Tải bản đầy đủ (.doc) (180 trang)

Chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Lai Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.05 KB, 180 trang )

i

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.............................................................................iv
CHƯƠNG 1......................................................................................................... 5
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.........................................5
1.1 Tổng quan các nghiên cứu đã công bố ở trong, ngoài nước về chất lượng
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội.............................................5
1.1.1 Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài về chất lượng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội........................................................................5
1.1.2 Tổng quan các nghiên cứu ở trong nước về chất lượng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội......................................................................15
1.1.3 Những vấn đề thuộc đề tài luận án chưa đượccác công trình đã công bố
nghiên cứu giải quyết......................................................................................22
1.1.4 Những vấn đề luận án sẽ tập trung nghiên cứu giải quyết....................23
1.2 Phương hướng giải quyết các vấn đề nghiên cứu của Luận án..............23
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu..............................................................................23
1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu................................................................................24
1.2.3 Đối tượng và giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài luận án.....................24
1.2.4 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu....................................25
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH..30
2.1 Chất lượng nguồn nhân lực và vai trò của chất lượng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương cấp Tỉnh...................................30
2.1.1 Chất lượng nguồn nhân lực và các yếu tố cấu thành chất lượng nguồn
nhân lực địa phương cấp Tỉnh........................................................................30
2.1.2 Các tiêu chí, chỉ số phản ánh và phương pháp đánh giá chất lượng
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương cấp tỉnh...........37



ii

2.1.3 Ảnh hưởng của chất lượng nguồn nhân lực tới phát triển kinh tế - xã hội
địa phương cấp tỉnh........................................................................................51
2.1.4 Vai trò, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đối với
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cấp tỉnh........................................54
2.2 Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực của địa
phương cấp tỉnh...............................................................................................56
2.2.1 Các yếu tố thuộc Nhà nước....................................................................56
2.2.2 Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế - xã hội địa phương.....................58
2.2.3 Yếu tố khoa học – công nghệ.................................................................60
2.2.4 Yếu tố điều kiện tự nhiên........................................................................60
2.2.5 Yếu tố thuộc về bản thân nguồn nhân lực..............................................61
2.3 Các phương thức nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương
cấp tỉnh............................................................................................................. 61
2.4 Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội và bài học cho tỉnh Lai
Châu................................................................................................................. 64
2.4.1 Kinh nghiệm của một số địa phương về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội.......................................................64
2.4.2 Một số bài học rút ra cho Lai Châu từ kinh nghiệm của một số địa
phương............................................................................................................68
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH LAI CHÂU.......70
3.1 Khái quát thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực, và thực
trạng sử dụng nhân lực ở tỉnh Lai Châu........................................................70
3.1.1 Thực trạng và đặc điểm các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực tỉnh
Lai Châu......................................................................................................... 70
3.1.2 Thực trạng sử dụng nhân lực trên địa bàn tỉnh Lai Châu.....................74
3.2 Phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh Lai Châu....77



iii

3.2.1 Thực trạng cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu NNL của tỉnh Lai Châu.......77
3.2.2 Thực trạng trình độ và kỹ năng nguồn nhân lực của tỉnh Lai Châu......79
3.2.5 Tổng hợp kết quả áp dụng mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA)
đánh giá tác động của các nhân tố hình thành chất lượng nguồn nhân lực tỉnh
Lai Châu......................................................................................................... 90
4.3.3 Giải pháp nâng cao chất lượng một số nhóm nhân lực của tỉnh Lai
Châu............................................................................................................. 131
4.3.4 Kiến nghị các điều kiện thực hiện giải pháp nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực của tỉnh Lai Châu..........................................................................139
PHỤ LỤC SỐ 3: KẾT QUẢ THỰC HIỆN EFA VỚI TỪNG NHÓM ĐỐI
TƯỢNG KHẢO SÁT......................................................................................171


iv

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
* Tiếng Việt
Từ viết tắt

Cụm từ tiếng Việt
Chất lượng nguồn nhân lực
Chuyên môn kỹ thuật
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
Đại học, Cao đẳng
Hội đồng nhân dân
Khu công nghiệp

Kế hoạch & Đầu tư
Kinh tế - xã hội
Miền núi phía Bắc
Nguồn nhân lực
Lao động Thương binh & Xã hội
Trung cấp chuyên nghiệp
Ủy ban nhân dân

CLNNL
CMKT
CNH-HĐH
ĐH-CĐ
HĐND
KCN
KH&ĐT
KT-XH
MNPB
NNL
LĐTB&XH
TCCN
UBND

* Tiếng Anh
Từ viết tắt

Cụm từ tiếng Anh

Cụm từ tiếng Việt

BMI


Body Mass Index

Chỉ số khối cơ thể

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm trong nước

HDI

Human Development Index

Chỉ số phát triển con người

ILO

International Labour Organization Tổ chức Lao động quốc tế
Organization for Economic Co- Tổ chức Hợp tác và Phát triển

OECD
TFP
UN
UNDP
UNFPA
VCCI

operation and Development

Total Factor Productivity
United Nations
United Nations

kinh tế
Năng suất các nhân tố tổng hợp

Liên Hợp quốc
Development Chương trình Phát triển Liên

Programme
Hợp quốc
United Nations Population Fund
Quỹ Dân số Liên Hợp quốc
Vietnam Chamber of Commerce Phòng Thương mại và Công

WB

and Industry
World Bank

nghiệp Việt Nam
Ngân hàng Thế giới

WEF

World Economic Forum

Diễn đàn kinh tế Thế giới



v

WHO

World Health Organization

Tổ chức Y tế Thế giới


vi

DANH MỤC BẢNG, HÌNH
1. Bảng

2. Hình:

Hình 3.1: Thực trạng nhân lực trên 15 tuổi đang làm việc đã qua đào tạo, so
sánh Lai Châu với cả nước, vùng trung du MNPB và một số tỉnh khác (%)
............................................................................................................................. 82


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Ở cấp độ quốc gia hay ở cấp độ địa phương, chất lượng nguồn nhân lực
(NNL) luôn là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
(KT-XH), đảm bảo thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế dựa vào tri thức, sự tác động của CLNNL

