Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc mường ở tỉnh hòa bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.25 KB, 81 trang )

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy cô giáo Khoa Tuyên truyền - Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Đặc biệt
em xin bày tỏ biết ơn sâu sắc đến TS. Lương Ngọc Vĩnh, người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo tận tình cho em trong suốt quá trình em làm khóa luận.


Em xin cảm ơn Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hòa Bình. Ban Tuyên giáo
Huyện ủy Cao Phong đã tạo điều kiện để em tìm hiểu thông tin tài liệu hoàn
thành khóa luận này. Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã ủng hộ, động viên em
trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình làm khóa luận, bản thân em dù đã cố gắng hết sức
nhưng do khả năng còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô giáo để em hoàn
thiện hơn bài khóa luận, nâng cao kiến thức cho bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 6 năm 2013
Tác giả khóa luận

Cao Thị Thúy

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tẳt
CNH, HĐH
CNTT
DSVH
Nxb.CTQG


Tên đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công nghệ thông tin
Di sản văn hóa
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia


KT – XH
Sở VH – TT&DL
VH - TT

Kinh tế - xã hội
Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch
Văn hóa – thông tin


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, Việt Nam đã và đang chịu sự ảnh hưởng
của những trào lưu văn hóa mới và tác động mặt trái của cơ chế thị trường, các giá
trị văn hóa truyền thống của các dân tộc - đặc biệt là dân tộc thiểu số đang có nguy
cơ bị lấn át, mai một, biến dạng, thay thế vào đó là những trào lưu văn hóa hiện
đại ngoại nhập, lai căng. Thực tế đó đòi hỏi các cấp, các ngành và mỗi cộng đồng
dân tộc phải có ý thức bảo tồn, kế thừa, phát huy văn hóa dân tộc.
Nói đến cồng chiêng hầu hết mỗi chúng ta đều nghĩ ngay tới không gian
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên - kiệt tác văn hóa phi vật thể truyền khẩu của
nhân loại, ít ai biết rằng còn có một không gian văn hóa cồng chiêng của dân
tộc Mường ở Hòa Bình cũng mang nhiều nét đặc sắc và độc đáo không kém.
Không gian văn hóa cồng chiêng - là di sản văn hóa đặc sắc, quý giá gắn bó lâu
đời với người Mường. Không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường

tỉnh Hòa Bình đang được Sở VH – TT&DL tỉnh Hòa Bình lập hồ sơ đề nghị
công nhận là DSVH cấp quốc gia.
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước những đặc sắc của
văn hóa dân tộc Mường nói chung và những giá trị của không gian văn hóa
cồng chiêng nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn
trước sự biến chuyển không ngừng của xã hội. Không gian văn hóa cồng
chiêng có thể coi là món ăn tinh thần thường nhật của người Mường, vậy
sẽ ra sao nếu một ngày mai hình ảnh những chiếc cồng chiêng không còn
xuất hiện trong cuộc sống của các bản làng?
Phải chăng cần thiết phải có những phương pháp, cách thức mới,
mạnh mẽ hơn nữa để nhanh chóng kế tục, khôi phục, bảo tồn và phát triển
những giá trị văn hóa trường tồn của không gian văn hóa cồng chiêng của
người Mường trong giai đoạn hiện nay? Và công tác tuyên truyền có phải
là một công cụ, phương pháp đắc lực cho việc bảo tồn và phát huy không
gian văn hóa cồng chiêng Mường Hòa Bình hiện nay?

4


Là sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hóa - tư tưởng của Học viện
Báo chí và Tuyên truyền và cũng là công dân đang sinh sống tại tỉnh Hòa
Bình, qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về các hoạt động của công tác
tuyên giáo cũng như thực tế ở một số địa phương trong tỉnh, tôi nhận thấy
tăng cường công tác tuyên truyền bảo tồn, giữ gìn và phát triển văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số là một yêu cầu cấp bách. Vì vậy tôi
lựa chọn đề tài “Công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy
không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện
nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Khi bàn về công tác tuyên truyền một trong các mặt hoạt động của cán

bộ tuyên giáo, đã có rất nhiều công trình và bài viết của nhiều tác giả viết với
các góc độ khác nhau. Hàng năm ngành tư tưởng – văn hóa thường kỳ tiến
hành sơ kết, tổng kết với nhiều chuyên đề phong phú, đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền. Một số công trình có liên
quan đến vấn đề này như:
- Hà Học Hợi, Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư
tưởng, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2002.
- Đào Duy Quát, Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb.CTQG, Hà Nội, 2004.
- PGS. TS. Lương Khắc Hiếu, Nguyên lý công tác tư tưởng tập 1,
Nxb.CTQG, Hà Nội, 2008.
- PGS. TS. Lương Khắc Hiếu, Nguyên lý công tác tư tưởng tập 2,
Nxb.CTQG, Hà Nội, 2008.
- Trần Trọng Tâm, Về công tác tư tưởng – văn hóa, Nxb.CTQG, Hà Nội,
2005.
Gần đây nhất là một số công trình nghiên cứu có liên quan đến bảo tồn và
phát huy DSVH như:
- Đàm Hoàng Thụ, Nghiên cứu vấn đề bảo tồn di sản văn hóa nghệ thuật
trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2006.

