Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

THÊM CHẤT CHO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.27 KB, 32 trang )

BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

KINH TẾ
THÊM CHẤT CHO CÁC NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM
“Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào các ngành dịch vụ song
trình độ phát triển lĩnh vực này vẫn thấp, mức độ lan tỏa chưa cao”.
Đó là nhận định của PGS TS Nguyễn Hồng Sơn – Hiệu trưởng
Trường ĐH Kinh tế (ĐH Quốc gia Hà Nội) tại Hội thảo Quản lý chất
lượng trong các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam.
Phát triển kinh tế dịch vụ, đặc biệt hướng tới một nền kinh tế
dịch vụ tri thức, đang trở thành xu thế nổi bật trong sự phát triển của
nền kinh tế thế giới hiện nay.
Trong xu hướng chung đó, PGS TS Nguyễn Hồng Sơn cho
rằng: “Việt Nam đang tiến hành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân”.
Tuy nhiên, theo PGS TS Nguyễn Hồng Sơn, một đặc điểm cơ
bản trong thực trạng phát triển của các doanh nghiệp dịch vụ Việt
Nam hiện nay có thể kể đến là DN quy mô nhỏ, mức độ chuyên môn
hóa thấp, thiếu hụt các quy trình và chuẩn mực của quá trình cung
cấp dịch vụ cũng như chuỗi cung ứng dịch vụ, các kỹ năng thực hiện
dịch vụ chưa phát triển, còn thiếu công nghệ đặc biệt là công nghệ
thông tin.
Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào ngành dịch vụ song hiệu quả
chưa cao, tốc độ tăng trưởng khá nhưng tỷ trọng trong GDP (khoảng
38-39%) còn thấp hơn so với bình diện chung của thế giới và thấp
hơn nhiều nước trong khu vực Đông Nam á, như Philippines, Thái
Lan, Malaysia, Indonesia. Có thể thấy, trình độ phát triển các ngành
dịch vụ tại Việt Nam còn thấp, mức độ lan tỏa chưa cao.
Để khắc phục tình trạng này, PGS TS Nguyễn Hồng Sơn cho


rằng: “Chất lượng dịch vụ được xem là một trong những điểm đột
phá nhằm thúc đẩy ngành dịch vụ Việt Nam phát triển nhanh, chất
lượng hiệu quả và bền vững theo chiều sâu trong dài hạn, từ đó, nâng
cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế”.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

1


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

Đối với doanh nghiệp ở tầm vĩ mô chất lượng dịch vụ được tạo
nên bởi: sự nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường; thiết kế sản
phẩm dịch vụ và quy trình cung cấp dịch vụ; thiết kế chuỗi cung ứng
dịch vụ; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực dịch vụ...
Ở cấp quốc gia, nâng cao chất lượng dịch vụ chỉ có thể phát
triển nếu có sự tham gia đầy đủ của 3 đại diện:
Một là, Nhà nước, đóng vai trò điều tiết, định hướng, chỉ đạo,
tài trợ thông qua các chương trình, dự án trọng điểm.
Hai là, Doanh nghiệp, nơi áp dụng các giải pháp nâng cao chất
lượng nhằm nâng cao năng lực quản trị dịch vụ bao gồm thiết kế sản
phẩm dịch vụ, quản lý quá trình cung cấp dịch vụ và chuỗi cung ứng
dịch vụ, đào tạo nhân lực...
Ba là, các cơ quan khoa học và nghiên cứu tư vấn đóng vai trò
nghiên cứu, phân tích, đánh giá các yếu tố tác động đến sự cải thiện
chất lượng, giới thiệu các xu hướng và giải pháp tiên tiến nhằm nâng
cao chất lượng, từ đó tăng năng suất và hiệu quả ở cấp độ quốc gia
và doanh nghiệp.

Theo: Báo Công thương

TẠO NỀN TẢNG ĐẨY MẠNH TÁI CƠ CẤU CÁC TỔ CHỨC
TÍN DỤNG
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, về cơ bản đã kiểm soát
được tình hình của các tổ chức tín dụng yếu kém thông qua các biện
pháp nghiệp vụ. Cơ quan này đang giám sát chặt chẽ việc các tổ chức
tín dụng thực hiện các phương án tái cơ cấu đã được phê duyệt đúng
lộ trình và mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu, lộ trình và giải pháp cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng (TCTD) đã được Chính phủ báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến
nhất trí và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 254/QĐTTg ngày 1.3.2012 phê duyệt Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD
giai đoạn 2011- 2015. Thực hiện Đề án, NHNN đã triển khai đồng
bộ và quyết liệt các giải pháp bao gồm thanh tra, giám sát và kiểm
toán độc lập theo chỉ định đối với các ngân hàng yếu kém. Qua đó,
đã xác định thực trạng tài chính, chất lượng hoạt động, việc chấp
2

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

hành chính sách pháp luật của ngân hàng, chỉ rõ nguyên nhân và
trách nhiệm cụ thể của tập thể, cá nhân có liên quan. Theo đó, ngân
hàng phải kiểm điểm trách nhiệm và có hình thức xử lý thích hợp đối
với những tập thể, cá nhân vi phạm quy chế Nhà nước, gây hậu quả
cho ngân hàng và định kỳ báo cáo NHNN về việc triển khai thực

hiện; đồng thời phải xây dựng phương án cơ cấu lại để lành mạnh
hóa tài chính, cơ cấu quản trị của ngân hàng. Đối với những cá nhân
có hành vi vi phạm quy định của pháp luật, tùy thuộc mức độ, tính
chất của hành vi đều sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp
luật. Những tổn thất kinh tế xảy ra cho TCTD do sai phạm hoặc rủi
ro phải do chính TCTD có trách nhiệm khắc phục, trước hết là cá
nhân người lãnh đạo và cổ đông của TCTD phải chịu trách nhiệm
bằng tài sản và vốn góp của mình.
Ưu tiên các biện pháp xử lý về kinh tế
Về nguyên tắc, cá nhân nào vi phạm pháp luật phải được xử lý
nghiêm minh. Trong bối cảnh tái cơ cấu, phải bảo đảm giữ ổn định
hệ thống các TCTD, vì vậy, các biện pháp xử lý về kinh tế được ưu
tiên áp dụng trước để hạn chế tổn thất, bảo vệ tài sản của Nhà nước
và tiền gửi của nhân dân.
Thực tế đến nay, NHNN chưa phải dùng đến giải
pháp buộc sáp nhập, hợp nhất. Các trường hợp sáp nhập, hợp nhất
thời gian qua đều trên tinh thần tự nguyện giữa các ngân hàng. Theo
đó, việc xử lý tài chính cũng như vấn đề nhân sự quản trị, điều hành
là những nội dung cơ bản trong phương án sáp nhập, hợp nhất được
Đại hội đồng cổ đông của các bên tham gia sáp nhập, hợp nhất thông
qua. Ngoài ra, đối với nhân sự lãnh đạo của các ngân hàng (bao gồm
cả ngân hàng sau tái cơ cấu), NHNN xem xét chấp thuận trên cơ sở
đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Một số
trường hợp do rủi ro gặp phải trong kinh doanh, nhân sự lãnh đạo của
ngân hàng yếu kém vẫn có thể tiếp tục được đảm nhiệm các chức vụ
quản lý ngân hàng để gắn trách nhiệm trong việc xử lý các tồn tại,
yếu kém, đảm bảo việc thực hiện tái cơ cấu thành công.
Trên thực tế, qua theo dõi của NHNN, các cá nhân gây tổn thất
cho ngân hàng đang được các ngân hàng sau sáp nhập, hợp nhất yêu
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


