề, hoặc tù một
nội dung lớn hơn dẫn tới vấn đề.
- Nêu vấn đề: giới thiệu vấn đề cần giải thích (thường là nêu câu trích dẫn
trong đề bài), và giới hạn của nó khi cần thiết.
+ Thân bài: (Giải thích lần lượt từng nội dung, khía cạnh của vấn đề bằng cách vận
dụng lý lẽ và dẫn chứng tiêu biểu chính xác đã được xắp xếp theo một trình tự khoa

học hợp lý)
1. Luận điểm 1: thường là trả lời câu hỏi Như thế nào? Là gì? Có ý nghĩa
gì?....
a. Khía cạnh 1 (lý lẽ+ dẫn chứng)
b. Khía cạnh 2 (lý lẽ+ dẫn chứng)
c. ......
2. Luận điểm 2: thường là trả lời câu hỏi Tại sao?
- Khía cạnh 1 (lý lẽ+ dẫn chứng)
- Khía cạnh 2 (lý lẽ+ dẫn chứng)
- ......
3. Luận điểm 3: Thường trả lời câu hỏi Phải làm gì?
a. Khía cạnh 1 (lý lẽ+ dẫn chứng)
b. Khía cạnh 2 (lý lẽ+ dẫn chứng)
c. ......
+ Kết bài: Tóm tắt, khẳng định lại ý nghãi hoặc tầm quan trọn, tác dụng... của vấn
đề và rút ra bài học cho bản thân.
c. Cảm thụ văn học: Rèn kỹ năng cảm thụ về đonạ thơ, đoạn văn ngoài chương
trình tham khảo qua sách báo, trên mạng...
LỚP 8
I. Phần Tiếng Việt
- Nắm vững kiến thức cơ bản trên lớp học chính khóa.
- Vận dụng kiến thức về các biện pháp tu từ vào cảm thụ thơ văn.
17


II. Phần văn
1. Văn học trung đại
- Bồi dưỡng kỹ năng phân tích riêng lẻ từng tác phẩm cụ thể.
- Bồi dưỡng theo chuyên đề: Lòng yêu nước và tự hào dân tộc trong thơ văn trung
đại... (Tích hợp liên hệ với kiến thức lớp 7 đã học).

2. Thơ văn yêu nước đầu thế kỷ 20.
- Bồi dưỡng về hoàn cảnh lịch sử, thân thế sự nghiệp của các tác giả, phân tích
nghệ thuật và nội dung của từng tác phẩm.
- Bồi dưỡng theo chủ đề tổng hợp: Hình tượng người chí sĩ trong thơ văn đầu thế
kỷ 20, tâm sự yêu nước trong văn học đầu thế kỷ 20...
3. Văn học giai đoạn 1930-1945
a. Văn học hiện thực.
- Bồi dưỡng riêng lẻ từng tác phẩm để lấy nền kiến thức cơ bản.
- Bồi dưỡng theo chuyên đề: Hình tượng người nông dân trong văn học giai đoạn
1930-1945, chủ đề nhân đạo trong văn học trung đại, Nghệ thuật đặc sắc của các
văn bản được học (xây dựng nhân vật điển hình, hoàn cảnh điển hình...)
b. Văn học lãng mạn
- Tìm hiểu riêng từng tác phẩm về tác giả, phong cách thơ, nội dung và nghệ
thuật đặc sắc.
- Bồi dưỡng theo chủ đề: Tâm sự yêu nước kín đáo trong văn học lãng mạn,
tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp trong thơ văn lhãng mạn; hình ảnh quê hương
trong thơ Tế Hanh...
c. Văn học cách mạng
18


- Thơ văn Hồ Chí Minh: gồm Các sáng tác văn xuôi ở hải ngoại trước năm 1930,
Tập “Nhật ký trong tù”, Những sáng tác thơ ở chiến khu Việt Bắc của Hồ Chí
Minh: phân tích riêng lẻ từng bài thơ, tiếp đó là bồi dưỡng theo dạng tổng hợp kiến
thức như: Hình ảnh trăng trong thơ Bác; Hình tượng Bác Hồ qua các sáng tác thơ
văn...
- Thơ Tố Hữu: tập trung ở bài thơ “Khi con tu hú” , bồi dưỡng vể đẹp của bức tranh
vào hè qua cảm nhận của người tù, long khao khát tự do...
3. Phần Tập làm văn
a. Văn tự sự