5


- Kiều Trung Sơn, Cồng chiêng Mường, Nxb.Văn hóa – Thông tin
&Viện Văn hóa, Hà Nội, 2011.
Hầu hết các công trình trên đều nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập
đến DSVH, không gian văn hóa cồng chiêng Mường Hòa Bình và thực trạng
công tác bảo tồn và phát huy ở nhiều góc độ lý luận và thực tiễn khác nhau.
Các công trình nêu trên chủ yếu đi vào nghiên cứu về bảo tồn và phát huy
DSVH, không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường, dường như chưa

có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt, hệ thống về công tác
tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường ở Hòa Bình hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và làm rõ thực trạng công
tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình, khóa luận đề ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy
không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện
nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về công tác tuyên truyền
trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường.
+ Làm rõ thực trạng công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát
huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình.
+ Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền
trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa công chiêng của dân tộc
Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và
phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa
Bình.
6


- Phạm vi nghiên cứu: Công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát
huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường của cấp ủy, chính
quyền, cơ quan chức năng, các cấp của tỉnh Hòa Bình từ năm 2010 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta
đồng thời kế thừa hợp lý kết quả các công trình nghiên cứu có liên quan đến
công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc trong
nước và trên thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu như: phân tích và tổng hợp, nghiên cứu tài liệu,
so sánh, phỏng vấn, điều tra xã hội học… để rút ra những nhận xét và kết luận
khách quan khoa học. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên
ngành như: dân tộc học, phương pháp thống kê, phương pháp khảo sát.
6. Cái mới của đề tài
- Đề tài làm rõ được vị trí, vai trò, phương thức tiến hành công tác tuyên
truyền trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của
dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện nay.
- Đánh giá được thực trạng công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và
phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở Hòa Bình.
- Đề ra được giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền
trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường ở Hòa Bình hiện nay.

7


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần vào hệ thống hóa lý luận về DSVH, về công tác tuyên
truyền trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của

dân tộc Mường ở Hòa Bình hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung, gợi mở, góp phần hoàn thiện
phương thức tiến hành tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy không
gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện nay.
+ Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng làm tốt
công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng
của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài kết cấu
thành 3 chương và 10 tiết.

8


B. NỘI DUNG
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác tuyên
truyền trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường
1.1. Quan niệm về bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường
1.1.1. Khái lược về không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường
1.1.1. Cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về cồng chiêng của dân tộc Mường
và sau đây là một số định nghĩa cơ bản.
Theo định nghĩa của cuốn Nhạc khí dân tộc Việt, xuất bản năm 2001
thì: Cồng, chiêng là cuốn nhạc khí tự thâu vang gõ phổ biến tại Việt Nam,
đồng thời ở một số nước châu á khác cũng có. Cồng, chiêng làm bằng đồng
thau hoặc hợp kim đồng thiếc, với tỷ lệ các hợp kim rất khác nhau tùy theo

nơi đúc, hình tròn ở giữa nới phồng lên, chung quanh có gờ gọi là thành.
Cồng luôn luôn có núm ở giữa, chiêng có hai loại: chiêng có núm ở giữa là
chiêng có núm và chiêng không có núm ở giữa là chiêng bằng.
Một định nghĩa khác: cồng chiêng là những nhạc khí đơn chiếc, bằng
đồng, dạng phiến mỏng, hình tròn, nhiều kích cỡ, có núm hoặc không có núm,
có thành ở vành ngoài; có nhiều tên gọi khác nhau; được sử dụng thường
xuyên, đa dạng, nhiều mục đích; khi được tập hợp thành dàn, diễn tấu theo
phương thức cộng đồng, phổ biến mỗi người một chiếc tạo nên một loại hình
văn hóa nghệ thuật.
Văn hóa cồng chiêng là tổng thể mối quan hệ giữa con người với cồng
chiêng thông qua việc sử dụng cồng chiêng với nhiều mục đích và chức năng
khác nhau, gắn bó lâu dài với đời sống thường ngày cũng như đời sống tín
ngưỡng của con người.

9


1.1.1.2. Không gian văn hóa cồng chiêng
Quan niệm của người Mường Hòa Bình về không gian văn hóa cồng
chiêng rất rộng. Người Mường cho rằng ảnh hưởng và sự lan tỏa của không
gian văn hóa cồng chiêng trên một vùng rộng lớn gồm mặt đất, mặt nước.
Không gian mặt đất và mặt đất là không gian tự nhiên – không gian có thật.
Nội hàm của văn hóa cồng chiêng tức là tâm hồn, sức mạnh của bản
mường, đa dạng, phong phú mang sắc thái riêng; in sâu, hòa đậm trong đời
sống, học tập, lao động, chiến đấu thực tế và huyền thoại tồn tại và phát huy
lâu dài theo suốt vòng đời của mỗi người, của từng gia đình, xóm Mường.
Không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường bao gồm một bộ
phận lớn địa phận tỉnh Hòa Bình – một tỉnh miền núi đa dân tộc nằm ở cửa
ngõ vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có vị trí địa lý quan trọng của vùng chuyển
tiếp từ đồng bằng lên miền núi, điểm trung chuyển sức hút ảnh hưởng chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của một trung tâm lớn Hà Nội.
Không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường bao gồm các yếu
tố bộ phận sau: cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người
chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ cơm mới, nhà mới,
lễ thành hôn, hội đánh cá; Lễ hội sắc bùa...), những địa điểm tổ chức các lễ
hội đó (nhà sàn, rẫy, bến nước, các khu rừng cạnh các làng bản,...), v.v…
Như vậy, theo quan niệm của người Mường thì không gian văn hóa
cồng chiêng vừa là giá trị văn hóa vật thể vừa là giá trị văn hóa phi vật thể.
1.1.2. Bảo tồn và phát huy, mối quan hệ về bảo tồn và phát huy
không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường
1.1.2.1. Khái niệm về bảo tồn và phát huy
Theo từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Bảo tồn là sự giữ lại không để mất
đi”, còn “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác dụng và tiếp tục
nảy nở thêm”. Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật, hiện tượng
theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, “không để bị
thay đổi, biến hóa hay biến thái”. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này,
không có khái niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi
10