3


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

cầu tiếp tục xử lý các khoản tổn thất thông qua việc tiếp tục xử lý thu
hồi nợ, cấn trừ nợ bằng tài sản cá nhân hoặc cấn trừ nợ bằng cổ
phiếu... Một báo cáo mới đây của Cơ quan Thanh tra Giám sát thuộc
NHNN cho biết, về cơ bản đã kiểm soát được tình hình của các ngân
hàng yếu kém thông qua các biện pháp nghiệp vụ. Cơ quan này đang
giám sát chặt chẽ việc các ngân hàng thương mại thực hiện các
phương án tái cơ cấu đã được phê duyệt đúng lộ trình và mục tiêu đã
đề ra. Cũng báo cáo này cho biết, khả năng chi trả của hệ thống các
tổ chức tín dụng đến nay về cơ bản được đảm bảo, bước đầu ổn định
hệ thống. NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng huy động vốn từ
nền kinh tế, tăng trưởng tín dụng hợp lý để bảo đảm an toàn hoạt
động. Đến này 31.3.2013, huy động vốn của hệ thống trên thị trường
dân cư là 3.570.208,53 tỷ đồng, tăng 3,92% so với thời điểm
31.12.2012.
Khó khăn trong xử lý sở hữu chéo
Luật Các TCTD năm 2010 không cho phép các TCTD sở hữu
cổ phần lẫn nhau; không cho phép các công ty con, công ty liên kết
của một TCTD được góp vốn, mua cổ phần của chính TCTD đó.
Luật Các TCTD cũng đã có quy định về giới hạn sở hữu của cổ đông
và nhóm cổ đông tại TCTD. Tuy nhiên, do yếu tố lịch sử, trên thực
tế, hiện vẫn còn một số TCTD góp vốn tại nhiều TCTD khác hoặc có
sở hữu cổ phần lẫn nhau (xảy ra từ trước khi Luật Các TCTD 2010

có hiệu lực), hoặc có một số trường hợp TCTD thông qua các công
ty con của mình sở hữu cổ phần của TCTD khác (gọi chung là các
TCTD có liên quan) hoặc cổ đông sở hữu cổ phần của TCTD thông
qua vốn vay của doanh nghiệp khác… Việc sở hữu chéo gây ra nhiều
ảnh hưởng tiêu cực như làm gia tăng rủi ro hệ thống, tạo điều kiện
cho các hành vi chuyển vốn lòng vòng, tăng vốn điều lệ không thực
chất... Do đó, cần phải xử lý kiên quyết vấn đề sở hữu chéo theo lộ
trình phù hợp và đây cũng là một trong những nội dung trọng tâm
của quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015.
Trong quá trình triển khai các biện pháp xử lý vấn đề sở hữu
chéo, NHNN gặp phải một số khó khăn. Cơ chế chính sách, pháp luật
hiện hành không có quy định về “người hưởng lợi cuối cùng” hay
“người sở hữu cuối cùng”, khái niệm “người có liên quan” theo quy
4

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

định hiện hành chỉ giới hạn trong một số trường hợp cụ thể. Do đó,
trong một số trường hợp, về thực chất, cổ đông/nhóm cổ đông của
TCTD sở hữu cổ phần tại TCTD vượt giới hạn theo quy định của
Luật Các TCTD nhưng về luật pháp, họ không vi phạm.
Về thực tiễn triển khai xử lý vấn đề sở hữu chéo, đặc biệt tại
các TCTD yếu kém thông qua giải pháp cơ cấu lại cổ đông còn khó
khăn hơn nhiều do đây là vấn đề hết sức phức tạp, nhạy cảm, liên
quan đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của nhiều bên và mất nhiều thời

gian thanh tra để xác định rõ thực trạng tài chính cũng như cơ cấu cổ
đông của TCTD…
Để xử lý vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống, NHNN đã và
đang tăng cường công tác thanh tra, giám sát, rà soát, chấn chỉnh các
trường hợp vi phạm các quy định tại Luật Các TCTD năm 2010 và
các quy định có liên quan đến vấn đề sở hữu chéo của các TCTD;
yêu cầu TCTD xây dựng lộ trình giảm sở hữu vốn lẫn nhau giữa các
TCTD; tạo điều kiện cho các TCTD thoái vốn ở các TCTD và các
công ty con, công ty liên kết hoạt động không có hiệu quả; xác định
nguồn lực tài chính của các cổ đông khi tham gia góp vốn, mua cổ
phần tại TCTD; giám sát chặt chẽ quan hệ tín dụng của các đối tượng
có sở hữu chéo; phối hợp với Ủy ban chứng khoán theo dõi, giám sát
chặt chẽ việc mua bán, chuyển nhượng cổ phần của các TCTD trên
thị trường chứng khoán...
Theo: Đại biểu nhân dân

NỀN TẢNG CẠNH TRANH LÀNH MẠNH, HIỆU QUẢ
Trong tiến trình hội nhập, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt,
tạo điều kiện cho sự du nhập hoặc nảy sinh các chiêu thức cạnh tranh
tiêu cực, không lành mạnh, không chính đáng, vi phạm pháp luật
cạnh tranh.
Cạnh tranh không lành mạnh trong ngành thực phẩm
Hiện nay ngành thực phẩm ở Việt Nam đang phát triển rầm rộ,
từ khâu sản xuất đến khâu phân phối và tiêu dùng. Cạnh tranh trong
ngành thực phẩm hiện nay chủ yếu diễn ra trong nội bộ một hoặc một
vài phân ngành nhỏ, ví dụ như cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bia
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

5



BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

rượu nước giải khát, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kỹ nghệ thực
phẩm, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sữa…
Trong những năm vừa qua, Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công
Thương) đã điều tra và xử lý nhiều vụ việc liên quan đến cạnh tranh
trong ngành thực phẩm, trong đó chủ yếu là các hành vi thuộc nhóm
cạnh tranh không lành mạnh.
Một căn cứ quan trọng mà các doanh nghiệp ngành thực phẩm
thường dựa vào đó để thực hiện các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh là tính an toàn của sản phẩm. Trên cơ sở tâm lý ưa chuộng sản
phẩm sạch và không độc hại của người tiêu dùng Việt Nam, nhiều
doanh nghiệp đã đưa thông tin không trung thực cho rằng sản phẩm
của đối thủ cạnh tranh không an toàn, qua đó gây mất uy tín và ảnh
hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của đối thủ.
“Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác” hoặc
“gièm pha doanh nghiệp khác” là dạng hành vi cạnh tranh không
lành mạnh tồn tại phổ biến trong ngành thực phẩm.
Một trong những cách thức phổ biến nữa được các doanh
nghiệp thực phẩm sử dụng trong cạnh tranh đó là “quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh”. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, thiếu
thông tin của người tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp đã quảng cáo các
sản phẩm thực phẩm, đặc biệt là thực phẩm chức năng của mình với
các công dụng, giá trị vượt trội, thậm chí có những sản phẩm thực
phẩm chức năng được quảng cáo như những “thần dược” với công
dụng phòng ngừa hay chữa trị các loại nan y. Các quảng cáo này
giúp doanh nghiệp gia tăng sức hút đối với người tiêu dùng, lôi kéo

một cách bất chính khách hàng của các doanh nghiệp khác.
Về hình thức quảng cáo, bên cạnh các phương thức thông
thường như quảng cáo truyền hình, quảng cáo trên báo chí, hiện nay
xuất hiện một hình thức mới tinh vi hơn đó là dạng các bài viết giới
thiệu về các loại bệnh tật trên các báo, tạp chí sau đó khuyến nghị
người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm thực phẩm chức năng với các
công dụng, giá trị vượt trội. Với dạng quảng cáo này, niềm tin của
người tiêu dùng với sản phẩm quảng cáo được củng cố và làm người
6

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

tiêu dùng dễ dàng mua sản phẩm được quảng cáo mà không biết rằng
các thông tin quảng cáo là không đúng sự thật.
Việc cố tình sử dụng các “chỉ dẫn gây nhầm lẫn” với các sản
phẩm đã có uy tín trên thị trường để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của
mình là một biểu hiện của cạnh tranh không lành mạnh trong ngành
thực phẩm. Các nhà sản xuất thực phẩm quy mô nhỏ, ra đời sau
thường lợi dụng thiết kế, tên gọi đã nổi tiếng sản phẩm của các doanh
nghiệp đi trước để tiêu thụ sản phẩm của mình.
Đơn cử là ví dụ liên quan đến các doanh nghiệp sản xuất thạch
rau câu đã được Cục Quản lý cạnh tranh điều tra, xử lý. Một công ty
sản xuất sản phẩm thạch rau câu đã dựa trên thiết kế bao bì, tên gọi
của một sản phẩm có tiếng trước đó là thạch rau câu “Konnyaky Jelly
Powder” để xây dựng kiểu dáng, tên gọi cho sản phẩm thạch rau câu