đến phát triển kinh tế - xã hội ngày càng trở nên to lớn, mạnh mẽ hơn bao giờ
hết. Vì vậy, nâng cao CLNNL luôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng
đầu trong chiến lược phát triển KT-XH với mọi quốc gia, mọi địa phương. Việt
Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển từ kinh tế
“nâu” sang phát triển kinh tế xanh, từ nền kinh tế dựa vào khai thác tài nguyên
và các ngành gia công, lắp ráp thâm dụng lao động kỹ thuật thấp sang nền kinh
tế dựa vào công nghệ cao và nhân lực chất lượng cao, hướng tới nâng cao năng
lực cạnh tranh, tính hiệu quả và giá trị gia tăng cao. Trong bước chuyển đổi chất
lượng mang tính quyết định này, phát triển NNL, nhất là NNL chất lượng cao
được xác định là một trong ba khâu đột phá chiến lược trong “Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 2011-2020” được thông qua tại Đại hội XI của Đảng. Nâng
cao CLNNL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và được coi là một trong
những ưu tiên chính sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Lai Châu là một tỉnh MNPB, có điều kiện KT-XH đặc thù và còn khó
khăn hơn rất nhiều so với các địa phương khác trong nước. Trải qua 30 năm đổi
mới, với các kết quả phát triển còn tùy thuộc nhiều vào việc tận khai thác tài
nguyên thiên nhiên và duy trì phương thức canh tác nông nghiệp miền núi truyền
thống, lấy lao động thủ công làm sức mạnh phát triển chủ yếu, tương lai phát
triển của Lai Châu đang đối mặt với những giới hạn nghiệt ngã. Việc vượt qua
giới hạn đó, về nguyên tắc, trông đợi vào việc thay đổi phương thức phát triển
KT-XH, với định hướng chính là chuyển sang dựa chủ yếu vào nguồn nhân lực
và công nghệ. Đây là bài toán phát triển lớn và rất khó khăn đặt ra cho Lai Châu,
khi tỉnh còn nghèo, trình độ dân trí thấp, dân cư sống phân tán trong vùng núi


2

cao, điều kiện hạ tầng kết nối nhiều khó khăn…Trong giai đoạn vừa qua, tuy tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Lai Châu đã có những bước cải thiện khá (đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 12%/năm trong giai đoạn 2008-2013),

nhưng hầu hết các chỉ số phát triển KT-XH của Tỉnh vẫn thấp hơn mức trung
bình của các địa phương trên toàn quốc. Năng suất lao động xã hội của Lai Châu
hiện rất thấp, chỉ bằng 1/3 năng suất lao động xã hội của cả nước, trong khi đó
tốc độ tăng trưởng năng suất lao động qua các năm chậm chạp. Tuy tình trạng
thất nghiệp và thiếu việc làm ở Lai Châu không trầm trọng nhưng đang có xu
hướng tăng lên trong những năm gần đây. Mức sống của người dân Lai Châu
hiện rất thấp. Tính toán từ các số liệu thống kê cho thấy chỉ số tổng sản
phẩm/đầu người của Lai Châu chỉ bằng 1/3 tổng sản phẩm trên đầu người của cả
nước (tính theo USD). Thu nhập của người lao động ở Lai Châu thấp hơn nhiều
so với các tỉnh MNPB. Lai Châu là một trong những tỉnh mà tình trạng nghèo
đói trầm trọng và phổ biến nhất cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo của Lai Châu năm 2012
là 43,5%, gấp gần 4 lần tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và gấp 1,9 lần tỷ lệ hộ nghèo
các tỉnh Trung du MNPB.
Tình trạng KT-XH kém phát triển của Lai Châu bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, trong đó nguyên nhân cơ bản nhất là CLNNL của Tỉnh đang ở
mức rất thấp. Trình độ giáo dục NNL tỉnh Lai Châu thấp hơn nhiều so với cả
nước và so với các tỉnh MNPB. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ chỉ đạt
hơn 60%, trong đó tỷ lệ biết chữ ở khu vực nông thôn thấp hơn nhiều so với khu
vực thành thị. Tỷ lệ nhân lực từ 15 tuổi trở lên chưa bao giờ đi học chiếm hơn ¼
nguồn nhân lực trong độ tuổi này, trong khi đó tỷ lệ nhân lực tốt nghiệp trung
học cơ sở và trung học phổ thông có xu hướng cải thiện nhưng với tốc độ chậm
chạp, không đáng kể. Trình độ chuyên môn của NNL tỉnh Lai Châu hiện nay rất
thấp so với mặt bằng chung của cả nước và các tỉnh Trung du MNPB. Nguồn
nhân lực từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo của Lai Châu chỉ đạt khoảng hơn 11%.
Nguồn nhân lực không có trình độ CMKT chiếm hơn 90%. Ngoài ra, NNL đang
có nhiều vấn đề cần giải quyết về kiến thức và kỹ năng, thể lực cũng như phẩm


3


chất và tác phong lao động. Những vấn đề về CLNNL đang và sẽ là ưu tiên cần
giải quyết của chính quyền tỉnh Lai Châu nhằm giúp Lai Châu vươn lên thành
một tỉnh đứng vị trí trung bình về phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn vừa qua, nhất là từ năm 2008 đến nay, Chính quyền tỉnh
Lai Châu đã có nhiều nỗ lực với nhiều giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao
CLNNL ở địa phương, như: xây dựng quy hoạch NNL của Tỉnh, giải pháp về
giáo dục và đào tạo, giải pháp về y tế và chăm sóc sức khỏe... Các giải pháp này
đã phần nào làm cải thiện từng bước CLNNL nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
KT-XH Lai Châu. Tuy nhiên, các giải pháp này chưa thực sự hợp lý, một số giải
pháp còn thiếu cơ sở khoa học và căn cứ thực tiễn, thiếu tỉnh khả thi và vì vậy
làm cho CLNNL của Tỉnh ngày càng tụt hậu so với CLNNL ở các địa phương
khác lân cận và so với mặt bằng chung của cả nước.
Trước tình hình đó, việc nâng cao CLNNL của Lai Châu là thực sự cấp
bách nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của Tỉnh. Vì vậy, việc nghiên cứu
tìm ra các giải pháp có cơ sở khoa học để nâng cao CLNNL của tỉnh Lai Châu có
ý nghĩa quan trọng cả trong giai đoạn trước mắt cũng như trong dài hạn.
Từ những lý do nói trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Chất lượng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Lai Châu” làm đề tài nghiên
cứu sinh, chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận án
Mục đích nghiên cứu đề tài luận án là nhằm cung cấp luận cứ khoa học
cho việc hoạch định, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch và chính sách phát
triển KT-XH của tỉnh Lai Châu; góp phần xác định cách thức phát triển mới,
hiện đại của tỉnh Lai Châu, đó là cách thức phát triển dựa chủ yếu vào CLNNL
và công nghệ theo hướng phát triển bền vững.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của nghiên cứu đề tài luận án: Góp phần
xây dựng, hoàn thiện phương pháp phân tích đánh giá, CLNNL và phương thức
nâng cao CLNNL trong phát triển KT-XH của một địa phương cấp tỉnh; sử dụng
phương pháp, chỉ tiêu đánh giá CLNNL đã đề ra vào việc phân tích, đánh giá



4

CLNNL trong phát triển KT-XH của một địa phương cụ thể, đặc thù là tỉnh Lai
Châu, đề xuất phương cách nâng cao CLNNL đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh
và bền vững tỉnh Lai Châu thời kỳ tới. Qua đó, Luận án sẽ góp phần vào thực
hiện khâu đột phá chiến lược về phát triển NNL, góp phần phát triển nhanh và
bền vững KT-XH của Việt Nam nói chung, tỉnh Lai Châu nói riêng.
3. Kết cấu của Luận án
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung
Luận án kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực trong
phát triển kinh tế - xã hội
Chương 2: Cơ sở lý luận về chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế - xã hội địa phương cấp tỉnh.
Chương 3: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh Lai Châu.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu đến năm 2020,
tầm nhìn 2025.


