Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU của một số nước TRÊN THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (594.37 KB, 133 trang )

Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

CHƯƠNG I:

LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT

TRIỂN THỊ TRƯỜNG
I. THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ CHIẾN LƯỢC HƯỚNG VỀ
XUẤT KHẨU
1. Tầm quan trọng của thương mại quốc tế với tăng trưởng và
phát triển kinh tế
Trong tác phẩm “Sự giàu có của các Quốc gia” A.Smith đã chỉ rõ:
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức đem lại sự giàu có
và thịnh vượng cho mỗi dân tộc, là nhân tố đóng góp đáng kể cho tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Thương mại quốc tế phát triển, thị trường được mở rộng, cho phép tăng
chuyên môn hoá sản xuất, tiếp nhận công nghệ mới, khuyến khích phát
minh sáng chế, nâng cao năng suất lao động dẫn tới tăng tổng sản phẩm
quốc dân. Thương mại quốc tế cho phép các quốc gia mở rộng sản xuất
trên cơ sở chuyên môn hoá một cách sâu sắc. Thương mại quốc tế mở
rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Nó cho phép một nước tiêu
dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng
với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước đó nếu thực hiện chế độ
tự cung tự cấp không buôn bán.
Ngày nay, Thương mại quốc tế còn là công cụ để hội nhập nền kinh tế
các nước và hình thành kinh tế toàn cầu với một không gian rộng lớn,
nhờ đó hiệu quả kinh tế xã hội không ngừng tăng lên làm tăng chất
lượng cuộc sống trên toàn thế giới cũng như ở mỗi quốc gia.
1



Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Để đánh giá sự tác động của thương mại quốc tế vào tăng trưởng
tổng sản phẩm quốc dân người ta sử dụng mối quan hệ tương quan
giữa kim ngạch xuất nhập khẩu với GDP, kim ngạch xuất khẩu so với
GDP, kim ngạch nhập khẩu so với GDP và tương quan xuất khẩu so
với nhập khẩu.
Thương mại quốc tế ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế còn được
tính toán bởi chỉ tiêu tăng trưởng xuất nhập khẩu và tăng trưởng xuất
khẩu vào 1% tăng trưởng GDP. Nghĩa là để đạt được 1% tăng trưởng
GDP thì kim ngạch xuất nhập khẩu hay kim ngạch xuất khẩu phải tăng
trưởng bao nhiêu phần trăm nếu chúng ta cố định các nhân tố khác.
Tăng trưởng 1% GDP do đóng góp của tăng trưởng kim ngạch
xuất nhập khẩu được tính theo chỉ số liên hoàn và so với năm gốc.
Chỉ số liên hoàn được tính theo công thức:
Đóng góp cho
1% tăng trưởng
GDP của XK

Tỷ lệ tăng trưởng
xuất khẩu (%)

=

XK
x

GDP


Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%)

Chỉ số đóng góp so với thời kỳ gốc (t) được tính theo công thức:
Đóng góp cho
1% tăng trưởng
GDP của XK

=

Tỷ lệ tăng trưởng XK (%)
thời kỳ (t+1)
Tỷ lệ tăng trưởng GDP (%)
thời kỳ t

XKt+1

x
GDPt+1

2


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Các chỉ số trên cho ta thấy rằng để tăng trưởng 1% GDP, kim
ngạch xuất nhập khẩu, trong đó có tính đến tác động của cả nhập khẩu
phải đạt mức tăng trưởng nhất định. Nếu trung bình cho thời kỳ 5 năm
hoặc 10 năm, các chỉ số này sẽ có tác dụng dự báo các chỉ tiêu GDP

tương ứng với tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu hoặc tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu tương ứng.

2. Chiến lược hướng về xuất khẩu
Cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu dựa trên nguyên
lý của Keynes về tổng cầu chứ không phải tổng cung là yếu tố quyết
định mức sản xuất (lý luận về tổng cầu hiệu quả). Từ đó, mở ra lập luận
mới về nền kinh tế mở, lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu
cho nền sản xuất trong nước. Tình hình đó đòi hỏi người ta phải có
phương thức phù hợp, cách đi hợp lý, cấu trúc lại nền kinh tế sở tại, sao
cho thích ứng với những đòi hỏi của thị trường thế giới. Đây chính là
cơ sở lý luận của chiến lược hướng về xuất khẩu hay còn gọi là chiến
lược thúc đẩy xuất khẩu hướng ngoại.
Bản chất của chiến lược hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế
quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường thế giới nhằm: phát
huy lợi thế so sánh của quốc gia; buộc sản xuất trong nước phải luôn
luôn đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm mau chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại; đáp
ứng nhanh nhạy nhu cầu thị trường (cả trong nước và quốc tế) với giá
3