“Konnyaku ABCxy powder” ra đời sau của mình. Với cách thức
cạnh tranh này, người tiêu dùng dễ dàng bị nhầm lẫn và mua sản
phẩm “Konnyaku ABCxy powder” trong khi sản phẩm mà họ thực
sự mong muốn là “Konnyaku Jelly powder”.
Giải pháp giúp cạnh tranh lành mạnh
Có thể nói, trong thời gian qua, các chiêu thức cạnh tranh
không lành mạnh nêu trên khiến cho sự cạnh tranh trong ngành thực
phẩm bị bóp méo, tạo nên hình ảnh xấu đối với ngành thực phẩm, do
đó cần phải có các giải pháp kịp thời nhằm chấn chỉnh và thúc đẩy
cạnh tranh lành mạnh trong ngành thực phẩm. Để làm được việc này,
trước hết cần phải có sự nỗ lực cả từ phía cơ quan quản lý và từ cộng
đồng doanh nghiệp.
Trong thời kỳ hội nhập hiện nay, các doanh nghiệp thực phẩm
có thể coi sản xuất sản phẩm “sạch” và “không độc hại” là một nền
tảng cạnh tranh đắc lực, hiệu quả, đưa nhà sản xuất đến với người
tiêu dùng một cách nhanh và bền vững nhất.
Nếu các doanh nghiệp thực sự đầu tư sản xuất các sản phẩm
có chất lượng tốt, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo đảm các chỉ tiêu
pháp luật quy định thì dù có bị xâm phạm bởi các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh như nêu trên, họ vẫn tồn tại và phát triển
mạnh mẽ.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

7


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013


Mặt khác, một trong những nguyên nhân dẫn đến các hành vi
cạnh tranh bất hợp pháp trong lĩnh vực thực phẩm là do các doanh
nghiệp không biết hoặc không nắm rõ các quy định của pháp luật
cạnh tranh. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chủ động đẩy
mạnh hoạt động đào tạo và thông tin nội bộ nhằm tăng cường nhận
thức và ý thức tuân thủ pháp luật cạnh tranh.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải nhanh chóng,
tích cực nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong ngành thực phẩm nói riêng
nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh, không để lọt các hành vi vi
phạm ngoài vòng pháp luật; chủ động và phối hợp với các cơ quan
ban, ngành khác tăng cường công tác thực thi pháp luật, kiểm tra
kiểm soát chặt chẽ, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm... Trong
thời kỳ hội nhập hiện nay, các doanh nghiệp thực phẩm có thể coi
sản xuất sản phẩm “sạch” và “không độc hại” là một nền tảng cạnh
tranh đắc lực, hiệu quả, đưa nhà sản xuất đến với người tiêu dùng
một cách nhanh và bền vững nhất.
Theo: Báo Công thương

CHUYỂN HƯỚNG TÍCH CỰC CỦA NGÀNH DỆT - MAY, DA
GIÀY
Ngành dệt may, da giày luôn trong top dẫn đầu cả nước về kim
ngạch xuất khẩu. Thế nhưng đây lại là những ngành hàng có tỷ trọng
gia công cao cho nên hiệu quả xuất khẩu không như mong muốn.
Nhanh chóng chuyển dần từ phương thức gia công xuất khẩu sang
sản xuất FOB (mua nguyên liệu, bán thành phẩm), ODM (tự thiết kế,
sản xuất và bán sản phẩm), thậm chí mạnh dạn làm OBM (sản phẩm
gắn thương hiệu của doanh nghiệp) là hướng đi cần thiết nhằm tăng
thêm giá trị gia tăng, lợi nhuận và sức cạnh tranh của DN.
Gia công là chủ yếu

Hơn 600 lao động vừa được Công ty cổ phần May Hồ Gươm
tuyển thêm, nâng tổng số lao động của công ty này lên 2.800 người.
Ðơn hàng xuất khẩu tới tấp buộc công ty phải nhanh chóng mở rộng
sản xuất, tuyển thêm nhân công, đầu tư máy móc, dây chuyền nhằm
8

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

tăng công suất thêm 2,5 đến ba triệu sản phẩm/năm, đáp ứng yêu cầu
trả hàng đúng hạn cho các đối tác nước ngoài. Phó Tổng Giám đốc
Công ty cổ phần May Hồ Gươm Phí Ngọc Trịnh cho biết, công ty đã
phải từ chối nhiều đơn hàng vì sợ không đủ năng lực sản xuất. Bốn
tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu của công ty đạt 13 đến 14 triệu
USD, tăng 20% so cùng kỳ năm trước. Song do chủ yếu sản xuất gia
công cho nên DN chỉ thực chất thu về được năm triệu USD.
May Hồ Gươm là một trong những DN dệt may chuyên gia
công xuất khẩu cho các thương hiệu thời trang nổi tiếng trên thế giới
như Mango, Zara... Ðến nay, tỷ lệ làm hàng gia công của công ty này
lên đến 70%, còn lại là hàng FOB. Phó Tổng Giám đốc Phí Ngọc
Trịnh cho rằng, trong bối cảnh thị trường tiêu thụ khó khăn như hiện
nay thì sản xuất gia công an toàn, ít rủi ro hơn do DN có thể yên tâm
hoàn toàn về đầu ra. Mặc dù vậy, nếu làm hàng gia công thì lợi
nhuận không cao bằng làm hàng FOB vì 63% doanh thu phải dành để
trả lương công nhân. Ngược lại, nếu làm hàng FOB, DN có thể giảm
được nhiều chi phí, nhất là chi phí mua nguyên, phụ liệu vì có thể

chủ động tìm kiếm, lựa chọn, mặc cả giá mua với các nhà cung cấp,
thay vì với đơn hàng gia công, DN bắt buộc phải mua từ các nhà
cung cấp do phía nước ngoài chỉ định. Vì thế, lợi nhuận làm hàng
FOB thường cao hơn từ 10% đến 15% so làm hàng gia công.
Giống như dệt may, các sản phẩm giày dép xuất khẩu của Việt
Nam cũng chủ yếu làm gia công cho nên giá trị gia tăng của sản
phẩm thường thấp. Tại Công ty TNHH Liên Phát (Bình Dương), một
DN chuyên sản xuất gia công giày nữ cho các thương hiệu nước
ngoài lớn như Bata, Oliver..., Giám đốc Trương Thị Thúy Liên cho
biết, giá gia công bình quân thường chỉ chiếm khoảng 10% giá bán
sản phẩm, thậm chí, có đôi giày giá bán lên đến hàng trăm USD
nhưng các DN Việt Nam khi làm gia công chỉ được hưởng từ 2 đến
2,2 USD/đôi. Theo Hiệp hội da giày Việt Nam (Lefaso), hiện nay,
hầu hết sản phẩm giày dép xuất khẩu chủ lực của ngành đều không
mang thương hiệu của Việt Nam vì là hàng gia công cho nước ngoài,
có tới hơn 70% sản lượng xuất khẩu được thực hiện qua phương thức
gia công, chủ yếu từ các DN có vốn trong nước.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

9


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

Dệt may, da giày được coi là những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam, hằng năm kim ngạch xuất khẩu của hai ngành này
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm
2012, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may đạt hơn 15 tỷ USD,

chiếm khoảng 13% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Còn
ngành da giày có kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 8,7 tỷ USD, chiếm
7,6%. Mặc dù những năm gần đây, kinh tế thế giới suy thoái, sức
mua tại thị trường xuất khẩu giảm sút nhưng ngành dệt may, da giày
vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao. Năm 2013, cả
hai ngành này đều hướng tới mục tiêu xuất khẩu cao hơn năm trước
với kim ngạch từ 18,5 đến 19 tỷ USD cho ngành dệt may và khoảng
chín tỷ USD cho ngành da giày. Tuy nhiên, theo chuyên gia kinh tế
Lê Ðình Ân nhìn nhận, dệt may và da giày đều là những ngành hàng
có tỷ trọng gia công cao cho nên dù kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng
lượng ngoại tệ thực thu về cho đất nước không nhiều. Chưa kể, tăng
trưởng xuất khẩu những năm qua của hai ngành này lại chủ yếu rơi
vào các DN FDI.
Dịch chuyển phương thức sản xuất
Giám đốc Trương Thị Thúy Liên thẳng thắn cho biết: "DN rất
muốn chuyển sang làm hàng FOB nhưng không phải DN nào cũng
có thể làm được điều đó". Phương thức sản xuất FOB đòi hỏi DN
chủ động toàn bộ quá trình sản xuất, phía đối tác nước ngoài chỉ giao
thiết kế sản phẩm, DN tự tìm kiếm nguyên, phụ liệu, tổ chức sản xuất
và giao hàng đúng hạn nên rủi ro rất nhiều, vốn đầu tư lại lớn trong
khi vòng quay vốn chậm.
Chẳng hạn như DN cần vốn lớn để mua nguyên, phụ liệu sản
xuất nhưng thời gian để làm ra sản phẩm, rồi xuất khẩu, thu tiền về
tính ra cũng phải mất tới hai đến ba tháng. Trong khi đó, DN trong
nước chủ yếu là DN nhỏ và vừa, phần lớn hoạt động bằng vốn vay
ngân hàng với lãi suất vay quá cao.
Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tổng công ty (TCT) May Ðồng
Nai - Công ty cổ phần Bùi Thế Kích cho rằng, DN chuyển sang làm
hàng FOB tùy theo quy mô và năng lực của DN nhưng nếu DN cứ
tiếp tục sản xuất gia công thì sẽ phát triển rất chậm, lợi nhuận không