5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1 Tổng quan các nghiên cứu đã công bố ở trong, ngoài nước về chất lượng
nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1 Tổng quan các nghiên cứu ở nước ngoài về chất lượng nguồn nhân lực

trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1.1 Tổng quan các nghiên cứu về yếu tố nhân lực và vai trò của nhân lực
chất lượng cao trong tăng trưởng kinh tế
(1). Adam Smith (1776), “Sự thịnh vượng của các quốc gia”. Smith cho
rằng, sự tăng trưởng của cải chủ yếu có hai con đường: 1) Thông qua phân công,
nâng cao năng suất lao động; 2) Tăng số người lao động mang tính chất sản xuất,
phân công dẫn đến việc sử dụng máy móc, sự gia tăng số người lao động có tính
chất sản xuất đều cần đến đầu tư một lượng vốn lớn. Vì vây, tích lũy vốn là nhân
tố quyết định sản xuất ra của cải vật chất.
(2). “Thuyết lao động lành nghề” của Leontief, nhà kinh tế học người Mỹ,
được công bố trong bài viết “Sản xuất trong nước và thương mại quốc tế: Khảo
sát lại tình hình tư bản Mỹ” (1953), và bài viết “Tỷ lệ yếu tố sản xuất với kết cấu
thương mại quốc tế Mỹ: Phân tích lý luận và kiểm nghiệm” (1956). Sau đó, các
nhà kinh tết học gọi hai bài viết này của Leontief là “Câu đố Leontief” và “Giải
đáp câu đố của Leontief”. Để giải đáp câu đố của Leontief, bản thân Leontief và
các nhà khoa học khác đã nêu ra rất nhiều nhân tố tương quan như năng suất lao
động, lao động lành nghề, tư bản nhân lực (vốn con người), nghiên cứu và phát
triển (R&D), tài nguyên thiên nhiên... Bản thân Leontief đã nêu ra thuyết lao
động lành nghề trong quá trình giải thích “Câu đố Leontief”. Lý luận này xuất
phát từ trình độ thành thạo lao động và lượng lao động thành thạo sẵn có tương
đối để giải thích nguyên nhân hình thành kết cấu và phân bổ thương mại quốc tế
hàng công nghiệp. Leontief cho rằng, trong điều kiện trang bị vốn như nhau,
trình độ lao động lành nghề của công dân Mỹ cao, năng suất lao động bình quân
của công dân Mỹ cao gấp 3 lần của công dân nước ngoài, vì vậy sức lao động


6

hữu hiệu của Mỹ là 3 lần sức lao động hiện có. Do đó, trên thực tế Mỹ trở thành
nước có sức lao động dồi dào nên Mỹ phải xuất khẩu sản phẩm loại hình lao

động tập trung. Nói cách khác, sản phẩm mà Mỹ xuất khẩu là sản phẩm loại hình
tập trung lao động, sản phẩm nhập khẩu là sản phẩm thuộc loại hình tập lao động
không lành nghề của nước khác.
(3). Robert M.Solow (1956), “Đóng góp vào học thuyết về tăng trưởng
kinh tế”, nhờ tác phẩm này mà năm 1987 Solow được tặng giải thưởng Nobel
kinh tế. Trong đó, nhà kinh tế học người Mỹ này đã đưa vào mô hình tăng
trưởng một nhân tố độc lập là “tiến bộ kỹ thuật” và lấy nó làm cơ sở phân biệt
hai hiêu ứng của tăng trưởng kinh tế, là “hiệu ứng tăng trưởng” và “hiệu ứng
mức độ”. Tác dụng của “hiệu ứng mức độ” là trong điều kiện không tăng thêm
yếu tố đầu vào (như vốn, lao động), tiến bộ kỹ thuật thông qua thay đổi hàm số
sản xuất, tức là nâng cao vị trí của con đường tăng trưởng (Growth path) để thực
hiện lâu dài cân bằng tăng trưởng kinh tế (hay tính bền vững của tăng trưởng).
Đồng thời, Solow còn phân tích thực chứng và dự ước đóng góp của nhân tố tiến
bộ kỹ thuật đối với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Mỹ là 87,5%; Căn cứ vào đó xác lập
quan điểm tiến bộ kỹ thuật quyết định tăng trưởng kinh tế [76].
(4). D.B.Keesing (1966), “Kỹ năng lao động và lợi thế so sánh”. Trong tác
phẩm này, Keesing phát triển một bước thuyết lao động lành nghề, nhấn mạnh
hơn sự khác biệt của hiệu suất vật lý của lao động. Ông chia lao động theo trình
độ thành thạo về kỹ thuật thành 8 loại, quy nạp thành hai nhóm lớn: Lao động
thành thạo và lao động không thành thạo. Keesing đã tiến hành phân tích, so
sánh đối với 14 nước công nghiệp, phát hiện nước có lao động hành thạo sẵn có
tương đối phong phú, xuất khẩu sản phẩm loại hình tập trung lao động thành
thạo. Chính sự khác biệt tương đối về lao động thành thạo sẵn có của các nước
và sự hạn chế của di dân quốc tế tạo thành bố cục (cấu trúc và phân bổ) của
thương mại quốc tế hàng công nghiệp. Keesing đã chỉ ra rằng, sức lao động
thành thạo trong một nước công nghiệp là nhân tố sản xuất quan trọng nhất, nhưng
thành thạo không phải là có thể đạt được trong thời gian ngắn [7;1326-1327].