- Kỹ năng viết văn tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm và nghị luận.
- Văn thuyết minh: cách làm bài văn thuyết minh, các kiểu bài thuyết minh.
b. Văn nghị luận: Đây là phần trọng tâm nhất:
- Bồi dưỡng khái niệm, cách lập luận trong các kiểu bài giải thích và chứng minh,
cách trình bày luận diểm, yếu tố biểu cảm trong văn nghị luận... đặc biệt phải có các
dạng đề cụ thể để học sinh rèn kỹ năng viết.
- Kiểu bài nghị luận gắn với phần tác phẩm văn học phải được rèn thường xuyên.
c. Cảm thụ văn học:
Tiếp tục bồi dưỡng theo các phương pháp và kỹ năng ở các lớp dưới đã học.
LỚP 9
I. Phần Tiếng Việt

19


- Bám sát kiến thức học trên lớp và học thêm buổi chiều. Từ đó mở rộng
nâng cao vận dụng vào làm bài tập Tiếng Việt có trong đề thi hoặc làm bài tập cảm
thụ văn học, bài tập tình huống.
- Ôn tập lại kiến thức lớp 6,7,8 về các phép tu từ để giải quyết bài tập.
II. Phần văn học
1. Văn học trung đại
- Bồi dưỡng kiến thức về hoàn cảnh lịch sử.
- Bồi dưỡng theo từng tác phẩm trọng tâm:
+ Nguyễn Dữ và “Chuyện người con gái Nam Xương” (Phân tích truyện, giá trị
nhân đạo và hiện thực, hình tượng người phụ nữ ...)
+ “Truyện Kiều” của Nguyễn Du gồm các đoạn trích học: phân tích riêng lẻ từng
đoạn trich, Bồi dưỡng theo nhóm nội dung như: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc
sắc trong “Truyện Kiều”. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “Truyện Kiều”. Tấm
loàng nhân đạo của thi hào Nguyễn Du...
+ Truyện “ Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu: tập trung bồi dưỡng ở việc xây

dựng người anh hùng, quan niệm vè người anh hùng, quan điểm nhân nghĩa...
+ Tổng hợp các tác phẩm như: Hình tượng người phụ nữ trong văn học trung đại
Việ Nam từ thế ký 16 đến thế ký 19 (Muốn làm được đề này phải có sựu huy động
kiến thức của lớp 7, lớp 8.); giá trị nhân đạo của các tác phẩn văn học trung đại...
2. Văn học hiện đại Việt Nam từ sau 1945
a. Phần thơ
- Bồi dưỡng kiến thức về hoàn cảnh lịch sử (văn học thời kỳ chống Pháp, văn học
thời kỳ chống Mỹ, Văn học sau chiến tranh, văn học thời kỳ đổi mới)
20


- Bồi dưỡng theo từng tác phẩm cụ thể. Gồm 10 bài thơ
- Bồi dưỡng theo nhóm chuyên đề: Hình tượng anh bộ đội cu Hồ qua các sáng tác
thơ thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng;
Hình ảnh con người mới, cuộc sống mới ....
b. Phần truyện:( gồm 4 truyện ngắn).
- Bồi dưỡng theo từng tác phẩm cụ thể: Tác giả, hoàn cảnh sáng tác, phong cách
sáng tác, nội dung và nghệ thuật, phân tích nhân vật...
- Bồi dưỡng theo dạng tổng hợp kiến thức.
c. Văn học nước ngoài
- Nắm được tác giả, nội dung , nghệ thuật từng tác phẩm. Tích hợp với văn học Việt
Nam.
III. Phần Tập Làm Văn
1.
2.
3.
4.
5.

Kiểu bài thuyết minh

Văn tự sự có yếu tố miêu tả, biểu cảm, nghị luận.
Tóm tắt tác phẩm tự sự.
Kỹ năng viết các dạng đoạn văn: qui nạp, diễn dịch, tổng- phân- hợp...
Văn nghị luận: đây là phần trọng tâm bồi dưỡng, có 2 dạng bài nghị luận

ở lớp 9:
- Kiểu bài nghị luận xã hội: gồm 2 dạng
+ Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo đức, lối sống:
+ Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống xã hội
Với dạng bài nghị luận xã hội có thể hướng dẫn học sinh làm theo các bước sau:
a. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần bàn luận.
- Đánh giá khái quát vấn đề nghị luận.
b. Thân bài: gồm các thao tác sau
- Nêu khái niệm hoặc nhận thức về sự vật hiện tượng. (Ví dụ: Bạo lực
học đường là gì? )
- Nêu thực trạng (Biểu hiện), các dạng tồn tại, số liệu.
- Nguyên nhân dẫn đến thực trạng (chủ quan, khách quan)
21