10

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

nhiều, không có khả năng tích lũy, càng hạn chế năng lực cạnh tranh
của DN. Với May Ðồng Nai, nhờ tập trung sản xuất, kinh doanh
hàng FOB với tỷ lệ đạt hơn 90% tổng giá trị sản xuất, kinh doanh
nên mức tăng trưởng bình quân hằng năm của TCT đạt 32% trong
năm năm qua. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu của TCT là 45 triệu
USD, trong đó 93% là kim ngạch xuất khẩu hàng FOB. Cũng nhờ đó
mà lợi nhuận tăng 10% so năm 2011. Năm nay, TCT phấn đấu đạt
kim ngạch xuất khẩu 55 triệu USD, trong đó tỷ lệ hàng FOB tăng lên
97%, lợi nhuận cũng sẽ tăng được thêm 10% so năm 2012. Theo Chủ
tịch kiêm Tổng Giám đốc Bùi Thế Kích, DN trong nước cần tính
toán xây dựng chiến lược lâu dài, từng bước chuyển dần từ gia công
sang phương thức sản xuất FOB, rồi sang ODM (tự thiết kế, sản xuất
và bán sản phẩm), thậm chí mạnh dạn làm OBM (sản phẩm gắn
thương hiệu của doanh nghiệp). Ðấy chính là cách để nâng cao giá trị
gia tăng cho sản phẩm đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của
DN trong nước.
Có thể thấy, chuyển dần từ phương thức gia công sang FOB
hoặc ODM hay OBM sẽ tạo điều kiện cho DN tích lũy vốn, tái đầu
tư, từ đó có điều kiện phát triển nhanh và vững chắc. Ngành dệt may
đã đặt ra mục tiêu từ nay đến năm 2015 tăng tỷ lệ FOB từ 38% lên
khoảng 50% và ODM từ 5% lên 10%. Nhưng muốn làm được điều

này, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam Hoàng Vệ
Dũng phân tích, quan trọng nhất DN phải có đội ngũ cán bộ có trình
độ, kinh nghiệm, nhất là trong lĩnh vực tìm kiếm nguyên phụ liệu,
giao dịch với khách hàng nước ngoài, thiết kế, may mẫu và đặc biệt
phải có tài chính đủ mạnh. Một khó khăn mà các DN sản xuất hàng
FOB thường gặp phải là việc tìm kiếm nguyên, phụ liệu trong nước
mất rất nhiều thời gian, nếu tìm được thì giá thường cao, chất lượng
không bảo đảm nên nhiều DN buộc phải nhập khẩu. Trong khi đó,
với sản phẩm dệt may, chi phí nguyên phụ liệu thường chiếm từ 60
đến 70% giá thành sản phẩm.
Tương tự, với sản phẩm giày dép, theo Chủ tịch Lefaso
Nguyễn Ðức Thuấn, giá trị vật tư thường chiếm từ 50 đến 60% giá
thành sản phẩm FOB, trong khi chỉ có 50% nguyên, phụ liệu mua
được ở trong nước, còn lại đều phải nhập khẩu nước ngoài.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

11


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

Chính vì thế, để tăng giá trị gia tăng của sản phẩm thì đương
nhiên tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm phải tăng lên. Ðiều này đặt ra yêu
cầu cấp bách phát triển sản xuất nguyên, phụ liệu dệt may và da giày.
Tuy nhiên, công nghiệp hỗ trợ cho cả hai ngành này của nước ta đều
chưa phát triển tương xứng. Chủ tịch HÐQT kiêm Tổng Giám đốc
Công ty cổ phần Sợi Thế kỷ Ðặng Triệu Hòa chia sẻ, để khuyến
khích các DN đầu tư vào lĩnh vực này thì Nhà nước cần có chính

sách hỗ trợ về thuế, đất đai, đặc biệt là vốn vì hiện năng lực tài chính
của các DN trong nước còn rất hạn chế trong khi đầu tư phát triển
lĩnh vực này thường đòi hỏi vốn lớn.
Nhu cầu sử dụng nguyên, phụ liệu trong nước không hề nhỏ
cho nên nhiều DN trong nước muốn mở rộng đầu tư sản xuất nguyên,
phụ liệu nhưng hiện chính sách của Nhà nước lại chỉ khuyến khích
đầu tư mới, DN đầu tư mở rộng thì không được hưởng những chính
sách ưu đãi. Ðiều này vô hình trung lại khuyến khích các DN đầu tư
nhỏ lẻ, "manh mún" nên càng khó đủ sức cạnh tranh với các DN
nước ngoài.
Phát triển nguyên, phụ liệu trong nước chính là góp phần nâng
cao giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may và da giày Việt Nam, giúp
các DN không phụ thuộc vào các nhà cung cấp nước ngoài. Chỉ khi
DN chủ động được nguyên, phụ liệu trong nước thì mới có thể dễ
dàng thay thế dần phương thức gia công xuất khẩu.
Theo: Báo Công thương

12

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

KHOA HỌC CÔNG NGHỆ- MÔI TRƯỜNG
CHỈ CÓ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ MỚI ĐƯA VIỆT NAM
BỨT PHÁ
"Để có 10 năm tăng trưởng mạnh vừa qua, chúng ta đã cởi trói

nông nghiệp bằng khoán 10, công nghiệp bằng luật doanh nghiệp,
huy động tối đa tiềm lực lao động giản đơn. Muốn tiến xa hơn, chỉ
còn cách phát triển khoa học, công nghệ”, tiến sĩ Nguyễn Quân, Thứ
trưởng Bộ KH&CN khẳng định.
- Năm nay sẽ tổng kết 10 năm thực hiện nghị quyết Trung ương
2 khóa VIII, coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu để
phát triển kinh tế xã hội. Thứ trưởng đánh giá thế nào về vai trò của
khoa học và công nghệ (KH&CN) trong thời gian qua?
- Nếu hỏi cụ thể KH&CN đã đóng góp bao nhiêu, thì các con
số đưa ra đều là định tính. Thứ nhất, theo tôi, đó là vì KH&CN có độ
trễ nhất định, không thể thấy hiệu quả ngay. Thứ hai, đầu tư cho lĩnh
vực này tiềm ẩn sự “mạo hiểm”. Ngay cả tại các nước phát triển, tỷ
lệ nghiên cứu thành công có thể áp dụng vào đời sống và sản xuất
cũng chỉ khoảng trên dưới 20%. Nhiều người nghĩ rằng mọi nghiên
cứu đều phải thành công, phải có kết quả, đó là suy nghĩ sai lầm. Thứ
ba, có nhiều sản phẩm khoa học mang lại hiệu quả lớn nhưng gián
tiếp hoặc vô hình. Ví dụ, nghiên cứu văc xin, chi phí vài trăm nghìn
USD có thể cứu mạng cả triệu em nhỏ… mà sinh mạng con người thì
không thể tính bằng tiền được.
Một loại cũng rất khó tính hiệu quả thành tiền là nghiên cứu cơ
bản. Có ý kiến cho rằng ta nên sử dụng nghiên cứu cơ bản của nước
ngoài, và chỉ nên tập trung nghiên cứu ứng dụng thôi. Nhưng theo
tôi, ta vẫn phải chủ động trong lĩnh vực này, vì không phải nghiên
cứu cơ bản nào của nước ngoài cũng có thể chuyển giao cho ta và có
thể áp dụng được vào hoàn cảnh VN, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh,
quốc phòng, bệnh dịch…
Trong 20 năm đổi mới, nếu không có KH&CN, chúng ta không
thể có những thành tựu như vậy. Nhờ việc làm chủ công nghệ tiên
tiến mà ngành đóng tàu nước ta đang có cơ hội xếp vào top 10 nước
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