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

cạnh tranh không có một con đường nào khác là chuyển dịch cơ cấu
nền sản xuất xã hội phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới.
Quan điểm hướng về xuất khẩu được hiểu: “Sản xuất và xuất
khẩu những sản phẩm hàng hoá mà thị trường thế giới cần chứ không
phải sản xuất cái ta có”, không chỉ đối với sản phẩm xuất khẩu mà tất

cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới và thị trường trong nước.
Nếu như đặc trưng của chiến lược thay thế nhập khẩu là mức bảo
hộ cao, kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ, tỷ giá hối đoái ít khuyến khích
xuất khẩu thì đặc trưng của chiến lược hướng về xuất khẩu là mức bảo
hộ thấp, hạn chế sử dụng hạn ngạch, giấy phép xuất khẩu và các biện
pháp hạn chế nhập khẩu, sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích xuất
khẩu, tỷ giá hối đoái ủng hộ xuất khẩu.
Ưu thế của chiến lược hướng về xuất khẩu là gắn sản xuất và nền
kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, liên kết các nền kinh tế
quốc gia với nhau, tạo ra không gian và nhu cầu kinh tế rộng lớn hơn
nhờ liên kết và buôn bán quốc tế, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Đối
với nước ta, chiến lược hướng về xuất khẩu có nhiều ý nghĩa lớn :
- Xuất khẩu giúp cho việc tạo ra và tăng thu ngoại tệ để nhập khẩu
vật tư, máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước,
- Hạn chế bảo hộ công nghiệp địa phương mà thực chất là nuôi
dưỡng tính ỷ lại và thay thế vào đó là nâng đỡ và hỗ trợ cho các ngành
sản xuất hàng xuất khẩu
4


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

- Bảo đảm môi trường đầu tư cho các nhà tư bản nước ngoài thông
qua một hệ thống các chính sách khuyến khích và kinh tế tự do để thu
hút đến mức tối đa vốn đầu tư của các công ty nước ngoài, góp phần
thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhanh
chóng đổi mới hiện đại hoá công nghệ sản xuất và công nghệ kinh

doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước,
- Chiến lược hướng về xuất khẩu vừa là tác nhân vừa là hệ quả và là
sự bảo đảm thắng lợi cho quá trình tự do hoá thương mại,
- Đẩy nhanh tiến trình hội nhập, có hiệu quả thương mại quốc gia
với thương mại khu vực và toàn cầu.
Tuy nhiên, khi áp dụng chiến lược hướng về xuất khẩu cũng có
những nhược điểm:
- Nền kinh tế định hướng hướng về xuất khẩu có thể gây ra sự
mất cân đối trầm trọng giữa các ngành xuất khẩu và không xuất khẩu
do tập trung hết khả năng cho xuất khẩu và các ngành có liên quan. Các
ngành phục vụ cho xuất khẩu sẽ nhận được nhiều chính sách ưu đãi, hỗ
trợ, trong khi các ngành không xuất khẩu thì sẽ không được hưởng
chính sách này, vì thế các ngành còn lại sẽ cũng có khuynh hướng hoặc
là sản xuất kém hoặc là chuyển dần kinh doanh sang những hoạt động
có liên quan tới xuất khẩu. Điều này khiến cho sự phát triển không
đồng đều giữa các ngành kinh tế,
- Mọi chính sách vĩ mô như điều chỉnh tỷ giả hối đoái, lãi suất
ngân hàng.. do quá tập trung vào khuyến khích xuất khẩu nên có thể
dẫn tới những khủng hoảng kinh tế trầm trọng do mất giá đồng tiền,
5


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

- Do ít chú ý tới các ngành công nghiệp phát triển thiết yếu nhất,
nên mặc dù tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng nền kinh tế vẫn gắn chặt
với thị trường nước ngoài nên dễ bị tác động bởi những sự biến đổi của
các thị trường lớn,
- Nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần bị kiệt quệ do bị khai thác

triệt để nhằm phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu,
- Nếu quá tập trung vào xuất khẩu mà không coi trọng nhập khẩu
thì trong dài hạn, nền kinh tế dễ bị rơi vào tình trạng tụt hậu, nhất là với
các nước đang phát triển khi mà trình độ khoa học kỹ thuật chưa phát
triển.

II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường.
1.1 Khái niệm
Theo Samuelson, “thị trường là một quá trình trong đó người
mua và người bán một thứ hàng hoá tác động qua lại lẫn nhau để xác
định giá cả và lượng hàng hoá”. Với định nghĩa này, ông đã đơn giản
hoá rằng, đây là một quá trình mua bán diễn ra trực tiếp giữa người
mua và bán mà ít bị sự điều khiển hoặc các yếu tố bên ngoài chi phối
tới cả quá trình. Nhưng với David Begg, thị trường được xem xét dưới
nhiều khía cạnh hơn “thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình
mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng mặt
hàng nào, quyết định của các công ty về sản xuất cái gì, sản xuất như
6


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu,
cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh của giá cả”. Nói tóm lại,
thị trường là tổng hoà các mối quan hệ kinh tế để thực hiện việc trao
đổi hàng hoá trong nền kinh tế hàng hoá và cụ thể hơn, ở đó cung cầu
về hàng hoá gặp nhau và được thoả mãn.
1.2 Đặc điểm của thị trường