- Hậu quả vấn đề xấu, (kết quả- vấn đề tích cực)
- Đề xuất giải pháp (Cần bám sát vào nguyên nhân)
- Mở rộng (bằng nhiều cách như cách phản đề)
- Bài học nhận thức và hành động.
c. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề nghị luận.
- Lời khuyên hành động.
Kiểu bài nghị luận văn học: Gồm các dạng đề về lĩnh vực văn học như: phân tích
bình giảng một tác phẩm, phân tích nhân vật, phân tích nhận định về tác phẩm. Với

dạng bài này có thể tiến hành theo các bước sau:
+ Kiểu bài phân tích tác phẩm: có thể theo dàn ý sau
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác (hoặc xuất xứ đoạn trích)
- Bước đầu nêu gí trị tác phẩm (Có thể nêu lên ý chủ đề).
Thân bài: Phân tích tác phẩm hoặc đoạn trích
I. Phân tích tác phẩm (Có thể phân tíc theo cách kết hợp nội dung và nghệ thuật,
hoặc tách nội dung và nghệ thuật. Dàn ý thứ nhất là cách phổ biến nhất).
1. Nêu chủ đề và phân tích ý nghĩa của chủ đề (Nhận xét khái quát bước đầu)
2. Phân tích các khía cạnh (ý) của chủ đề
a. Khía cạnh 1 (ý 1)
- Nêu ý chính....
- Phân tích các chi tiết biểu hiện ý theo hướng kết hợp nội dung và nghệ thuật.
- Tiểu kết, bình giá, chuyển ý.
b. Khía cạnh 2 (ý 2) Cách làm như cách 1
22


c. Khía cạnh 3 (ý 3) ... Cách làm như cách 1
3. Tổng hợp các khía cạnh đã phân tích ở trên.
II. Đánh giá tác phẩm
1. Nêu giá trị của tác phẩm (giá trị nội dung và nghệ thuật)
2. Nêu tác dụng của tác phẩm lúc ra đời và đến hiện nay.(Ý nghĩa đối với cuộc
sống, với sự phát triển của văn học).
3. Chỉ ra hạn chế về nội dung và nghệ thuật (nếu có).
+ Kết bài:: Nêu cảm nghĩ, cảm tưởng sâu sắc nhất về tác phẩm.
- Rút ra ý nghĩa giáo dục của tác phẩm.
6. Rèn các kỹ năng diễn đạt hay cho học sinh.
Có 6 yếu tố cơ bản giúp học sinh diễn đạt hay mà các đồng chí có thể tham khảo
sau đây:

Thứ nhất: Từ ngữ và cách lựa chọn từ ngữ.
Biết lựa chọn từ ngữ một cách chính xác, gợi cảm là một trong những yếu tố
quyết định để có cách diễn đạt hay. Dù là loại văn sáng tác hay nghị luận, nếu đó là
một bài văn haykhi đọc lên chúng ta thấy người viết có vốn từ rất phong phú và đặc
biệt họ sử dụng rất chính xác linh hoạt.Từ ngữ dùng đúng lúc đúng chỗ sẽ lột tả
được thần thái của sự vật làm cho người đọc thấy khoái chí vì thấy mình không thể
viết được như vậy, phải thốt lên lời thán phục. Học cách sử dụng từ ngữ của các nhà
thơ, nhà văn như Nguyễn Du, Nguyễn Tuân...
Ví dụ: Học cách dùng từ trong đoạn văn sau: “ Mặt trăng xế mãi non Đoài chiếu
xuống dòng sông hơi gợn sóng một dải lung linh như nắm tơ vàng ngâm lơ lửng.
Xe ngừng lại, đỗ lù lù bên cánh đồng vắng, đợi con đò chập choạng bơi sang. Bốn
bề im lặng, chỉ nghe tiếng ánh trăng lờ đờ trôi dưới sông khuya và tiếng mái chèo
vỗ nước của con đò lẻ. Đò sang đến giữa dòng thì mặt trăng còn cách chân trời hơn
23


một thước, chiếu dài một vệt rực lên như vàng cháy, phảng phấp giống một chữ I
run rẩy chết giữa dòng sông, đang chơi vơi cố ngoi lên với lây dấu chấm vàng là
mảnh trăng treo lạnh lùng ở chân trời. Con đò lừ đừ nhập vào cái vòng ánh sáng
vàng rực ấy.” (Tiểu thuyết thứ bảy- 1944- Trần Cư)
Thứ hai: Viết câu phải linh hoạt.
Bài văn hay là bài văn biết vận dụng tất cả các loại câu một cách linh hoạt. Tức
là tùy từng lúc, từng chỗ, tùy vào giọng văn của từng đoạn mà có những kiểu câu
cho phù hợp. Như câu đơn, câu ghép, câu cảm thán, câu nghi vấn, câu khẳng định,
câu phủ định, câu điều kiện...
Khi nào cần dùng câu ngắn. Khi nào cần dùng câu dài.? Để diễn đạt tình cảm
trực tiếp thì thường dùng câu cảm thán, muốn tranh luận, bàn bạc, gây chú ý nên
dùng câu nghi vấn. Nên dùng câu có hai mệnh đề để làm thay đổi giọng văn như:
không những...mà còn, càng...càng. Tránh mắc lỗi viết câu chỉ có một vế mặc dù
hình thức không sai nhưng về logic thì sai