13


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

trên thế giới. Nhờ có các giống mới, quy trình canh tác mới... đã góp
phần đưa nước ta thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Nhưng khách quan mà nói, KH&CN thời gian qua vẫn chưa
xứng với vị trí là quốc sách hàng đầu, là động lực của nền kinh tế.
Đội ngũ cán bộ đông nhưng chất lượng không cao, các công bố quốc
tế của VN rất thấp, số sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công
nghiệp được cấp bằng bảo hộ ít ỏi, số các công trình có ý nghĩa lớn
đối với phát triển kinh tế xã hội cũng rất ít.
- Điều gì khiến cho khoa học và công nghệ ở Việt Nam chưa
thực sự đóng vai trò "then chốt"?
- Trước hết, đó là do đầu tư cho lĩnh vực này của nhà nước còn
thấp (2% tổng chi ngân sách, khoảng 0,5 - 0,6% GDP), tỷ trọng đầu
tư của doanh nghiệp còn ít, chưa đến 0,1% GDP. Bởi hầu hết doanh
nghiệp đều là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, ban đầu phải lo tồn
tại trong thương trường, chưa có điều kiện đầu tư cho KH&CN. Các
doanh nghiệp lớn chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước thì đầu tư cho
lĩnh vực này rất thấp, thậm chí thấp hơn tư nhân. Hãy so sánh: đầu tư
cho KH&CN trên đầu người Việt Nam năm 2007 là khoảng 5 USD,
ở Hàn Quốc là khoảng 1000 USD, còn ở Trung Quốc năm 2004 là
khoảng 20 USD. Tỷ lệ đầu tư của Trung Quốc cho KH&CN từ ngân
sách Nhà nước so với khu vực ngoài Nhà nước khoảng 1 : 3, còn VN
thì ngược lại khoảng 5 : 1.

Thứ hai, sự quan tâm của xã hội đối với lĩnh vực này thấp. Nếu
như ngành Giáo dục (cũng là lĩnh vực quốc sách hàng đầu) chỉ có
một động thái nhỏ như thay đổi giá sách giáo khoa cũng đã làm xôn
xao dư luận, thì ngành KH&CN muốn đổi mới phải qua quá trình
dài, nhưng lại ít nhận được phản hồi của công luận.
Sau cùng, chúng ta chưa có mạng lưới quản lý KH&CN đến cơ
sở. Nếu ngành Giáo dục có chân rễ đến tận thôn bản, thì KH&CN
mới chỉ có đơn vị quản lý đến cấp tỉnh. Trong khi đó, kết quả nghiên
cứu phải có cơ sở ứng dụng, nhất là doanh nghiệp. Nếu mạng lưới
quản lý không với tới cơ sở, doanh nghiệp, thì dù ta có các viện
nghiên cứu rất lớn, việc ứng dụng kết quả nghiên cứu cũng không
thành công.
14

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

- Vậy thời gian tới, khoa học và công nghệ ở nước ta sẽ phải
được đặt ở vị trí nào?
- Trong tương lai, KH&CN vẫn phải là động lực phát triển kinh
tế. Vì ngay các nước mới phát triển như Hàn Quốc hay Đài Loan,
đến thời điểm này vẫn phải giữ tôn chỉ đó. Chỉ có điều, chúng ta phải
làm thế nào để biến nó thành hiện thực, chứ không chỉ trên giấy tờ,
nghị quyết.
Phải hiểu rằng sự tăng trưởng của những năm đổi mới chủ yếu
là do chúng ta tự “cởi trói” mình. Nhưng đến nay, có thể nói giai

đoạn tăng trưởng nhờ tháo gỡ cơ chế đã qua rồi, những gì cần tháo
gỡ chúng ta đã làm rồi. Nông dân đã được làm chủ ruộng đất, công
nhân đã được làm chủ trong doanh nghiệp của họ, kể cả các thành
phần kinh tế khác, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài, chúng ta
đã huy động gần như tối đa. Về mặt cơ chế chính sách, hầu như
không còn rào cản, đặc biệt kể từ khi gia nhập WTO, hội nhập quốc
tế ASEM, APEC…
Từ đây trở đi, nếu không phát triển khoa học và công nghệ,
chắc chắn sự tăng trưởng kinh tế sẽ bị hạn chế, thậm chí chậm lại.
Đảng ta đã xác định mục tiêu đến 2020, về cơ bản VN trở thành một
nước công nghiệp. Đây là mục tiêu khó khăn nếu chúng ta không có
những quyết sách lớn về KH&CN. Bài học của các nước trong khu
vực và trên thế giới đều như vậy, bởi giá trị gia tăng của khoa học và
công nghệ chiếm tỷ trọng rất lớn trong nhịp độ phát triển.
- Thứ trưởng có thể nói cụ thể hơn về bài học từ các nước bạn
trong vấn đề này?
- Ví dụ khu công nghệ cao Tân Trúc (Đài Loan) chỉ có khoảng
100.000 người làm việc, sản xuất 2 sản phẩm chính là màn hình tinh
thể lỏng và chíp máy tính. Hằng năm, giá trị hàng hóa mà họ tạo ra
lên đến 46 tỷ USD (số liệu năm 2004). Bình quân một người tạo ra
sản phẩm có giá trị nửa triệu USD. Trong khi đó tại Việt Nam năm
2007, một người ở độ tuổi lao động đóng góp GDP trung bình là
1.500 USD. So sánh như vậy để thấy là người lao động trong lĩnh
vực công nghệ cao có năng suất lớn gấp nhiều lần so với lao động
thông thường.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

15



BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

Chính vì thế Hàn Quốc, hay Đài Loan dù gần như không có tài
nguyên hay đất nông nghiệp, nhưng họ vẫn dẫn đầu thế giới trong
nhiều lĩnh vực, Hàn Quốc có thể đứng vào top 10 của thế giới. Ngay
Trung Quốc cũng đã xây dựng một chủ thuyết mới : “Khoa học phát
triển quan” - phát triển đất nước dựa trên thế giới quan khoa học. Và
chính vì vậy, Trung Quốc hiện có mọi thành tựu khoa học mà thế
giới có, như tên lửa, vũ khí hạt nhân, tàu vũ trụ có người lái, máy bay
chiến đấu, máy bay chở khách, tàu sân bay…
Việt Nam cũng nên đi theo con đường của các nước mới công
nghiệp hóa.
- Việt Nam cần phải làm gì để KH&CN thực sự trở thành động
lực kinh tế?
- Tôi chia làm 3 nhóm giải pháp cụ thể. Trước hết là nhóm giải
pháp về cơ chế, có hai vấn đề.
1- Phải triệt để đổi mới trong cách quản lý. Chính phủ đã giao
cho các tổ chức KH&CN quyền tự chủ rất cao, cả về tài chính, tổ
chức, biên chế. Điều này đã được quy định rõ trong Nghị định 115 và
Nghị định 80, được ví như “khoán 10” trong khoa học. Vấn đề là các
cấp quản lý phải hiểu rõ và thực hiện tốt chủ trương này.
2- Phải sớm hình thành một hệ thống doanh nghiệp KH&CN.
Đây là một loại hình doanh nghiệp mới, do các nhà khoa học lập ra,
ứng dụng kết quả nghiên cứu để làm ra sản phẩm có hàm lượng chất
xám cao. Đây được coi là con đường ngắn nhất để đưa kết quả
nghiên cứu vào sản xuất. Một ví dụ điển hình là Viện Máy và Dụng
cụ Công nghiệp. Năm 2002, viện này được thí điểm hoạt động theo
mô hình công ty mẹ - công ty con. Viện là công ty mẹ, trong viện có

nhiều công ty con. Trong vòng 5 năm qua, doanh số của Viện đã tăng
từ một vài chục tỷ lên đến gần 1.000 tỷ. Một ví dụ khác là Công ty
Sơn tổng hợp Hải phòng, trong 5 năm qua đã tăng doanh số lên hơn
10 lần, đạt gần 400 tỷ đồng năm 2007.
Thứ hai, phải đổi mới về cơ chế tài chính: cho phép các nhà
khoa học có quyền tự chủ cao hơn trong sử dụng kinh phí của nhà
nước. Không nên quyết toán theo năm tài chính mà theo thời gian
nghiên cứu. Cho phép họ được linh hoạt chuyển đổi thuận lợi nội
16