Kinh tế thị trường được hiểu là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình
độ cao dựa trên sự phát triển của phân công lao động xã hội, chuyên
môn hoá sản xuất và trao đổi sản phẩm làm ra của những người sản
xuất với nhau. Nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi các quy luật khác
nhau: quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy
luật lưu thông tiền tệ...
Quy luật giá trị đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh hàng hoá
phải căn cứ vào giá trị xã hội trung bình của hàng hoá để sản xuất và
trao đổi một cách bình đẳng ngang giá trên thị trường. Giá cả trên thị
trường vận động xoay quanh trục giá trị trung bình của nền sản xuất xã
hội, nếu các nhà sản xuất vi phạm quy luật giá trị thì sẽ dẫn tới thua lỗ
và phá sản.
Quy luật cung cầu hoạt động thông qua hai lực lượng cơ bản của
thị trường là Cung và Cầu (Người bán – Người mua, Người sản xuất –
Người tiêu dùng …) thuộc hai khâu của quá trình tái sản xuất xã hội:
sản xuất và tiêu dùng. Quy luật này nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng
của Cung và Cầu. Cung cầu không tồn tại độc lập riêng rẽ với nhau mà
thường xuyên tác động qua lại nhau. Mối quan hệ này xảy ra thường
7


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

xuyên, lặp đi lặp lại trên thị trường. Vì vậy, để sản xuất kinh doanh có
hiệu quả, lực lượng sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường
phải xuất phát từ những nhu cầu sẵn có hoặc tiềm năng của thị trường.
Quy luật cạnh tranh là sự biểu hiện của quy luật lợi ích trong nền
kinh tế thị trường. Trên thị trường, với sự tự do sản xuất kinh doanh
của nhiếu chủ thể thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia thường dẫn

tới sự cạnh tranh lẫn nhau trên tất các các phương diện: cạnh tranh về
giá cả, chất lượng, và dịch vụ phục vụ khách hàng. Quá trình cạnh
tranh này có thể xẩy ra giữa người mua với người bán, người mua với
người mua và người bán với người bán với nhau. Muốn tồn tại và giành
thắng lợi trên thương trường, các lực lượng của thị trường cần luôn
bám sát quy luật cạnh tranh. Bởi cạnh tranh là một cuộc chạy đua
không có đích cuối cùng làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống,
chất lượng tăng lên, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá
các yếu tố đầu vào của sản xuất – kinh doanh, không ngừng ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ, cạnh tranh tước quyền thống
trị và độc quyền về kinh tế.
Quy luật lưu thông tiền tệ chỉ ra trong thị trường, khối lượng tiền
lưu thông phải phù hợp với tổng giá trị hàng hoá lưu thông trên thị
trường. Nếu quy luật này bị vi phạm sẽ dẫn tới ách tắc trong lưu thông
và gây khó khăn dẫn đến mất ổn định nền kinh tế. Do vậy, để tồn tại và
phát triển thị trường hàng xuất khẩu, các thành phần tham gia vào thị
trường đều phải tự giác tuân thủ theo các quy luật thị trường một cách
nghiêm túc.
8


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Nói về thị trường quốc tế, “thị trường quốc tế của một nước là
tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm năng có nhu cầu về những
mặt hàng nào đó của nước đó”

2. Thị trường hàng hoá xuất khẩu
2.1 Hàng hoá xuất khẩu

Hàng hoá xuất khẩu được hiểu gắn với khái niệm thương mại
hàng hoá (phân biệt với xuất khẩu dịch vụ gắn với khái niệm thương
mại dịch vụ) theo quy ước của Liên hợp quốc và WTO là những sản
phẩm hàng hoá hữu hình được sản xuất hoặc gia công tại các cơ sở sản
xuất, gia công và các khu chế xuất với mục đích để tiêu thụ tại thị
trường ngoài nước (xuất khẩu). Hàng tạm nhập tái xuất cũng được coi
là hàng hoá xuất khẩu. Hàng hoá quá cảnh không thuộc diện của khái
niệm hàng hoá xuất khẩu.
Hàng hoá xuất khẩu là hàng hoá khác biệt so với hàng hoá tiêu
dùng ở trong nước. Những hàng hoá xuất khẩu phải đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Chất lượng của hàng hoá
phải cao, đảm bảo đáp ứng được các thông số về tiêu dùng, kỹ thuật và
môi trường và đạt được tính cạnh tranh cao ở nước người nhập khẩu.
Ví dụ: sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu vào khối EU hay Mỹ phải đạt
các tiêu chuẩn trong hệ thống HACCP .Vấn đề nhãn mác hàng hoá gắn
liền với uy tín của doanh nghiệp và rất được các nước công nghiệp phát
triển quan tâm.Ví dụ, hàng hoá của Trung Quốc mang thương hiệu
Made in China, hàng của Nhật Bản mang thương hiệu Made in Japan,
9


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

trong khi đó Việt Nam lại chưa chú ý đúng mức để phát triển hàng hoá
xuất khẩu mang thương hiệu Made in Việt Nam bởi hàng của ta chất
lượng kém, số lượng ít, khối lượng nhỏ.