7


(5). “Thuyết tư bản nhân lực” của các nhà kinh tế học người Mỹ là
T.W.Schultz, O.S.Becker, R.Ebald.Win và Lucas đưa ra trong thập kỷ 70-80 của
thế kỷ XX. Thuyết “tư bản nhân lực” ban đầu được đưa ra nhằm bổ sung và phát
triển mô hình tăng tưởng kinh tế dựa trên “thuyết tiến bộ kỹ thuật quyết định
tăng trưởng” của Slow. Schultz đã kế thừa, vận dụng khái niệm “Tư bản” của
kinh tế học cố điển và thuyết lao động lành nghề của Leontief, chỉ rằng trên
mình của người lao động có nhân tố tư bản (vốn), đồng thời chia “tư bản” (vốn)
thành hai hình thức: Tư bản thông thường và tư bản nhân lực. Schultz cho rằng,
thông qua đầu tư các mặt an ninh xã hội, giáo dục có thể tăng được năng lực kỹ
thuật của con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm cho nguồn nhân
lực thông thường trở thành “tư bản nhân lực” (vốn nhân lực). Tư bản nhân lực
này có thể sản sinh ra “hiệu ứng tri thức” và “hiệu ứng phi tri thức” để trực tiếp
hoặc gián tiếp thúc đẩy tăng trưởng sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, tư
bản nhân lực có thể sản sinh ra “thu nhập tăng dần”, xóa bỏ ảnh hưởng của “thu
nhập giảm dần” giới hạn của yếu tố tư bản và lao động (thông thường) để đảm
bảo tăng trưởng kinh tế lâu dài.
Thuyết tiến bộ kỹ thuật của Slow và thuyết tư bản nhân lực của Schultz
được coi là hai mặt “phần cứng” và “phần mềm” trong quá trình sản xuất xã hội,
nhấn mạnh tác dụng quan trong của tiến bộ kỹ thuật và tư bản nhân lực đối với
tăng trưởng kinh tế hiện đại.
(6) Lucas (1986) “Mô hình tăng trưởng của tích lũy tư bản nhân lực
chuyên môn hóa”. Trong tác phẩm này, nhà kinh tế học người Mỹ Lucas đã bổ
sung, phát triển thuyết tư bản nhân lực, đưa ra hai mô hình tăng trưởng.
+ “Mô thức lưỡng tư bản”, trình bày hai loại tư bản ảnh hưởng đối với sản
xuất. Trong mô thức này, Lucas chia tư bản thành hai loại “Tư bản hữu hình” và
“Tư bản vô hình”; và căn cứ vào trình độ chia sức lao động thành hai loại “lao
động nguyên thủy” thể lưu thuần túy và tư bản nhân lực biểu hiện là kỹ năng lao
động”. Lucas cho rằng, chỉ có tư bản nhân lực mới có thể thúc đẩy tăng trưởng.
Do vậy, có thể công thức hóa tỷ lệ tăng trưởng tư bản nhân lực:



8

h’(t)/h(t) = h(t), O’ [t = U(t)]/h(t).
Trong đó: h(t): tư bản nhân lực (lấy kỹ năng lao động của người lao động
để hiển thị); O’: Tính co dãn sản xuất của tư bản nhân lực; U: Toàn bộ thời gian
sản xuất; [t=U(t)]: thời gian học tập, đào tạo ở trường thoát ly sản xuất.
Ý nghĩa của mô thức này là: Phân biệt hai hình thức tư bản và hai loại lao
động, từ đó cụ thể hóa tiến bộ kỹ thuật thành tư bản nhân lực thể hiện ở tri thức
thông thường và biểu hiện ở đặc thù hóa trong kỹ năng của người lao động; đồng
thời cũng chia tư bản nhân lực thông thường mà xã hội có và tư bản nhân lực đặc
thù thể hiện ở kỹ năng của người lao động.
+ “Mô thức hai sản phẩm”. Đây là mô thức hình thành “hiệu ứng ngoại
sinh” của “tư bản nhân lực”. Lucas cho rằng, hiệu ứng mà tư bản nhân lực sản
sinh ra trong mô hình tăng trưởng của Schultz (túc là “Hiệu ứng tri thức” và
“hiệu ứng phi tri thức”) chỉ là “hiệu ứng nội sinh” của tư bản nhân lực, còn hiệu
ứng “vừa học vừa làm” là “hiệu ứng ngoại sinh” của tư bản nhân lực. Công thức
tích lũy tư bản nhân lực ngoại sinh là:
Ci= hi (t) Ui(t) N(t); I = 1,2
Trong đó: Ci: sản xuất thành phẩm I = 1
Ui: Toàn bộ thời gian sản xuất hoặc sản xuất
i: Lương lao động mà hàng hóa sử dụng
hi(t): Tư bản nhân lực chuyên nghiệp hóa mà sản xuất I sản phẩm cần
N (t): Đầu vào lao động tính bằng người
Như thế, “Mô hình tăng trưởng của tính lũy tư bản nhân lực chuyên môn
hóa” của Lucas có cống hiến quan trọng đối với lý luận tăng trưởng kinh tế,
thương mại quốc tế và lý luận tiền tệ quốc tế. Lucas cho rằng, nước phát triển do
trình độ vốn nhân lực cao làm cho tỷ lệ thu nhập vốn tăng dần, do vậy sản sinh ra
lãi suất cao và thu hút lượng lớn vốn nước ngoài. Vì vậy, nước đang phát triển

muốn thu hút vốn quốc tế phải thực hiện chính sách nâng cao tỷ lệ tích lũy tư
bản (vốn) nhân lực, hay nói cách khác là nâng cao CLNNL. Về thương mại quốc
tế, do tỷ lệ tăng trưởng vốn nhân lực quyết định tỷ lệ tăng trưởng kinh tế, do đó


9

một nước phải tập trung phát triển sản xuất sản phẩm với nguồn vốn có hạn
nhưng có ưu thế về NNL.
(7) Romo (1989), “Mô hình tăng trưởng của loại hình thu nhập tăng dần”.
Trong tác phẩm này, nhà kinh tế người Mỹ Romo đã sử dụng phương pháp mới
là toán học hóa và vi mô hóa, kết hợp với những vấn đề mới trong tăng trưởng
kinh tế, tiến hành công bố lý thuyết “tăng trưởng mới”. Năm trụ cột của lý thuyết
“tăng trưởng mới của Romo là: (i) lấy nhân tố tri thức và tư bản nhập vào mô
hình “tăng trưởng kinh tế”. Romo đã cụ thể hóa tiến bộ kỹ thuật thành tri thức
chuyên nghiệp hóa và thể hiện trong kỹ năng đặc thù của sức lao động, do đó có
thể nhận thức trực quan tác dụng của tiến bộ kỹ thuật hoặc tri thức đối với tăng
trưởng kinh tết (ii) Đưa ra quan điểm về yếu tố thu nhập có thể tăng dần”. Romo
đã phân tích và chứng minh tác dụng của tri thức chuyên nghiệp hóa và tích lũy
tư bản nhân lực đối với tăng trưởng kinh tế, cho rằng hai yếu tố này có thể sản
sinh ra “thu nhập tăng dần”, là “nguồn duy trì động lực vĩnh cửu của tăng trưởng
kinh tế”. (iii) Làm rõ quan hệ của tiến bộ kỹ thuật và đầu tư tư bản trong một
trình độ nhất định, một mặt nhấn mạnh tiến bộ kỹ thuật là nhân tố quyết định của
tăng trưởng kinh tế, đồng thời phân tích và chứng minh quan hệ nhân – quả của
đầu tư và tiến bộ kỹ thuật, xác định rõ tầm quan trọng của đầu tư đối với thúc
đẩy tiến bộ kỹ thuật và tăng trưởng kinh tế. (iv) Phát triển thương mại quốc tế và
lưu chuyển tiền tệ quốc tế là động cơ tăng trưởng kinh tế, nhấn mạnh tác dụng
của thương mại quốc tế đối với tích luỹ tri thức mang tính thế giới và thúc đẩy
"hiệu ứng vượt" của tăng trưởng kinh tế nhảy vọt của một nước. (v) Tăng trưởng
kinh tế hiện đại chủ yếu là do sự thúc đẩy của tri thức và tư bản nhân lực, nước

có tỉ lệ tích luỹ tư bản nhân lực cao và tri thức cao thì mức thu nhập và tỉ lệ tăng
trưởng kinh tế cao và ngược lại. Do tích luỹ tư bản nhân lực và tri thức có thể
làm cho thu nhập tăng dần, nên nước có tư bản nhân lực phong phú thì tỉ lệ lợi
nhuận từ đầu tư vốn sẽ ổn định và nâng cao, thu hút sự “hồi lưu” của nước phát
triển đã xuất khẩu vốn, đồng thời còn thu hút được lượng vốn nước ngoài lớn.