nói đến đồi tượng bảo tồn “phải nhìn là tinh hoa”, chúng ta khẳng định giá trị
đích thực và khả năng bảo tồn theo thời gian, dưới thể dạng và nhận thức khác
nhau của đối tượng được bảo tồn.
Bảo tồn là hoạt động giữ gìn một cách an toàn khỏi sự xuống cấp hoặc
phá hoại hay nói cách khác là bảo tồn có ý nghĩa bảo quản kết cấu một địa
điểm ở hiện trạng hãm sự xuống cấp của kết cấu đó. Như vậy, bảo tồn là tất
cả những nỗ lực nhằm hiểu biết về lịch sử hình thành, ý nghĩa của giá trị văn
hóa nhằm đảm bảo sự an toàn, phát triển lâu dài về vật chất cho giá trị văn
hóa đó và khi cần đến phải được giới thiệu, trưng bày, khôi phục và tôn tạo lại
để khai thác khả năng phục vụ cho hoạt động tiến bộ của xã hội.

Bảo tồn không gian văn hóa cần được nghiên cứu thật kỹ, chọn lựa
phương án thích hợp với từng địa phương, từng đặc thù riêng của nó để đảm
bảo cho hoạt động của cộng đồng và các thế hệ mai sau rằng cái chúng ta
đang trình bày là xác thực chứ không phải đồ giả, là lịch sử chứ không phải là
tuyên truyền, là sự uyên bác chứ không phải định kiến, là thông tin chứ không
phải sự kích động, là sự cảm ứng chứ không phải là những lời sáo rỗng.
Phát huy là “làm cho cái hay, cái tốt tỏa sáng tác dụng và tiếp tục nảy
nở thêm”. Phát huy được hiểu là những tác động làm cho cái hay, cái đẹp, cái
tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy nở từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nói một cách đơn giản phát huy là việc
khai thác, sử dụng sản phẩm một cách hiệu quả. Công việc này xuất phát từ
nhu cầu thực tế, con người muốn sản phẩm của họ tạo ra phải được nhiều
người biết đến và đem lại nhiều lợi ích kinh tế.
1.1.2.2. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy
Bảo tồn và phát huy luôn gắn liền với nhau như một cặp phạm trù trong
việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bởi lẽ văn hóa là cái thể hiện sâu sắc của
dân tộc, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nếu chỉ bảo tồn mà
không tồn tại, không đem ra sử dụng thì sẽ không phát huy được giá trị tiềm
ẩn chứa trong không gian, rời thời gian sẽ làm phai mờ đi các giá trị văn hóa
và nhanh chóng bị chìm vào quên lãng, chỉ khi các giá trị đó được phát huy
11


thì mới có cơ sở, căn cứ và làm điều kiện để bảo tồn giá trị văn hóa. Do vậy,
phát huy sẽ tạo ra hướng tiếp nhận, ảnh hưởng mới làm cho giá trị văn hóa
không bị lãng quên mà còn lan rộng và giữ vững được bản sắc của mình. Bảo
tồn làm căn bản, làm cơ sở cho sáng tạo, phục vụ phát huy và ngược lại phát
huy giúp cho bảo tồn được tốt hơn, và tỏa sáng hơn. Vì vậy, phải xử lý hài
hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy, để bảo tồn không cản trở sự phát
triển, trái lại còn tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững..

1.2. Công tác tuyên truyền với việc bảo tồn và phát huy không gian
văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường
1.2.1. Quan niệm về công tác tuyên truyền
Theo tiếng la tinh thì tuyên truyền là truyền bá, truyền đạt một quan
điểm nào đó. Thuật ngữ tuyên truyền được sử dụng để biểu đạt các hoạt động
nhằm tác động đến suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm của người khác và định
hướng hành động của họ theo khuynh hướng nhất định. Theo đại từ điển bách
khoa toàn thư Liên Xô, thuật ngữ tuyên truyền có hai nghĩa. Theo nghĩa rộng,
tuyên truyền là sự truyền bad những quan điểm, tư tưởng chính trị, triết học,
khoa học nghệ thuật…nhằm biến những quan điểm, tư tưởng ấy thành ý thức
xã hội, thành hành động cụ thể của quẩn chúng. Theo nghĩa hẹp, tuyên truyền
là sự truyền bá những quan điểm lý luận nhằm xây dựng cho quần chúng thế
giới quan nhất định phù hợp với thế giới quan ấy. Với quan điểm này, tuyên
truyền nghĩa hẹp chính là tuyên truyền chính trị, tuyên truyền tư tưởng mà
mục đích của nó là hình thành ở đối tượng tuyên truyền một thế giới quan
nhất định, một kiểu ý thức xã hội nhất định và cổ vũ tính tích cực xã hội của
con người.
Hồ Chí Minh cho rằng “tuyên truyền là đem một việc gì đó nói cho dân
hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Còn theo các nhà khoa học về công tác tư
tưởng thì công tác tuyên truyền là hoạt động có mục đích của chủ thể tuyên
truyền, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật nhà nước đến đối tượng
tuyên truyền, từ đó tạo cho đối tượng tuyên truyền có niềm tin vững chắc vào
12