2.2 Thị trường hàng hoá xuất khẩu
2.2.1 Khái niệm thị trường hàng hoá xuất khẩu

Thị trường hàng hoá xuất khẩu là thị trường trong đó người mua
và người bán có quốc tịch khác nhau tác động với nhau để xác định giá
cả và số lượng hàng hoá mua bán, chất lượng hàng hoá cao theo tiêu
chuẩn quốc tế, mua bán theo hợp đồng với khối lượng lớn, thanh toán
chủ yếu bằng ngoại tệ mạnh và phải làm thủ tục hải quan qua biên giới.
Xuất khẩu hàng hoá bao hàm cả xuất khẩu trực tiếp (nước tiêu thụ cuối
cùng) và xuất khẩu gián tiếp (xuất khẩu qua trung gian). Chẳng hạn,
một nước nào đó tạm nhập tái xuất hàng hoá của Việt nam hoặc nhập
hàng hoá của Việt nam rồi đem xuất khẩu sang thị trường khác cũng
được coi là thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt nam.
2.2.2 Phân loại thị trường hàng hoá xuất khẩu
Căn cứ vào vị trí địa lý:


Thị trường Châu lục



Thị trường khu vực



Thị trường nước và vùng lãnh thổ
10


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Căn cứ vào lịch sử quan hệ ngoại thương



Thị trường truyền thống



Thị trường hiện có



Thị trường mới



Thị trường tiềm năng

Căn cứ mức độ quan tâm và tính ưu tiên trong chính sách phát
triển thị trường của nước xuất khẩu đối với các thị trường xuất khẩu:


Thị trường xuất khẩu trọng điểm hay thị trường chính. Đối với
loại thị trường này, trong quan hệ ngoại thương, nước xuất
khẩu có thể phải chấp nhận một số thiệt thòi về lợi ích trước
mắt để thu được lợi ích lâu dài (nhất là trong đàm phán ký kết
các hiệp định thương mại cấp Chính phủ). Đây là những thị
trường mà một nước sẽ nhằm vào khai thác chính và trong một
tương lai lâu dài.




Thị trường xuất khẩu tương hỗ. Đối với loại thị trường này,
nước xuất khẩu duy trì quan hệ giao thương theo nguyên tắc
tương hỗ - tức là hai nước có quan hệ ngoại thương dành cho
nhau những ưu đãi và nhân nhượng tương xứng nhau, nhất là
trong việc mở rộng thị trường.

Căn cứ vào dung lượng và sức mua của thị trường


Thị trường xuất khẩu có sức mua lớn
11


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường


Thị trường xuất khẩu có sức mua trung bình



Thị trường xuất khẩu có sức mua thấp

Căn cứ vào kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại
giữa nước xuất khẩu với nước nhập khẩu:


Thị trường xuất siêu




Thị trường nhập siêu

Căn cứ mức độ mở cửa của thị trường, mức bảo hộ, tính chặt chẽ
và khả năng xâm nhập thị trường:


Thị trường “khó tính”



Thị trường “dễ tính”

Căn cứ vào sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp của nước xuất khẩu:


Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh



Thị trường xuất khẩu không có ưu thế cạnh tranh

Căn cứ vào các thoả thuận thương mại cấp Chính phủ và các yêu
cầu của đối tác thương mại về việc có hạn chế hay không hạn chế định
lượng nhập khẩu một số mặt hàng:


Thị trường xuất khẩu theo hạn ngạch




Thị trường xuất khẩu không có hạn ngạch
12


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường:


Thị trường độc quyền



Thị trường độc quyền “nhóm’



Thị trường cạnh tranh hoàn hảo



Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo : một dạng của loại hình
này đã được nhiều nước ứng dụng thành công khi tìm kiếm thị
trường là thị trường ngách

Thị trường ngách được xem như một loại hình thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo. Thị trường này đóng một vai trò rất quan trọng

cho các nước đang phát triển theo chiến lược hướng về xuất khẩu,
những nước mà khả năng cạnh tranh của hàng hoá còn kém so với các
hàng hoá hiện có trên thị trường quốc tế. Về khái niệm, thị trường
ngách là một khoảng trống hay những “khe nhỏ” trên thị trường, ở đó
đã xuất hiện hay tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó. Những
nhu cầu này chưa được các nhà kinh doanh khác phát hiện hoặc phát
hiện ra nhưng họ không có lợi thế hoặc không muốn đầu tư vào để thoả
mãn. Song nhu cầu này lại được một số nhà kinh doanh khác phát hiện
và đầu tư để khai thác đưa hàng đến tiêu thụ. Đối với nước ta, thị
trường ngách cần được đặc biệt lưu tâm nghiên cứu để xuất khẩu hàng
hoá vì quy mô và khối xuất khẩu nhiều loại hàng hoá của ta phù hợp
với loại thị trường này.
III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG
HOÁ XUẤT KHẨU CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
13


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

1 Trung Quốc
1.1 Khái quát về thực trạng xuất nhập khẩu của Trung Quốc
Bảng 1.1 Xuất khẩu của Trung Quốc (1978 - 1998)
Đơn vị: 100 triệu USD
Năm
Xuất

197

198


198

8

0

5

1990

1991

1992

97.5 181. 273. 620.9 718.4 850

khẩu

2

5

1994

1997

1998

1210. 1530. 1520.