10

Trong mô hình “tăng trưởng mới” của Romo có ba bộ phận hợp thành: “Mô
thức hai thời kỳ”, “Mô thức hai ngành” và “Mô thức kinh tế mở”. Trong “Mô
thức hai thời kỳ” hay “Mô thức tích luỹ tri thức sản sinh thu nhập tăng dần”,
Romo đã đưa ra công thức hiển thị: Qi = F (RiKxi).
Trong đó:
Qi: Mức độ sản xuất của hãng sản xuất
F: Hàm số sản xuất vi phân liên tục của tất cả các hãng sản xuất.
Ri: "Tri thức chuyên nghiệp hoá" mà hãng sản xuất loại sản phẩm nào đó
xi: Tổng hoà (x = i) của tăng thêm đầu vào yếu tố sản xuất như lao động, tư
bản vật chất của hãng sản xuất.
K: Tri thức thông thường mà tất cả các doanh nghiệp có thể sử dụng, giống
với hiệu ứng kinh tế quy mô.
Trong mô thức “hai thời kỳ”, Romo đã coi tri thức là yếu tố mới ảnh hưởng
đến đầu ra và đưa yếu tố này vào mô thức tăng trưởng với tư cách là một thừa số
độc lập, đồng thời chia tri thức thành “tri thức thông thường” và “tri thức chuyên
ngành” hay “tri thức chuyên nghiệp hoá”. Romo cho rằng, tri thức thông thường
có thể nảy sinh “hiệu ứng kinh tế ngoại sinh (ở ngoài)” làm toàn xã hội có thể
mua được hiệu ứng kinh tế quy mô; tri thức chuyên nghiệp hoá có thể sản sinh
“hiệu ứng kinh tế nội sinh”, mang lại lợi nhuận độc quyền cho hãng sản xuất
riêng. Sự hình thành của “hiệu ứng kinh tế ngoại sinh” và “hiệu ứng kinh tế nội
sinh” trong sản xuất xã hội chứng tỏ tích luỹ tri thức (tri thức chuyên nghiệp hoá

thể hiện trong kỹ năng đặc thù của sức lao động) được coi là nhân tố độc lập
trong tăng trưởng kinh tế (nhìn từ quá trình sản xuất một sản phẩm), bản thân nó
không chỉ có thể “sản sinh thu nhập tăng dần”, mà còn có thể mang lại thu nhập
tăng dần cho sản xuất của toàn xã hội.
(8) Scot (1991), “Mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư tư bản”. Trong tác
phẩm này, nhà kinh tế học người Anh là Scot đã nhấn mạnh tác dụng của đầu tư
tư bản đối với tăng trưởng kinh tế bởi nguồn gốc của tiến bộ kỹ thuật và tích luỹ
vốn nhân lực, tích luỹ tri thức là đầu tư tư bản. Scot cho rằng, quan điểm “tăng


11

trưởng đầu ra” quyết định bởi tư bản và lao động trong kinh tế học cổ điển là
chính xác và không lỗi thời. Căn cứ mô thức tăng trưởng của chủ nghĩa cổ điển,
Scot đã dựng lên mô thức tăng trưởng mới.
g = gw + gL ; g = aps + Mgw
Trong đó:
g: Tỉ suất tăng trưởng kinh tế
gw: Tỉ suất tăng trưởng tiền lương
gL: Tỉ suất tăng trưởng của lực lượng lao động đã điều chỉnh chất lượng
a: Hệ số tỉ suất khái quát tuyến tính hoặc tỉ suất đầu tư bình quân hàng năm
p: Tỉ suất tăng trưởng đầu tư
s: Tổng mức thu nhập trong tổng số được sinh ra, tức là tỉ suất đầu tư.
w: Tỉ suất hiệu quả lao động
Mô thức Scot biểu đạt rõ tỉ suất tăng trưởng kinh tế được sinh ra chủ yếu
quyết định bởi tỉ suất tăng trưởng của tỉ suất đầu tư tư bản và tỉ suất hiệu quả lao
động. Căn cứ mô thức này của Scot và “Mô thức hai ngành” của Romo, các nhà
kinh tế học sau đó đã khái quát sự tác động của yếu tố tiến bộ kỹ thuật và công
nghệ làm tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả đầu tư và các thành phần
khác đóng góp vào tăng trưởng, và gọi yếu tố đó là yếu tố năng suất tổng hợp

(Total Factors Productivity - TFP), nhân tố quan trọng nhất trong tăng trưởng
kinh tế hiện đại.
Ý nghĩa của mô thức Scot có hai điểm đáng lưu ý: Một là, nêu rõ quan hệ
giữa đầu tư tiền vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật, tức là đầu tư tư bản quyết định
tiến bộ kỹ thuật, từ đó để ra sự quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế; Hai là,
đồng thời nhấn mạnh ảnh hưởng quan trọng của tri thức và kỹ thuật đối với chất
lượng lực lượng lao động, tỉ suất hiệu quả lao động trong sự tăng trưởng kinh tế[65].
1.1.1.2 Tổng quan các nghiên cứu về mối quan hệ giữa chất lượng nguồn nhân
lực với phát triển bền vững KT-XH và phương cách nâng cao CLNNL
(1) Altinok (2007), “Human capital Quality and Economic Growth” (Chất
lượng vốn con người với tăng trưởng kinh tế). Trong đó, Altinok đã tiến hành