Khi dùng câu phủ định hoặc khẳng định chú ý cách diễn đạt tuyệt đối. Tức là
phải uyển chuyển có mức độ trong nhận xét, đánh gía. Những câu mang tính đánh
gía khái quát cao nên viết những câu mở đầu như: Nhìn chung, về cơ bản, hầu hết,
thường thường....
Ví Dụ: Trong văn nghị luận để trực tếp diễn đạt tình cảm, thái độ của mình,
người ta thường dùng câu cảm thán chứ không phải lúc nào cũng dùng kiểu câu trần
thuật: Xuân Diệu từng viết “ Trời đất ơi! Tú Bà nói không đầy nửa phút mà nước
bọt của mụ văng ra mãi tới ngàn năm”.
Thứ ba: Văn viết phải giàu hình ảnh.
Với kiểu bài sáng tác như miêu tả, kể chuyện thì văn càng phải giàu hình ảnh.
Có hình ảnh mới dựng lên được bức tranh cụ thể sinh động về cuộc sống con người.
Nói bằng hình ảnh là đặc trưng của tư duy hình tượng. Ví dụ khi miêu tả Lão Hac
trong truyện ngắn cùng tên Nam Cao đã có những câu văn đay hình ảnh, đem lại
24


sức gợi lớn: “Lão cố làm ra vẻ vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi mắt
ầng ậng nước. Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngẹo về một bên và cái miệng móm mén của lão
mếu như con nít . Lão hu hu khóc...” (Trích Lão Hạc- Nam Cao- Ngữ Văn 8 Tập 1)
Trong văn nghị luận là loại văn tư duy khái niệm, tư duy logic. Ý tứ cần chặt
chẽ, lập luận mạch lạc, đảm bảo độ chính xác cao, giàu sức thuyết phục. Tuy nhiên
vẫn cần tới yếu tố cảm xúc, hình ảnh. Ngôn ngữ văn nghị luận cũng cần hấp dẫn lôi
cuốn, mềm mại theo cách riêng của mình.
Thứ tư: Lập luận như một cuộc đối thoại ngầm.
Trong kiểu văn sáng tác: nhiều khi người viết phải dựng lại cả một những cuộc
đối thoại, Khi đó người viết phải khéo léo tạo lời thoại gay hấp dẫn và có ấn tượng.
Trong văn nghị luận: đối thoại ngầm ở đây là việc tổ chức các lý lẽ và dẫn
chứng nhằm làm sáng tỏ vấn đề để người đọc hiểu, tin và đồng tình với mình.
Muốn lập luận chặt chẽ thi lập luận cần đăỵ mình vào vị trí người đọc để trình bày.

Nên dùng các từ ngữ như : tại sao, vì thế, cho nên, thật vậy, tuy thế, không chỉ...mà
còn, nếu như, bên cạnh đó...
Ví dụ: Đoạn văn sau đây là một ví dụ : “ Trong Truyện Kiều cái gì qui định sự
thể hiện các nhân vật ? Cái gì làm cho sự miêu tả các nhân vật như Kim Trọng, Từ
Hải, Thúy Kiều khác với các nhân vật như Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh..?
Phải chăng là một đằng đã bước sang ngòi bút hiện thực còn đằng kia chưa thoát
khỏi sự trói buộc của của mỹ học phong kiến? Nhưng nếu vậy thì tại sao chỗ này
thoát khỏi khác còn chỗ kia thì bó tay? Ở đây có một quan niệm nghệ thuật gắn liền
với hình thức mô tả đó. Kiều, Kim Trọng...là loại người được mô tả như là những “
đấng”, những “bậc” trong xã hội. Mà đã là “ đấng”, “bậc” thì không thể mô tả
như người phàm tục mà phải tuân thủ theo các mẫu mực đã có sẵn. Còn Sở Khanh,
Tú Bà, Mã Giám Sinh... thực tế là quân vô loài thì còn có qui tắc chuẩn mực nào
ràng buộc được? Mẫu mực duy nhất để miêu tả chúng là hiện thực, do tác giả quan
25


×