4

7

9

Nhập

108. 200. 422. 533.5 637.9 806.1 1156. 1680. 1719.

khẩu

9

Kim

206. 381. 696

1154. 1356. 1656. 2367. 3211

ngạch

4

4

4

Thâm


-

-19

hụt

11.4

2

5

9
3

1

3

80.5

43.9

53.5

3

1
3240


XNK
-149 87.4

-

-

149.6 198.2

TMQT
(Nguồn: IMF, Intellegent Unit, 1998 và Keigetsu ho - Toyo Kenzai 9 99, No. 9, Vol. 59, P 45 – 46)
Tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thời kỳ 1978 - 1998
tăng trung bình 16.5% hàng năm. Sau khủng hoảng tài chính khu vực,
Trung quốc cam kết duy trì ổn định đồng Nhân dân tệ với mục tiêu
ngăn chặn mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng đối với nền kinh tế khu
vực. Đồng Nhân dân tệ trong giai đoạn này bị đánh giá cao, trong khi
14


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

sức cạnh tranh của các nền kinh tế khủng hoảng được cải thiện nhờ phá
giá, tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu Trung quốc giảm đáng kể.
Đồ thị 1.2 Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung quốc
140.0%
120.0%
100.0%
80.0%
60.0%

40.0%
20.0%
0.0%
1978

1980

1985

1990

1991

1992

1994

1997

1998

-20.0%
T¨ng tr ëng xuÊt khÈu

T¨ng tr ëng nhËp khÈu

Đồ thị 1.2 Thâm hụt cán cân thương mại Trung quốc
20.0%
10.0%
0.0%

1978

"

N

y 8

¥

Ð 8

û

'

8

1998

8

8

-10.0%
-20.0%
-30.0%
-40.0%
-50.0%
-60.0%

Th©m hôt/xuÊt khÈu

Thâm hụt thương mại đã có thời kỳ bằng khoảng 50% tổng giá trị
xuất khẩu (năm 1985). Trong thời kỳ 5 năm 1990-1994, Trung quốc đạt
thặng dư trong cán cân thương mại nhưng ở mức độ nhỏ, chỉ tương
15


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

đương với khoảng 5% tổng giá trị xuất khẩu trong thời kỳ này. Mặc dù
vậy, đây cũng là nhân tố quan trọng góp phần tăng đáng kể dự trữ
ngoại tệ của Trung quốc trong thời kỳ này.
1.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu của
Trung Quốc
Kinh nghiệm đầu tiên, Chính phủ Trung Quốc xác định tập trung
mở cửa kinh tế để thúc đẩy xuất khẩu. Trung Quốc đã áp dụng nhiều
biện pháp để mở cửa nền kinh tế bao gồm:
Trung Quốc ưu tiên phát triển các đặc khu kinh tế. Ngay từ những
năm 1979, Trung Quốc đã thành lập các đặc khu xuất khẩu, nhưng
ngay sau đó đã đổi thành đặc khu kinh tế vì các đặc khu xuất khẩu bị
hạn chế ở khả năng chế biến và xuất khẩu. Sau đó, các đặc khu kinh tế
được phát triển thành các khu trung tâm thương mại lớn, có các cơ sở
gia công xuất khẩu tiên tiến, những khu sinh hoạt có chất lượng cao với
đầy đủ tiện nghi phục vụ, những trung tâm thông tin quốc tế lớn. Việc
xây dựng các trung tâm thương mại lớn được thực hiện bằng bước thứ
nhất, chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo cán bộ quản lý và
công nhân lành nghề và bước thứ hai, huy động vốn đầu tư, tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh theo điều kiện của từng đặc khu. Xây

dựng các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư khác nhau: vốn trong
nước, vốn nước ngoài hay vốn liên doanh.
Trung Quốc còn ưu tiên tập trung mở cửa các thành phố ven biển.
Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố vùng duyên hải, thành lập
tại đây các khu công nghiệp kỹ thuật cao, thực thi chính sách khuyến
16


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

khích các loại hình gia công xuất khẩu để tận dụng nguồn lao động dồi
dào, đồng thời áp dụng các biện pháp để nhanh chóng chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề vùng ven biển. Các thành phố ven biển là các khu vực
mở cửa về kinh tế - kỹ thuật, trở thành những cầu cảng lớn giúp Trung
Quốc hướng ra thị trường Thái Bình Dương, Tây Âu và Bắc Hoa Kỳ.
Các thành phố này được hưởng các quy chế ưu tiên như tại các đặc khu
kinh tế trong hoạt động xuất khẩu nói riêng và phát triển kinh tế nói
chung.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tích cực mở cửa các cửa khẩu biên giới
Đông Bắc và Tây Nam. Phát huy ưu thế cuả 228 000 km đường biên
giới chung giữa 9 tỉnh và khu tự trị với 15 quốc gia châu Á khác, Trung
Quốc rất chú trọng đến việc phát triển hoạt động biên mậu. Ngoài hình
thức trao đổi hàng là chủ yếu, Trung Quốc rất chú trọng đến việc phát
triển các hình thức buôn bán khác như đưa sức lao động, thiết bị kỹ
thuật và mẫu hàng ra nước ngoài để đổi lấy những mặt hàng, nguyên
vật liệu quý hiếm trong nước còn thiếu.
Chính phủ Trung Quốc tiến hành đổi mới bộ máy tổ chức ngoại
thương cho ngày càng gọn nhẹ, giảm bớt sự rườm rà trong thủ tục hành
chính, giúp cho hoạt động xuất khẩu thuận lợi.