12

nghiên cứu tương quan giữa chất lượng vốn con người với tăng trưởng kinh tế,
dựa vào một tập hợp các khảo sát quốc tế về đánh giá năng lực học sinh, được
xem là tiêu chí đại diện cho CLNNL, gồm các chỉ tiêu về kỹ thuật, toán học, các
môn khoa học và đọc hiểu. Đây là nghiên cứu đầu tiên về chất lượng giáo dục
khi sử dụng dữ liệu mảng và sử dụng dữ liệu chéo của 120 quốc gia trong giai
đoạn 1960-2005. Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra tác động tích cực của chất
lượng giáo dục, CLNNL đến tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1960-2000;
đồng thời cũng hàm ý về CLNNL trước hết được quyết định bởi chất lượng giáo
dục, yếu tố hàng đầu bảo đảm tính bền vững của tăng trưởng, bảo đảm phát triển
bền vững KT-XH của mỗi quốc gia [77].
(2) Changzheng Z.Kong Jin (2010), “Effect of equity in Education the
quality of economic Growth: evidence from China” (Tác động của giáo dục đến
chất lượng tăng trưởng kinh tế: trường hợp Trung Quốc). Nghiên cứu này dựa
trên số liệu kinh tế vĩ mô từ 1979-2004 để thực hiện kiểm định Granger mối
quan hệ nhân quả giữa sự bình đẳng trong giáo dục và chất lượng tăng trưởng

kinh tế của Trung Quốc, sau đó xây dựng mô hình hồi quy. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng sự bình đẳng trong giáo dục có mối quan hệ đồng biến với chất lượng
tăng trưởng kinh tế, trong đó sự bình đẳng trong giáo dục được đo bằng hệ số
GINI trong giáo dục và chất lượng tăng trưởng kinh tế được đo bằng TFP. Cơ
chế tác động được mô tả là: sự bình đẳng trong giáo dục sẽ cải thiện sự tích lũy
vốn con người, tối ưu hóa cấu trúc vốn con người, gia tăng kết quả của đầu tư
vào giáo dục và cải thiện các gắn kết xã hội. Tất cả các tác động trên cuối cùng
đều phản ánh vào hiệu quả của TFP [78].
(3) Malolm Gillis cùng tập thể tác giả (1987), “Kinh tế học của sự phát
triển”. Trong cuốn sách này, các tác giả đã dành phần II của cuốn sách trình bày
về chủ đề nhân lực trong sự phát triển, xác định rõ vai trò hai mặt của con người
trong quá trình phát triển kinh tế: vừa là người được hưởng lợi ích của sự phát
triển, vừa là một tiềm lực sản xuất chính. Đồng thời, các tác giả đã đi sâu phân
tích thị trường sức lao động thành thị và nông thôn; đánh giá nguồn lao động và


13

công việc sử dụng nó, các vấn đề về phân bổ lao động và di cư trong nước, di cư
quốc tế; các chính sách lao động và thu hút lao động thông qua công nghiệp
hoá…; coi đó là các phương cách để nâng cao CLNNL một cách chủ động, tích
cực và dài hạn.
(4) Khan, Mohsin (2005), “Human capital and economic Growth in
Pakistan” (Vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế ở Pakistan). Tác giả đã sử
dung mô hình phân tích kinh tế lượng cho nhóm các nước thu nhập thấp và trung
bình để đánh giá mối quan hệ giữa vốn con người và tăng trưởng kinh tế, với
chuỗi thời gian quan sát từ 1980-2002, trong đó có thêm vào các biến chính sách
và thể chế bên cạnh các biến về CLNNL được đại diện bởi trình độ giáo dục và
tình trạng sức khỏe. Tác giả đã so sánh trường hợp Pakistan với các nước trong
mẫu nghiên cứu (nhóm nước có thu nhập thấp và trung bình) và với các nước

Nam Á và Đông Nam Á, từ đó đưa ra các gợi ý chính sách về làm thế nào để
Pakistan có thể duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Khan đã xác
lập phương trình hồi quy: Tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP thực tế bình
quân người = a1 (Tỷ lệ đầu tư/GDP) + a2 (Thu nhập khởi điểm tại năm 1980) +
a3 (Chất lượng thể chế) + a4 (số năm đi học trung bình) + a5 (Tỷ lệ đi học Trung
học cơ sở) + a6 (Tỷ lệ biết chữ của người học) + a7 (Tuổi thọ). Dựa trên kết quả
hồi quy, tác giả đã đưa ra kết luận: Một quốc gia có trình độ giáo dục càng cao
và tình trạng sức khỏe tốt hơn sẽ có tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu
người cao hơn. Đồng thời, trên cơ sở so sanh Pakistan với một số quốc gia (có
thu nhập thấp và trung bình), tác giả đưa ra khuyến nghị chính sách rằng, chính
phủ nên đầu tư nhiều hơn cho giáo dục để gia tăng vốn con người, nâng cao
CLNNL, từ đó có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững hơn [79].
(5) Raymond A.Woe, John R.Hollenbeck, Bayry Gerhart và Patrick
M.Wright (2008), “Human Resource Managerment-Gaining a Competitive
Advantage” (Quản lý nguồn nhân lực-yếu tố giành lợi thế cạnh tranh). Trong đó,
các tác giả đã đưa ra 4 cách tiếp cận phát triển NNL trong doanh nghiệp: Giáo


14

dục chính thống tại các trường đại học; Đánh giá NNL; các kinh nghiệm công
việc; và các mối quan hệ tương tác cá nhân người lao động.
(6) Zorlu Sengucel (2009), “Managing human resoure in the 21 st century
(Quản lý nguồn nhân lực trong thế kỷ 21). Trong đó, tác giả đã luận giải vai trò
đặc biệt quan trọng của việc giải quyết vấn đề quản lý NNL trong thế kỷ 21 là:
Giải quyết mối quan hệ giữa người lao động và tổ chức; đào tạo các nhân; và tổ
chức quản lý NNL [80].
(7) Nygel Finch (2013), “Quan điểm học thuật về mô hình tăng trưởng
mới”. Trong báo cáo khoa học này, tác giả đã tổng quan các quan điểm về “nền
kinh tế xanh”, mô hình “tăng trưởng xanh”. Trong đó, tác giả đã tổng quan về

chiến lược tăng trưởng xanh do các nhà lãnh đạo APEC 2013 đưa ra. Năm thành
tố của mô hình tăng trưởng cho khu vực APEC, gồm: 1. Cân bằng: các chính
sách kinh tế vĩ mô và cải cách cơ cấu giúp giảm sự mất cân bằng và nâng cao
hiệu quả tiềm năng. 2. Toàn diện: Giúp tiếp cận công bằng cho toàn bộ công
dân, tham gia, góp phần và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế toàn cầu. 3. Bền
vững: Tăng trưởng giúp bảo vệ môi trường và hướng tới nền kinh tế xanh hơn.
4. Sáng tạo: Tạo ra tăng trưởng, khuyến khích và nuôi dưỡng sáng tạo trong các
nền kinh tế đặc biệt là lĩnh vực mới nổi. 5. An toàn: Bảo vệ cơ sở vật chất và
kinh tế của các công dân APEC và thiết lập môi trường an toàn để tạo thuận lợi
cho các hoạt động kinhh tế [64].
(8). Duh-Yong Chung (2013), “Chính sách phát triển kinh tế xanh, các
bon thấp của Hàn Quốc”. Trong bài báo này tác giả đã tổng quan về việc hoạch
định, thực thi chiến lược, chính sách và luật pháp của Hàn Quốc về tăng trưởng
xanh, kinh tế xanh. Trong đó, đã tổng quan rõ Hàn Quốc hướng tới mô thức
“kinh tế sáng tạo và tăng trưởng xanh” trên cơ sở “nhận thức về kinh tế và văn
hóa bền vững trong thế giới toàn cầu hóa”; hợp nhất các ngành nghiên cứu, sáng
tạo; coi khoa học, công nghệ thông tin và viễn thông, công nghệ xanh là động
lực mới của tăng trưởng kinh tế [64].