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

dung nghiên cứu, tạo điều kiện cho họ đi trao đổi khoa học ở nước
ngoài cũng như mời chuyên gia nước ngoài vào hợp tác nghiên cứu
trong nước.
Thứ ba, Nhà nước nên xác định những đề tài có ảnh hưởng lớn
đến đất nước, coi đó như nhiệm vụ KH&CN của quốc gia, hình thành
những tập thể nghiên cứu mạnh, giao cho họ quyền tự chủ cao để họ
làm được việc đó. Với cơ chế manh mún hiện nay (có khi cùng một
vấn đề, viện A nghiên cứu, viện B cũng nghiên cứu, bộ C cũng có đề
tài tương tự…), chúng ta không thể giải quyết được những vấn đề
mang tính chiến lược, tầm quốc gia.
Xin minh họa bằng một kinh nghiệm thời kháng chiến chống
Mỹ. Khi Mỹ phong tỏa cảng Hải Phòng bằng thủy lôi, Nhà nước giao
cho giáo sư Vũ Đình Cự lập nhóm GK1 với cơ chế tự chủ cao,

nghiên cứu giải pháp phá thủy lôi. Trong thời gian rất ngắn nhóm
GK1 đã thành công, sau này công trình được Giải thưởng Hồ Chí
Minh. Ngày nay, ta cũng có thể áp dụng tương tự, bằng cách giao
cho một nhà khoa học chủ trì một dự án lớn, được giao một khoản
kinh phí đủ lớn, được quyền chủ động mời và trả lương cao cho các
nhà khoa học khác cùng làm việc, chủ động mua sắm thiết bị, tham
dự các hội nghị quốc tế, mời chuyên gia nước ngoài hợp tác… Nhà
nước chỉ quan tâm đến sản phẩm của dự án. Theo kinh nghiệm của
các nước, có như thế mới có thể triển khai thành công các dự án lớn.
Theo: Báo Công thương

NHỮNG SÁNG CHẾ NHỎ MÀ HAY
Từ câu mắng yêu của mẹ "là anh chàng lười" vì mỗi khi làm
việc gì anh cũng nghĩ đến chuyện: Tại sao lại không chế ra máy móc
để đỡ vất vả hơn? Cho đến nay, khi bước sang tuổi 43, anh Nguyễn
Trọng Hào, ngụ tại quận Tân Bình, Tp. HCM đã có trong tay 18 sáng
chế mang những tiện ích nhất định trong cuộc sống hàng ngày.
Sáng chế không phải để…oai
Cho dù các sáng chế có được cấp văn bằng bảo hộ hay chưa
không quan trọng. Mà quan trọng là nó có hữu dụng không, và nó
giải quyết được vấn đề gì, chứ không phải được cấp văn bằng bảo hộ
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

17


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013


cho oai, hay để đạt được mục đích gì, đó là quan điểm của anh Hào
khi làm các sáng chế.
Xuất phát từ quan điểm đó, nên các sáng chế của anh đều bắt
nguồn từ những công việc thực tế cụ thể. Một lần, khi tận mắt nhìn
thấy người thợ đang lợp tôn và bị rơi từ trên cao xuống đất (lợp tôn
như hiện nay là phải leo lên mái, bắn vít vào tôn nên nếu bất cẩn nên
rất dễ dẫn đến tai nạn) anh đã tìm tòi và nghĩ ra cách lợp tôn không
dùng vít.
Theo cách của anh thì người thợ sẽ dùng giàn giáo và đứng
dưới mái để lợp nên an toàn hơn. Hơn nữa làm theo cách này tôn này
sẽ không bị thủng nên tuổi thọ sẽ cao hơn. Tuy nhiên do sóng tôn
thường có hình thang ngược nên rất khó chồng lại với nhau gây khó
khăn cho việc vận chuyển, do đó các công trình lớn mới có thể làm
được, khi đó đem máy cán tôn đến tận công trình và cán đẩy tôn nên
nóc luôn, anh Hào chia sẻ.
Trong gần 20 sáng chế của mình thì anh Hào đã tiến hành sản
xuất và thương mại hóa một số sản phẩm. Tuy nhiên, không phải bất
cứ sản phẩm nào của anh cũng nhận được sự thông cảm và ứng dụng
ngay từ đầu. “Đó là câu chuyện khi tôi triển khai sản xuất những
chiếc đục khoan đa năng, trong sáng chế này có một số chi tiết đòi
hỏi tay nghề thợ cao. Bởi vì, ai cũng muốn giá thành sản xuất phải
thấp mà sản lượng, chất lượng phải cao, cho nên cần phải tính toán
định mức vật tư sao cho tiêu hao ít nhất. Vì thế khi tôi tiến hành thực
hiện, một trong những người thợ giỏi nhất của tôi nói: "Sao anh
không nghĩ ra cái gì dễ dễ làm cho anh em đỡ vất vả?”. Nghe xong ai
cũng cười ồ lên. Tôi nói rằng những cái anh em đang làm đây sẽ
mang giá trị gia tăng cao gấp nhiều lần những cái dễ dễ kia, và sẽ
được xã hội đền đáp một cách xứng đáng…” anh Hào vui vẻ kể lại.
Thuyết phục đối tác bằng …thơ
“Để thuyết phục đối tác cho công ty tôi áp dụng Phương pháp

bo sắt hình sin, giúp tăng cường lực uốn cho đà và cột vào công trình
xây dựng, tôi cũng đã năn nỉ họ gãy lưỡi. Nhưng chủ đầu tư nhất
quyết không dám thay đổi so với thiết kế vì phương pháp này quá
mới nên họ không tin. Rất may, tôi phát hiện ra chủ đầu tư rất thích
18

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

làm thơ, và ông ta có trên 2000 bài. Trong khi đó, tôi cũng thích
“món” này, hai người trao đổi mãi rồi ông cũng mến. Cuối cùng ông
cũng cho phép công ty của mình áp dụng thử. Tuy rất tự tin vào
phương pháp này, nhưng ngày thi công tôi hồi hộp vô cùng. Sau khi
thi công xong không ai tin nổi vào hiệu quả trước mắt nên sau đó ông
ấy mạnh dạn cho áp dụng hàng loạt.” anh Hào chia sẻ.
Theo anh Hào thì cách bo sắt (tức là buộc sắt) đai vào sắt chủ
theo cách truyền thống là các vòng sắt đai song song nhau tạo thành
các hình tứ giác nên không có tác dụng tăng cường lực uốn cho đà,
chỉ có tác dụng định hình các sắt chủ lại theo kích thước nhất định.
Còn theo cách mới, các vòng sắt chủ được bo theo hình sin, nên tạo
ra các hình tam giác nối tiếp nhau, và các hình tam giác này có tác
dụng tăng cường lực uốn cho đà ngoài tác dụng định hình sắt chủ.
Điều này giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được sắt, khẩu độ đà
có thể nới rộng hơn bình thường, giảm thiểu tai nạn do đà yếu dẫn đến
sập sàn bê tông. Nếu áp dụng theo cách này thì Việt Nam một ngày có
thể tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng tiền sắt xây dựng.

Theo: Báo Đất việt

MÁY BÁN BÁO TỰ ĐỘNG
Nhóm sinh viên Trịnh Đức Cường, Dương Văn Linh và Lê
Quốc Việt, khoa Cơ khí chế tạo máy, trường Đại học sư phạm Tp.
HCM đã thiết kế ra máy chiếc máy bán báo, tạp chí tự động. Chiếc
máy này còn có thể trả lại tiền thừa, phân biệt được tiền giả, tiền thật
và mệnh giá tiền...
Từ nhu cầu thực đến sáng chế
Mỗi sáng chế đều có hoàn cảnh ra đời khác nhau, chia sẻ về
điều này, sinh viên Lê Quốc Việt đã thay mặt nhóm cho hay: từ thực
tế nhu cầu cập nhật thông tin hằng ngày của mọi người là rất lớn,
khiến cho các sạp báo bên đường và những người bán báo dạo cũng
tăng lên rất nhiều, nhưng không phải nơi nào cũng có các sạp bán
báo như vậy, nhất là ở các trung tâm thương mại, các cao ốc văn
phòng, nơi công cộng một phần vì vẻ mỹ quan.
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