Để giúp các xí nghiệp ngoại thương thoát khỏi tình trạng lệ thuộc
và thiếu năng động, Trung Quốc đã từng bước tách chức năng của
chính quyền khỏi họat động của xí nghiệp. Nhờ đó các xí nghiệp ngoại
thương đã có được quyền hạn thực sự, chủ động hơn trong hoạt động
của mình.. Chính phủ đã đưa quyền tự chủ kinh doanh xuống các địa
phương với những nội dung:

17


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

- Đưa quyền sản xuất kinh doanh và xuất khẩu cho các xí nghiệp sản
xuất cỡ nhỏ và vừa, từng bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại
thương cho Tổng công ty xuất nhập khẩu.
- Cho phép các địa phương có thể thành lập các công ty ngoại
thương địa phương. Các thành phố trực thuộc Trung ương và tỉnh cũng
được phép thành lập Tổng công ty ngoại thương riêng.
- Cho phép 19 Bộ, Ngành của Trung Ương được thành lập công ty
xuất nhập khẩu.
Bên cạnh việc đưa quyền tự chủ kinh doanh xuống các địa
phương, Trung Quốc còn thực hiện chế độ trách nhiệm khoán ngoại
thương. Hình thức khoán được thực hiện theo phương thức: Tổng công
ty ngoại thương Trung ương giao khoán xuất nhập khẩu trực tiếp cho
các địa phương. Các địa phương chịu trách nhiệm về mặt xuất khẩu,
thu ngoại tệ xuất khẩu và giao nộp ngoại tệ lên trên, bảo đảm đầy đủ
chỉ tiêu với nhà nước. Sau khi đã nhận khoán, các địa phương giao chỉ
tiêu khoán xuống các doanh nghiệp và cơ sở hoạt động ngoại thương
trong tỉnh, thành phố hay huyện. Chế độ khoán này được xây dựng dựa

trên cơ sở điều chỉnh hối suất, xoá bỏ chế độ bù lỗ xuất khẩu đối với
các xí nghiệp ngoại thương.
Thứ nhất, Trung Quốc đã mạnh dạn cái cách thể chế kế hoạch
ngoại thương từ chế độ hai chiều sang chế độ một chiều là chính. Địa
phương là người chính thức nhận khoán trực tiếp nhiệm vụ xuất nhập
khẩu ngoại thương của Nhà nước. Lấy mốc kế hoạch xuất khẩu của
năm 1988, Nhà nước xác định những năm về sau, phần hàng hoá xuất
18


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

khẩu thực hiện theo kế hoạch quản lý một chiều giữa Trung ương và
địa phương chiếm 70% kế hoạch, phần hàng hoá xuất khẩu thực hiện
theo chế độ quản lý hai chiều chiếm 30%. Về kế hoạch xuất khẩu, hàng
hoá xuất khẩu thuộc kế hoạch có tính pháp lệnh chiếm 30% tổng mức
xuất khẩu hàng hoá, hàng hoá thuộc kế hoạch có tính chất hướng dẫn
chiếm khoảng 15% tổng mức xuất khẩu, 55% tổng mức xuất khẩu được
buông lỏng, thực hiện tự do kinh doanh thả nổi, do thị trường điều tiết.
Việc làm này khiến cho các địa phương có được tính tự chủ trong kinh
doanh xuất khẩu hàng hoá.
Thứ hai, Trung Quốc đã thực hiện thể chế quản lý tài chính ngoại
thương. Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện buông lỏng quan hệ tài vụ
ngoại thương, tách rời sự bó buộc tài chính giữa Trung ương với địa
phương để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu và
tự chịu lãi, lỗ. Việc tiến hành hạch toán theo phương thức khoán ngoại
thương, đồng thời mở rộng phạm vi sử dụng vốn để thúc đẩy kinh
doanh, tăng lãi, giảm lỗ đã Nhà nước tránh khỏi việc phải bù lỗ cho các
doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Chính phủ còn thực hiện

giảm thuế doanh thu cho các doanh nghiệp ngoại thương thu mua hàng
hoá để xuất khẩu và các doanh nghiệp đại lý cung ứng hàng hoá xuất
khẩu.
Thứ ba, Trung Quốc thực hiện phân phối lại lợi nhuận trong ngoại
thương. Trung quốc cho phép doanh nghiệp xuất nhập khẩu được giữ
lại toàn bộ lợi nhuận. Việc làm này không làm cho sản xuất phát triển,
Nhà nước phải thực hiện bù lỗ nhiều cho xuất khẩu hàng hoá. Tới
1988, trên cơ sở cải cách chế độ khoán kinh doanh ngoại thương, Trung
19