sự nghiệp cách mạng và tự giác, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn, nhằm
đóng góp vào sự nghiệp CNH, HĐH đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong cuốn “Nguyên lí công tác tư tưởng” (tập 1), do PGS.TS Lương
Khắc Hiếu (chủ biên) định nghĩa “Tuyên truyền là hoạt động nhằm truyền bá

chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những tinh hoa của văn hóa
dân tộc và nhân loại… làm cho chúng trở thành những nhân tố chí phối,
thống trị, trong đời sống tinh thần của xã hội; động viên, cổ vũ tính tích cực,
tự giác sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [ 8, tr.32].
Tuyên truyền có quá trình hình thành lâu dài trong quá trình lịch sử
nhân loại. Xã hội loài người được hình thành thì cũng đồng thời xuất hiện
hoạt động tuyên truyền. tuyên truyền gắn liền với hình thái KT - XH khác
nhau. Ngôn ngữ chính là phương tiện truyền đạt thông tin sơ khai nhưng quan
trọng bậc nhất của con người. Qua tín hiệu âm thanh đơn giản, con người có
sự trao đổi tình cảm, tạo sự giao tiếp sinh hoạt, lao động sản xuất. Hoạt động
tuyên truyền chính là hoạt động của con người tác động đến con người, vì vậy
nó là hoạt động xã hội đặc biệt, bởi chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên
truyền đều là con người.
1.2.2. Vai trò của công tác tuyên truyền đối với việc bảo tồn và phát
huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường
1.2.2.1. Công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy không
gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường
Công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường là một bộ phận của hoạt động tuyên truyền văn
hóa và là một bộ phận của công tác tuyên truyền nói chung.
Bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường là một bộ phận của công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của
Đảng. Trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường cần phải giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Đối
13


với giá trị văn hóa vật thể: cồng, chiêng, nhà sàn, nghệ nhân… thì cần có hoạt

động xếp hạng, trùng tu, tôn tạo, tu bổ… Đối với các giá trị văn hóa phi vật
thể thì cần có hoạt động sưu tầm, giới thiệu, tổ chức biểu diễn…Hoạt động
không thể thiếu trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị không gian văn hóa
cồng chiêng của dân tộc Mường là công tác quảng bá, tuyên truyền nhằm tạo
ra sự đồng thuận hoàn toàn xã hội, huy động được sự tham gia của nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau trong toàn xã hội vào công tác bảo tồn và
phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường.
Công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường là hoạt động nhằm truyền bá, phổ biến những chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước về giá trị văn
hóa trong quần chúng nhân dân nhằm nâng cao nhận thức, thúc đẩy các tầng
lớp nhân dân có những hoạt động tích cực, góp phần bảo tồn và phát huy
không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường.
1.2.2.2. Vai trò của công tác tuyên truyền đối với việc bảo tồn và phát
huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường
Thứ nhất, công tác tuyên truyền góp phần phổ biến, giới thiệu đường
lối, quan điểm của Đảng, chính sách nhà nước về văn hóa và không gian văn
hóa với việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng từ năm 1993, Thủ tướng chính phủ đã
ban hành quy định số 25/TTg về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi
mới sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, xác định: đầu tư 100% cho việc sưu tầm,
chỉnh lý, biên soạn, bảo quản lâu dài phổ biến các sản phẩm văn hóa tinh thần
như văn hóa dân gian…
Các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng tuy đã được cụ thể hóa
trong một số văn bản nhưng điều quan trọng là phải phổ biến đến toàn thể cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Bảo tồn và phát hu giá trị văn hóa là
việc lâu dài, phức tạp và gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi sự hợp sức và tham gia
của các ngành, nhiều tổ chức và cá nhân trong đó có cán bộ, đảng viên và
14



nhân dân là lực lượng đông đảo và quan trọng nhất. Các quan điểm, đường
lối, chính sách của đảng và nhà nước cần triển khai sâu rộng, tác động vào
nhận thức và hướng đến thay đổi hành vi của mỗi cá bộ, đảng viên và nhân
dân. Để làm được điều này, công tác tư tưởng mà ở đây là công tác tuyên
truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường đóng vai trò quyết định. Thông qua hoạt động của Báo cáo viên,
Tuyên truyền viên, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước được
tuyên truyền, giải thích một cách đơn giản, dễ hiểu, dễ tiếp thu, vừa tác động
vào lý trí, vừa tác động vào tính các người nghe. Cùng với đó, hệ thống các
phương tiện truyền thông đại chúng khác như: phát thanh, truyền hình, báo
in…cũng tham gia hết sức hiệu quả trong công tác tuyên truyền chủ trương,
đường lối, chính sách bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của Đảng và Nhà
nước đến đông đảo nhân dân. Với một hệ thống binh chủng tuyên truyền,
công tác tuyên truyền đóng vai trò không thể thay thế được trong việc truyền
tải các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tồn
và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường.
Thứ hai, công tác tuyên truyền phổ biến rộng rãi những giá trị về
không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường.
Công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường nó có vai trò to lớn trong việc phổ biến các giá trị
không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường đến mỗi cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân. Hằng năm thông qua các hoạt động tuyên
truyền miệng, sinh hoạt chuyên đề các giá trị văn hóa được làm sáng tỏ, các
chương trình truyền hình, phát thanh, phóng sự, các bài báo cũng thường
xuyên đăng tải, phát sóng đưa tin giới thiệu, ca ngợi những vẻ đẹp, giá trị…
khơi dậy lòng tự hào đối với những giá trị văn hóa đó của địa phương, đất
nước. Bên cạnh đó hoạt động kỷ niệm, nhiều buổi diễn, các lễ hội được tổ
chức khắp nơi góp phần giới thiệu, quảng bá những giá trị văn hóa đó đến

đông đảo quần chúng nhân dân trong và ngoài tỉnh.