19


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

Từ thực tế đó, nhóm chúng em đã nảy ra ý tưởng thiết kế máy
bán báo tự động nhằm đáp ứng một phần thiếu sót của những sạp bán
báo là không thể đặt ở những nơi như trên đồng thời cũng góp phần
tạo nên vẻ mỹ quan tương đối phù hợp cho những nơi đó.
Từ đó, các thành viên trong nhón tích cực tìm hiểu thông tin

trên Internet cũng như ý kiến của các thầy trong phòng thí nghiệm
mở của trường. Qua thông tin thu thập được thì mọi người biết rằng:
trước đây cũng đã có vài công ty nhập máy bán báo từ nước ngoài
về, nhưng qua thời gian hoạt động thì thường bị lỗi ở cơ cấu cấp báo
tự động nên họ đã dừng sử dụng, Việt chia sẻ.
Sau khi có được những thông tin cần thiết thì cả nhóm đã bắt
tay vào làm việc với sự phân chia rõ ràng: bạn Dương Văn Linh: là
người thiết kế cơ khí khung các bộ phận cho máy, người lo phần hệ
thống điện là bạn Trịnh Đức Cường), Dương Quốc Việt thì lo phần
lập trình. Tuy công việc được phân chia nhưng ai gặp khó khăn gì thì
cả nhóm họp lại để đề xuất phương án giải quyết.
Sáng tạo để tạo nên sự tự tin vào bản thân
Máy bán báo tự động gồm 6 bộ phận chính: thùng máy, cơ cấu
cấp báo, bộ phận điều khiển, bộ phận kiểm tra tiền thật và thu thối tiền,
bộ phận thanh toán tiền bằng thẻ từ (Smart Card), một camera giám sát
an ninh. Ngoài nhiệm vụ bán báo tự động, nó còn được kèm theo TV
phục vụ việc giải trí cũng như quảng cáo. Không dùng tiền xu, chiếc
máy này nhận biết được cả tiền giấy và tiền polyme để trả lại cho khách
hàng. Sản phẩm có thể bán tự động được nhiều loại báo (9 loại tất cả),
mỗi loại có thể chứa 20 đến 30 cuốn, bán được các loại báo khổ giấy A4
(khổ như báo tiếp thị và gia đình). Người mua sẽ nhấn nút chọn loại báo
muốn mua, sau đó đưa tiền vào hệ thống thanh toán (tiền từ mệnh giá
2.000 trở lên) nếu có tiền thừa sẽ được trả lại, thao tác rất đơn giản dễ
dùng. Đặc biệt, người dùng có thể thanh toán bằng thẻ thông minh, hệ
thống GSM. Giá của chiếc máy này khoảng 40 triệu đồng (trong đó,
máy bán hàng tự động tương đương do nước ngoài sản xuất cũng rơi
vào khoảng 60 triệu), Việt cho biết.
Về mặt xã hội thì Việt cho rằng: sản phẩm này còn có tác động
to lớn trong việc khẳng định được khả năng sáng tạo của người Việt
20


SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

Nam. Và tạo nên sự tự tin vào bản thân của các sinh viên trong việc
phát triển những ý tưởng mới, phục vụ cho cộng đồng, xã hội.
Máy bán báo tự động đã đạt giải nhất trong chương trình Nhà
sáng chế số 9 trên VTV2. Theo ý kiến của ban giám khảo chương
trình thì sản phẩm này đã có tính sáng tạo cao, hoàn thiện và mỹ
quan, tuy nhiên nên làm nhỏ gọn hơn. Chuyên gia vật lý Doãn Hà
Thắng, giám khảo chương trình Nhà sáng chế số 9 đã đưa ra lời góp
ý: nên kết hợp giữa máy bán báo và máy bán cafe vì người Việt Nam
đã quen với hình ảnh vừa đọc báo, vừa uống cafe.
Được biết, hiện nhóm các bạn sinh viên này đang tìm hiểu các
thủ tục để tiến hành đăng kí sở hữu trí tuệ để bảo hộ sáng chế của
nhóm.
Theo: Báo Đất việt

LÀM GIAO THÔNG NÔNG THÔN BẰNG “CÔNG NGHỆ TÚI
ĐẤT”
Nhóm nghiên cứu trường Đại học Công nghệ Giao thông vận
tải phối hợp Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) vừa ứng
dụng thành công công nghệ Do-nou (túi đất gia công nền, chống sụt
lún) trên 200 m đường giao thông nội đồng ở xã Tân Ước (Thanh
Oai, Hà Nội).
Công nghệ túi đất

Trước khi ứng dụng công nghệ Do-nou, 200m đường này được
người dân Tân Ước đắp theo phương thức truyền thống nên nền rất
yếu, dễ sụt lún, lầy lội vào trời mưa. Với công nghệ Do-nou, nhóm
nghiên cứu đã dùng những bao tải dứa có chứa vật liệu thô như: đất,
cát, đá dăm, phế liệu xây dựng... để khắc phục tình trạng trên. Giáo
sư Kimura Mokoto, trường Đại học Kyoto cùng các thành viên của
nhóm nghiên cứu xuống thực địa và hướng dẫn người dân cách đóng
đất, đá vào bao tải, kỹ thuật đầm sao cho đạt được độ ma sát cao
nhất.
Giáo sư Kimura Mokoto phân tích: “Khả năng chịu tải của bao
tải đất phụ thuộc rất lớn vào cường độ chịu kéo của bao và vật liệu
đưa vào bao. Khi sử dụng bao tải đất đúng quy cách, khả năng chịu
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

21


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

tải của nền tăng tới 10% so với kết cấu bê tông, tuổi thọ bao có thể
đạt trên 50 năm”.
Việc ứng dụng công nghệ này không đòi hỏi các thiết bị thi
công hạng nặng, tận dụng được lao động địa phương và nguồn vật
liệu tại chỗ.
Do đó chi phí cho xây dựng chỉ bằng 30-50% so với công nghệ
xây dựng thông thường và thân thiện môi trường. Công nghệ túi đất
đã ứng dụng có hiệu quả ở một số nước như Kenya, Philipin, Papua
New Guinea, Tanzania, Uganda...

Rẻ và đơn giản
Ông Nguyễn Đức Toàn - Chủ tịch UBND xã Tân Ước cho biết:
“Khi làm xong 100 m đường trên, chúng tôi tiến hành cho xe bán tải
chạy thử thì thấy không còn bị sụt lún như ban đầu. Chúng tôi muốn
áp dụng công nghệ trên diện rộng để cải thiện đường giao thông nội
đồng địa phương”.
Trong quy hoạch nông thôn mới, phần lớn đường giao thông
đều được nhựa hóa và bê tông hóa đòi hỏi kinh phí rất lớn mà không
phải địa phương nào cũng đủ điều kiện.
Khảo sát nông thôn Việt Nam cho thấy, còn trên 70% các tuyến
đường chưa được cứng hóa, chủ yếu vẫn là đường đất, nên hiện
tượng sình lầy cục bộ, thất thoát vật liệu bề mặt do lún nền đất trong
mùa mưa thường xuyên xảy ra.
Trong điều kiện đó, ứng dụng công nghệ túi đất trong xây
dựng, duy tu sửa chữa cục bộ và gia cường nền đường giao thông
nông thôn là cần thiết.
Áp dụng công nghệ Do-nou tuy mới được triển khai ở Việt
Nam, nhưng lại rất quen thuộc bởi từ lâu nhân dân ta đã biết sử dụng
các bao tải cát để đắp đê, ngăn đập, phòng chống ngập úng.
Việc áp dụng công nghệ này để cải thiện hệ thống giao thông
không chỉ tận dụng được nhân công, vật liệu, giá thành rẻ mà nó còn
rất đơn giản, thân thiện, phù hợp với điều kiện nông thôn.
Theo: Báo Nhân dân
22