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Quốc thực hiện cải cách triệt để hơn thể chế phân phối lợi nhuận của
đơn vị ngoại thương với biện pháp khoán rộng, đưa mức khoán thu
ngoại tệ xuất khẩu cho toàn bộ doanh nghiệp ngoại thương các cấp, các
loại hình, nộp lợi nhuận và ngoại tệ theo hệ số cơ bản, đồng thời khoán
doanh số cho các xí nghiệp: nếu tăng cũng không thu, nếu lỗ sẽ không
bù.
Sử dụng các công cụ về thuế, chính sách trợ cấp xuất khẩu, hỗ trợ
về tài chính, chính sách tỷ gía hối đoái, hỗ trợ xúc tiến thương mại và
tìm cách vượt qua rào cản về hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu
cũng là một kinh nghiệm khác của Trung Quốc trong việc thúc đẩy
xuất khẩu thành công.
Đối với công cụ thuế. Trong hoạt động thu thuế xuất khẩu, Chính
phủ Trung Quốc thực hiện áp dụng thu thuế điều tiết xuất khẩu đối với
hàng hoá có doanh thu lớn, nếu xuất khẩu không có lãi và lợi nhuận
dưới 7,5 % thì không thu.
Để thúc đẩy xuất khẩu, Trung Quốc áp dụng chế độ thoái thu thuế

giá trị gia tăng đã nộp (áp dụng VAT đầu ra bằng 0% cho hàng xuất
khẩu).
Chế độ hoàn thuế xuất khẩu được Trung Quốc bắt đầu áp dụng từ
năm 1983. Đến nay, các loại thuế sản phẩm được được hoàn lại bao
gồm: thuế sản phẩm, thuế giá trị gia tăng, thuế doanh thu và thuế tiêu
dùng. Đối với việc áp dụng chế độ này, Quốc vụ viện đã yêu cầu phải
thực hiện theo nguyên tắc thu bao nhiêu thì hoàn bấy nhiêu, hoàn thuế
triệt để, không thu thì không hoàn. Để đảm bảo chính sách này được thi
20


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

hành triệt để, ngành thuế vụ Trung Quốc còn phối hợp với các ngành
hữu quan để có các biện pháp quản lý hoàn thuế xuất khẩu và đặc biệt
chú trọng tới việc hoàn thiện chính sách này.
Đối với chính sách trợ cấp xuất khẩu, Trung Quốc thực hiện
chính sách này ngay từ những năm đầu mở cửa. Để chuẩn bị ra nhập
WTO, Trung quốc xoá bỏ trợ cấp cho xuất khẩu kể từ 1/1/1999. Nhưng
các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu vẫn nhận được trợ cấp gián
tiếp như giảm giá năng lượng, nguyên liệu thô và nhân công; ưu đãi tín
dụng (doanh nghiệp xuất khẩu được vay với lãi suất ưu đãi, bảo hộ rủi
ro theo thông lệ quốc tế).
Hỗ trợ về tài chính. Ngân hàng Trung Quốc, Ngân hàng đầu tư
Trung Quốc, Tổng cục kiểm soát ngoại tệ là những tổ chức tài chính
quan trọng được thành lập với nhiệm vụ trợ giúp tài chính cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản
xuất hàng xuất khẩu. Tất cả cơ quan có quan hệ buôn bán với nước
ngoài đều phải mở tài khoản ở Ngân hàng Trung Quốc và thông qua đó

để thực hiện để thực hiện mọi giao dịch ngoại tệ. Ngân hàng Trung
Quốc thực hiện giám sát các công ty, các xí nghiệp sử dụng số ngoại tệ
thu được từ xuất khẩu, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi để hỗ trợ xuất
khẩu.
Chính sách tỷ giá hối đoái. Trung Quốc sử dụng như một công cụ
để tăng cường xuất khẩu. Trước 1979, việc quản lý ngoại hối theo cơ
chế tập trung đã kìm hãm sự xuất khẩu. Vì thế, để thúc đẩy xuất khẩu,
Chính phủ thực hiện cải cách thể chế quản lý ngoại hối thông qua điều
chỉnh tỷ giá hối đoái và thực hiện chế độ giữ lại ngoại tệ. Trung Quốc