15


Thứ ba, thông qua hoạt động tuyên truyền cũng hình thành ý thức,
trách nhiệm trong việc bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng
của dân tộc Mường.
Vai trò của công tác tuyên truyền là giáo dục từng người ngoài mục
đích của tuyên truyền còn cung cấp tri thức, phổ biến giáo dục đường lối,
chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước mà còn nâng cao ý thức từ đó
tạo lập hành động tích cực trong quần chúng. Muốn bảo tồn và phát huy thì
yếu tố quan trọng là hình thành và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi
người, mỗi cán bộ, đảng viên. Hình thành và nâng cao ý thức là một quá trình
lâu dài, đôi khi là phức tạp, quanh co, bởi mỗi chúng ta thường hoạt động
theo những nếp nghĩ tiêu cực, lạc hậu, có sẵn theo những thói quen cố hữu.
Để thay đồi nếp nghĩ tiêu cực, lọc thành những nếp nghĩ mới, ý thức mới và
nhất là những thói quen, tập quán thì không hề dễ dàng. Công tác tuyên
truyền thông qua nhiều kênh, nhiều hình thức, phương pháp khác nhau để tác
động đến đối tượng cả về lý trí và tình cảm giúp thay đổi nhận thức, tạo lập ý
thức mới và khơi dậy tinh thần và trách nhiệm trong quần chúng. Ưu điểm
của công tác tuyên truyền là một binh chủng tuyên truyền rất hùng hậu có
nhiều kênh, nhiều hình thức, nhiều phương pháp khác nhau và hơn thế lại có
thể phối hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn, nhịp nhàng. Chính vì thế công
tác tuyên truyên bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân
tộc Mường có thể hoàn thành và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên trong việc giữ, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, tạo
tiền đề cho những hành động tích cực đúng đắn về sau.
Thứ tư, góp phần xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy không gian văn
hóa cồng chiêng của dân tộc Mường.

Xã hội hóa là một giải pháp quan trọng nhằm huy động các lực lượng
trong xã hội tham gia bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Điều
này hoạt động bằng nhiều cách khác nhau trong đó có công tác tuyên truyền.
Công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng
của dân tộc Mường trong việc nâng cao nhận thức, tạo ra sự đồng thuận trong
16


xã hội, huy động sự đóng góp tham gia của nhiều thành phần, lực lượng khác
nhau trong công tác bảo tồn, phát huy. Công tác này được quan tâm đẩy mạnh
thì hoạt động xã hội hóa diễn ra càng nhanh chóng, rộng rãi và đi vào chiều
sâu, huy động được nhiều ngành, nhiều lực lượng tham gia và bảo tồn.
1.3. Tăng cường công tác tuyên truyền một biện pháp quan trọng góp
phần bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường
1.3.1. Bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường là một nhiệm vụ cụ thể của công tác bảo tồn, phát huy các DSVH
của dân tộc
Bảo tồn, gìn giữ và phát huy các di sản văn hóa số là một trong những
vấn đề luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm.
Do nhận thức rõ tầm quan trọng của văn hóa, trong đó có DSVH, nên
ngay từ năm 1943, tức là khi chưa giành được chính quyền từ tay đế quốc,
phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành bản Đề cương văn hóa
trong đó nêu rõ quan điểm Dân tộc - Khoa học và Đại chúng trong đường lối
văn hóa của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 65/SL
về việc Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.
Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), hòa bình
lập lại trên miền Bắc nước ta, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định
519/TTg ngày 29/10/1957 về việc Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa
và danh lam thắng cảnh.

Sau khi đất nước thống nhất 1975, đến năm 1984 Hội đồng Nhà nước
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ và
sử dụng di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Tiếp đó, trong quá
trình Đảng và Chính phủ thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, hội nhập, để
việc bảo vệ di sản văn hóa được toàn diện, đầy đủ và phù hợp với thông lệ
quốc tế, đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ lịch sử mới.
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam
cũng đã xác định rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển các di sản
17


văn hóa dân tộc; chăm lo công tác bảo tồn, bảo tàng, tu bổ, tôn tạo, bảo vệ
và phát huy tác dụng của các di tích lịch sử, cách mạng, các di sản văn hóa,
các công trình nghệ thuật, các danh lam, thắng cảnh”.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước đã được chính phủ và các ngành
Văn hóa thể chế hóa, triển khai đưa vào cuộc sống thông qua việc ban hành
một số văn bản nhằm tạo hành lang pháp lý cho công tác bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hóa của dân tộc thiểu số cũng như bảo tồn và phát huy DSVH của
dân tộc.
Năm 1998, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Trung
ương 5, khóa VIII về việc Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Ngày 03/12/1998, Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra chỉ thị số
39/1998/CT – TTg về việc đẩy mạnh công tác văn hóa – thông tin ở miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Một trong tám mục tiêu và giải pháp nhằm
khai thác tiềm năng, đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi
và đồng bào dân tộc thiểu số mà Chính phủ đưa ra đã xác định rõ: “Làm tốt
hơn nữa công tác giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số. Đồng thời với công việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác và giới
thiệu, cần có kế hoạch bảo tồn các công trình, địa chỉ văn hóa có giá trị tiêu
biểu ở vùng các dân tộc thiểu số (như các chùa, tháp, nhà rông, nhà dài, nhà

sàn, các bản….) và các di sản có giá trị khác”.
Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) đã nhấn mạnh “Về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” cũng đã
nhấn mạnh đến việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc: “Di sản
văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc
văn hóa dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.
Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống, văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Hội
nghị Trung ương 10 (khóa IX) diễn ra từ 14/4 đến 22/4/2001 đã tiếp tục
khẳng định: “Phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di sản