15

1.1.2 Tổng quan các nghiên cứu ở trong nước về chất lượng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1 Các nghiên cứu về chất lượng nguồn nhân lực và các tiêu chí đo lường
chất lượng nguồn nhân lực
Ở phạm vi này, chất lượng nguồn nhân lực được nghiên cứu theo hai quan
điểm. Với quan điểm thứ nhất, CLNNL được hiểu như là một quá trình từ chất
lượng đầu vào, chất lượng quá trình, chất lượng đầu ra và chất lượng của các kết
quả (tác động của chất lượng nguồn nhân lực trong dài hạn). Các nghiên cứu

theo hướng này bao gồm WEF (2013), Lê Thị Thúy (2012), Nguyễn Văn Ngọc
(2006), Bùi Văn Bình (2009). Cách tiếp cận của WEF (2013) về vốn con người
bao trùm cả các yếu tố đầu vào tạo nên chất lượng, các yếu tố chất lượng và các
yếu tố là kết quả của chất lượng. Vốn con người được đo bằng chỉ số phát triển
con người, là chỉ số mang tính tổng hợp để đo lường chất lượng sự phát triển của
con người nói chung. Đó là một hệ thống các chỉ số được sắp xếp theo 4 trụ cột:
giáo dục, sức khỏe, việc làm và thu nhập, và môi trường (là kết quả tác động của
3 trụ cột còn lại). Theo WEF (2013), việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục hay y tế
và các dịch xã hội khác ngày hôm nay sẽ ảnh hưởng tới vốn con người trong
tương lai và tiếp đến ảnh hưởng tới kết quả về việc làm và thu nhập.
Một số nghiên cứu trong nước cũng đã đi theo cách tiếp cận thứ nhất khi
sử dụng chỉ số HDI để đánh giá CLNNL. Trong nghiên cứu về phát triển nguồn
nhân lực nữ các tỉnh MNPB, Lê Thị Thúy (2012) xác định CLNNL nữ dựa trên
tình trạng sức khỏe, trình độ học vấn, trình độ kỹ năng lao động, chỉ số phát triển
con người, và một số chỉ tiêu khác” (tr.82) . Đây cũng là hệ thống các chỉ số mà
một số nghiên cứu sử dụng để đánh giá CLNNL như Lê Hồng Điệp (2009).
Nguyễn Ngọc Vinh (2012) cũng đã sử dụng các chỉ số phát triển con người để
đánh giá CLNNL cao của Việt Nam thông qua các nhân định nhữ tỷ trọng NNL
cao ở Việt Nam là rất thấp. Chỉ số HDI của Việt Nam trong các năm qua cải
thiện không đáng kể (năm 2006 hạng 109/162; 2007 hạng 105/177; 2009: hạng
116/182) thuộc diện trung bình kém. Trong khi các nước láng giềng đang có sự


16

cải thiện rất tốt như Trung Quốc, Hàn Quốc, Indonesia về chỉ số này, có nghĩa
rằng nước ta đang thụt lùi trên bình diện chung. Riêng Hàn Quốc, Nhật Bản và
Singapore, đó là tiêu điểm cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam về
chính sách phát triển NNL cần quan tâm nhằm nâng cao chất lượng dân số, phát
triển NNL chất lượng cao. Để tiến hành nghiên cứu chất lượng theo cách tiếp

cận thứ nhất đòi hỏi người nghiên cứu phải có một hệ thống các số liệu tính toán
các chỉ số HDI của địa phương theo các nhóm chỉ số từ đầu vào, quá trình và đầu
ra, kết quả về CLNNL. Chính vì vậy những nghiên cứu tầm quốc gia và quốc tế
thường sử dụng cách tiếp cận thứ nhất.
Quan điểm tiếp cận thứ hai chỉ nghiên cứu chất lượng đầu ra. Vì vậy,
CLNNL là trạng thái nhất định của NNL tại thời điểm hay giai đoạn nhất định.
Nguyễn Hồng Quang (2013) đã tổng kết các nghiên cứu và nhấn mạnh các quan
điểm tổng hợp về CLNNL nét đặc trưng về sức khỏe sinh sản, cơ cấu lứa tuổi
của dân số, trạng thái thể lực, trí lực, trình độ văn hóa, chuyên môn, phong cách,
đạo đức, hiểu biết xã hội của tầng lớp dân cư và đội ngũ nhân lực. Những nghiên
cứu theo quan điểm tổng hợp như Nguyễn Tiệp (2005), Vũ Bá Thế, Vũ Đình
Hòe, Đoàn Minh Huấn (2005), Trần Xuân Cầu (2012).
Một số nghiên cứu cũng hướng đến quan điểm tổng hợp và nhấn mạnh
đến yếu tố đầu ra của CLNNL và lựa chọn các tiêu chí quan trọng cấu thành nên
CLNNL. Nghiên cứu của Trần Khánh Đức (2010) coi tiêu chí trình độ học vấn,
tố chất, sức khỏe, lối sống có tính chất quyết định đến việc làm và quyền lợi của
nhân lực. Doãn Hùng và các tác giả (2010, tr.31), Bùi Văn Nhơn[7], khẳng định
lại tầm quan trọng của trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong các yếu tố cấu thành
CLNNL. Tạ Ngọc Hải (2008) coi yếu tố thể lực và trí lực là hai yếu tố quan
trọng để đo lường CLNNL. Bùi Sĩ Tuấn [5, tr.30] đã lựa chọn các tiêu chí đánh
giá CLNNL bao gồm chiều cao, cân nặng, kỹ năng sống, hiểu biết xã hội, kỹ
năng nghề, trình độ học vấn, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng xử lý tình huống, khả
năng làm việc độc lập, khả năng làm việc theo nhóm, ý thức tổ chức kỷ luật và
hiểu biết chấp hành pháp luật. Một số người nghiên cứu nhấn mạnh tới yếu tố


17

phẩm chất của nhân lực như Doãn Hùng (2010), thái độ và quan điểm của NNL
như Trần Thị Tuyết Mai (2002) và Bùi Văn Nhơn (2006). ILO (2010) coi trọng