21


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

loại bỏ chế độ hạn chế khối lượng ngoại tệ tối đa. Theo hệ thống tài
chính mới, các công ty và doanh nghiệp xuất khẩu có khoản thu ngoại
tệ được bán ra theo tỷ giá thị trường. Sự thay đổi này cũng có lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài (trước đây họ bị buộc phải đăng ký nguồn
vốn của mình theo tỷ giá chính thức của nhà nước song lại phải mang
lợi nhuận về theo tỷ giá cao hơn trên thị trường chứng khoán)
Hỗ trợ xúc tiến thương mại. Các cơ quan thương vụ của Trung
Quốc đã có nhiều cố gắng trong việc liên hệ với các ngành, các giới
kinh doanh của các nước sở tại để thúc đẩy xuất khẩu như tham gia tích
cực vào việc đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại; bảo vệ
quyền lợi của các doanh nghiệp nước mình ở các nước sở tại, giúp đỡ
các tổ chức đoàn thể hoạt động ngoại thương ở trong nước sang làm
việc và buôn bán với nước ngoài.
Trung Quốc còn cho thành lập các công ty thương mại quốc tế

tổng hợp, hoạt động trong nhiều lĩnh vực và có nhiều chi nhánh ở nhiều
nước. Trong thời gian đầu hoạt động, các hãng này được hỗ trợ nhiều
mặt như vốn, xác địng ngân hàng chủ quản, cho phép được quyền huy
động vốn của nước ngoài, ưu tiên xem xét nếu có điều kiện chín muồi
thì có thể huy động vốn bằng cổ phiếu.
Trung Quốc đã thiết lập hệ thống kênh phân phối thông qua hệ
thống mạng lưới Hoa kiều ở khắp nơi trên thế giới với số lượng lớn.
Ngoài ra, Trung Quốc còn tìm cách vượt hàng rào kỹ thuật của
các nước nhập khẩu. Trung Quốc cố gắng ký kết các hiệp định thương
mại với các nước để được hưởng những nhượng bộ về buôn bán. Đồng
22


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

thời, Trung Quốc còn nghiên cứu kỹ hàng rào kỹ thuật trong thương
mại của các nước bạn hàng để xem ảnh hưởng như thế nào đối với việc
xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu của mình, từ đó đưa ra các biện
pháp đối phó thích hợp.
Kinh nghiệm quan trọng trong thúc đẩy thị trường hàng hoá xuất
khẩu của Trung Quốc là việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá.
Trung Quốc đề ra kế hoạch lấy khoa học kỹ thuật thúc đẩy phát triển
mậu dịch. Nội dung của kế hoạch này gồm: trong 3 năm xây dựng một
loạt các cơ sở sản xuất sản phẩm kỹ thuật cao của 5 ngành: tin học,
công nghệ sinh học, vật liệu xây dựng, hàng điện tử, hàng tiêu dùng;
đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu hàng kỹ thuật cao, đối với các sản phẩm
xuất khẩu chủ đạo cần có bản quyền sở hữu công nghiệp; tạo môi
trường thuận lợi để tiếp cận kỹ thuật cao, đẩy mạnh chuyển giao kỹ
thuật để thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước; tổ chức các xí nghiệp

sản xuất hàng xuất khẩu sản phẩm cao đạt tiêu chuẩn ISO.
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu được chia thành 3 giai đoạn. Giai
đoạn 1 sẽ lấy xuất khẩu hàng công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động
làm trọng tâm, thay thế dần xuất khẩu những sản phẩm thô, sơ cấp,
nông nghiệp. Giai đoạn 2, lấy xuất khẩu sản phẩm công nhiệp làm
thành phẩm, công nghiệp nặng, hoá chất sử dụng nhiều vốn thay thế
những sản phẩm sơ cấp và công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động.
Giai đoạn 3 sẽ xuất khẩu sản phẩm kỹ thuật cao, đòi hỏi tri thức và
công nghệ tiên tiến.

23


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

2. Thái lan
2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Thái lan
Bảng 2.1 Khái quát tình hình xuất nhập khẩu của Thái lan thời kỳ
1979-1999
1979 1989

1998

1999

199903

GDP (Tỷ USD)


27.4 72.3

112.1

124.3

Tăng trưởng GDP

6.8

-10.2

4.2

Xuất khẩu (triệu USD)

6269 25291 66400 71485

Nhập khẩu (triệu USD)

8137 27127 48813 57577

5.4

Cán cân thanh toán (triệu -2086 -2498

5.0

14434 11346


USD)
Tăng trưởng xuất khẩu

12.5 10.0

6.7

8.9

Tăng trưởng nhập khẩu

8.0

-22.3

19.6

6.3

9.0

24


Chương I:
Lý luận chung liên quan đến phát triển thị trường

Xuất khẩu/GDP

22.6 34.9


58.6

57.1

Thâm hụt/GDP

-7.6

-3.5

12.9

9.1

Thâm hụt/xuất khẩu

-

-9.88

21.74

15.87

33.27
Nguồn: Tác giả tính toán từ số liệu của Ngân hàng thế giới, World
Development Indicator 2001, CD-ROM
Đồ thị 2.1 Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu và GDP của Thái lan
25

20
15
10
5
0
1979

-5

1989

1998

1999

1999-03

-10
-15
-20
-25
T¨ng tr ëng GDP

T¨ng tr ëng xuÊt khÈu

T¨ng tr ëng nhËp khÈu

Đồ thị 2.2 Thâm hụt cán cân thanh toán của Thái lan thời kỳ
1979-1999
40

30
20
10
0
1979
-10

1989

1998

1999

-20
-30
-40
-50
Th©m hôt/GDP

Th©m hôt/xuÊt khÈu

25


×