18


văn hóa vật thể và phi vật thể làm nền tảng cho sự giao lưu văn hóa giữa
cộng đồng, giữa các vùng cả nước và giao lưu văn hóa với bên ngoài”.
Bốn năm sau, Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
thông qua, Chủ tịch nước ký lệnh ban hành Luật di sản văn hóa năm 2001,
Luật có hiệu lực từ 1/1/2002.
Năm 2001, Quốc hội thông qua Luật Di sản văn hóa, lần đầu tiên có
chương về “Bảo vệ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể”, Bộ Văn hóa Thông tin triển khai “Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa giai đoạn
2001 - 2005” trong đó có chương trình về bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật
thể với trên 400 dự án do viện nghiên cứu và các tỉnh thực hiện
Không gian văn hóa cồng chiêng là một nét văn hóa của dân tộc
Mường, có ý nghĩa to lớn trong việc góp phần làm nên nét đẹp văn hóa của
dân tộc Việt vì vậy cần có những quan điểm, chính sách, chủ trương của Đảng
và Nhà nước để bảo tồn và phát huy giá trị vô cùng quý báu đó trước nguy cơ
bị mai một.
1.3.2. Những nguy cơ đe dọa sự biến mất của không gian văn hóa
cồng chiêng của dân tộc Mường

Không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường mang đậm những
nét văn hóa đặc sắc của người Mường nói chung và người Mường Hòa Bình
nói riêng nhưng hiện nay do tác động của nhiều yếu tố không gian văn hóa
cồng chiêng Mường có nhiều biến đổi bên cạnh những biến đổi theo xu
hướng tích cực thì có nhiều biến đổi theo xu hướng tiêu cực. Sau đây là
những biến đổi có thể dẫn đến nguy cơ đe dọa sự biến mất của không gian
văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường Hòa Bình hiện nay.
1.3.2.1. Biến đổi về một số trường hợp sử dụng chiêng trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình hiện nay
Những trường hợp đã hoàn toàn mai một: chiêng lệnh của lang không
còn tồn tại bởi chế độ lang đã bị cách mạng xóa bỏ từ thời kỳ trước như vậy,
vai trò của lang đã biến mất kéo theo sự biến mất của việc sử dụng lệnh cồng
chiêng của lang ví như sử dụng trong săn bắt, neo trèo, xuống đồng…
19


Những trường hợp ngày càng hiếm hoặc ít thay đổi như: chiêng cúng
thần linh, chiêng cúng linh hồn người sống, chiêng cúng tổ tiên, chiêng chúc
lễ tết, đám cưới…tuy nhiên Tỉnh Hòa Bình vẫn còn giữ lại được phần nào
những hoạt động chiêng trong một số dịp đặc biệt.
Thay vào đó là những trường hợp sử dụng chiêng nhiều hơn như: dùng
chiêng để đón khách, dùng chiêng trong các dịp lễ hội, dùng chiêng trong các
dịp lễ lớn…
1.3.2.2. Biến đổi văn hóa cồng chiêng từ góc độ quan hệ sở hữu
Từ nhà có ít chuông đến nhà có nhiều chuông: Ông Quách Văn Ực 66
tuổi ở Mường Bắp xã Xuất Hóa huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình, hiện nay có
hơn 20 chiếc chuông “xưa” đa số do ông chuộc lại của những người mua
đồng nát; Ông Bùi Văn Hày 72 tuổi, xóm Định, xã Mãn Đức huyện Tân Lạc
có 12 chiếc chiêng “xưa”; ông Bùi Tiến Xô 50 tuổi thôn 68 xã Vĩnh Tiến,
huyện Kim Bôi, thành phố Hòa Bình có 20 chiếc chiêng “xưa”.

Biến đổi từ sở hữu tư nhân đến sở hữu tập thể
Sở hữu các tổ chức: Sở hữu cộng đồng làng xóm: Bộ chiêng của xóm
Mát Dưới, xã Dân Chủ, thành phố Hòa Bình do tịch thu của lang từ năm 1954
hay một ví dụ nữa: xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi được Sở Văn Hóa Hòa Bình
tặng một bộ cồng chiêng 12 chiếc.
Sở hữu của tổ chức, cơ quan nhà nước: ngay trong thành phố Hòa Bình
có khá nhiều tổ chức, cơ quan sở hữu chiêng: công ty Du Lịch Hòa Bình,
trường cao đẳng Văn Hóa Nghệ Thuật Tây Bắc, bảo tàng Hòa Bình, Đoàn
Nghệ Thuật Dân Tộc thuộc tỉnh Hòa Bình, trung tâm Văn Hóa tỉnh…Mỗi cơ
quan, tổ chức có ít nhất một bộ chiêng trở lên, tức là từ 7 đến 20 chiếc.
Biến đổi từ sở hữu cộng đồng tới sở hữu ngoài cộng đồng
Từ sở hữu cộng đồng đến sở hữu ngoài cộng đồng: ngày nay, không chỉ
có những người Mường sở hữu mà nó còn là người dân tộc kinh, họ sở hữu
cồng chiêng qua mua lại của chính người dân tộc mường hay do mua lại qua
khâu trung gian, mang yếu tố thương mại với mục đích sử dụng làm vật trang
trí đồ cổ.
20