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG


Số 02 - Tháng 5/2013

MÁY CUỐN RƠM, LỢI ÍCH KÉP
Cọng rơm được xem như là thứ bỏ đi sau khi thu hoạch lúa,
vừa gây thất thu cho nông dân, vừa làm ảnh hưởng đến đồng đất, gây
phát thải khí nhà kính… Từ những trăn trở đó, cán bộ, kỹ sư của
Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng đã tìm được máy cuốn rơm đem
lại lợi ích kép trong SX.
Ông Võ Quốc Trung, Trưởng phòng Kỹ thuật, Trung tâm
Khuyến nông Sóc Trăng cho biết: Theo cách làm truyền thống, bà
con thường hay đốt bỏ rơm cho tự phân hủy. Đây là việc làm mang
đến nhiều hệ lụy, nhất là việc để rơm tự phân hủy. Cách làm này mất
nhiều thời gian, trong khi nhu cầu SX vụ mùa mới là cấp bách. Chính
vì thế khi đưa vào SX cây lúa sẽ dễ bị ngộ độc hữu cơ. Còn việc đốt
bỏ rơm thì đã vô tình làm mất đi chất hữu cơ cung cấp lại cho đất,
gây phát thải khí nhà kính.
“Trước cái khó của bà con, chúng tôi ấp ủ trong đầu ý tưởng
làm sao để có thể sử dụng cơ giới hóa vào việc thu gom nguồn rơm
lại để sử dụng vào mục đích khác. Rất may, trong khi chúng tôi đang
tìm giải pháp hữu hiệu thì phát hiện máy cuốn rơm Z755 do Bộ Quốc
phòng SX. Đây là loại máy đáp ứng được mục tiêu của chúng tôi”.
Ông Trung nói.
Một thực tế cho thấy, trước đây nông dân sử dụng máy tuốt lúa
thì còn chủ động được nguồn rơm để trồng nấm hay để làm thức ăn
cho trâu, bò… Còn hiện nay, đa phần là sử dụng máy gặt đập liên
hợp trong lúc thu hoạch lúa nên cọng rơm được bỏ lại ngay trên đồng
ruộng. Chính vì vậy, nghề trồng nấm ở địa phương dần mai một,
nguồn rơm làm thức ăn trong chăn nuôi gia súc cũng không còn.
Nói về lợi ích của việc sử dụng máy cuốn rơm, ông Trung phấn
khởi: “Đàn gia súc của địa phương có số lượng khá nhiều nên cần một

lượng lớn rơm để làm thức ăn cho chúng vào mùa khô. Còn nghề
trồng nấm cũng mang lại thu nhập kinh tế cao. Vậy tại sao chúng ta
phải lãng phí hàng triệu tấn rơm hàng năm như vậy. Nếu sử dụng
nguồn rơm “khổng lồ” này thì nông dân có thể thu về hàng tỷ đồng”.
Ngành nông nghiệp địa phương này cho biết, thời gian tới sẽ áp
dụng mạnh mẽ máy cuốn rơm vào trong SX nông nghiệp. Từng bước
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

23


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

hình thành các HTX chuyên SX nấm rơm cung cấp cho thị trường
trong và ngoài tỉnh nhằm đem lại thu nhập kinh tế và giải quyết việc
làm cho lao động địa phương.
Theo ông Trung, khi sử dụng máy cuốn rơm, cọng rơm sẽ
không bị mất đi mà nó sẽ "xoay chuyển" theo một cơ chế hữu cơ. Cụ
thể là khi gia súc ăn thức ăn từ rơm, khi chúng thải ra phân, người
dân có thể sử dụng nguồn phân này để ủ thành phân hữu cơ vi sinh
bón lại cho đồng ruộng. Hay sử dụng bả rơm trong việc trồng nấm để
tạo thành phân hữu cơ bón lại cho cây trồng.
Nông dân Lê Văn Toàn, ngụ ấp Tà Lọt C, xã Thạnh Trị, huyện
Thạnh Trị nói: “Máy cuốn rợm mang đến nhiều lợi ích cho nông dân
chúng tôi. Đặc biệt là giảm đi tối đa chi phí bỏ ra để thuê nhân công
thu gom rơm để SX theo cách làm truyền thống trước đây”.
Máy cuộn rơm cân nặng 400 kg, với công suất hoạt động
khoảng 1 ha/ngày. Rơm được cuộn lại thành từng cuộn hình trụ,

đường kính 45 cm, dài 75 cm. Kích thước này giúp nông dân thuận
tiện hơn trong khâu thu gom, vận chuyển. Máy cuốn rơm chỉ cần đấu
vào máy kéo có công suất 20 mã lực trở lên (máy kéo, máy cày) là có
thể hoạt động.
Hiện tại máy cuốn rơm có giá hơn 90 triệu đồng/chiếc. Nông
dân mua máy được Nhà nước hỗ trợ 50% giá trị thiết bị và được
chuyển giao việc áp dụng vào SX. Để giới thiệu máy cuốn rơm đến
nông dân, ngày 16/3 vừa qua, Trung tâm Khuyến nông Sóc Trăng đã
tổ chức hội thảo và trình diễn máy cuốn rơm MCR V01 tại huyện
Thạnh Trị.
Theo: Truyền thông khoa học

CHUYỂN XỐP PHẾ THẢI THÀNH BÊTÔNG NHẸ
Nhóm bốn sinh viên năm cuối Đại học Kiến trúc TP.HCM đã
có ý tưởng dùng xốp phế thải để sản xuất bêtông nhẹ xây dựng. Đề
tài thành công đã mở ra hướng giải quyết một lượng lớn xốp phế thải
trong môi trường.
Đề tài “Tận dụng xốp phế thải để sản xuất bêtông nhẹ” của
Hoàng Nguyên, Kim Thanh, Thế Anh và Minh Tân (SV năm cuối
24

SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN


BẢN TIN KINH TẾ - KHCN - MÔI TRƯỜNG

Số 02 - Tháng 5/2013

lớp XD 08A1) vừa đoạt giải khuyến khích giải thưởng Sinh viên
nghiên cứu khoa học Euréka lần 13-2011, được hội đồng giám khảo

đánh giá cao về ý tưởng có tác dụng bảo vệ môi trường.
Ý tưởng độc đáo
Cả bốn bạn đều học ngành xây dựng dân dụng nên thường
ngày tiếp xúc nhiều với các vật liệu mới, có tính ứng dụng cao của
nhiều nước trên thế giới. “Mỗi lần ăn cơm hộp ở trường, mình thấy
một lượng lớn hộp xốp bỏ đi rất phí. Ngoài ra còn lượng lớn xốp phế
thải từ các thùng đựng tivi, tủ lạnh, đầu đĩa... Thế là ý tưởng tận dụng
xốp phế thải thay thế một lượng sạn cát làm nguyên liệu sản xuất
bêtông nhẹ trong xây dựng ra đời từ đó” - Nguyên nhớ lại.
Hoàng Nguyên (trưởng nhóm) cho biết công nghệ xây dựng
nhà ở bằng phương pháp lắp ghép có sử dụng các cấu kiện panel
(hoặc tấm lớn) tường, sàn, mái làm từ bêtông nhẹ hay sử dụng block
gạch nhẹ. Đây là công nghệ xây dựng hiện đại có nhiều ưu điểm
được nhiều nước tiên tiến áp dụng. Vì thế, khi tận dụng xốp sản xuất
bêtông nhẹ không những theo hướng hiện đại trong xây dựng, mà
còn giúp giải quyết vấn nạn ô nhiễm từ lượng lớn xốp phế thải.
Cánh cửa dẫn đến vật liệu xanh
Đem ý tưởng, nội dung đề tài trao đổi với giảng viên hướng
dẫn Phan Thế Vinh (ĐH Kiến trúc TP.HCM), nhóm được thầy ủng
hộ nhiệt tình. Những ngày đầu vào phòng thí nghiệm trường, cả
nhóm lúng túng chẳng biết bắt đầu từ đâu. Suốt sáu tháng thực hiện
đề tài, cả nhóm mải miết thu gom vỏ cơm hộp ở các giảng đường,
dãy trọ, những miếng xốp phế thải ở các hộ gia đình... về nghiền vụn
làm nguyên liệu. Kim Thanh - thành viên nữ duy nhất của nhóm bộc bạch: “Buổi nào không có tiết học, các thành viên lại cặm cụi với
ximăng, cát, xốp ở phòng thí nghiệm của khoa để đổ bêtông mẫu. Dù
vất vả nhưng ai cũng cố gắng nghiên cứu, thử nghiệm để đưa ra một
tỉ lệ trộn hợp lý cho chất lượng bêtông tốt nhất”.
Nhóm đã thực hiện sáu thí nghiệm, mỗi lần thí nghiệm đổ ba
khối bêtông mẫu 15cm x 15cm x 15cm. Ba lần đổ thí nghiệm cuối đã
cho ra những tiêu chuẩn ổn định về kỹ thuật như độ nén, sức bền và

kinh phí. Bêtông xốp có cường độ chịu nén 1-3 MPA (đơn vị đo lực
SỞ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THÁI NGUYÊN

25


×