yếu tố kỹ năng của nhân lực, đặc biệt là kỹ năng nhận thức và hành vi.
Việc nghiên cứu về CLNNL của địa phương theo các tiếp cận thứ hai tập
trung vào các tiêu chí đánh giá CLNNL đầu ra là một hướng nghiên cứu phổ
biến, dễ dàng thu thập các số liệu nghiên cứu. Tuy vậy các tiêu chí về cơ cấu
NNL, các tiêu chí về trình độ nhân lực có thể được làm rõ hơn trong nghiên cứu
tiếp theo. Đặc biệt hệ thống các tiêu chí đánh giá về cơ cấu, trình độ, kiến thức, kỹ
năng, phẩm chất và phong cách cần được xác định cụ thể hơn.
1.1.2.2 Nghiên cứu về tác động của chất lượng nguồn nhân lực tới sự phát triển
kinh tế xã hội, năng lực cạnh tranh của quốc gia, địa phương cấp tỉnh
Tác động của chất lượng nguồn nhân lực tới sự phát KT-XH, năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia và địa phương cấp tỉnh là một xu hướng khác của những
nghiên cứu về CLNNL. Nhiều nghiên cứu đã phân tích và diễn giải các tác động
của CLNNL tới nhiều khía cạnh của sự phát KT-XH địa phương.
CLNNL tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kinh tế được khẳng định trong
các nghiên cứu của Trương Minh Đức (2011), Lê Thị Thúy (2012). Trương
Minh Đức (2011, tr.17) khẳng định CLNNL có ảnh hưởng trực tiếp đến năng
suất, chất lượng hiệu quả của nền kinh tế quốc gia dưới sự tác động của các yếu
tố sức khỏe, trình độ nhận thức và kỹ năng nghề nghiệp và ý thức thái độ của
người lao động. Đây là khía cạnh tác động chính đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm phát triển qua hệ thống các chỉ số phản ánh sự tăng trưởng kinh tế địa
phương. Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008) đã phân tích tác động của vốn
con người đến quá trình tăng trưởng kinh tế cấp tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Nghiên cứu chọn yếu tố giáo dục là yếu tố thuộc vốn con người, là nhân tố quan
trọng khi giải thích sự tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố ở Việt Nam cũng
như giải thích khoảng cách chênh lệch giữa các vùng kinh tế ở Việt Nam.
Nghiên cứu từ đó nhấn mạnh tới sự đầu tư và giáo dục như là yếu tố kích thích
tăng trưởng. Một số nghiêu cứu cũng phát triển thêm sự ảnh hưởng của chất


18


lượng nguồn nhân lực tới năng suất lao động xã hội như Trương Minh Đức
(2011), Trần Xuân Cầu (2012). Trong các yếu tố làm tăng năng suất lao động xã
hội, nhóm yếu tố liên quan đến con người và quản lý con người như sức khỏe,
trình độ CMKT, trình độ quản lý là những yếu tố chiếm vị trí quan trọng [Trần
Xuân Cầu, 2012, tr. 209].
Việc làm cũng là một khía cạnh tác động quan trọng của CLNNL. Nghiên
cứu của Trần Xuân Cầu (2012) cho rằng nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới
việc làm cho người lao động là số lượng và chất lượng lao động, đó cũng là nhận
định của các nghiên cứu như Bộ LĐ,TB&XH (2009), UNFPA (2011). Theo
[UNFPA, 2011, 36], để xem xét tác động của CLNNL tới việc làm, các tiêu chí
như tỷ lệ thất nghiệp theo từng nhóm trình độ nhân lực, hay tỷ lệ lao động tự làm
chủ, làm thuê có thể được khai thác để phân tích tác động này.
Tác động của chất lượng nguồn nhân lực tới mức sống dân cư cũng được
một số nghiên cứu quan tâm như VCCI (2008), Trương Minh Đức (2011), Viện
khoa học xã hội Việt Nam (2011). Theo Viện khoa học xã hội Việt Nam (2011,
tr.34), khi phân tích mối quan hệ giữa vốn con người và tình trạng nghèo đói,
những đặc tính chính của nhóm dân cư nghèo đói ở Việt Nam là tình trạng hiểu
biết hạn chế, trình độ học vấn thấp (bỏ học, không học hết bậc tiểu học, nhiều
người lớn đang đi làm chưa đọc thông viết thạo). Phùng Lê Dung và Đỗ Hoàng
Điệp (2009) nghiên cứu về những hệ lụy do thiếu nguồn nhân lực có chất lượng
và khẳng định chưa bao giờ Việt Nam lại đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực
có trình độ như hiện nay. Việt Nam hiện thiếu hụt nhân lực chất lượng trong tất
cả các ngành kinh tế. Hệ lụy của tình trạng này là sụt giảm sức cạnh tranh của
nền kinh tế, trong đó nhân lực là yếu tố cạnh tranh mang tính bản sắc; hệ lụy thứ
hai là khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình như một số quốc gia đã mắc phải
như Thái Lan, Indonesia và một số nước Mỹ Latinh; hệ lụy thứ ba là đánh mất
cơ hội tham gia vào thị trường lao động quốc tế. Những vấn đề và hậu quả nói
trên xuất phát từ chiến lược NNL và chiến lược phát KT-XH hội quốc gia không
thống nhất với nhau. Việc xây dựng chiến lược NNL cần lấy thông tin đầu vào từ



19

chiến lược phát triển KT-XH. Phạm Minh Hạc (2001) trong tác phẩm “Nghiên
cứu con người và NNL đi vào CNH-HĐH” của đã phân tích những khái niệm về
nguồn nhân lực và quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá tác
động NNL ở Việt nam đối với quá trình CNH, HĐH tác giả đã đưa ra giải pháp
để phát triển nguồn nhân lực này thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH.
Nghiên cứu của Thương Thị Thúy Hằng (2012), “Đào tạo nguồn nhân lực
Việt Nam – Những thách thức từ một thước đo mới về phát triển con người và
năng lực cạnh tranh”. Nghiên cứu này tập trung đánh giá thực trạng đào tạo NNL
Việt Nam qua lăng kính chỉ báo năng lực cạnh tranh toàn cầu (MDGs) và chỉ số
phát triển con người (HDI), chỉ rõ những thách thức mà Việt Nam đang gặp
phải, trong đó có giáo dục đại học là một điểm yếu trong năng lực cạnh tranh;
đồng thời đưa ra khuyến nghị chính sách với nhà nước.
Một hướng tiếp cận khác là nghiên cứu tác động của bất bình đẳng về thu
nhập, bất bình đẳng giới tới CLNNL, phát triển kinh tế và năng lực cạnh tranh.
Theo hướng này có một số nghiên cứu điển hình: Nguyễn Hữu Minh (2012),
“Ước tính chi phí của bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam”. Nghiên cứu
này đã có phát hiện chính là Tổng chi phí cơ hội của tình trạng bạo hành gia đình
đối với phụ nữ Việt Nam (tổng chi phí thực tế của việc chữa trị và các chi phí
liên quan đến hỗ trợ pháp lý, tư vấn và cảnh sát, phần học phí bị mất đi do trẻ em
phải nghỉ học do người mẹ bị bạo hành không thể đưa con đến trường, và phần
thu nhập trung bình bị mất đi do người phụ nữ phải nghỉ làm ước tính bằng
1,41%GDP của Việt Nam năm 2010.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Nguyệt cùng nhóm tác giả (2008), về xu
hướng của bất bình đẳng trong thu nhập, các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ bất
bình đẳng trong thu nhập. Nghiên cứu này đã kết luận trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm, vùng lãnh thổ, tình trạng hôn nhân, sức khỏe, ngành

nghề là các yếu tố ảnh hưởng tới bất bình đẳng trong thu nhập giữa nam và nữ.


×