1.3.2.3. Biến đổi liên quan đến diễn tấu chiêng
Về người diễn tấu cồng chiêng: người diễn tấu cồng chiêng là Mặt trận
Tổ Quốc tổ chức diễn tấu trong ngày hội đoàn kết toàn dân; là cơ quan văn
hóa, phòng văn hóa, trung tâm văn hóa; công ty du lịch…
Mục đích sở hữu: thực hiện và hình thành chủ trương nhà nước, đường
lối, chính sách của Đảng về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trong
đó có cồng chiêng…; diễn trong các lễ hội; cồng chiêng trở thành hàng hóa
trong kinh doanh và thương mại nhằm mục đích lợi nhuận; mục đích trong
quảng bá, giới thiệu với các dân tộc anh em và trên thế giới.
Môi trường diễn tấu: về không gian diễn tấu là sân vận động của
huyện, tỉnh; diễn ở sân khấu trong nhà và ngoài trời; vùng mường, quê, thành

phố. Thời điểm là các lễ hội, sự kiện lớn; thời gian trước kia là tùy thích thì
bây giờ có giới hạn thời gian trong tổ chức.
Chương trình cồng chiêng có diễn tấu: được thể hiện trong các hội văn
nghệ quần chúng, chương trình kỷ niệm lớn.
Nguyên nhân của những biến đổi trên
Tác động mang yếu tố thời gian: Những năm đầu thế kỷ XX, người
Mường tỉnh Hòa Bình còn giữ được trên 1 vạn chiếc chiêng với hàng trăm bộ
chiêng. Năm 1976, vì túng thiếu, nhiều gia đình đã bán cồng chiêng với giá rẻ
như bèo. Người mua đồng nát đã đập vụn từng chiếc rồi bỏ vào bao tải mang
đi. Sau năm 1990, kho tàng cồng chiêng tiếp tục bị chảy máu, trong đó, mất
nhiều nhất là những chiếc chiêng cổ quý giá mà không còn nơi nào đúc nữa,
có thể thấy hiện tượng chiêng bị vứt xó hay mang ra dùng với các mục đích
khác như dùng làm vung, chậu, nồi đựng thức ăn gia súc… qua lời kể của bà
Nguyễn Thị Điện, xóm Đúp, xã Dân Hạ, huyện Kỳ Sơn, thành phố Hòa Bình.
Tác động qua biến đổi môi trường và điều kiện sống của người mường:
Ngày nay với sự xuất hiện của nhiều phương tiện hiện đại phục vụ đời sống
của người dân thì yếu tố cồng chiêng không còn được coi trong nữa với suy
nghĩ của một số người dân về cuộc sống mới này. Anh Bùi Tú Cao cũng như
nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian khác cho rằng, nguyên nhân chủ yếu
21


của sự mai một là do sự chuyển đổi hình thái KT - XH, tập quán sản xuất, môi
trường sống; sự bùng nổ dân số, công nghệ thông tin – truyền thông và các
loại hình giải trí mới xâm nhập. Mặt khác, sự lãnh đạo, quản lý giá trị văn hóa
cồng chiêng đôi khi ở một số nơi bị buông lỏng. Các nhà quản lý chưa nhận
thức đầy đủ những giá trị và ảnh hưởng của không gian văn hóa cồng chiêng
với cộng đồng. Do đó, thiếu sự đầu tư tương xứng để sưu tầm, nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy, góp phần vào sự phát triển KT - XH của địa phương.


* * *
Không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường là tổng hợp các
yếu tố cồng chiêng, các bản nhạc, người sử dụng cồng chiêng, các lễ hội cồng
chiêng và địa điểm diễn ra các lễ hội cồng chiêng. Bảo tồn và phát huy không
gian văn hóa cồng chiêng là một công việc phức tạp nhưng vô cùng cần thiết
góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị của nền văn hóa Việt Nam. Giữ
cho không gian văn hóa của dân tộc Mường không bị mai một theo thời gian
và tiếp tục phát huy giá trị của nó trong đời sống hiện đại là trách nhiệm của
mọi cấp, mọi ngành của tỉnh Hòa Bình, trong đó công tác tuyên truyền giữ
một vai trò hết sức quan trọng.

22


Chương 2. Thực trạng công tác tuyên truyền trong việc bảo tồn
và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc
Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện nay
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác tuyên truyền trong việc
bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường
ở Hòa Bình
2.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế và xã hội
2.1.1.1. Về địa lý Hòa Bình

Bản đồ tỉnh Hòa Bình
Hòa Bình là một tỉnh miền núi ở vùng Tây Bắc Việt Nam, phía Tây
Bắc giáp các tỉnh Phú Thọ, Sơn La, phía Bắc và Đông bắc giáp tỉnh Hà Tây,
phía Đông giáp tỉnh Hà Nam, phía Tây Nam giáp tỉnh Ninh Bình, phía Nam
giáp tỉnh Thanh Hóa. Hòa Bình cách thủ đô Hà Nội 72 km về phía tây theo
đường quốc lộ số 6.
Hoà Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh, ít mưa; mùa hè

nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên 230C. Tháng 7 có nhiệt
23


độ cao nhất trong năm, trung bình 27 – 290C, tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất,
trung bình 15,5 – 16,50C.
Là một tỉnh miền núi cộng với khí hậu thời tiết đặc thù và địa bàn cư
trú của người mường chủ yếu dọc theo các thung lũng hẹp, dọc theo các triền
sông, suối, các đồi núi… Từ địa bàn cư trú đã tạo nên cơ cấu kinh tế đậm nét
bản địa miền núi, tạo nên một cộng đồng mường khép kín, mang những nét
văn hóa riêng biệt, độc đáo, nhiều yếu tố tâm linh huyền thoại. Tuy nhiên, do
địa bàn cư trú như vậy đã tạo nên không ít những khó khăn cho công tác
tuyên truyền trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc đó ở
đây là không gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc mường như: các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chậm đến với quần chúng nhân
dân, các phương tiện, hình thức tuyên truyền còn chưa đi đến sâu, sát quần
chúng nhân dân dẫn đến việc tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian
văn hóa cồng chiêng cảu dân tộc Mường gặp nhiều khó khăn đòi hỏi công tác
tuyên truyền cần có sự nâng cấp, đổi mới về phương tiện, phương pháp và
cách thức tuyên truyền đến từng đối tượng.
Tỉnh có 11 huyện, thành phố: Đà Bắc, Mai Châu, Tân lạc, Lạc Sơn, Kim
Bôi, Lương Sơn, Lạc Thuỷ, Yên Thuỷ, Kỳ Sơn, Cao Phong và Thành phố
Hoà Bình với 210 xã, phường, thị trấn. Hầu như huyện nào, xã nào cũng có
cồng chiêng Mường nó là một đặc điểm văn hóa và cũng là một yếu tố thuận
lợi cho công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không gian văn hóa cồng
chiêng của dân tộc Mường được tiến hành đồng bộ và có sự phối kết hợp, trợ
giúp lẫn nhau trong tỉnh Hòa Bình. Tuy nhiên sự phân chia như vậy cũng gây
trở ngại cho công tác tuyên truyền vì phải tiến hành tuyên truyền ở tất cả các
huyện khó khăn cho sự phân công, phối hợp giữa lực lượng tuyên truyền, khó
khăn cho sự thống nhất, đồng bộ tuyên truyền, yêu cầu công tác tuyên truyền

phải có sự đồng bộ, phân công lực lượng hợp lý…
2.1.1.2. Về kinh tế, xã hội
Năm 1991, tỉnh Hòa Bình tái lập và đặt trọng tâm vào phát triển KT –
XH với nhịp độ cao. Trong thời kỳ đổi mới, cơ cấu các thành phần kinh tế của
24


tỉnh cũng có những chuyển biến khá rõ nét. Tăng trưởng kinh tế bình quân
trong 5 năm (2005-2009) đạt 13,85%. Năm 2009: Ước tính tăng trưởng kinh
tế đạt 13,5%; Cơ cấu kinh tế: Dịch vụ 53,8%, Công nghiệp xây dựng chiếm
31,7%, Nông-lâm nghiệp chiếm 14,5%; Thu nhập bình quân đầu người/năm
tăng từ 7,4 triệu đồng năm 2006 lên 16,9 triệu đồng năm 2009; Tốc độ tăng
trưởng GDP năm 2010 ước đạt 11,7%; Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,39% năm
2006 xuống còn 1,04% năm 2009.
Hòa Bình có 832.543 người dân (tháng 7/2009). Mật độ dân số 171
người/km2.. Theo thống kê dân số toàn quốc năm 1999, trên địa bàn tỉnh có 6
dân tộc sinh sống, đông nhất là người Mường chiếm 63,3%, người Việt
(Kinh), Thái, Dao, Tày, Mông; ngoài ra còn có người Hoa sống rải rác ở các
địa phương trong tỉnh. Sự nghiệp giáo dục được phát triển toàn diện, chất
lượng dạy học được nâng cao ở các cấp học, bậc học. Công tác xã hội hoá Y
tế phát triển mạnh, chú trọng nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Mạng
lưới y tế cơ sở được củng cố, hiện nay 15/15 trạm y tế có Bác sỹ, 3/15 trạm y
tế đạt chuẩn Quốc gia, 98% số tổ dân phố, xóm bản có nhân viên y tế.
Như vậy, có thể thấy tốc độ tăng trưởng KT – XH của tỉnh Hòa Bình
tương đối cao. Chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện rõ rệt điều này
ảnh hưởng nhất định đối với công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy không
gian văn hóa cồng chiêng của dân tộc Mường ở Hòa Bình. Về mặt thuận lợi,
công tác tuyên truyền được đầu tư, nâng cấp nhiều phương tiện thông tin hiện
đại, đối tượng tuyên truyền tiếp thu thông tin dưới nhiều hình thức nhanh hơn,
dễ dàng hơn và hiệu quả tuyên truyền cao. Bên cạnh mặt thuận lợi thì với tốc

độ tăng trưởng KT – XH như vậy kéo theo những xu hướng thẩm mỹ tầm
thường, những nhìn nhận lệch lạc về bản sắc cũng như giá trị văn hóa của dân
tộc đòi hỏi cán bộ làm công tác tuyên truyền phải nâng cao trình độ và kịp
thời nắm bắt thông tin để tuyên truyền ngăn chặn kịp thời những biểu hiện
lệch lạc đó nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.s

25


×